Tài liệu Giáo trình môn: Công tác xã hội với người nghèo (Phần 2): Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
67
BÀI 3: CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI NGHÈO, HỘ NGHÈO
1. Công tác xã hội cá nhân với người nghèo và hộ nghèo
Trong lịch sử phát triền nghề CTXH thế giới, phương pháp CTXH đầu tiên
được sử dụng là phương pháp CTXH cá nhân; trong đó đối tượng đầu tiên của
phương pháp này được sử dụng là tiếp xúc trực tiếp để hỗ trợ những cá nhân và gia
đình khó khăn về kinh tế, hỗ trợ họ tìm kiếm việc làm, tham vấn giúp họ tự chủ
trong cuộc sống và nâng cao tính tôn trọng bản thân.
Cho đến hiện nay, phương pháp CTXH cá nhân trở thành một phương pháp
khoa học mang tính chuyên nghiệp bao gồm hệ thống giá trị và phương pháp được
các NVXH chuyên nghiệp sử dụng; trong đó, các khái niệm về tâm lý xã hội, hành
vi và hệ thống được chuyển thành các kỹ năng giúp đỡ cá nhân và gia đình giải
quyết những vấn đề về nội tâm lý, quan hệ giữa các nhân, KTXH và môi trường
thông qua các mối quan hệ một - một. Với phương pháp này, ...
109 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 2281 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình môn: Công tác xã hội với người nghèo (Phần 2), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
67
BÀI 3: CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI NGHÈO, HỘ NGHÈO
1. Công tác xã hội cá nhân với người nghèo và hộ nghèo
Trong lịch sử phát triền nghề CTXH thế giới, phương pháp CTXH đầu tiên
được sử dụng là phương pháp CTXH cá nhân; trong đó đối tượng đầu tiên của
phương pháp này được sử dụng là tiếp xúc trực tiếp để hỗ trợ những cá nhân và gia
đình khó khăn về kinh tế, hỗ trợ họ tìm kiếm việc làm, tham vấn giúp họ tự chủ
trong cuộc sống và nâng cao tính tôn trọng bản thân.
Cho đến hiện nay, phương pháp CTXH cá nhân trở thành một phương pháp
khoa học mang tính chuyên nghiệp bao gồm hệ thống giá trị và phương pháp được
các NVXH chuyên nghiệp sử dụng; trong đó, các khái niệm về tâm lý xã hội, hành
vi và hệ thống được chuyển thành các kỹ năng giúp đỡ cá nhân và gia đình giải
quyết những vấn đề về nội tâm lý, quan hệ giữa các nhân, KTXH và môi trường
thông qua các mối quan hệ một - một. Với phương pháp này, NVXH sử dụng để hỗ
trợ cá nhân vượt qua khó khăn trong việc thực hiện chức năng xã hội của họ, trong
đó NVXH can thiệp giúp đỡ cá nhân giải quyết vấn đề trong mối quan hệ tương tác
với môi trường xã hội của cá nhân đó.
Theo cách tiếp cận giải quyết vấn đề của phương pháp CTXH cá nhân thì
“cá nhân” có thể được hiểu rộng hơn là một case hay một trường hợp cụ thể và cần
được quan tâm. Nghĩa là gia đình cũng được coi như một trường hợp (một case)
với các mối quan hệ đặc thù giữa các cá nhân trong gia đình đó. Vì thế, trong
phương pháp này, NVXH có điều kiện nhấn mạnh vào nguyên tắc cá thế hóa sự
giúp đỡ đối với thân chủ là một cá nhân hay đối với trường hợp là cả gia đình.
Trên thực tế, khi NVXH can thiệp giúp đỡ một cá nhân giải quyết vấn đề của
họ thì phải đặt mối quan hệ của cá nhân đó trong mối quan hệ với môi trường và cá
nhân đó đang tồn tại; trong đó có môi trường gia đình và môi trường xã hội rộng
hơn đang diễn ra các mối quan hệ xã hội tác động tới thân chủ. Khi tác nghiệp, thân
chủ cùng với mối quan hệ xã hội của thân chủ là mối quan tâm hàng đầu của
NVXH.
Vai trò chủ yếu của NVXH trong CTXH cá nhân là người tạo điều kiện, giúp
cá nhân đánh giá, xác định vấn đề, tìm kiếm tiềm năng, nhận thức được điểm mạnh
tiến đến nâng cao năng lực để cá nhân đó tự giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó, NVXH
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
68
khi tương tác trong mối quan hệ một - một với cá nhân cũng có thể cùng lúc tham
gia với các vai trò khác như nhà giáo dục, người biên hộ, người môi giới...
Mối quan hệ một - một cũng được sử dụng khi NVXH làm việc với gia đinh.
Trong khi làm việc với gia đinh, vai trò chủ yếu của NVXH chính là người trung
gian, giúp cho các cá nhân trong gia đình hiểu quan điểm của nhau trước một vấn
đề và có thể đưa ra được quan điểm chung trước vấn đề đó nếu các quan điểm về
vấn đề đó có sự khác biệt. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, NVXH ngoài những
buổi làm việc chung với cả gia đình, họ còn làm việc riêng với từng cá nhân của gia
đình với nhiều lý do. Có thể để tìm hiểu thêm thông tin mà cá nhân đó không tiện
chia sẻ trước các thành viên khác trong gia đình, hoặc trong trường hợp gia đình có
cá nhân không hợp tác.
Trong CTXH cá nhân, đối tượng tác động của NVXH là một cá nhân hay gia
đình của họ. Công cụ chủ yếu được sử dụng trong phương pháp này là mối tương
tác trực tiếp giữa NVXH với cá nhân hoặc gia đình. Điểm mấu chốt được nhắm tới
trong phương pháp này là những khó khăn thuộc về khía cạnh tâm lý, sinh lý và các
yếu tố thuộc môi trường xã hội, hoặc cả hai yêu tố trên tác động tới khó khăn của
đối tượng.
Quá trình can thiệp giúp đỡ của NVXH bao gồm sự huy động các nguồn lực
từ bên ngoài, kết hợp với phát huy nguồn lực bên trong của bản thân đối tượng,
thông qua việc sử dụng các kiến thức về hành vi con người và môi trường, các
thuyết trong tâm lý học, các thuyết về gia đình...để hộ trợ và tham vấn tâm lý; đồng
thời huy động các nguồn lực xã hội, cộng đồng để giúp đối tượng giải quyết vấn đề
đang gặp phải. Đương nhiên khi giúp đỡ cá nhân và gia đình giải quyết khó khăn,
còn đỏi hỏi NVXH phải sử dụng một số kỹ năng phù hợp, hiệu quả mới thấu hiểu
vấn đề và việc giúp đỡ mới thành công.
Như đã nêu ở trên, CTXH với cá nhân và gia đình của các NVXH được bắt
đầu từ sự giúp đỡ những người và gia đình nghèo, do đó tiến trình CTXH với
những đối tượng này cũng giống như tiến trình CTXH với người nghèo và hộ
nghèo.
1.1. Tiến trình công tác xã hội với người nghèo và hộ nghèo
Dù tiến trình CTXH với người và gia đình nghèo tương tự tiến trình CTXH
với cá nhân và gia đình nói chung, nhưng nó vẫn mang tính đặc thù và có tính phức
tạp riêng. Trước hết, họ có thể có những vấn đề tương tự như những cá nhân và gia
đình bình thường, nhưng đồng thời vấn đề đó lại ở người và gia đình nghèo, do đó
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
69
mối quan hệ của họ với môi trường có thể phức tạp và trầm trọng hơn nhiều. Mặt
khác, người nghèo và hộ nghèo lại có những đặc điểm tâm lý, xã hội đặc thù rất
khó giải quyết. Điều này đòi hỏi ở NVXH phải ý thức được để trong quá trình giúp
đỡ biết huy động kiến thức và sử dụng kỹ năng phù hợp.
Tiến trình CTXH với người và gia đình nghèo có các bước sau đây:
- Tiếp nhận đối tượng.
- Thu thập, phân tích thông tin, xác định vấn đề và nguyên nhân.
- Lập kế hoạch giải quyết vấn đề.
- Thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề.
- Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch.
- Kết thúc quá trình giúp đỡ/ chuyển giao.
1.1.1. Tiếp nhận đối tượng
Đối tượng ở đây là người nghèo và gia đình của họ là những người đang có
vấn đề - vấn đề nghèo đói và có thể có cả những vấn đề khác có liên quan hoặc bắt
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
70
nguồn từ vấn đề nghèo đói. Khi gặp phải những vấn đề xã hội thì có thể người và
gia đình người nghèo chủ động gặp NVXH để tìm sự giúp đỡ và vì biết được mục
tiêu hoạt động của tổ chức xã hội nơi NVXH làm việc. Nhưng trên thực tế, trường
hợp này ít xảy ra mà NVXH thường phải chủ động tiếp cận với người nghèo và gia
đinh của họ.
Khi tiếp cận với đối tượng, NVXH phải giới thiệu vai trò của mình và mục
đich của cuộc gặp gỡ để bước đầu tìm kiếm thái độ hợp tác. Nếu ở bước tiếp cận
đầu tiên mà NVXH tạo được ấn tượng ban đầu tích cực (cởi mở, thái độ sẵn sàng,
đón nhận) thì các bước sau sẽ có nhiều thuận lợi.
Điều mà NVXH cần lưu ý trước khi tiếp nhận đối tượng để giúp đỡ, họ cần
phải đưa ra các tiêu chí để phân loại người và hộ gia đinh người nghèo. Ví dụ: Gia
đình nghèo mà chủ hộ là phụ nữ, hộ có người khuyết tật, hộ có người mắc bệnh
hiểm nghèo, hộ thiếu sức lao động, hộ thiếu vốn, hộ thiếu đất hoặc thiếu tư liệu sản
xuất hay hộ có người mắc tệ nạn xã hội...Ở các địa phương việc phân ra các loại hộ
như vậy sẽ không mấy khó khăn và đấy là cơ sở rất quan trọng để có định hướng
giúp đỡ sau khi chúng ta tiếp nhận đối tượng.
1.1.2. Thu thập, phân tích thông tin, xác định vấn đề và tìm nguyên nhân
Qua mỗi lần tiếp cận với người và gia đình nghèo, NVXH sẽ có được nhiều
thông tin. Các thông tin này có thể được từ các cuộc gặp gỡ chung với mọi thành
viên trong gia đình, cũng có thể được từ các cuộc gặp riêng lẻ từng thành viên. Bên
cạnh đó nguồn thông tin cũng có thể được khai thác từ môi trường xung quanh của
mỗi cá nhân và môi trường xung quanh của cả gia đình.
Khi làm việc với người và gia đình nghèo, NVXH cần chú ý một hoạt động
mang tính kỹ thuật và là yêu cầu của chuyên môn, đó là “vãng gia”. Việc vãng gia
là để tìm hiểu các thông tin cần thiết của người nghèo và gia đình của họ ( từ hoàn
cảnh bản thân, gia đình, tâm sự, nguyện vọng và các mối quan hệ, nguồn lực...),
trên cơ sở đó NVXH có thể hoạch định một chiến lược giúp đỡ họ hiệu quả và lâu
dài. Tuy nhiên, để có được một buổi vãng gia hiệu quả, NVXH cần sử dụng kết hợp
nhiều kỹ năng như: giao tiếp, thu thập và xử lý thông tin, ghi chép, vấn đàm...
Khi làm việc với người và gia đinh nghèo trong các hoàn cảnh sau đây,
NVXH cần có sự quan tâm phù hợp và đặc biệt, đáp ứng tính “đặc thù” của từng
đối tượng:
- Người và gia đình nghèo đơn thân.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
71
- Người và gia đình nghèo đơn thân mà chủ hộ là phụ nữ.
- Người và gia đình nghèo đơn thân mà chủ hộ là phụ nữ nuôi con nhỏ.
- Người và gia đình nghèo có người tàn tật và nhất là tàn tật nặng.
- Người và gia đình nghèo có người gia cả ốm yếu, người ốm đau lâu ngày.
- Người và gia đình nghèo có thành viên mắc các tệ nạn xã hội.
- Người và gia đình nghèo có thành viên bị nhiễm hoặc ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS...
Trên thực tế người và gia đình nghèo trong các hoàn cảnh cụ thể nêu trên,
ngoài các nguyên nhân nghèo đói nói chung, họ có nhưng nguyên nhân rất riêng
biệt dẫn tới nghèo đói. Vì vậy, khi làm việc với một trong các hoàn cảnh này,
NVXH cần tìm hiểu thật đầy đủ thông tin để xác định vấn đề cốt lõi một cách chính
xác để từ đó có sự “ưu tiên” giải quyết vấn đề nào trước của thân chủ.
Một điều nữa mà NVXH cần đặc biệt lưu ý là với các đối tượng rất “đặc thù”
nêu trên, ngoài các đặc điểm tâm lý nói chung của người nghèo, họ có những đặc
điểm tâm lý riêng biệt, trong cuộc sống họ thường sống khép kín điều này sẽ gây
khó khăn trong việc tiếp xúc và tìm hiểu thông tin; vì vậy NVXH phải hết sực lưu ý
trong việc sử dụng kỹ năng. Nhất là kỹ năng giao tiếp, kỹ năng vấn đàm để tiếp cận
và nhận các chia sẽ thông tin từ họ.
NVXH cần chú ý phải có kế hoạch hoặc và đặt ra mục tiêu cụ thể cho mình
khi định tiếp cận với ai, để đạt được điều gì. NVXH cần ghi chép lại các thông tin
quan trọng và phải biết lắng nghe để hiểu thấu đáo các quan niệm, nhận thức của
từng đối tượng giao tiếp và của cả gia đình họ trước một thông tin được đưa ra. Có
như vậy mới giúp cho việc phân tích thông tin một cách chính xác, mới xác định
đúng vấn đề, và tìm được nguyên nhân cơ bản của vấn đề mà đối tượng quan tâm.
Trong hoạt động chuyên môn, việc thu thập thông tin, xác định vấn đề và nguyên
nhân đói nghèo của người nghèo hay hộ gia đình nghèo, NVXH có thể xây dựng
“cây vấn đề” để xác định nguyên nhân sau khi đã ghi chép đầy đủ các thông tin.
Cây vấn đề không chỉ giúp cho việc tác nghiệp trong trợ giúp hay cung cấp các
dịch vụ cần thiết cho người và gia đình nghèo mà còn làm cho người nghèo hiểu
thấu đáo hơn vấn đề của họ xuất phát từ những nguyên nhân nào. Cây vấn đề giúp
người nghèo và gia đình học xác định đúng và trúng vấn đề của họ, trên cơ sở đó
họ mới có thể từng bước tháo gỡ khó khăn để vươn lên.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
72
NVXH cần thống nhất suy nghĩ, quan điểm của mọi thành viên trong gia
đình về vấn đề cơ bản của họ. Mỗi thành viên trong gia đình có nhận thức và quan
điểm khác nhau trước một vấn đề , nhất là vấn đề quan trọng của một thành viên
hay của cả gia đình. Vì vậy NVXH phải làm cho tất cả các thành viên trong gia
đình đồng nhất được về nhận thức và quan điểm trước vấn đề đó thì vấn đề mới
được tiếp tục bàn thảo để đưa ra các phương án giải quyết. Ví dụ, vấn đề nghèo đói
của một gia đình, người thì cho là thiếu vốn làm ăn, người thì bảo do không có kinh
nghiệm, lại có người cho rằng thời tiết không thuật lợi...( trong khi gia đình khác ở
đây cùng chịu thời tiết ấy họ lại có thể phát triển được sản xuất), vậy thì nguyên
nhân chủ yêu của cái nghèo ở gia đình này là gì?
Khi đã thống nhất quan điểm nhận thức của mọi thành viên trong gia đình
trước vấn đề của một thành viên hay của cả gia đình - kể cả của NVXH - thì NVXH
cần nhắc lại như là một kết luận trong cuộc trao đổi cho mọi người nhớ và trải
nghiệm vấn đề và nguyên nhân của vấn đề. Từ “sự trải nghiệm” đó mà mỗi người
có thể tự suy nghĩ đưa ra phương hướng giải quyết vấn đề, đây là tiền đề cho bước
tiếp theo của tiến trình.
Từ cách phân tích ở trên, trong hoạt động giúp đỡ, NVXH cần quan tâm đến
các nhóm nguyên nhân nghèo đói của các nhóm gia đình nghèo để xác định đúng
nhu cầu cần hỗ trợ. Ví dụ: nhóm gia đình nghèo là phụ nữ, họ cần vốn hay tư liêu
sản xuất hoặc lao động; nhóm gia đình có người khuyết tật. họ cần phục hồi chức
năng hay cần có vốn đề tự tổ chức việc làm phù hợp với lao động khuyết tật...
1.1.3. Lập kế hoạch giải quyết vấn đề
Nguyên tắc cơ bản trong CTXH là giành quyền tự quyết cho thân chủ, do
vậy, khi vấn đề và nguyên nhân của vấn đề được xác định thì NVXH tạo điều kiện
để mọi thành viên trong gia đình của người nghèo có thể trình bày các hướng giải
quyết vấn đề. NVXH có vài trò của một nhà tham vấn viên giúp các thành viên đưa
ra và lựa chọn được kế hoạch giải quyết vấn đề tốt nhất.
Kế hoạch này cũng phải được các cá nhân hay tất cả các thành viên trong
gia đình thống nhất cao, phải được cụ thể hóa từ các hoạt động, người thực hiện,
các nguồn lực cần thiết cho đến thời gian của mỗi hoạt động và kết quả có thể đạt
được. Về nguồn lực cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, NVXH cần xem xét thực
lực của họ và có thể giới thiệu thêm nguồn lực bên ngoài để trong điều kiện có thể,
họ có thể tiếp cận để sử dụng nó. Rà soát, lập danh sách các tổ chức, dịch vụ ở địa
phương và cộng đồng có khả năng hỗ trợ họ.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
73
Trong thực tế thì thường “ người trong cuộc” không nhìn rõ và hết tiềm năng
sẵn có từ chính mình, nhất là đối với người nghèo, nhận thức của họ còn hạn chế,
thì NVXH, trong quá trình tham vấn phải để họ có thể nhận ra các nguồn tiềm năng
sẵn có và cái gì họ thật sự cần thiết có sự hộ trỡ từ bên ngoài. Tuy nhiên, phải xác
định với đối tượng rằng tiềm năng của họ mới là điều căn bản, mới thực sự bên
vững, nguồn lực bên ngoài chỉ mang tính chất hỗ trợ và hạn hẹp. Làm như vậy để
khi thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề, đối tượng có sự cố gắng, tránh tư tưởng
trông chờ, ỷ lại các nguồn lực bên ngoài.
1.1.4. Thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề
Điều khó khăn trong CTXH với người và gia đình nghèo là tìm hiểu, phân
tích thông tin để xác định đúng vấn đề, nguyên nhân của vấn đề và lập kế hoạch
giải quyết vấn đề mới chỉ nằm ở “giai đoạn lý thuyết”, điều quan trọng, có ý nghĩa
thực tiễn và là mục tiêu của cả tiến trình giúp đỡ họ là việc thực hiện kế hoạch như
thế nào để họ sớm thoát khỏi cảnh nghèo đói và giải quyết được một số những vấn
đề xã hội khác của người và gia đình người nghèo.
Kế hoạch giúp đỡ giải quyết vấn đề là được cá nhân hay các thành viên trong
gia đình người nghèo thực hiện như đã được thống nhất. Trong quá trình thực hiện
kế hoạch giup đỡ này, NVXH phải theo sát cá nhân hay gia đình để tham vấn, có
những điều chỉnh cần thiết khi có những “trục trặc” xảy ra hoặc để động viên
khuyến khích kịp thời, củng cố niềm tin cho cá nhân hoặc gia đình trong từng bước
thay đổi tích cực, hoặc họ tiếp tục là cầu nối để giúp cá nhân hay gia đình tiếp cận
được tốt hơn với nguồn lực bên ngoài như vốn liếng, các thủ tục pháp lý cần thiết...
1.1.5. Đánh giá thực hiện kế hoạch
Đây là bước diễn ra xem xét kết quả các hoạt động trong việc thực hiến kế
hoạch giúp đỡ đối tượng đạt ở mức nào so với mục tiêu đặt ra. Kết quả đạt được
mục tiêu hay không đạt được mục tiêu cũng phải có đánh giá khi kết thúc thời gian
thực hiện kế hoạch.
Đánh giá giúp cho người được giúp đỡ và NVXH nhìn nhận được kết quả
thực hiện kế hoạch, qua đó cả hai phía có được bài học kinh nghiệm và được trải
nghiệm với những kết quả đó để có những hoạt động tích cực và hiệu quả hơn
trong thời gian tới. Ở đây NVXH cần có những phân tich sâu sắc mang tính khuyến
khích các hoạt động mà họ đã trải nghiệm thành công; đồng thời cũng chỉ ra các
suy nghĩ và hành động chưa mang lại kết quả như mong muốn, để họ có được
những bài học sâu sắc.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
74
Nếu kết quả đạt được mục tiêu thì cần khuyến khích đối tượng củng cố kết
quả và tăng cường niêm tin để tiếp tục vươn lên; nếu kết quả chưa đạt được mục
tiêu thì chúng ta động viên, khích lệ đối tượng tiếp tục các mục tiêu đó ở chu trình
tiếp theo trên cơ sở có những điều chỉnh phù hợp.
Tuy nhiên, cả đối tượng và NVXH phải ngồi lại với nhau để kiểm điểm và
xác định đâu là nguyên nhân của việc chưa đạt được mục tiêu, để trên cơ sở đó
NVXH có định hướng mới cho đối tượng mặt khác đối tượng cũng nhìn nhận lại
mình và các hoạt động đã thực hiện một cách thấu đáo hơn để rút kinh nghiệm cho
các hoạt động sau.
Trên thực tế, việc đánh giá không chỉ được sử dụng ở bước cuối cùng của
tiến trình giúp đỡ, mà thông thường, qua mỗi hoạt động của đối tượng đã diễn ra sự
giám sát, đánh giá của NVXH để kịp thời có những tham vấn , chỉnh sửa cho phù
hợp với “ sức” của đối tượng, với nguồn lực huy động, với cách thức tiến hành các
hoạt động cũng như để tận dụng tối đa các DVXH có thể có được.
1.1.6. Kết thúc/ chuyển giao
Sau một chu trình (tiến trình) giúp đỡ đối tượng, NVXH có thể bước sang
giai đoạn kết thúc và chuyển giao. Kết thúc quá trình giúp đỡ được diễn ra khi đối
tượng thực hiện xong kế hoạch giải quyết vấn đề và đạt được các mục tiêu đặt ra
trong kế hoạch giải quyết vấn đề và đối tượng đã trưởng thành.
Cũng có những trường hợp đến giai đoạn này NVXH phải giới thiệu đối
tượng với một cơ quan cung cấp DVXH khác và phải thực hiện hoạt động chuyển
giao, khi mà đối tượng cần được tiếp tục cung cấp các dịch vụ khác nằm ngoài khả
năng chuyên môn của NVXH đang giúp đỡ đối tượng.
Trên thực tế, tùy theo nhận thức và hoàn cảnh của đối tượng được giúp đỡ và
tùy theo các bước của tiến trình giúp đỡ, NVXH nên “ đứng xa” - không can thiệp
quá tỉ mỉ và quá sâu - vào những hoạt động của đối tượng để họ có thể cố gắng,
tăng cường khả năng tự tin mà chủ động thực hiện các nhiệm vụ. Điều này giúp
cho đối tượng nhanh chóng trưởng thành và không bị hẫng hụt khi NVXH kết thúc
một chu trình giúp đỡ.
1.2. Một số kỹ năng khi làm việc với người nghèo và gia đình nghèo trong tiến
trình CTXH cá nhân
1.2.1. Kỹ năng giao tiếp
Giao tiếp là hoạt động hàng ngày của con người. Qua giao tiếp con người
mới hiểu nội dung thông tin, mới có được cảm xúc để quyết định hành vi cá nhân.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
75
Cũng qua giao tiếp, con người mới có điều kiện tăng cường vốn xã hội để dần dần
hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, giao tiếp phải đem lại hiệu quả và mang tích cực
mới tạo ra những hành vi tích cực.
Để hoạt động giao tiếp mang lại hiệu quả tích cực, ngoài nội dung thông tin
chuyền tải thì phải có những kỹ năng nhất định. Con người có thể giao tiếp bằng
ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ hoặc kết hợp cả hai. Thông thường ta thấy phần lớn
các cuộc giao tiếp đều có sự kết hợp cả hai thứ ngôn ngữ - có lời và không lời -
xuất phát từ cảm súc của người đưa thông tin và người nhận thông tin. Những cuộc
giao tiếp thông thường của những người bình thường là như vậy. Còn đối tượng với
những người có “vấn đề” thì nhiều khi chúng ta giao tiếp thật khó khăn, trước hết
là họ có chấp nhận cuộc giao tiếp hay không, họ có trải lòng để nghe và phản hồi
tích cực; rồi trình độ, nhận thức của họ trong giao tiếp ở mức nào, nói như thế nào
để người ta có thể hiểu và chấp nhận giao tiếp tích cực với chúng ta...Điều này đòi
hỏi trong giao tiếp mang tính chuyên môn của NVXH cần phải có những kỹ năng
nhất định.
Đối với đối tượng là người và gia đình nghèo, do đặc điểm tâm lý mặc cảm,
tự ty, hạn chế về môi trường giao lưu và vốn hiểu biết xã hội... thì khi giao tiếp với
họ đòi hỏi NVXH phải sử dụng những kỹ năng gì để được họ chấp nhận, hợp tác
tích cực trên cơ sở từ các chia sẻ bên trong con người họ. Buổi tiếp xúc đầu tiên
của NVXH với họ có vị trí rất quan trọng vì buổi tiếp xúc này nếu không mang lại
ấn tượng tốt thì thật khó khăn cho những lần gặp gỡ sau và mục tiêu chia sẻ thông
tin cũng như giúp đỡ họ không đạt được.
NVXH tiếp xúc với họ cần có thái độ cảm thông, chia sẻ, với cách ăn mặc
phù hợp, giọng nói truyền cảm, dễ mến, thân thiện, dễ gần, cách đi đứng, tác
phong, nét mặt, ánh mắt ... tất cả phải tao ra được thiện cảm, sự gần gũi trong mắt
người và gia đình nghèo.
Khi đến gặp gỡ người nghèo và gia đình họ, NVXH nên mặc những trang
phục gọn gang, giản dị, trang điểm nhẹ nhàng (nếu có) để tránh gây khoảng cách
cho đối tượng.
Khi giao tiếp, NVXH không nên nói quá nhiều, quá dài, mà nên nói ngắn
gọn dễ hiểu; nếu dùng được những “ thuật ngữ” địa phương thì rất tốt cho cuộc trò
chuyện; đặc biệt NVXH cần quan tâm những vất vả, lo toan, những khó khăn, thiếu
thốn cũng như những tâm tư, nguyện vọng của họ. Những điều đó làm tốt, NVXH
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
76
dễ tạo ra độ tin cậy nơi người nghèo và cuộc giao tiếp sẽ nhận được sự hợp tác tích
cực từ họ.
1.2.2. Kỹ năng vấn đàm
Vấn đàm (còn gọi là phỏng vấn) trong CTXH là cuộc đối thoại/ trao đổi trực
tiếp giữa NVXH với một hay nhiều người để thu thập thông tin, cung cấp thông tin
nhằm đưa ra cách can thiệp, hỗ trợ đối tượng.
Một cuộc vấn đàm có thể có một hay nhiều mục đích, tuy nhiên mục đích
chính của cuộc vấn đàm thường là:
+ Thu thập thông tin từ đối tượng hay chia sẻ thông tin cho đối tượng.
+ Nghiên cứu và đánh giá vấn đề của đối tượng và tình huống liên quan.
+ Đưa ra sự giúp đỡ cho đối tượng.
Yêu cầu của một cuộc vấn đàm: Người vấn đàm ( NVXH) phải có kiến thức
và kỹ năng, biết quan sát, biết lắng nghe và biết cách liên hệ với người được vấn
đàm.
Để thực hiện một cuộc vấn đàm tốt, NVXH cần chú ý những yêu cầu sau:
- Cuộc vấn đàm cần có mục đích, mục tiêu cụ thể, rõ ràng.
- Cuộc vấn đàm cần phải chuẩn bị một cách kế hoạch.
- Cuộc vấn đàm cần có phương pháp và đảm bảo tiến trình - chuẩn bị - mở
đầu - triển khai, và - kết thúc.
- Cuộc vấn đàm có hiệu quả đòi hỏi phải có sự hợp tác tích cực của NVXH
và đối tượng. Để có được sự hợp tác này thì NVXH và đối tượng phải có sự đồng
cảm, chân thành, thân thiện, cởi mở và NVXH phải đảm bảo với họ rằng quyền tự
quyết thuộc về đối tượng, quyền giữ bí mật thông tin thuộc trách nhiệm của
NVXH.
Các kỹ năng cần thiết sử dụng trong vấn đàm:
- Kỹ năng tạo lập mối quan hệ
Là khả năng NVXH thiết lập quan hệ công việc với đối tượng. Điểm xuất
phát để tạo ra mối quan hệ này được bắt đầu từ cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa NVXH
và đối tượng, nó có vị trí rất quan trọng tạo nên sự tin tưởng hay hợp tác tích cực
giữa hai bên trong suốt tiến trình, nhất là đối tượng. Vì vậy, trong cuộc gặp gỡ đầu
tiên, NVXH phải giới thiệu nghề nghiệp, mục đích của cuộc gặp gỡ ... và với thái
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
77
độ cởi mở, thân thiện, quan tâm, đồng cảm, sẵn sàng chia sẻ ...để đối tượng yên tâm
và có thể trông cậy vào khả năng giải quyết vấn đề.
- Kỹ năng đưa ra câu hỏi
Trong cuộc vấn đàm việc hỏi các câu hổi để đối tượng trả lời một cách tự
nhiên, thoái mái khi chia sẻ thông tin với NVXH là rất quan trọng. NVXH không
nên hỏi quá nhiều, câu hỏi đưa ra nên ngắn gọn, dễ hiểu, tập trung vào vấn đề cần
quan tâm, sử dụng kết hợp và hợp lý cả hai loại câu hỏi mở và đóng.
+ Bước đầu có thể đưa ra những câu hỏi chung nhằm khuyến khích đối
tượng bày tỏ nhiều nhất về suy nghĩ và cảm súc.
+ Tiếp theo đưa ra các câu hỏi liên quan đến mục đích cuộc vấn đàm.
+ Tiếp đến là những câu hỏi trọng tâm nhằm thu thập thông tin chính xác về
nguyên nhân, mức độ của vấn đề.
+ Chuẩn bị những câu hỏi gợi mở nhằm khuyến khích sự chia sẻ thông tin
của đối tượng.
- Kỹ năng dẫn dắt, định hướng buổi vấn đàm
Trong quá trình trao đổi thông tin với đối tượng, đôi khi NVXH gặp tình
uống đối tượng đi chệch vấn đề mà họ đang muốn giải quyết hoặc có những bức
xúc tức thời làm họ không tập trung vào vấn đề trọng tâm. Lúc này NVXH cần sử
dụng kỹ năng dẫn dắt, định hướng để đối tượng quay trở lại vấn đề trọng tâm, Như
đã đề cập ở trên, NVXH có thể sử dụng các câu hỏi mang tính định hướng để kéo
đối tượng quay trở lại nội dụng chủ đề mà cả hai bên đều quan tâm.
- Kỹ năng lắng nghe tích cực
Sự lắng nghe tích cực của NVXH chứng tỏ sự tập trung và quan tâm đến đối
tượng và đến vấn đề đối tượng đang trình bày. Động thái đó làm đối tượng cảm
thấy được quan tâm, được tôn trọng và họ sẽ dễ dàng bộc lộ những khúc mắc trong
vấn đề của mình. Các hoạt động của NVXH trong cuộc vấn đàm cần:
+ Tập trung cao độ vào người hỏi.
+ Nhớ những điều đối tượng nói.
+ Thỉnh thoảng phản ánh lại ý kiến và cảm súc để đảm bảo rằng NVXH hiểu
chính xác thông tin và kiểm tra lại thông tin cũng như cảm xúc của đối tượng.
+ Tránh phân tích và giải thích dài dòng.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
78
Việc tập trung cao độ vào người nói giúp NVXH không chỉ nghe, hiểu đầy
đủ nội dung trình bày của người nói mà còn giúp “đọc” được cả cảm xúc của đối
tượng qua quan sát hành vi, cử chỉ, diễn biến trên nét mặt đối tượng. NVXH có thể
phát hiện sự sai lệch giữa nội dung đang được nghe với trạng thái của đối tượng để
có thể đưa ra những câu hỏi thăm dò nhằm khai thác hết chiều sâu của thông tin mà
mình cần phải hiểu. Cũng với việc tập trung nghe cao độ, NVXH có thể kiểm soát
được nội dung câu chuyện mà đối tượng trình bày để có thể định hướng khi câu
chuyện đi xa trọng tâm.
Trường hợp NVXH vấn đàm với người và gia đình người nghèo cũng có thể
gặp phức tạp, bởi trước một vấn đề, các thành viên trong một gia đình có thể có
cách nhìn nhận rất khacsnhau về mức độ trầm trọng cũng như nội dung của vấn đề
đó. Vì thê, NVXH khi vấn đàm để giúp giải quyết một vấn đề nào đó của một thanh
viên trong gia đình thì ngoài việc phải tiếp xúc với thành viên đó để tìm hiểu vấn đề
còn cần phải gặp và vấn đàm các thành viên khác trong gia đình để họ nói lên quan
điểm cũng như đánh giá vấn đề của thành viên mà chúng ta cần giúp đỡ. Nhiều khi
NVXH còn gặp tất cả các thành viên trong gia đình để có cuộc vấn đàm “tập thể”
mới xác định rõ vấn đề của thành viên cần giúp đỡ.
Trên thực tế, gia đinh là một nguồn lực quan trọng giúp cá nhân giải quyết
vấn đề vì gia đình là môi trường có tác động trực tiếp đến từng thành viên. Sự nhìn
nhận vấn đề của một thành viên, giúp cho các thành viên khác trong gia đình có
được sự chia sẻ và hợp tác giúp đỡ thành viên đó giải quyết vấn đề . Nếu chúng ta
giúp đỡ để giải quyết vấn đề của cả một gia đình thì đương nhiên chúng ta phải có
những cuộc gặp gỡ chung các thành viên, để trước một vấn đề cụ thể họ có chung
nhận thức nhằm đi đến thống nhất những hoạt động cần thiết và phối hợp với nhau
để giải quyết vấn đề.
1.2.3. Kỹ năng thu thập và phân tích thông tin
Khi NVXH đã được thân chủ “chấp nhận” thì hoạt động thu thập đầy đủ và
phân tích tốt thông tin là công việc bước đầu quan trọng của NVXH trong mục tiêu
giúp đỡ người và gia đình nghèo thoát khởi cảnh nghèo đói.
Để làm tốt việc này, NVXH cần chuẩn bị kế hoạch và các nội dung làm việc
cụ thể với các cá nhân và gia đinh nghèo. Các buổi gặp gỡ ai, cần tìm hiểu nội dung
gì... phải có sự chuẩn bị và thông báo trước cho người cần gặp.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
79
Các nội dung cần tìm hiểu có thể là: Các thành viên trong gia đình, công
việc, thu thập và đặc điểm cá nhân của họ, các khó khăn trong cuộc sống, trong sản
xuất mà họ gặp phải, họ quan niệm về nghèo đói ra sao, những DVXH họ được tiếp
cận là gì và chất lượng các dịch vụ như thế nào, các nguyên nhân của những khó
khăn họ đang gặp phải là gì...Các thông tin này cần được ghi chép lại một cách tóm
tắt và logic để dễ dàng cho việc phân tích.
Các thông tin được thu thập và ghi chép một cách logic cho phép NVXH
“xâu chuỗi” các nội dung theo cách tư duy “nguyên nhân - kết quả” để làm sáng tỏ
vấn đề của người và gia đình người nghèo. Những thông tin sau khi NVXH phân
tích cũng như cần được chia sẻ với đối tượng nhằm xác định nguyên nhân của vấn
đề cũng như tìm kiếm phản hồi để cả NVXH và đối tượng hiểu thấu đáo ngọn
nguồn của vấn đề.
1.2.4. Kỹ năng tham vấn
Tham vấn là một hoạt động chuyên môn được sử dụng trong nhiều lịch vực
đời sống xã hội. Trong lĩnh vực CTXH, tham vấn là công cuộc hàng ngày của các
NVXH nhằm giúp các đối tượng có vấn đề tăng cường năng lực để có thể giải
quyết được vấn đề của bản thân.
Tham vấn là một quá trình trợ giúp tâm lý, trong đó nhà tham vấn ( thường là
NVXH) sử dụng kiến thức, kỹ năng chuyên môn và thái độ nghề nghiệp để thiết lập
mối quan hệ tương tác tích cực với thân chủ nhằm giúp họ nhận thức được hoàn
cảnh vấn đề để thay đổi cảm xúc, suy nghĩ và hành vi, trên cơ sở đó họ tìm kiếm
giải pháp cho vấn đề của mình. Nói cách khác, tham vấn là một tiến trình trong đó
diễn ra các mối quan hệ tương tác trên tinh thần giúp đỡ giữa hai người khi một bên
cảm thấy cần sự giúp đỡ , đặc biên khi có vấn đề mà bản thân không có khả năng tự
giải quyết.
Hoạt động tham vấn cá nhân nói chung và tham vấn đối với người nghèo nói
riêng được sử dụng nhằm hỗ trợ đối tượng giải quyết vấn đề tâm lý như: mặc cảm,
tự ty, chán nản, buồn khổ...Các hình thức tham vấn cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào
từng đối tượng, mức độ nghiêm trọng của vấn đề, môi trường sống của đối tượng
đó...mà NVXH sử dụng hình thức nào cho phù hợp. Ngoài tham vấn cá nhân, đôi
khi NVXH sử dụng hình thức tham vấn gia đình nhằm cải thiện cách thức giao tiếp
giữa các thành viên trong gia đình, tăng cường sự ảnh hưởng tích cực và mối liên
kết giữa các thành viên trong gia đình đó, hướng tới việc giải quyết một vấn đề của
một cá nhân hay của cả gia đình.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
80
Giống như tham vấn cá nhân nói chung, tham vấn cho người và gia đình
người nghèo trải qua 6 bước sau:
- Tạo lập mối quan hệ và xây dựng mối tin tưởng nơi thân chủ.
- Thu thập thông tin và xác định vấn đề.
- Đưa ra và xác định giải pháp thích hợp.
- Thực hiện giải pháp.
- Kết thúc.
- Theo dõi sau tham vấn.
Để tạo lập mối quan hệ và xây dựng mối tin tưởng của người và gia đình
nghèo, NVXH cần nhận thức được một số vấn đề sau:
+ Luôn ý thức được bản thân về những định kiến đối với người và gia đình
người nghèo để tiếp xúc với họ chân thành, đồng cảm, cởi mở, chấp nhận.
+ Cần thể hiện được sự chân thành , mong muốn thực sự muốn giúp đỡ đối
tượng và sự đồng cảm xuất phát từ trái tim người giúp đỡ chuyên nghiệp.
+ Cần chia sẻ các nguyên tắc nghề nghiệp, nhất là nguyên tắc giữ bí mật
thông tin để đảm bảo sự tin tưởng của đối tượng.
+ Cần thu xếp chu đáo địa điểm, thời gian hợp lý, các yếu tố vật chất cần
thiết để có được môi trường tiếp xúc thoải mái, an toàn và tin cậy.
+ Vận dụng tốt kỹ năng giao tiếp để mở rộng quan hệ với đối tượng.
Việc thu thập thông tin liên quan đến đối tượng và vấn đề mà đối tượng đang
gặp phải càng nhiều càng tốt. Đặc biệt cần tìm hiểu những mối quan tâm chủ yếu
và vấn đề chính của đối tượng, xác định những mặt mạnh và những hạn chế sẽ ảnh
hưởng đến khả năng giải quyết vấn đề của đối tượng.
Gặp gỡ đối tượng, NVXH cần tìm hiểu hoàn cảnh của đối tượng gồm cả môi
trường xã hội, giáo dục, gia đình, tình cảm, thể chất, tâm lý; cùng đối tượng xác
định rõ vấn đề mà đối tượng đang phải đối mặt. Ví dụ, vấn đề nghèo đói của bản
thân đối tượng hay gia đình là vấn đề thiếu vốn hay vấn đề thuộc về sự kém hiểu
biết trong cách làm hoặc vấn đề bản thân và gia đình luôn có người ốm đau hoặc cả
gia đình đều có tâm lý an phận với nghèo đói không vươn lên...
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
81
Khi vấn đề được xác định, NVXH hay cố gắng giúp đỡ đối tượng nhìn nhận
cụ thể các mục tiêu cần đạt được trong công việc giải quyết vấn đề, hãy để đối
tượng được hình dung và trả nghiệm các mục tiêu khi thục hiện thành công.
Cần có giải pháp tốt nhất đẻ giải quyết vấn đề. Các giải pháp này được
khuyến khích đối tượng đưa ra, trên cơ sở đó NVXH cùng với họ nhìn nhận những
điểm mạnh, những hạn chế của từng giải pháp, đối chiếu với vấn đề chính được xác
định là phải giải quyết vấn đề chính đối tượng lựa chọn một giải pháo phù hợp
nhất.
Sau khi đã lựa chọn được giải pháp phù hợp, NVXH giúp đối tượng lên kế
hoạch thưc hiện giải pháp và chuẩn bị những điều kiện cần thiết để thực hiện kế
hoạch. NVXH cần lưu ý, kế hoạch thực hiên giải pháp cần xây dựng cụ thể, chi tiết
và khả thi dựa trên việc phân tích, xác định nguồn lực thực hiện.
Việc thực hiện giải pháp là trách nhiệm của đối tượng. Nhan viên xã hội lúc
này giữ vai trò là người khích lệ và hỗ trợ đối tượng thực hiện giải pháp khi cần
thiết. Là nhà tham vấn, NVXH cũng cần giúp đỡ đối tượng hình thành kỹ năng giải
quyết vấn đề để đối tượng có thể sử dụng sau này khi phải đối mặt với những vấn
đề khác.
NVXH cùng đối tượng xem xét quá trình tham vấn đã giúp đối tượng thực sự
thay đổi theo hướng tích cực về thái độ và hành vi hay chưa, nếu có thì mức độ
thay đổi đến đâu, cần tăng cường những gì để đảm bảo đối tượng hoàn toàn thay
đổi tích cực. Ví dụ, người và gia đình nghèo hoàn toàn xóa đi mặc cảm, tự ti, tích
cực học hỏi, tham gia các hoạt động XĐGN ở địa phương.
1.2.5. Kỹ năng biện hộ
Biện hộ là hoạt động bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của con người,
thúc đẩy công bằng xã hội. Hoạt động này đặc biệt có ý nghĩa đối với các nhóm
người yếu thế, khi mà tiếng nói của họ ít được xã hội chú ý và thừa nhận.
Nhìn ở góc độ CTXH thì biện hộ là việc NVXH giúp cho đối tượng nói lên
được tiếng nói, quan điểm của mình hoặc đại diện cho họ đưa ra tiếng nói và đảm
bảo rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ được tôn trọng và nhu cầu của họ được
thõa mãn cũng như mang lại dịch vụ tốt nhất cho họ.
Một ví dụ được đưa ra dưới đây cho thấy NVXH giữ vai trò biện hộ cho một
người hoặc gia đình nghèo vay vốn phát triển sản xuất: việc vay vốn ngân hàng để
đầu tư phát triển đàn gia cầm của hộ gia đình nghèo không được chấp nhận vì lý do
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
82
hộ gia đình này không có tài sản thế chấp. NVXH đưa ra lập luận với ngân hàng
rằng, hình thức vay vốn của hộ nghèo giờ đây được thực hiện theo cơ chế tín chấp
thông qua các tổ chức đoàn thể địa phương, chứ không theo cơ chế thế chấp như
trước đây, đó là quy định mới của nhà nước. Việc ngân hàng đưa ra yêu cầu đó với
hộ gia đình nghèo là không đúng quy định hiện hành; mặt khác ngân hàng phải có
trách nhiệm hướng dẫn hộ nghèo vay vốn thông qua “người đại diện” là các tổ chức
đoàn thể như: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội cựu Chiến
binh...theo cơ chế tín chấp.
Để đảm bảo cho việc biện hộ thành công, NVXH cần:
+ Xác định nhu cầu của đối tượng ta cần biện hộ. Thu thập thông tin, chứng
cứ rõ ràng và thuyết phục.
+ Xác định mục tiêu của việc biện hộ.
+ Xác định đối tượng mà chúng ta sẽ làm việc.
+ xác định phương pháp tiếp cận như gặp trình bày trực tiếp, hoặc theo
đường hành chính - trình bày bằng văn bản, hay nhờ cơ quan, tổ chức có ảnh hưởng
đi cùng để dễ tiếp cận.
+ Chuẩn bị các tài liệu chứng minh ( nếu cần ) và có lịch hẹn cụ thể.
Bên cạnh đó, NVXH cần có các kỹ năng:
+ Thu thập thông tin cần thiết: Thông tin về đối tượng, vấn đề và nhu cầu của
họ, thông tin về dự án, chính sách, các chủ trương, các luật liên quan quy định
quyền và lợi ích hợp pháp, phù hợp với nhu cầu của đối tượng cần biện hộ.
+ Kỹ năng lắng nghe, bằng cả tai và mắt, sử dụng ngôn ngữ cơ thể, bắt nhịp
các cảm xúc và phản hồi tích cực.
2.CTXH nhóm với hộ nghèo
2.1. Xác định các nhóm đối tượng: Hộ nghèo
CTXH với nhóm người nghèo dựa trên các nguyên tắc, nội dung và tiến trình
của CTXH nhóm nói chung. Tuy nhiên, đây là nhóm khá đặc thù, có những đặc
điểm tâm lý chung nhưng cũng có đặc điểm tâm lý rất khác biệt so với các nhóm xã
hội khác, cho nên khi làm việc với nhóm người nghèo, NVXH không thể áp dụng
cứng nhắc cho một loại nhóm mà sự “pha trộn” giữa loại nhóm - nhóm nhiệm vụ
và nhóm can thiệp:
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
83
- Nhóm nhiệm vụ ( còn được gọi là nhóm hành động) được sử dụng để thực
hiện một nhiệm vụ nào đó, tìm ra giải pháp cho vấn đề, lấy ý kiến, và đưa ra quyết
định. Ví dụ - nhóm người nghèo - nhiệm vụ: thống nhất ý kiến, đưa ra quyết định
các giải pháp, hỗ trợ giúp nhau thoát nghèo.
- Nhóm can thiệp là nhóm có hoạt động hỗ trợ trực tiếp các thành viên.
Nhóm can thiệp được chia ra các loại hình như: Nhóm hỗ trợ, nhóm giáo dục,
nhóm phát triển, nhóm trị liệu và nhóm xã hội hóa. Đối với nhóm người nghèo , do
hoàn cảnh và đặc điểm tâm lý khá đặc thù nên khi thực hiện các hoạt động giúp đỡ
họ, NVXH có thể phải sử dụng linh hoạt các loại hình nhóm khác nhau nhằm thay
đổi toàn diện nhận thức, thái độ và hành vi của họ.
Phương pháp CTXH với nhóm nói chung và với nhóm người nghèo nói riêng
được sử dụng khi vấn đề của cá nhân muốn được giải quyết có liên quan, phụ thuộc
vào sự tương tác giữa cá nhân đó với các thành viên khác trong nhóm thông qua
các hoạt động trong sinh hoạt nhóm. Trong CTXH nhóm, NVXH có thể sử dụng
nhóm có sẵn trong thực tế hoặc thiết lập một nhóm mới, tùy theo mục đích của sự
giúp đỡ. Đối với nhóm người nghèo, thực tế hiện nay ở cộng đồng dân cư nào cũng
có và họ cũng thường xuyên nhận được sự quan tâm của các tổ chức; chính quyền
địa phương trong lĩnh vực XĐGN.
Trong CTXH nhóm, NVXH đóng vai trò như người điều phối, nghĩa là
NVXH không nhằm vào một người cụ thể mà tác động đến sự tương tác giữa các
thành viên trong nhóm thông qua việc điều phối các hoạt động của nhóm trở nên
năng động, linh hoạt, tích cực, đạt mục tiêu của nhóm. Sự tương tác giữa các thành
viên trong nhóm là nhân tố giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ, trải nghiệm,
thay đổi , tăng cường sự liên kết và phát huy tiềm năng của mỗi cá nhân và tiềm
năng của cả nhóm.
2.2. Tiến trình CTXH với nhóm người nghèo, hộ nghèo
Tiến trình CTXH nhóm nói chung và CTXH với nhóm người nghèo, hộ
nghèo nói riêng có thể chia thành ba giai đoạn hoặc bốn giai đoạn. Nếu chia tiến
trình thành ba giai đoạn thì bao gồm:
(1) Giai đoạn thành lập nhóm
(2) Giai đoạn hoạt động nhóm
(3) Giai đoạn kết thúc
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
84
Ở giáo trình này, tiến trình CTXH với nhóm người nghèo, hộ nghèo được
chia thành bốn giai đoạn:
- Giai đoạn chuẩn bị và thành lập nhóm.
- Giai đoạn nhóm bắt đầu hoạt động.
- Giai đoạn can thiệp/ thực hiện nhiệm vụ.
- Giai đoạn kết thúc (cả nhóm can thiệp và thực hiện nhiệm vụ).
2.2.1. Giai đoạn chuẩn bị và thành lập nhóm
Đây là giai đoạn đầu tiên của tiến trình CTXH nhóm. NVXH sau khi thấy có
nhu cầu của thân chủ hoặc của nhóm thân chủ là cần thiết có các hoạt động nhóm
để đảm bảo có sự hộ trợ giải quyết các vấn đề liên quan tới chính sách, thủ tục hay
tiếp cận các DVXH...thì NVXH có những chuẩn bị kỹ càng dựa trên mục đich hỗ
trợ, khả năng thành lập nhóm để hình thành nhóm CTXH. Giai đoạn này thường
bao gồm các bước sau đây:
a. Xác định mục đích hỗ trợ nhóm
Đây là đích cuối cùng của CTXH nhóm, xuất phát từ sự cần thiết của thân
chủ. Ví dụ, đối với nhóm hộ nghèo, đích cuối cùng là thoát nghèo vươn lên khá.
Việc xác định mục đích phải dựa trên nhu cầu, trình độ nhận thức, điều kiện
thực hiện của các nhóm.
b. Đánh giá khả năng thành lập nhóm
- Đánh giá khả năng tài trợ hoạt động nhóm:
NVXH cần rà soát và nghiên cứu kỹ các cơ quan, tổ chức cung cấp DVXH
về chức năng, nhiệm vụ, các hoạt động, cơ chế làm việc...để đảm bảo rằng các cơ
quan, tổ chức đó có thể hỗ trợ, giúp đỡ thân chủ về yếu tổ vật chất và các nguồn lực
khác nhau. Ví dụ, liên quan tới nhóm người nghèo, về vốn sản xuất, các ngân hàng
(nhất là Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn) có vai trò gì, cơ chế cho người nghèo vay vốn ra sao...; các trung tâm khuyến
nông có chức năng gì, họ cung cấp gì cho nông dân...
- Đánh giá sự tham gia của các thành viên của nhóm:
Trước hết NVXH phải đánh giá nhu cầu và điều kiện thực tế của thân chủ:
xem xét động cơ, mong muốn, mục tiêu tham gia nhóm của mỗi thân chủ, sau đó
xem xét liệu họ có đủ điều kiện để tham gia vào các hoạt đọng nhóm hay không.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
85
Trong một số trường hợp, thân chủ muốn tham gia nhóm nhưng do điều kiện khách
quan họ không thể tham gia thì NVXH cần nghiên cứu để có cách can thiệp, hỗ trợ
giúp họ có thể tham gia được.
Ví dụ, nhóm phụ nữ có phụ nữ nuôi con nhỏ, có thể can thiệp với lớp nhà trẻ để
trông trẻ, hoặc vận động sự chia sẽ của các ông chồng...
- Đánh giá khả năng các nguồn lực khác:
Nguồn lực khác ở đây không chỉ là các yếu tố vật chất, về tiền mà còn là sự
ủng hộ của chính quyền, cộng đồng, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức kinh doanh,
các “ mạnh thường quân”.
c. Thành lập nhóm
- Tuyển chọn thành viên nhóm:
Căn cứ vào đánh giá ở trên, NVXH có thể tuyển trọn các thành viên của
nhóm. Đối với nhóm người nghèo thì việc lựa chọn các thành viên không mấy khó
khăn. Tuy nhiên , vì nhóm này vừa đảm bảo chức năng can thiệp vừa đảm bảo thực
hiện nhiệm vụ, vì vậy cũng cần lựa chọn theo mội tiêu chí ưu tiên nhất định
- Thành phần nhóm:
Trên cơ sở các nguyên tắc:
+ Tính đồng nhất: Các thành viên của nhóm cần có mục tiêu, kiểu dạng tính
cách, đặc điểm tương đồng.
+ Tính đa dạng: Các thành viên của nhóm cần có sự đa dạng về kỹ năng ứng
phó, trải nghiệm và kiến thức về cuộc sống.Nếu các thành viên còn thể hiện được
tính đa dạng về cơ cấu kỹ năng, hiểu biết và hoàn cảnh thì nhóm rất phong phú. Do
là tín hiệu cho thấy nhóm đi vào hoạt động sẽ đạt hiệu quả.
- Quy mô nhóm:
Căn cứ vào mục tiêu và đặc điểm của các thành viên trong nhóm để quyết
định quy mô nhóm, làm sao cho nhóm hoạt động hiệu quả. Đối với nhóm người
nghèo, trên thực tế các nhóm Tín dụng tiết kiệm của các hội phụ nữ đang hoạt động
thì mỗi nhóm khoảng từ 10 - 15 chị em đại diện cho các gia đình nghèo.
d. Định hướng cho các thành viên trong nhóm
- Thông tin về nhóm và tiến trình hoạt động của nhóm:
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
86
Các thành viên của nhóm cần biết thông tin của nhau và biết nội dung cũng
như tiến trình hoạt động của nhóm.
- Đánh giá lại nhu cầu của các thân chủ:
Sau khi biết thông tin về nhóm, các thân chủ có thể đối chiêu mục tiêu của
nhóm với mục tiêu của thân chủ để có quyết định cuối cùng là tham gia nhóm hay
không.
e. Thỏa thuận nhóm
- Thỏa thuận về cách thức hoạt động nhóm.
- Thỏa thuận về các mục tiêu cá nhân.
g. Chuẩn bị môi trường
- Chuẩn bị cơ sở vật chất: các điều kiện để sinh hoạt nhóm.
- Chuẩn bị kế hoạch tài chính.
h. Viết đề xuất nhóm
Đây như là văn bản “cấp giấy phép” hoạt động của nhóm. Bản kế hoạch
này phải nêu rõ mục đích, mục tiêu, đối tượng hưởng lợi, phương thức hoạt đọng,
kết quả, các cơ quan tổ chức, tổ chức liên quan với những yêu cầu cần hỗ trợ. Đề
xuất nhóm này như là cam kết hoạt động của các thân chủ trong nhóm.
2.2.2. Giai đoạn nhóm bắt đầu hoạt động
Về lý thuyết, giai đoạn này là giai đoạn bắt đầu các hoạt động của nhóm và
nhìn chung bao gồm các hoạt động sau:
- Giới thiệu các thành viên trong nhóm.
- Xác định các mục đích của nhóm
- Xác định các mục tiêu.
- Thảo luận và đưa ra giới hạn bảo mật thông tin của nhóm.
- Giúp các thành viên trong nhóm cảm thấy họ là một phần của nhóm.
- Hướng dẫn sự phát triển của nhóm.
- Làm cân bằng giữa nhiệm vụ và khía cạnh về tình cảm và xã hội của tiến
trình nhóm.
- Thỏa thuận các công việc của nhóm
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
87
- Khích lệ động cơ của các thành viên nhằm thực hiện các mục tiêu.
- Dự đoán về những cản trở, khó khăn khi thực hiện các mục tiêu cá nhân và
mục tiêu của nhóm.
Đối với nhóm người nghèo, việc thành lập và đưa nhóm vào hoạt động, cần
làm đơn giản hơn nhiều vì trên thực tế người nghèo ở trong một cộng đồng nhỏ họ
biết nhau và rất hiểu nhau. Hơn nữa đây là nhóm khá thuần nhất về hoàn cảnh
sống, về tâm tư, về tình cảm, về những đặc điểm tâm lý, nếu có sự khác nhau thì có
thể khác nhau về mức độ trải nghiệm, về khí chất hoặc về mức độ thể hiện cảm
xúc. Điều này cũng có thể làm phong phú hơn các hoạt động của nhóm và là động
lực tiềm ẩn để khơi dậy sức sáng tạo của thành viên trong nhóm.
Với tâm lý tương đồng, trong sinh hoạt nhóm, người nghèo có thể mạnh dạn
chia sẻ sự trải nghiệm cho nhau, do đó sự trải nghiệm của mỗi thành viên trong
nhóm được nâng cao, họ có thể tạo ra những thay đổi bất ngờ trong suy nghĩ và
trong hành vi để hướng tới việc thực hiện tốt mục tiêu cá nhân và mục tiêu nhóm.
Mỗi lần sinh hoạt nhóm, qua sự chia sẻ nhau, họ sẽ trưởng thành hơn trong nhận
thức cũng như các hoạt động hướng tới mục tiêu thoát nghèo. Vấn đề còn lại và
quan trọng hơn cả là NVXH như một cầu nối trung gian nối kết người nghèo với
các nguồn lực hoặc các DVXH để người nghèo có thêm “bột” để “gột nên hồ”.
Trong hoạt động thực tiễn của các nhóm Tín dụng tiết kiệm do Hội phụ nữ tổ
chức lâu nay tại các địa phương, người phụ nữ vay được một số vốn, triển khai các
hoạt động kinh tế gia đình (chăn nuôi, trồng rau – đối với các vùng đô thị) đã làm
cho nhiều gia đình có cuộc sống khá hơn. Nhờ tiết kiệm, họ đã trả được vốn và lãi,
đồng thời còn dành ra được một khoản để làm ăn lâu dài. Nhóm phụ nữ xây dựng
quy chế sử dụng đồng vốn và quy định mức góp lãi hàng ngày hoặc hàng tuần tại
gia đình của người tổ trưởng. Chính ở địa chỉ này, các hội viên có thể gặp nhau
hàng ngày ( thường là vào cuối một ngày làm việc hay cuối tuần), họ có điều kiện
chia sẻ ki nghiệm và những thay đổi trong ngày những gì liên quan tới việc làm ăn
của họ. Số tiền tiết kiệm đó đủ “một khoản” – theo cách nói của nhóm – họ có thể
đầu tư thêm cho người muốn mở rộng việc sản xuất, kinh doanh hoặc họ lại mở
rộng thành viên của nhóm bằng cách cho các hội viên khác vay.
2.2.3. Giai đoạn can thiệp/ thực hiện nhiệm vụ
Giai đoạn can thiệp/ thực hiện nhiệm vụ là giai đoạn tập trung vào các hoạt
động hỗ trợ, trị liệu và triển khai thực hiện nhiệm vụ hướng tới hoàn thành mục
đích . các mục tiêu và nhiệm vụ được nhóm xác định. Nhiệm vụ chính của NVXH
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
88
trong giai đoạn này là giúp đỡ các thành viên vượt qua các rào cản, khó khăn; điều
phối các hoạt động nhóm để hỗ trợ các thành viên đạt được mục đích, mục tiêu của
nhóm; thúc đẩy các cơ quan; tổ chức; chính quyền; cộng đồng ủng hộ cho những
nỗ lực của các thành viên trong nhóm.
Ở giai đoạn này, do tính khác biệt về nội dung và cách thức các hoạt động
nhằm hướng tới mục đích và các mục tiêu của hai loại hình nhóm can thiệp và
nhóm nhiệm vụ nên NVXH cần có sự phân biệt khi làm việc với nhóm.
a. Nhóm can thiệp
Với nhóm can thiệp ( bao gồm các loại hình nhóm: nhóm hộ trợ, nhóm giáo
dục, nhóm phát triển , nhóm trị liệu và nhóm xã hội hóa), giai đoạn này bắt đầu có
những thử nghiệm, xung đột và điều chỉnh giữa các thành viên trong quá trình
tương tác. Đây là hiện tượng bình thường của nhóm khi bắt tay vào hoạt động hỗ
trợ/ trị liệu cho các thành viên nhóm. Các thành viên nhóm sẽ cùng nhau bàn bạc đi
đến thống nhất những thỏa thuận và thiết lập vị trí của từng cá nhân với các cá nhân
khác. Quá trình này sẽ giúp nhóm dần dần tìm được hướng đi và cách thức giao
tiếp trong nhóm cho đến khi các thành viên có thể bày tỏ các nhu cầu và quan điểm
về nhóm. Thời điểm này, các thành viên của nhóm dần cảm thấy thoái mái với
nhau và với cả nhóm. Nhóm sẽ xuất hiện nhiều loại hình tương tác, kể cả những
tương tác không thuận như có ý kiến trái ngược nhau về tiến trình nhóm và giao
tiếp với trưởng nhóm hay người điều phối.
Trong giai đoạn này, NVXH cần biết sử dụng hợp lý kỹ năng giải quyết xung
đột để giúp cân bằng nhóm và tập trung vào đích đạt được mục tiêu chung của
nhóm. NVXH phải biết hướng nhóm vào việc thảo luận cách thức làm thế nào đê
giải quyết tốt nhất nhưng xung đột và lò lắng của các thành viên và duy trì nhóm
hoạt động nhịp nhàng theo đúng nội dung được xác định. Trong hoạt động can
thiệp, ngoài việc bao quát hoạt động chung của nhóm, NVXH phải đặc biệt chú ý
hỗ trỡ trực tiếp cho tưng thành viên nhằm làm cho mỗi cá nhân thay đổi tích cực
trong mối quan hệ giao tiếp với các thành viên khác: mạnh dạn hơn, chia sẽ hơn,
hướng tới sự đồng nhất về mục đích chung, trong đó mục đích của mỗi thành viên
đều đạt được.
b. Nhóm nhiệm vụ
Với nhóm nhiệm vụ, trọng tâm nhấn mạnh đến sự sáng tạo nhằm đưa ra
những ý tưởng mới, các chương trình và kế hoạch giải quyết các vấn đề. Mang lại
lợi ích nhiều hơn cho thân chủ. Đôi khi những nhiệm vụ này vượt qua phạm vi của
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
89
nhóm như việc đưa ra nhưng quyết định về môi trường tổ chức, về chính sách ,
dịch vụ hỗ trợ thân chủ.
Để thực hiện thành công nhiệm vụ của nhóm, NVXH hướng dẫn nhóm duy
trì sự tập trung vào mục tiêu, chức năng và vai trò nhóm đảm nhiệm. NVXH trong
loại hình nhóm nhiệm vụ có vai trò là người trưởng nhóm hoặc là người chịu trách
nhiệm chính trong việc điều phối và quản lý hoạt động của nhóm. Với vai trò là
trưởng nhóm hay người điều phối, quản lý hoạt động của nhóm trong loại hình
nhóm nhiệm vụ, NVXH phải tạo ra sự tương tác giữa các thành viên trong nhóm,
trên cơ sở đó tìm kiếm một giải pháp cho việc giải quyết một vấn đề, lấy ý kiến và
đưa ra quyết định để các thành viên nhóm thực hiện nhiệm vụ.
Các hoạt động của nhóm nhiệm vụ bao gồm:
- Chuẩn bị các cuộc họp nhóm.
- Chia sẻ thông tin, suy nghĩ và cảm xúc về những lo lắng các quan tâm mà
nhóm đang đối mặt.
- Thu hút sự tham gia và tăng cường tính cam kết của các thành viên.
- Điều phối việc tìm kiếm thông tin về những vấn đề nhóm đang đối mặt.
- Giải quyết xung đột.
- Đưa ra các quyết định có hiệu quả.
- Hiểu biết về sự phân chia các vị trí trong nhóm.
- Quản lý và lượng giá công việc của nhóm.
- Giải quyết vấn đề.
Như trên đã đề cập, nhóm người nghèo có thể phải áp dụng cả hai loại hình
nhóm trong sinh hoạt nhóm, bởi mỗi thành viên cần phải khắc phục hai vấn đề cơ
bản: giải tỏa tâm lý mặc cảm, tự ti và thoát nghèo. Ở đối tượng này, NVXH cần
phải trị liệu với từng thành viên, nhưng cũng đảm bảo cho mỗi thành viên có những
hành động cụ thẻ để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Trong quá trình trị liệu tâm lý cho
từng thành viên của nhóm, NVXH cần lưu ý không được phép dập khuôn, bởi vì,
dù người nghèo có đặc điểm tâm lý cơ bản giống nhau, nhưng khí chất, cách thể
hiện cảm xúc cũng như mức độ “bệnh lý” thì mỗi thành viên đều khác. Ngay cả
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
90
việc tạo cơ hội cho các thành viên tương tác trong loại hình nhóm nhiệm vụ cũng
vậy, NVXH cũng phải hiểu biết từng thành viên để điều phối sự tương tác trong
nhóm sao cho có lợi nhất cho mọi thành viên, để ai cũng có điều kiện được chia sẻ
và học hỏi cũng như được trải nghiệm tốt nhất. Làm được như vậy thì mục tiêu
nhóm và nhất là mục tiêu của từng cá nhân mới thực hiện được. Như vậy thì đòi hỏi
kỹ năng của NVXH rất cao vì cùng một lúc phải làm việc với một đối tượng nhưng
lại với hai loại hình nhóm. Nếu thấy khó khăn quá thì có thể “tách” ra làm hai công
đoạn.
2.2.4. Giai đoạn kết thúc
Đây là giai đoạn cuối cùng của CTXH nhóm. Giai đoạn này diễn ra khi các
thành viên nhóm đã đạt được mục đích của nhóm và các mục tiêu của thành viên;
hoặc sau quá trình đánh giá, xem xét cẩn thận, nhóm kết thúc để chuyển giao sang
hình thức hỗ trợ khác. Nội dung trong giai đoạn kết thúc tiến trình sẽ tập trung vào
hai bước công việc chính: Lượng giá, và kết thúc.
Ở giai đoạn này, các thành viên trong nhóm, kể cả NVXH, sẽ tiếp tục trải
nghiệm những tác động, ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm. Khi kết thúc , các thành
viên và NVXH phải chia tay, mỗi người thường có tâm lý hẫng hụt, có trường hợp
lại có cảm nhận như sự mất mát; do đó NVXH cần có động thái nhắc nhở các thành
viên sự kết thúc của nhóm ở giai đoạn cuối vào những thời điểm thích hợp để tránh
làm cho các thành viên bị tổn thương khi phải thực sự kết thúc hoạt động của
nhóm. Làm được điều đó thì quá trình hỗ trợ trị liệu và thực hiện nhiệm vụ mới
được coi là thành công.
Việc lượng giá ở giai đoạn cuối này bao gồm:
+ Xem xét kết quả của quá trình hoạt động nhóm, và nội dung cụ thể là nhóm
có đạt được mục đích , các thành viên trong nhóm có đạt được mục tiêu đề ra hay
không.
+ Xem xét mức độ tiến bộ, năng lực được nâng cao ở mức nào của các thành
viên trong nhóm, đặc biệt là khả năng nhận thức và cách thức tiếp cận , huy động
nguồn lực để giải quyết vấn đề.
+ Thu thập ý kiến phản hồi về phương pháp tiếp cận, cách thức làm việc, hỗ
trợ của NVXH.
+ Hoạt động quản lý hành chính đạt hiệu quả ở mức nào.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
91
Như đã nêu ở trên, bước kết thúc, nhóm cần giải quyết cảm súc của các
thành viên, có động thái giảm sự phụ thuộc của mỗi thành viên vào nhóm – tức mỗi
thành viên có khả năng tự lập được. Điều quan trọng hơn cả ở bước này là mỗi
thành viên có thể duy trì và phát huy những nỗ lực thay đổi trong môi trường xã hội
rộng lớn hơn( chứ không phải bó hẹp trong môi trường của nhóm). Họ còn phải tự
tìm kiếm và tận dụng nguồn lực để tiếp tục thay đổi. Đến thời điểm này, vài trò của
NVXH chưa hẳn đã hoàn toàn chấm dứt mà có thể phải theo dõi các thành viên
trong nhóm khi hoạt động ngoài cuộc sống xã hội một thời gian nhất định.
Đối với nhóm người nghèo, các thành viên đều là người trưởng thành, trong
khi sinh hoạt trong nhóm đã có sự đan xen với các hoạt động gia đình và cộng đồng
nên giai đoạn kết thúc sinh hoạt nhóm có thể không làm “ xáo trộn” lắm về cảm
súc, tuy nhiên, việc họ hoàn toàn trở lại cuộc sống xã hội với tâm lý chưa hoàn toàn
thoát khỏi “kiếp nghèo” có thể ảnh hưởng tới việc tiếp tục tìm kiếm nguồn lực bên
ngoài để tiếp tục thay đổi. Vì vậy NVXH cần phải theo dõi và trong trường hợp cần
thiết còn phải hỗ trợ họ giúp đỡ.
3. Kỹ năng CTXH với nhóm người nghèo
3.1. Kỹ năng lãnh đạo nhóm
Các kỹ năng lãnh đạo nhóm được đề cập đầu tiên và có vài trò quan trọng
đối với NVXH trong quá trình giúp đỡ, hỗ trợ trị liệu đối với hai loại hình nhóm
can thiệp và nhóm nhiệm vụ. Những kỹ năng này được sử dụng ngay cả trong một
số trường hợp, khi trong nhóm có thành viên đủ năng lực và được nhóm tín nhiệm
làm trưởng nhóm, NVXH rất cần có kỹ năng lãnh đạo để giúp người trưởng nhóm
hoàn thành tốt nhiệm của mình trong việc điều hành các hoạt động của nhóm.
Các kỹ năng lãnh đạo nhóm được hiểu rất rộng từ năng lực điều phối, điều
hành, thu hút sự tham gia của các thành viên, xử lý các xung đột nhóm và định
hướng các thành viên nhóm hướng tới mục đích của nhóm và mục tiêu của cá nhân.
Các kỹ năng lãnh đạo nhóm bao gồm một số kỹ năng chính sau đây:
a. Kỹ năng thúc đẩy tiến trình nhóm, bao gồm:
- Kỹ năng thu hút thành viên nhóm:
Thể hiện ở khả năng người lãnh đạo lôi cuốn được các thành viên nhóm
tham gia và tham gia tích cực vào tiến trình của nhóm. Ví dụ: tham gia nhiệt tình và
tích cực vào việc thảo luận các vấn đề liên quan đến nhóm như cách thức, nội dung
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
92
sinh hoạt hoặc cách thức giải quyết vấn đề, hay chia sẻ thông tin và các trải nghiệm
cá nhân, đặc biệt tạo ra sự thích thú trước vấn đề đang được bàn luận trong nhóm.
- Kỹ năng tập trung và giữ định hướng:
Đó là vai trò của NVXH đảm bảo cho các thành viên trong nhóm tập trung
vào các hoạt động của nhóm và đi đúng định hướng mà nhóm đã xác định.
- Kỹ năng tập trung vào giao tiếp nhóm:
Là khả năng NVXH khuyến khích, hướng các thành viên tham gia tích cực
vào hoạt động giao tiếp. NVXH có thể theo dõi hoạt động giao tiếp giữa các thành
viên, trên cơ sở đó có sự khuyến khích và điều chỉnh hợp lý.
- Kỹ năng hướng dẫn tương tác nhóm:
Tương tác nhóm là hoạt động rất cơ bản trong CTXH nhóm, nó giúp cho mỗi
thành viên nâng cao năng lực và tăng cường khả năng giải quyết vấn đề của cá
nhân. Vì vậy kỹ năng hướng dẫn tương tác nhóm có ý nghĩa quan trọng trong
CTXH nhóm.
Đối với nhóm người nghèo, sự rụt rè trong tương tác nhóm chắc chắn sẽ
Là một thực tế bởi vì tâm lý tự ti là rào cản để họ có thể tiếp xúc, chia sẻ với nhau
một cách thoải mái, như vậy sẽ hạn chế hoạt động giao tiếp và các thành viên trong
nhóm sẽ ít có cơ hội học hỏi lẫn nhau để trưởng thành. Điều này lưu ý NVXH khi
điều hành nhóm người nghèo hoạt động cần có sự khuyến khích, lôi cuốn các thành
viên trong nhóm như thế nào để họ có thể tích cực chia sẻ các trải nghiệm, các
vướng mắc trong vấn đề thoát nghèo...từ đó các thành viên mới có thể thay đổi
nhận thức và tăng cường năng lực cá nhân.
b. Kỹ năng thu thập và đánh giá thông tin, bao gồm:
- Kỹ năng nhận biết, mô tả suy nghĩ, cảm xúc và hành vi:
NVXH thể hiện kỹ năng này thông qua việc giúp các thành viên nhận biết và
mô tả suy nghĩ, cảm xúc, và hành vi của mình. NVXH hướng dẫn các thành viên
trong nhóm nhận dạng được suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của mình thông qua việc
cung cấp thông tin và những dấu hiệu nhận dạng của những suy nghĩ, cảm xúc và
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
93
hành vi; ví dụ trước các khó khăn, họ luôn có cách suy nghĩ tiêu cực là mình không
thể vượt qua...và như vậy, họ không bao giờ có hành vi tích cực và sự cố gắng vượt
qua khó khăn đó.
- Kỹ năng thu thập thông tin, đặt câu hỏi và gợi mở:
NVXH phải xác định thông tin nào cần thu thập và thu thập từ nguồn nào;
cũng phải có cách thu thập thì mới có được thông tin đầy đủ và chính xác. Việc đưa
ra câu hỏi để thu thập thông tin nên ngắn gọi, dễ hiểu, màn tính tích cực, có lúc cần
gợi ý để các thành viên dễ trả lời và đúng trọng tâm.
- Kỹ năng tổng hợp suy nghĩ, cảm xúc và hành vi:
Là việc NVXH tóm lược, chắp nối một cách logic những suy nghĩ, hành vi,
cảm xúc chủ đạo của các thành viên trong nhóm. Đây cũng là công việc kết nối các
ý nghĩa đằng sau những hành động, làm rõ cảm xúc hoặc suy nghĩ, kết nối giáo tiếp
để chỉ ra các quan điểm chính và xu hướng trong hành động của các thành viên
trong nhóm.
- Kỹ năng phân tích thông tin:
Thông tin chứa đựng các dữ liệu được tập hợp và sắp xếp logic đẻ trên cở sở
nhận biết đặc trưng của nhóm, đánh giá vấn đề của nhóm, giúp cho NVXH có định
hướng cách quản lý tiến trình nhóm phù hợp.
Đối với nhóm người nghèo, thông tin bên ngoài (lớp vỏ) về họ cỏ thể không
khó nhận biết, nhưng thông tin bên trong (cốt lõi) mới là điều khó khăn để họ bộc
lộ; có thể là điều khó nói; có thể đó là khả năng diễn đạt hạn chế cũng như có thể
họ rât ngại phải nói trước đám đông...Dù là thế nào đi nữa, khi làm việc với nhóm
người nghèo, NVXH phải có thông tin đầy đủ của tứng cá nhân và của nhóm, giúp
cho vệc đánh giá vấn đề, để từ đó xác định mục đích của nhóm, mục tiêu cá nhân,
cách thức hoạt động cũng như tìm kiếm các nguồn lực hỗ trợ cho nhóm.
Trên thực tế, làm CTXH với nhóm người nghèo, NVXH cần phải làm thay
đổi tâm lý cam chịu, và cũng phải làm sao cho họ thấy được việc vươn lên thoát
nghèo không chỉ là mục tiêu trong việc thành lập các nhóm “ tự giúp” mà còn là
trách nhiệm xã hội của mỗi người nghèo. Để làm được điều đó, NVXH phải tìm
hiểu nguyên nhân của từng hoàn cảnh, những khó khăn mà họ thường gặp, giúp các
thành viên chia sẽ các trải nghiệm thực tế, từ đó họ có được những thay đổi tích
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
94
cực mà vươn lên. NVXH cũng cần giúp họi tiếp cận được các nguồn lực cần thiết
từ các cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương...
c. Kỹ năng hành động, bao gồm:
- Kỹ năng thúc đẩy hành động:
Nhóm kỹ năng hành động bao gồm cả những kỹ năng thúc đẩy như hộ trợ,
đưa ra những chỉ dẫn, chỉ ra những nguồn lực cho các thành viên nhóm và cả
những khả năng đối chất và giải quyết mâu thuẫn nhóm.
Trong tiến trình CTXH, việc hỗ trợ đưa ra những chỉ dẫn đúng lúc và phù
hợp là rất quan trọng đối với cả nhóm can thiệp và nhóm nhiệm vụ. Tuy nhiên, các
kỹ năng này đặc biệt quan trọng hơn với nhóm can thiệp, vì các thành viên có
những khó khăn nảy sinh khó cỏ thể tự mình xử lý được khi không có sự hỗ trợ cả
về tình thần lẫn chuyên môn.
Để có thể thực hiện được công việc của nhóm, kỹ năng xác định và tìm các
nguồn lực để kết nối cho các thành viên trong nhóm là kỹ năng cần thiết. Kỹ năng
này đạt được thông qua việc mở rộng giao tiếp, cập nhật thông tin và mở rộng
mạng lưới của các cá nhân hay tổ chức liên quan.
- Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn/ xung đột:
Hiện tượng xung đột hay mâu thuẫn nhóm là hiện tượng bình thường và
cũng thường xảy ra trong mồi trường có nhiều cá nhân được tập hợp và sinh hoạt
với nhau trong cùng một nhóm. Xung đột nhóm là trạng thái trong đó hành vi xã
hội của nhóm có thể gây ra cho các cá nhân những mâu thuẫn. Vì vậy, việc có được
những kỹ năng giải quyết xung đột và mâu thuẫn nhóm là rất cần thiết cho hoạt
động lãnh đạo và điều phối nhóm.
Xung đột và mâu thuẫn sẽ xuất hiện trong nhóm khi nhóm có sự khác biệt
trong nhu cầu, nhận thức, mục tiêu và ki nghiệm, giá trị. Những khác biệt này
thường là giữa các cá nhân, và các nhóm nhỏ trong nhóm. Ví dụ, xung đột và mâu
thuẫn sẽ xảu ra khi một cá nhân bảo thủ trong nhóm cố gắng áp đặt quan điểm và
hành động của họ với nhóm đẻ đối đầu để có sự thõa mãn. Ngoài xa, xung đột và
mẫu thuẫn trong nhóm còn xảy ra xuất phát từ sự thiếu thông tin giữa các thành
viên trong nhóm hoặc thông tin cơ bản của nhóm. Vì vậy, người lãnh đạo, điều
phối nhóm hay NVXH cần giúp các thành viên trong nhóm có những điều kiện
hiểu biết nhau, về những mục tiêu, quy định và các giá trị cơ bản của nhóm.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
95
Có hai loại xung đột và mâu thuẫn thường xảy ra trong nhóm CTXH đó là:
mâu thuẫn này xảy ra trong khi thực hiện nhiệm vụ và mâu thuẫn liên quan tới tình
cảm. Mâu thuẫn và xung đột sảy ra khi thực hiện nhiệm vụ là nhưng xung đột và
mâu thuẫn về ý tưởng, thông tin, những thực tế được diễn ra trong hoạt động nhiệm
vụ của nhóm. Loại xung đột và mâu thuẫn này có lợi cho việc thúc đẩy nhóm phát
triển. Xung đột và mâu thuẫn liên quan đến tình cảm là do việc đáp ứng các mối
quan hệ tình cảm bên trong của các cá nhân trong hoặc ngoài nhóm đôi lúc khiến
các thành viên chống lại nhau. Loại mâu thuẫn và xung đột này có hại cho sự phát
triển của nhóm.
Khi phải xử lý xung đột và mâu thuẫn bên trong của mỗi cá nhân, NVXH
cần cùng với các thành viên trong nhóm sử dụng một số kỹ thuật để giúp giải quyết
hoặc hòa giải các xung đột và mâu thuẫn: thứ nhất, cố gắng tìm ra gốc rễ của vấn
đề và giải quyết vấn đề; thứ hai là tìm kiếm những điểm tương đồng về lợi ích của
các bên; thứ ba là nhanh chóng điều chỉnh ngôn ngữ, hành vi phù hợp; thứ tư, giải
quyết xung đột và mâu thuẫn trên cơ sở cùng có lợi và vì lợi ích của cả nhóm.
Ta có bước giải quyết xung đột và mâu thuẫn của nhóm như sau:
Bước 1: Nêu ra và xác định nhu cầu của mỗi bên.
Bước 2: Đưa ra các giải pháp giải quyết có tính khả thi.
Bước 3: Phân tích mặt mạnh, mặt yếu của từng giải pháp.
Bước 4: Lựa chọn giải pháp phù hợp với lợi ích của các bên và của cả
nhóm.
Bước 5: Thực hiện giải pháp.
Bước 6: theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện của các giải pháp
Trong CTXH với người nghèo, các xung đột và mâu thuẫn nếu sảy ra thì
thường liên quan đến lợi ích, nhất là khía cạnh phân phối nguồn lực, họ hay cho là
sự thiếu công bằng. Về điều này, NVXH cần làm cho mọi thành viên hiểu rằng sự
phân phối nguồn lực phụ thuộc vào mục tiêu, năng lực của từng thành viên, không
nhất thiết nguồn lực phải được chia đều theo kiểu bình quân, và đảm bảo rằng sẽ
đáp ứng đầy đủ các nguồn lực cần thiết cho nhu cầu có tính thực tế và khả thi đối
với mọi thành viên của nhóm.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
96
3.2. Kỹ năng tạo lập mối liên hệ giữa NVXH với các cá nhân trong nhóm
Đây là một trong những kỹ năng cơ bản trong CTXH nhóm. Kỹ năng này
trước hết thể hiện sự tôn trọng và quan tâm tới bầy không khí thân thiện trong
nhóm của NVXH; các thành viên trong nhóm sẽ cảm thấy yên tâm và được tôn
trọng. Thể hiện kỹ năng này, NVXH có thể biểu hiện bằng ngôn ngữ và phi ngôn
ngữ với cách trao đổi thân thiện nhẹ nahf; biết lắng nghe không chỉ bằng tai mà cả
bằng tâm, cả sự thấu cảm; cử chỉ ánh mắt, điệu bộ, nét mặt... thể hiện sự đồng cảm,
chia sẻ với các thành viên trong nhóm. Làm việc với các thành viên trong nhóm,
NVXH cần biết chấp nhận mọi ý kiến, không nên có thái độ phê phán ngay các ý
kiến trái ngược mà là sự cảm nhận để tìm kiếm một ý kiến chung của cả nhóm
trước một vấn đề còn tranh cãi.
Những điểm cần lưu ý để NVXH thể thiện được kỹ năng này:
- Duy trì giao tiếp bằng mắt trực tiếp và tế nhị.
- Duy trì trạng thái cơ thể thoái mái và cởi mở.
- Biết tên của từng thành viên và có thể biết cách gọi tên thân thiện của mỗi
thành viên.
- Thể hiện tinh tế và nhạy cảm trong giao tiếp.
Trong CTXH với người nghèo, thái độ giao tiếp gần gũi, thân thiện thể hiện
được sự cảm thông, chia sẻ, tránh cách nói cũng như thái độ làm họ tổn thương, sẽ
giúp NVXH tập hợp được các thành viên trong nhóm tích cực tham gia các ý kiến
cũng như những chia sẽ hoàn cảnh, kinh nghiệm cá nhân với nhau và với NVXH.
Đó là điều hết sức cần thiết để tạo bầu không khó nhóm, tăng cường sự hợp tác, cố
gắng của mỗi thành viên trong thực hiện mục đích chung của nhóm.
3.3. Kỹ năng điều phối
Kỹ năng điều phối là tối quan trọng trong CTXH nhóm của NVXH. Trong
CTXH, vai trò của NVXH chủ yếu là ở việc điều phối các hoạt động, dù là hoạt
động trị liệu nhóm cho các cá nhân hay là hoạt động để hoàn thành nhiệm vụ được
giao trong nhóm nhiệm vụ.
Kỹ năng điều phối của NVXH thể hiện ở khả năng sắp sếp, bố trí các công
việc của nhóm; động viên, khuyến khích các thành viên của nhóm phấn khởi, đoàn
kết và tích cực tham gia; làm cho các hoạt động của nhóm diễn ra nhịp nhàng, trôi
chảy, đạt hiệu quả. NVXH cần biết bố trí nhân sự hợp lý cho từng công việc, phù
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
97
hợp với sở trường của tưng người để phát huy điểm mạnh của từng cá nhân trong
nhóm.
NVXH cũng cần có những điều chỉnh linh hoạt việc phân phối công việc nếu
thấy sự phân công trước đó chưa hợp lý lắm. Tính linh hoạt đó cũng là một trong
những yêu cầu của kỹ năng điều phối; bởi nhiều khi việc bố trí nhân sự vào các
công việc bước đầu chưa chắc chắn đã có được sự phù hợp ngay. Việc điều chỉnh
nhân sự một cách linh hoạt là cần thiết để tăng cường năng lực cho các hoạt động
của nhóm.
Trong CTXH với nhóm người nghèo, ngoài việc tìm hiểu tiềm năng của từng
người để có sự phân công công việc trong hoạt động nhóm, NVXH cũng cần hướng
dẫn và giúp đỡ cụ thể theo cách “cầm tay chỉ việc” để họ dần dần “quen” với các
hoạt động mới mang tính tập thể; bởi trên thực tế, người nghèo thường có cuộc
sống khép kín, ngại giao tiếp cho nên bước đầu tham gia các hoạt động tập thể họ
chưa quen và có thể rất ngại tham gia. Điều này cũng cho thấy, NVXH cần kết hợp
kỹ năng điều phối chặt chẽ với kỹ năng tạo lập và duy trì tốt mối liên hệ với từng
thành viên trong nhóm để thường xuyên họ được gần gũi và nhận được các chỉ dẫn
cần thiết từ NVXH.
Một số lưu ý trong CTXH với nhóm người nghèo:
- Cần khuyến khích các thành viên trong nhóm tạo ra nhiều các tương tác,
nhất là đối với những thành viên còn e ngại thì ngoài sự quan tâm, động viên họ
tham gia các hoạt động cùng nhóm, NVXH còn biết khuyến khích các thành viên
mạnh dạn hơn giao lưu với họ, lôi kéo họ vào hoạt động nhóm.
- NVXH quan sát thật tỷ mỉ các hoạt động với mức độ tham gia của các
thành viên để có sự điều chỉnh bầu không khí nhóm hoạt động một cách hài hòa,
không để tình trạng có sự lấn lướt của một số thành viên, dù họ có ở vị trí là trưởng
nhóm, bởi sự lấn lướt dễ khơi dậy tâm lý tự ti của các thành viên còn lại.
- Sau khi kết thúc chu kỳ một hoạt động của nhóm, NVXH và các thành viên
trong nhóm ngồi lại để nhìn nhận các thay đổi và những hạn chế của nhóm, của mỗi
thành viên. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, việc lượng giá sự thay đổi, nhất là lượng giá
từng thành viên trong nhóm thường mang tính “ nhạy cảm” nên cần nhẹ nhàng,
thoái mái, xây dựng; tốt nhất là khuyến khích từng thành viên nói ra sự thay đổi và
hạn chế của chính mình; đó cũng là một cách mỗi thành viên nhóm trưởng thành
hơn và họ dễ chấp nhận hơn.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
98
3.4. Kỹ năng làm việc với cộng đồng nghèo
3.4.1. Kỹ năng tuyên truyền vận động
Tuyên truyền vận động là một trong những hoạt động rất quan trọng để nâng
cao nhận thức của các cộng đồng nói chung và các cộng đồng nghèo nói riêng. Có
nhiều hình thức tuyên truyền vận động trong công tác xã hội với cộng đồng, như :
phát thanh, truyền hình, hội thảo, tờ rơi, panô áp phích, sinh hoạt văn hóa, văn
nghệ...
Tuy nhiên, để hoạt động tuyên truyền vận động đúng mục đich, đạt hiệu quả
đối với cộng đồng nghèo, trình độ dân trí không đồng đều, mà chủ yếu còn thấp thì
hoạt động này chúng ta phải nghiên cứu như cầu hiểu biết của người dân và chuẩn
bị thật kỹ càng.
Trước hết, người đi tổ chức tuyên truyền vận động (NVXH) cần phải:
- Tìm hiểu nhu cầu cần hiểu biết nội dung gì từ người nghèo (chẳng hạn họ
rất cần hiểu biết về các quy định của Nhà nước liên quan tới DVXH cơ bản như:
vay vốn, tín dụng, trợ giúp pháp lý, các giống cây trồng, vật nuôi cho hiệu quả kinh
tế cao...)
- Tìm người có chuyên môn tốt và đặt các bài viết hay kịch bản với nội dung
được xác định là nhu cầu cần hiểu biết của người nghèo (như các nhà làm luật -
chính sách xã hội, ngân hàng, các nhà nghiên cứu về giống cây trồng, vật nuôi...).
- Tìm và phối hợp với các cá nhân, tổ chức, cơ quan có khả năng và chức
năng tuyên truyền để chuyên tải các nội dung cần thiết (như cá nhân có khả năng kẻ
vẽ tốt, các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình...).
- Sắp xếp lịch tuyên truyền vận động cho các nội dung cụ thể và thông báo
để người nghèo biết theo dõi.
- Tìm người nghèo trong cộng đồng có thể hỗ trợ một số công việc cần thiết
trong tuyên truyền vận động (như người phụ trách văn hóa - thông tin, văn hóa - xã
hội ở địa phương).
Khi NVXH đã chuẩn bị xong các công việc nêu trên thì hoạt động tuyên
truyền vận động sẽ được bắt đầu. Có những nội dung chúng ta đặt bài, có thề nhờ
luôn tác giả trình bày; trong nhiều trườn hợp thì phải nhờ tới cơ quan thông tin, báo
chí truyền tải; cũng có những nội dung NVXH chuẩn bị và trực tiếp diễn đạt thông
qua các phương tiện truyền thông đại chúng ( như hệ thống loa truyền thanh của
các xã hoặc hệ thống truyền thanh, truyền hình của huyện...).
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
99
NVXH cần lưu ý, trong điều kiện hiện nay việc truyền thông đa phương tiện
rất phổ biến, nhưng phải lựa chọn phương tiện nào mang lại hiệu quả truyền thông
cao nhất và phù hợp với điều kiện, phương tiện sẵn có ở địa phương. Chẳng hạn,
nếu có điều kiện truyền hình khi mà người dân có điện sử dụng và ti vi thì thật là
tốt cho truyền tải thông điệp tới người xem, vì các nội dung cần cung cấp cho
người dân vừa có lời diễn giải vừa có hình thì họ sẽ dễ hiểu và khắc sâu nội dung
hơn, và nó cũng phù hợp với những cộng đồng có dân trí thấp. Như vậy, NVXH
phải đặt bài trên cơ sở xây dựng những video clip thật sinh động chứa các nội dung
cần truyền tải.
Bên cạnh đó, NVXH cũng cần xem xét đến yếu tố văn hóa và tiếng nói trong
tuyên truyền vận động. Điều đó có nghĩa là văn hóa tuyên truyền cũng như tiếng
nói phải phù hợp với văn hóa và tiếng nói của người dân địa phương, như thế hiệu
quả tuyên truyền mới đạt được. Trên thực tế, những cộng đông nghèo lại tập trung
ở các vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo , vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
mà những nơi này điều kiện và phương tiện vật chất còn rất khó khăn, nhiều nơi
người dân không nói và nghe được tiếng phổ thông. Điều này đặt ra một vấn đề là
NVXH cần sử dụng người địa phương có sự hiểu biết, thông qua các bài viết được
đặt để họ chuyền tải lại nội dung cần thiết tới người dân.
Hoạt động tuyên truyền vận động thông qua hình thức phát tờ rơi, hay pano
áp phích, sau khi đặt và đã có sản phẩm, NVXH phải nhờ người của địa phương
phân phát tờ rơi và dựng cac pano áp phích; cần chú ý tới yếu tố ngôn ngữ địa
phương trên các tờ rơi cũng như trên các panô áp phích. Những hình ảnh sinh động
trên tờ rơi hay pano áp phích cũng có thể tạo ra những thay đổi đáng kể trong nhận
thức của người dân.
Tuyên truyền vận động thông qua hình thức hội thảo đảm bảo có tài liệu mà
ngôn ngữ người dân có thể đọc và hiểu được, nếu có các hình ảnh sinh động đi liền
với nội dung thì hiệu quả của tài liệu được phát huy. Cần thiết nữa là NVXH phải
xác định đúng đối tượng tham dự hội thảo với những nội dung tương ứng, hay cũng
phải tính đến cả độ tuổi và yếu tố giới...Các tài liệu không chỉ được soạn để phát
tay cho đại biểu tham dự hội thảo mà còn soạn để trình bằng máy (nếu có kèm theo
hình ảnh tương tứng càng tốt) thì hiệu quả hội thảo sẽ tốt hơn. Ở những nơi có các
mô hình tương ứng với nội dung hội thảo, chúng ta có thể tổ chức theo hình thức
như “hội thảo đầu bờ” cũng mang lại hiểu quả rất tốt trong hoạt động truyền thông.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
100
Hình thức tuyên truyền vận động thông qua các hoạt động văn hóa , văn
nghệ thì NVXH phải đặt kịch bản tương ứng với nội dung cần tuyên truyền và phải
nhờ địa phương cắt cử “diễn viên” và NVXH kết hợp với cán bộ văn hóa - thông
tin (xã hoặc huyện) hướng dẫn họ tập luyện và biểu diễn. Hình thức này thường
hiệu quả khá tốt, nhưng tốt kém cả thời gian, tiền bạc và nhân lực.
NVXH nên lưu ý đặt mối quan hệ mật thiết với các cơ quan chức năng, chính
quyền, và các ban, ngành địa phương liên qua tới hoạt động tuyên truyền của mình
để nhận được sự cộng tác, giúp đỡ cao nhất. Trong quá trình nghiên cứu cộng đồng,
NVXH cũng có thể kết hợp với việc tuyên truyền một nội dung nào đó tới người
dân, như thế sẽ dễ tạo niềm tin và sự hợp tác nơi họ cho các công việc tiếp theo của
mình.
3.4.2. Kỹ năng tập huấn
Huấn luyện là một trong những vai trò quan trọng của NVXH. Đây cũng là
một hoạt động truyền đạt hay trao đổi trực tiếp những ý kiến thức và kỹ năng cần
thiết cho người dân. Hoạt động này được quan tâm nhiều trong quá trình NVXH
làm việc với cộng đồng vì nó mang lại nhiều hiệu quả cao, nhanh chóng làm thay
đổi kiến thức và kỹ năng cho người dân trước một vấn đề cụ thể của cộng đồng. Sở
dĩ huấn luyện đạt hiệu quả cao là do sự truyền đạt kiến thức và kỹ năng trực tiếp
này có sự phản hồi qua lại giữa 2 đối tượng “phát” và “nhận” tin; ngoài ra còn diễn
ra các cuộc thảo luận, chia sẻ các trải nghiệm thực tế giữa những người được huấn
luyện trong bầu không khí cởi mở, thoái mái nên các vấn đề càng được sáng tỏ hơn
- phương pháp huấn luyện chủ động, lấy người học là trung tâm, mọi người cùng
tham gia.
Huấn luyện nâng cao năng lực cho người dân cũng cần đảm bảo tính linh
hoạt, có thể là sự truyền đạt một kiến thức mới cho người nghe, có thể là trao đổi,
thảo luận một vấn đề liên quan tới cộng đồng của những người học để họ có cơ hội
chia sẻ trải nghiệm, cũng có thể là sự kết hợp vừa truyền đạt, vừa trao đổi, vừa thảo
luận các vấn đề liên quan tới cộng đồng. Huấn luyện nâng cao năng lực cho cộng
đồng cũng cần đảm bảo nguyên tắc nội dung nào thì đối tượng đó. Điều này nói
nên rằng các nhà huấn luyện viên - NVXH - cần phân loại các đối tượng được huấn
luyện phù hợp với nội dung cần truyền tải, có như vậy việc huấn luyện mới mang
lại hiệu quả thiết thực cho các nhóm đói tượng khác nhau. Ví dụ, tập huấn các nội
dung liên quan tới việc sinh đẻ có kế hoạch đối với gia đình nghèo là rất cần thiết -
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
101
vì đông con cũng là một trong những nguyên nhân của nghèo đói - chỉ các đối
tượng trọng độ tuổi sinh đẻ tham gia chứ không thể là tất cả mọi người.
3.4.3. Kỹ năng biện hộ
Biện hộ là một hoạt động chuyên môn của NVXH đối với cộng đồng khi họ
thực hiên các hoạt động phát triển. Trong CTXH với cộng đồng, nhất là với những
cộng đồng yếu thế ( cộng đồng nghèo, cộng đồng sống ở các cùng khó khăn, xa
xôi, hẻo lánh, cộng đồng các dân tộc thiểu số...), biện hộ là hoạt động cần thiết của
NVXH để đảm bảo rằng các cộng đồng đó có thể tiếp cận và kiểm soát được các
quyền và lợi ích hợp pháp mà pháp luật quy định.
Trên thực tế, các cộng đồng yếu thế thường bị “bỏ quên” bởi trong cộng
đồng đó thường không có người đủ hiểu biết về chủ trương, chính sách, luật pháp
quy định về quyên và lợi ích hợp pháp của họ, cũng như họ không hiểu các thủ tục
pháp lý cần thiết để yêu cầu đáp ứng các lợi ích hợp pháp bắt đầu từ đâu và phải
làm việc đó với những cơ quan, tổ chức nào. Bên cạnh đó, xét về mặt tâm lý xã hội
nói chung, tiếng nói của các cộng đồng yếu thế ít được các cơ quan, tổ chức quan
tâm. Do đó hoạt động biện hộ của NVXH trong CTXH với cộng đồng hết sức cần
thiết, nhằm giúp cộng đồng tìm kiếm các nguồn lực, tạo ra sự thay đổi.
Để làm tốt vai trò là người biện hộ cho cộng đồng, NVXH cần thực hiện một
số công việc như sau:
+ Tìm hiểu nhu cầu hợp pháp của cộng đồng.
+ Tìm hiểu các nguồn lực hiện có và tiềm năng của cộng đồng.
+ Nắm vững các quy định về chủ trương, chính sách, các chương trình, dự
án...liên quan tới nhu cầu lợi ích hợp pháp cho người dân và cộng đồng.
+ Hướng dẫn người dân và cộng đồng hiểu biết các thủ tục pháp lý cần thiết
và các bước đi cụ thế để họ có thể tiếp cận và kiểm soát được các nguồn và lợi ích
hợp pháp.
+ Giới thiệu cho người dân và cộng đồng biết các cơ quan, tổ chức liên quan
tới việc đáp ứng các nhu cầu hợp pháp của họ.
+ Cần có sự bố trí lịch làm việc cụ thể với các cơ quan chức năng có liên
quan.
+ Các hoạt động biện hộ của NVXH đối với cộng đồng có thể được thực
hiện theo các hình thức sau:
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
102
Thứ nhất, sau nghi nghiên cứu kỹ lưỡng về cộng đồng và đảm bảo các công
việc cần thiết nêu trên, NVXH với tư các như một nhà tư vấn giúp cộng đồng hoàn
thiện các thủ tục pháp lý cần thiết và cộng đồng trực tiếp làm việc với các cơ quan
chức năng để đạt việc đáp ứng các nhu cầu hợp pháp để các cơ quan này nghiên
cứu giải quyết.
Hoạt động biện hộ thực hiện theo cách này có tác dụng rất tốt tới sự trưởng
thành của cộng đồng. Trên thực tế cộng đồng được nâng cao năng lực hiểu biết về
quy định pháp luật và được hướng dẫn các thủ tục cần thiết, rồi để tự họ trực tiếp
gặp các cơ quan chức năng để đề đạt nguyện vọng, điều này đã làm cho họ mạnh
dạn hơn, hiểu biết nội dung và cách thức làm viêc hơn rất nhiều.
Thứ hai, NVXH trực tiếp biện hộ giúp người dân và cộng đồng bằng các trực
tiếp gặp và làm việc với các cơ quan chức năng để đề đạt việc đáp ứng nhu cầu hợp
pháp cho cộng đồng sau khi đã nghiên cứ kỹ lưỡng về cộng đồng và đảm bảo các
công việc nêu trên.
Với hình thức này thì nhu cầu hợp pháp của người dân và cộng đồng có thể
đáp ứng nhanh hơn, nhưng sự trưởng thành của cộng đồng lại rất hạn chế, bởi họ
không trực tiếp làm nên các hiểu biết về nội dung, cách thức tiến hành, các thủ tục
cần thiết..., họ không có điều kiện để hiểu được nhiều.
Thứ ba, thông qua những người quen biết, có trách nhiệm ở các cơ quan
chức năng, các tổ chức xã hội, NVXH nhờ họ quan tâm tới nhu cầu hợp pháp của
người dân và cộng đồng say khi đã nghiên cứu kỹ lưỡng những nhu cầu hợp pháp
của người dân và cộng đông đó.
Như hình thức thứ hai, hình thức biện hộ theo cách thứ ba này có thể đáp
ứng nhu cầu hợp pháp cho người dân và cộng đồng, nhưng cũng không làm thay
đổi được nhiều về nhận thức, thái độ, hành vi của người dân và cộng đồng.
Có thể tham khảo quy trình biện hộ chi tiết sau đây:
- Chuẩn bị biện hộ: NVXH tham gia biện hộ cần chuẩn bị các nội dung sau:
+ Biện hộ cho ai, vấn đề gì cần biện hộ, xác định được chắc chắn nhu cầu
biện hộ, NVXH nên trao đổi bàn bạc với một số đồng nghiệp, những người có
chuyên môn dựa vào các thông tin quan trọng liên quan đến người nghèo, hộ
nghèo. Trong một số trường hợp cần báo cáo với người lãnh đạo;
+ NVXH phải nắm bắt được các văn bản pháp lý liên quan đến người
nghèo, hộ nghèo;
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
103
+ Mục tiêu của quá trình biện hộ là gì;
+ Quyền lực nằm ở đâu? có nghĩa là phải tìm hiểu xem ai sẽ là người có sức
mạnh làm thay đổi vấn đề;
+ Cách thức tiếp cận thực hiện biện hộ như thế nào để quá trình biện hộ
đảm bảo thành công;
+ Nghiên cứu, thu thập thông tin, nhu cầu người nghèo, hộ nghèo và cơ sở
cung cấp dịch vụ;
+ Xác định cách thức tiếp cận cơ sở cung cấp dịch vụ: nghiên cứu và tìm
cách tiếp cận phù hợp với cơ sở cung cấp dịch vụ;
+ Thực hiện các công việc chuẩn bị hành chính khác như hẹn gặp, chuẩn bị
tài liệu, liên hệ địa điểm, mời họp).
- Thực hiện biện hộ: trong giai đoạn này, người biện hộ đến gặp người
nghèo, gia đình nghèo, tổ nhóm tương trợ để thu thập thông tin. Đồng thời đi gặp
các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm để chuyển tải ý kiến, nguyện vọng, nhu cầu của
họ đến với nơi có thể giải quyết được.
- Theo dõi và lượng giá biện hộ: sau khi vấn đề đã được nêu, các nhu cầu,
nguyện vọng của người nghèo, gia đình nghèo được chuyển đến những nơi cần
đến, công việc của người biện hộ chưa dừng lại mà phải tiếp tục nắm rõ những
nhu cầu, các quyền của người nghèo, gia đình nghèo đã được đáp ứng chưa. Vấn
đề này có kế hoạch theo dõi và lượng giá. Người biện hộ luôn thường xuyên liên hệ
với những nơi đã đề đạt yêu cầu để biết thêm thông tin và thông báo cho người
nghèo, gia đình nghèo về việc thực hiện những nhu cầu chính đáng của họ.
3.4.4. Kỹ năng tìm kiếm và khai thác nguồn lực
CTXH với cộng đồng là một quá trình mà NVXH nghiên cứu, tác động vào
cộng đồng để giúp cho cộng đồng và chính quyền địa phương có những hoạt động
tích cực làm thay đổi bộ mặt của cộng đồng theo chiều hướng tốt hơn lên.
Hoạt động nghiên cứu và tác động của NVXH tới cộng đồng là việc NVXH
làm việc với người dân, cộng đồng và chính quyền địa phương, nói rõ mục đích và
nôi dung hoạt động của minh để tìm kiếm sự hợp tác của cộng đồng và các cấp
chính quyền nhằm làm cho cộng đồng đó có sự thay đổi tích cực thông qua các
hoạt động phát triển.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
104
Các hoạt động mà NVXH làm tại cộng đồng là lôi kéo người dân cùng tham
gia nghiên cứu, xác định các nhu cầu và nguồn lực của cộng đồng, sử dụng các
nguồn lực đó và các nguồn lực bên ngoài có thể có để tổ chức các hoạt động cần
thiết của người dân, nhằm tới mục đích đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân.
Đối với một cộng đồng, dù nghèo đến đâu cũng có những nguồn lực nhất
đinh. Đó có thể là nguồn lực về lao động, trí tuệ của người dân; có thể là tinh thần
đoàn kết, hợp tác; có thể là nghề nghiệp truyền thống bị mai một, chưa được phát
huy; có thể là nguồn tai nguyên thuộc về điều kiện tự nhiên chưa được khai thác, sử
dụng hết... NVXH và người dân cùng nhau nghiên cứu đánh giá cộng đồng - cả về
nguồn lực và nhu cầu - để tổ chức, sắp xếp các hoạt động cần thiết nhằm sử dụng
tối đa các nguồn lực sẵn có, hướng tới hiện thực hóa các nhu cầu được xác định.
Trên thực tế, dù các cộng đồng nghèo đều có nguồn lực - cả nguồn lực đang
được sử dụng, cả nguồn lực còn ở dạng tiềm năng có thể khai thác - nhưng việc cần
có sự hỗ trợ nguồn lực từ bên ngoài để thúc đẩy sự tăng trưởng là cần thiết. NVXH
với vai trò là người biện hộ, là người kết nối giữa các cộng đồng với các cơ quan
chức năng, các tổ chức cung cấp DVXH để tìm kiếm thêm nguồn lực cho cộng
đồng, giúp cho cộng đồng có thêm nguồn lực vật chất và tiền bạc để tổ chức các
hoạt động cần thiết, làm thay đổi bộ mặt và đáp ứng nhu cầu chính đáng của cộng
đồng.
Các cơ quan chức năng trong bộ máy quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị
- xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ ...là những cơ
quan, tổ chức giữ vai trò quản lý các chính sách, chương trình, dự án. Đó là những
nơi có thế cung cập thêm nguồn lực cho các cộng đồng trong các hoạt động phát
triển. NVXH cần khai thác và nối kết các nguồn lưc này tới các cộng đồng dân cư,
nhất là những cộng đồng nghèo để những cộng đồng này có thêm nguồn lực trong
việc triển khai các hoạt động nhằm hiện thực hóa các nhu cầu cần thiết.
Trong điều kiện hiện nay, có nhiều tổ chức xã hội dân sự ra đời, lập ra các
quý xã hội; các cá nhân kinh doanh giàu có, trở thành các “mạnh thường quân” đi
đầu trong việc đầu tư các dự án nhân đạo. Đây cũng được xem là những địa chỉ để
giúp đỡ, cung cấp nguồn lực cho các cộng đồng nghèo phát triển. Trong hoạt động
chuyên môn của mình, NVXH cần cập nhật thông tin và mở rộng mối quan hệ với
các loại hình tổ chức xã hội này để kết nối họ với các cộng đồng nghèo.
Như vậy để tìm kiếm và khai thác nguồn lực tối đa trong CTXH với cộng
đồng, NVXH càn làm tốt các nội dung sau:
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
105
+ Nghiên cứu kỹ lưỡng, đánh giá đúng thực trạng, tiềm năng và nhu cầu của
cộng đồng.
+ Có danh sách các cơ quan, tổ chức quản lý các chính sách, chương trình,
dự án phát triển.
+ Kết hợp tốt vai trò vừa là người biện hộ vừa là người kết nối nguồn lực
giữa các cơ quan, tổ chức với cộng đồng.
Một số lưu ý trong CTXH với cộng đồng nghèo
+ Tham vấn cộng đồng là một hoạt dộng chuyên môn mang tính kỹ thuật đòi
hỏi NVXH phải sử dụng trong CTXH với cộng đồng. Có thể tham vấn nhằm nâng
cao nhận thức về một chủ đề, một lĩnh vực nào đó cho cộng đồng hay là để tìm hiểu
tâm tư, nguyện vọng, các nguồn lực, các mối quan hệ, các vấn đề của cộng
đồng...của NVXH. Vì vậy hoạt động tham vấn cộng đồng giúp cho người dân và
NVXH ngày cang “gần nhau hơn” trước một vấn đề của cộng đồng cũng như mối
quan tâm của NVXH trước vấn đề đó; trên cơ sở đó người dân và NVXH có được
nhận thức và hành động đồng nhất trong giải quyết một vấn đề cụ thể.
+ CTXH là một lĩnh vực hoạt động chuyên môn khá phức tạp. CTXH với
cộng đồng nghèo có những phức tạp riêng, vì vậy NVXH khi làm việc với họ cần
lưu ý một số vấn đề sau:
- Cần hiểu rõ đặc điểm tâm lý của người nghèo và cộng đồng nghèo.
- Cần có thái độ cảm thông, chia sẻ, gần gũi với người nghèo.
- Khiêm tốn học hỏi nếp văn hóa, tôn trọng phong tục tập quán và kinh
nghiệm của người nghèo.
- Thực hiện “ba cùng” với người nghèo, quán triệt quan điểm làm việc với
người nghèo chứ không phải làm việc cho người nghèo.
- Khuyến khích người nghèo trao đổi suy nghĩ và lắng nghe hết các ý kiến
của họ.
- Khuyến khích người nghèo học hỏi nâng cao năng lực.
- Ý kiến của NVXH là tư vấn, các quyết định thuộc về người nghèo.
- Làm việc với người nghèo cũng cần có lịch trình cụ thể và phải ghi chép
những điều cần thiết.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
106
Trong điều kiện hiện nay, chính phủ đã và đang triển khai một số Chương
trinh và Dự án tại các cơ sở nên NVXH cần quan tâm đặc biệt tới các hoạt động
chuyên môn của mình như sau đây:
- Tuyên truyền, vận động cộng đồng trên mặt trận giảm nghèo nói riêng và
giải quyết các vấn đề xã hội nói chung tịa địa phương.
- Tổ chức các hoạt động giáo dục nâng cao nhận thức cho cộng đồng tại địa
phương thông qua Trung tâm giáo dục cộng đồng.
- Tổ chức triển khai thực hiện các dự án phát triển cộng đồng trên nền tảng lý
thuyết và thực hành tổ chức cộng đồng tại địa phương.
Tóm lại, với vai trò là người tạo ra sự thay đổi của cộng đồng, NVXH trước
hết phải làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của mỗi người dân, của các cấp
chính quyền; để từ đó,với sự nỗ lực của chính quyền cùng sự cố gắng và hợp tác
của người dân trong các hoạt động phát triển, làm cho cộng đồng có những thay đổi
tích cực, từng bước đáp ứng các nhu cầu mà cộng đồng đã xác định. Đối với các
cộng đồng nghèo, nguồn lực để sử dụng cho mục tiêu phát triển còn rất hạn chế,
bởi vậy NVXH phải biết khơi dậy tối đa nguồn lực bên trong và nối kết nguồn lực
bên ngoài với cộng đồng.
Để làm tốt vai trò là tác viên cộng đồng, NVXH cần:
- Giúp người dân, cộng đồng đánh giá đúng thực trạng của mình.
- Giúp người dân, cộng đồng đánh giá các nhu cầu và tiềm năng.
- Nâng cao năng lực của người dân, cộng đồng.
- Tư vấn cho cộng đồng các kế hoạch phát triển để cộng đồng lựa chọn.
- Tư vấn việc thành lập các tổ chức, các nhóm hành động.
- Giúp nối kết cộng đồng với các nguồn lực bên ngoài.
- Giúp cộng đồng tổ chức thực hiện tốt kết hoạch lựa chọn.
CÂU HỎI ÔN TẬP BÀI 3
1. Phân tích tiến trình công tác xã hội với người nghèo?
2. Hãy trình bày một hoạt động chuyên môn để giúp đỡ một người nghèo tại
công đồng? Cần có những kỹ năng gì trong hoạt động đó?
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
107
3. Nếu giao cho anh (Chị) một gia đình nghèo ở cộng đồng? Anh chị sẽ thiết kế
các hoạt động nào theo tiến trình công tác xã hội để giúp họ?
4. Hãy nêu sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tế trong công tác xã hội với
người nghèo? Cho ví dụ minh họa sự khác biệt đó?
5. Nếu ở địa phương có các dự án phát triển cộng đồng, nhân viên xã hội phải
làm những công việc gì để kết nối được với chính quyền địa phương nhằm tổ
chức tốt dự án đó theo phương pháp của công tác xã hội?
6. Vai trò của chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở cộng đồng nghèo có ảnh
hưởng như thế nào đến tiến trình công tác xã hội với người nghèo, hộ nghèo?
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
108
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
109
BÀI 4: HỆ THỐNG DỊCH VỤ HỖ TRỢ NGƯỜI NGHÈO
1.Khái niệm
1.1.Dịch vụ xã hội là gì?
1.1.1. Khái niệm dịch vụ
Trong cuộc thường ngày của chúng hiện nay đang tồn tại rất nhiều hoạt động
trao đổi được gọi chung là dịch vụ và ngược lại dịch vụ bao gồm rất nhiều các loại
hình hoạt động và nghiệp vụ trao đổi trong các lĩnh vực và ở cấp độ khác nhau. Đã
có nhiều nghiên cứu, hội thảo và nhiều nguồn tài liệu, diễn đàn đưa ra các khái
niệm, định nghĩa về dịch vụ nhưng trong khuôn khổ tài liệu này chúng tôi liệt kê và
giới thiệu một số khái niệm cơ bản được nhiều người quan tâm.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những
nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công. (Từ điển Tiếng Việt,
2004, NXB Đà Nẵng, tr256)
Philip Kotler định nghĩa dịch vụ: Dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích cung
ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở
hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật
chất.
Tóm lại, có thể có rất nhiều khái niệm về dịch vụ được đưa ra dưới những
cách tiếp cận khoa học khác nhau, nhưng tựu chung lại thì dịch vụ có thể được khái
quát như sau:
Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con
người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể như hàng hoá
nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của xã hội.
Như vậy, khái niệm dịch vụ bao gồm các nội dung cơ bản: Nó là hoạt động
và hoạt này phải có chủ đích; những hoạt động này nhằm hướng đến đáp ứng các
nhu cầu của con người (có thể là nhu cầu thiết yếu: nhu cầu vật chất, nhu cầu an
toàn hay cũng có thể là các nhu cầu thứ yếu cao hơn của con người như: nhu cầuxã
hội, nhu cầuđược tôn trọng, nhu cầu được hoàn thiện, khẳng định bản thân,)
nhằm giúp cho con người cải thiện được đời sống của bản thân họ và gia đình, các
DVXH cũng nhằm hướng tới các mục tiêu về nâng cao chất lượng cuộc sống, cải
thiện đời sống của toàn dân tiến tới phát triển một cách bền vững cho toàn xã hội.
1.1.2. Khái niệm DVXH
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
110
Nếu như dịch vụ là một khái niệm đơn lẻ thì DVXH lại là một khái niệm
kép. Thuật ngữ “xã hội” trong khái niệm này có thể được hiểu theo hai nghĩa:
- Thứ nhất là tính mục tiêu, nghĩa là dịch vụ hướng tới phát triển xã hội
(theo nghĩa này thì bất kỳ dịch vụ nào đóng góp vào mục tiêu phát triển xã hội đều
được coi là DVXH).
- Thứ hai là về chuẩn mực hay tính xã hội, nghĩa là dịch vụ để bảo đảm các
giá trị, chuẩn mực xã hội. Nếu như theo nghĩa này thì DVXH cung cấp những hỗ
trợ cho các thành viên trong xã hội được (i) chủ động phòng ngừa khả năng xảy ra
rủi ro để dẫn đến không bảo đảm giá trị và chuẩn mực xã hội; (ii) chủ động tiếp cận
hạn chế ảnh hưởng của rủi ro dẫn đến không bảo đảm giá trị và chuẩn mực xã hội;
(iii) khắc phục rủi ro và hòa nhập cộng đồng/xã hội trên cơ sở các giá trị, chuẩn
mực xã hội.
Trong khuôn khổ giáo trình này chung tôi đưa ra quan niệm về DVXH được
hiểu theo nghĩa là thứ hai tức là các dịch vụ để bảo đảm các giá trị, chuẩn mực có
tính xã hội. Từ cách tiếp cận này thì khái niệm DVXH được khái quát như sau:
DVXH là hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân, nhóm
người nhất định nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội. Quan niệm này
cũng tương đồng với khái niệm về DVXH trong tài liệu “Good practices in social
services delivery in SEE” theo đó: DVXH là các sáng kiến, can thiệp nhằm vào các
nhu cầu và vấn đề của hầu hết nhóm đối tượng dễ tổn thương, bao gồm cả việc
ngăn chặn bạo lực, nghèo đói, tan vỡ gia đình, tàn tật (tinh thần và thể chất) và tuổi
già.
Những ví dụ cụ thể về DVXH là: phục hồi chức năng, nhà dịch vụ trợ giúp,
nhà chăm sóc và nuôi dưỡng, dịch vụ thức ăn, chăm sóc ban ngày, và các hình
thức khác được thực hiện bởi những người làm CTXH hoặc các chuyên gia về tâm
lý trị liệu, chuyên gia khác có liên quan.
Theo Dự thảo Chiến lược An sinh xã hội từ 2011 đến 2020 Việt nam thì
DVXH cơ bản hay còn gọi là DVXH là hệ thống cung cấp dịch vụ cho 9 nhóm nhu
cầu của người dân và cộng đồng, gồm:
1) Nhà ở
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
111
2) Nước sạch và vệ sinh môi trường
3) Điện sinh hoạt
4) Trường học
5) Trạm y tế
6) Chợ
7) Bưu điện và nhà văn hóa
8) Giao thông
9) Tư vấn và trợ giúp pháp lý
10) Tiếp cận hệ thống bảo hiểm xã hội: quan trọng nhất là chế độ hưu trí
cũng là một nhu cầu thiết yếu của người dân để đảm bao nhu cầu cho họ khi về già.
Việc thống nhất một khái niệm về DVXH cho người yếu thế là rất cần thiết
và đó cũng là cơ sở để thiết kế hệ thống DVXH cho các nhóm đối tượng này. Dựa
vào những lý giải về dịch vụ, chính sách xã hội, DVXH, DVXH cơ bản nêu trên,
khái niệm DVXH cho người yếu thế được hiểu là:
Với nhóm yếu thế, DVXH là các hoạt động có chủ đích của con người nhằm
phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cơ bản và
thúc đẩy khả năng hòa nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm yếu thế.
Dịch vụ CTXH được hiểu là các dịch vụ cụ thể hóa các luật pháp, các chính
sách của Nhà nước về các lĩnh vực phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, pháp lý, nhằm
hỗ trợ cá nhân, nhóm, cộng đồng, trong đó có người nghèo, có nhu cầu giải quyết
các vấn đề khó khăn và mang tính chuyên nghiệp của CTXH.
Từ những khái niệm, quan điểm về CTXH và DVXH, ta có thể hiểu khái
niệm về DVXH một cách tổng quát như sau: Dịch vụ CTXH là hoạt động chuyên
nghiệp CTXH cung cấp các hoạt động hỗ trợ về tinh thần hay vật chất cho những
đối tượng gặp hoàn cảnh khó khăn như người nghèo, người khuyết tật, trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người già, người là nạn nhân, hoặc những người
có nhu cầu hỗ trợ về mặt tâm lý xã hội, trợ giúp nhằm giảm thiểu những rào cản,
những bất công và bất bình đẳng trong xã hội.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
112
1.2. Chức năng của DVXH và các DVXH phổ biến
1.2.1. Chức năng của DVXH
DVXH cung cấp và hỗ trợ cho người dân nói chung và các nhóm người
nghèo nói riêng thông qua các dịch vụ đặc thù giúp người dân trong xã hội có thể
xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn bằng sự độc lập, tự chủ về kinh tế, sự khẳng định
quyền con người được hòa nhập và tham gia vào thị trường lao động cũng như các
hoạt động cộng đồng, xã hội.
Các DVXH đặc thù như: dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục, nguồn vốn, thông
tin, dịch vụ pháp lý, hỗ trợ đất sản xuất và nhà ở, hỗ trợ về việc làm đóng một
vai trò quan trọng trong giảm thiểu sự cách biệt bằng cách tạo ra cơ hội cho người
dân phát huy năng lực và nâng cao đời sống, và bằng cách đảm bảo phát triển cân
bằng hơn cho các nhóm kinh tế xã hội. Các chính sách hiện tại cũng ủng hộ tiếp
cận phổ cập và công bằng các DVXH. Các ví dụ bao gồm: Luật bảo hiểm y tế năm
2009, dự thảo Chiến lược an sinh xã hội và Nghị quyết 80 về giảm nghèo bền
vững,
1.2.2. Các DVXH phổ biến
- Các DVXH tạo điều kiện cho những người thuộc nhóm thu nhập thấp,
người nghèo có việc làm và tham gia vào các hoạt động sản xuất tạo thu nhập có
thể đáp ứng được nhu cầu tối thiểu và duy trì được sự độc lập về tài chính của gia
đình.
- Các DVXH giúp cho các đối tượng yếu thế vươn lên giải quyết những
vấn đề của bản thân và hòa nhập với gia đình, cộng đồng và xã hội;
- Thúc đẩy và tăng cường mối quan hệ gắn kết giữa cá nhân, gia đình và
cộng đồng xã hội; các DVXH đảm bảo tính trách nhiệm của xã hội trong việc giải
quyết những vấn đề của những đối tượng yếu thế trong xã hội.
- Trẻ em thuộc những gia đình không có khả năng chăm sóc có thể nhận
được sự giúp đỡ từ cộng đồng, xã hội;
- Cung cấp các dịch vụ về nhà ở với tiêu chuẩn đáp ứng được điều kiện tối
thiểu về chất lượng cuộc sống;
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
113
- Giúp người tàn tật có khả năng sống độc lập hơn và tham gia một cách
tích cực trong các hoạt động kinh tế cũng như hoạt động cộng đồng;
- Thúc đẩy việc chăm sóc sức khoẻ và gắn kết các chủ thể với các nguồn
lực, có thể là những nguồn lực từ bên ngoài cộng đồng, bên trong cộng đồng hoặc
chính từ bản thân của người nghèo;
- Tạo ra các dịch vụ tham vấn và trị liệu tâm lý cho các đối tượng gặp phải
những khó khăn trong cuộc sống;
- Giúp các đối tượng tiếp cận với các kênh thông tin và và tạo cơ hội lựa
chọn tốt hơn;
- Giúp các đối tượng tiếp cận dễ dàng hơn với các hoạt động hoà giải, biện
hộ các vấn đề xã hội.
2. Hệ thống DVXH đối với người nghèo
Mức độ tiếp cận với các DVXH cơ bản của người nghèo hiện nay nhìn
chung là rất hạn chế; một phần có thể do cơ chế không phù hợp,hoặc các thủ tục
nhiêu khê gây ra phiền phức đối với họ; mặt khác, cũng có thể do người đại diện
cho họ ở các cấp cơ sở có vốn hiểu biết hạn chế, và chưa thấy hết được tầm quan
trọng trong việc cung cấp các DVXH cũng như làm cầu nối, hướng họ đến với các
DVXH cơ bản dành cho mọi người nói chung và người nghèo nói riêng. Vì nhiều
nguyên nhân khác nhau mà người nghèo thường bị hạn chế trong việc tiếp cận các
DVXH, vì thế các cấp chính quyền cũng như các cơ quan chức năng cần phải đóng
vai trò là c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_ctxh_voi_nguoi_ngheo_p2_401.pdf