Tài liệu Giáo trình môn: Công tác xã hội với người nghèo (Phần 1): Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
1
BÀI 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.Khái niệm nghèo, đói
1.1.1.Quan niệm về đói nghèo của quốc tế
Quan niệm về nghèo đói của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân
cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định
nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của
con người về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác
nhau chỉ là thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi. Điều này phụ thuộc vào trình độ
phát triển KTXH cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith quan niệm: “Con người bị coi là nghèo khổ
khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ
rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số
trong cộng đồng coi như các cần thiết tối thiểu để sống một cảnh ...
66 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 1066 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình môn: Công tác xã hội với người nghèo (Phần 1), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
1
BÀI 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.Khái niệm nghèo, đói
1.1.1.Quan niệm về đói nghèo của quốc tế
Quan niệm về nghèo đói của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân
cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định
nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của
con người về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác
nhau chỉ là thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi. Điều này phụ thuộc vào trình độ
phát triển KTXH cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith quan niệm: “Con người bị coi là nghèo khổ
khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ
rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số
trong cộng đồng coi như các cần thiết tối thiểu để sống một cảnh đúng mức”.
Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ
chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993 đó đưa ra khái niệm: nghèo là tình trạng
một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con
người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển
KTXH và phong tục tập quán của địa phương.
Ủy ban này cũng đưa ra hai khái niệm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối:
+ Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa
mãn các nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống.
+ Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng.
WB đưa ra quan điểm về nghèo đói như sau: nghèo là một khái niệm đa
chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất; nghèo không chỉ gồm các chỉ số
dựa trên thu nhập mà còn gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như: dinh dưỡng,
sức khỏe, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không
có quyền lực. Đây chính là cách tiếp cận đa chiều về khái niệm nghèo. Như vậy,
quan điểm tiếp cận mới về nghèo không chỉ đề cập đơn thuần đến thu nhập mà cần
phải hiểu nghèo là một vấn đề đa khía cạnh.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
2
Như vậy, quan điểm tiếp cận mới về nghèo không chỉ đề cập đơn thuần đến
thu nhập mà cần phải hiểu nghèo là một vấn đề đa khía cạnh.
Các khía cạnh của đói nghèo:
Về thu nhập và tài sản:
Đa số những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có mức
thu nhập thấp. Điều này do tính chất công việc của họ đem lại. Người nghèo
thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, công việc cực nhọc
nhưng thu nhập chẳng được là bao. Hơn thế nữa, những công việc này lại thường
rất bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ thuộc vào thời vụ và có tính rủi
ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn như mưa, nắng, lũ lụt, hạn hán,
động đất...). Các nghề thuộc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là những ví
dụ cho vấn đề này. Do thu nhập thấp nên việc chi tiêu cho cuộc sống của những
người nghèo là rất hạn chế. Hầu hết các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người
như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ được đáp ứng với mức độ rất thấp, thậm chí còn
không đủ. Nhiều người rơi vào cảnh thiếu ăn liên miên: chưa nói đến vấn đề đủ
dinh dưỡng, riêng việc đáp ứng lượng calo cần thiết, tối thiểu cho con người để có
thể duy trì hoạt động sống bình thường họ cũng chưa đáp ứng được, hoặc đáp ứng
một cách khó khăn. Điều này đã kéo theo hàng loạt các vấn đề khác như làm giảm
sức khoẻ của người nghèo, do đó giảm năng suất lao động, từ đó giảm thu nhập...
cứ như thế, nó đã tạo nên vòng luẩn quẩn mà người nghèo rất khó thoát ra được.
Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản ở những người nghèo. Tài
sản ở đây có thể là tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tự nhiên, tài sản tài
chính, tài sản xã hội. Tài sản con người thể hiện ở khả năng có được sức lao động
cơ bản, kỹ năng và sức khoẻ tốt.
Bên cạnh đó, do thu nhập thấp nên người nghèo không thể đáp ứng một cách
đầy đủ nhu cầu về lương thực thực phẩm. Ăn uống cực kì thiếu thốn cộng với lao
động nặng nề đã làm giảm sức khoẻ của người nghèo do đó cũng không đảm bảo
được các kỹ năng cũng như sức lao động cơ bản.
Tài sản tự nhiên như đất đai, thiếu tài sản tự nhiên có nghĩa là thiếu, không
có hoặc có nhưng đất đai quá cằn cỗi, không thể canh tác được.
Tài sản vật chất ở đây như nhà ở, phương tiện sản xuất - người nghèo có rất
ít hoặc hầu như không có các phương tiện sản xuất. Điều này đã hạn chế khả năng
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
3
lao động của họ, làm họ khó khăn hơn nhiều so với những người có đủ phương tiện
sản xuất nó cũng làm giảm thu nhập của họ.
Còn về nhà ở, đại đa số người nghèo sống trong những căn nhà tạm bợ, dột
nát, chật chội. Nhiều căn nhà không đủ đảm bảo an toàn, không bảo đảm sức khoẻ
cho những người sống trong đó. Do không có những tài sản giá trị để bảo đảm nên
người nghèo cũng có rất ít khả năng tiếp cận với các tổ chức cho vay vốn, do thu
nhập thấp nên người nghèo cũng không có khả năng tiết kiệm nhiều. Đó chính là
thiếu hụt tài sản tài chính.
Về tài sản xã hội, người nghèo cũng bị hạn chế do chính hoàn cảnh của họ
tạo nên. Kinh tế khó khăn, lo lắng đến từng bữa ăn hàng ngày khiên cho người
nghèo không quan tâm hoặc không có khả năng cũng như điều kiện để chăm chút
đến các mối quan hệ xã hội của mình. Mặt khác, sự bó hẹp về kinh tế cũng khiến
cho họ ít tham gia vào các tổ chức, nhóm nào do đó người nghèo dần bị cô lập và
do đó khó nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, hội khi gặp khó khăn.
Y tế - giáo dục:
Những người nghèo có nguy cơ mắc phải các bệnh thông thường cao như ốm
đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ không được tốt do ăn uống
không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống ở những vùng có
điều kiện vệ sinh, y tế thấp, còn nhiều hạn chế, chẳng hạn, họ không được sử dụng
nguồn nước sạch, không có công trình phụ hợp vệ sinh, điều này cũng làm giảm
đáng kể sức khoẻ của họ. Nó đã dẫn đến tình trạng tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh trong
nhóm hộ nghèo, số trẻ bị suy dinh dưỡng và số bà mẹ mang thai thiếu máu rất cao.
Có điều này là do người nghèo có thu nhập thấp, không đủ trả khoản tiền viện phí
lớn cũng như các chi phí thuốc men khác, thêm vào đó có thể do đối xử bất bình
đẳng trong xã hội, người nghèo không được quan tâm chữa trị bằng người giàu nên
tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ y tế của người nghèo là rất thấp. Bên cạnh đó, do nhận
thức của người nghèo, họ thường không quan tâm lắm bệnh tật của mình, khi bị
bệnh họ thường cố tự chạy chữa bằng mọi biện pháp rẻ tiền, chỉ đến khi bệnh trở
nên trầm trọng họ mới vào viện vì vậy việc điều trị đem lại hiệu quả không cao mà
còn tốn thêm nhiều khoản tiền không đáng có.
Tình trạng giáo dục đối với người nghèo cũng là vấn đề đáng thất vọng. Hầu
hết những người nghèo không đủ điều kiện học đến nơi đến chốn. Tỷ lệ thất học,
mù chữ ở hộ nghèo, đói cao. Có tình trạng như vậy là do các gia đình này không
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
4
thể trang trải được các chi phí về học tập của con cái họ như tiền học phí, tiền sách
vở... đi học, họ sẽ mất đi một lao động trong gia dình. Những người nghèo cũng đã
nhận thức rõ được tầm quan trọng của học thức với nghèo đói nhưng vấn đề học
phí của con em họ quả là vấn đề quá khó khăn với tình hình tài chính của gia đình.
Và chính từ việc mất đi cơ hội với giáo dục này, người nghèo đã khiến cho chính
bản thân họ mất đi nhiều cơ hội trong cuộc sống liên quan đến công việc tăng thu
nhập cũng như các cơ hội khác.
Tóm lại, y tế - giáo dục là vấn đề được nhiều người nghèo quan tâm, họ cũng
đã hiểu rõ tầm quan trọng của các yếu tố này tới bản thân họ cũng như tương lai
của họ và gia đình nhưng do thu nhập thấp, không đủ trang trải, học phí, viện phí,
họ đành phải để con cái thôi học, người bệnh không được khám và chữa chạy đúng
mức, kịp thời, hầu hết các người nghèo không được tiếp cận với các dịch vụ y tế.
Điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ, giảm sức khoẻ cũng như hạn chế
cơ hội phát triển của các thế hệ sau.
Nguy cơ dễ bị tổn thương:
Ở những người nghèo, nguy cơ dễ bị tổn thương là nhân tố luôn đi kèm với
sự khốn cùng về vật chất và con người. Vậy nguy cơ dễ bị tổn thương là gì? Nó
chính là nguy cơ mà người nghèo phải đối mặt với nhiều loại rủi ro như bị ngược
đãi, đánh đập, thiên tai, bị thôi việc, phải nghỉ học... Nói cách khác, những rủi ro
mà người nghèo phải đối mặt do tình trạng nghèo hèn của họ chính là nguyên nhân
khiến họ rất dễ bị tổn thương. Những người nghèo do tài sản ít, thu nhập thấp, họ
chỉ có thể trang trải hạn chế, tối thiểu các nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống. Vì
vậy, khi rủi ro xảy ra họ rất dễ bị tổn thương và rất khó vượt qua được các cú sốc
có hại, những cú sốc mang tính tạm thời mà những người có nhiều tài sản hơn dễ
dàng vượt qua được. Do thu nhập thấp, người nghèo có rất ít khả năng tiếp cận với
các cơ hội tăng trưởng kinh tế, vì thế họ thường phải bỏ thêm các chi phí không
đáng có hoặc giảm thu nhập. ở các hộ nghèo, khi có rủi ro xảy ra như mất cắp hay
có người bị ốm đau thì họ dễ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm đảo lộn cuộc
sống của cả gia đình mà một thời gian lâu sau mới có thể phục hồi được. Cũng có
khi việc khắc phục những rủi ro trong ngắn hạn có thể làm trầm trọng thêm sự khốn
cùng của họ trong dài hạn. Chẳng hạn, ví dụ trên, do thiếu tài sản nên để chạy chữa
cho một người bị ốm, gia đình đã buộc phải quyết định cho một đứa con nghỉ học
hay họ phải bán trâu, bò, ngựa... những phương tiện lao động cần thiết của gia đình.
Cũng có thể người bệnh thì không khỏi được còn gia đình từ cảnh khá giả rơi vào
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
5
cảnh khốn cùng. Như vậy, nếu có thêm một vài sự kiện nghiêm trọng nữa xảy ra thì
sự suy sụp đến cùng kiệt là điều khó tránh khỏi với người nghèo.
Nguy cơ dễ bị tổn thương đã tạo nên một tâm lý chung của người nghèo là sợ
phải đối mặt với rủi ro, vì vậy họ luôn né tránh với những vấn đề mang tính rủi ro
cao, kể cả khi điều đó có thể đem lại nhiều lợi ích cho họ nếu thành công (ví dụ đầu
tư vào giống lúa mới, áp dụng phương thức sản xuất mới...) chính điều này đã làm
họ sống tách biệt với xã hội bị cô lập dần với guồng quay của thị trường và do vậy
cuộc sống của họ càng trở nên bần cùng hơn.
Không có tiếng nói và quyền lực:
Những người nghèo thường bị đối xử không công bằng, bị gạt ra ngoài lề xã
hội do vậy họ thường không có tiếng nói quyết định trong các công việc chung của
cộng đồng cũng như các công việc liên quan đến chính bản thân họ. Trong cuộc
sống những người nghèo chịu nhiều bất công do sự phân biệt đối xử, chịu sự thô
bạo, nhục mạ, họ bị tước đi những quyền mà những người bình thường khác
nghiễm nhiên được hưởng. Người nghèo luôn cảm thấy bị sống phụ thuộc, luôn
nơm nớp lo sợ mọi thứ, trở nên tự ti, không kiểm soát được cuộc sống của mình.
Mặt khác, những yếu tố như không có điều kiện về mặt giáo dục khiên cho kiến
thức xã hội và kĩ năng của người nghèo trong việc tham gia, thương lượng, cũng
như yêu cầu sự thay đổi đối với các bên liên quan và những thể chế có ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi của họ trở nên khó khăn. Và trong hoàn cảnh nghèo, những
đối tượng không có tiếng nói, quyền lực cũng như mất đi nhiều cơ hội nhất là phụ
nữ và trẻ em. Họ bị đối xử bất bình đẳng trong chính gia đình của họ. Người phụ
nữ không có quyền quyết định việc gì và phải phụ thuộc hoàn toàn vào người
chồng của mình.
1.1.2. Quan niệm nghèo đói của Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề đói nghèo được quan tâm và đặc biệt chú ý từ sau năm
1990 khi sự phân hóa giàu nghèo ngày càng trở nên rõ rệt. Việt Nam mới thoát ra
khỏi danh sách những nước nghèo, tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người vẫn
thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Qua nhiều cuộc khảo
sát, nghiên cứu, khái niệm nghèo đói được công nhận phổ biến là:
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
6
+ Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thỏa mãn một
phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng với mức sống
tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
+ Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Tùy thuộc vào tính chất của từng cuộc điều tra, nghiên cứu, khái niệm nghèo
được sử dụng nhấn mạnh tới khía cạnh lương thực, thực phẩm hay phi lương thực,
thực phẩm hoặc cả hai. Ví dụ, quan niệm về nghèo thường được nhắc tới nhất là
nghèo lương thực, nghĩa là, một hộ gia đình được coi là nghèo lương thực khi chi
tiêu của họ thấp đến nỗi dù họ có chi tiêu tất cả tiền cho lương thực thì cũng không
đủ 2.100 kalo/người/ngày.
Với sự phát triển của kinh tế và con người, trong các cuộc điều tra khảo sát
về vấn đề nghèo, các cơ quan, tổ chức chính phủ cũng đã đề cập tới khái niệm
nghèo theo bình diện nghèo đa chiều nghĩa là không đơn thuần về lương thực, thực
phẩm hay vật chất nữa.
Ví dụ, quan niệm về nghèo trẻ em trong điều tra mức sống dân cư 2010 của
Tổng cục thống kê: Trẻ em nghèo được xác định theo hai cách. Cách thứ nhất xác
định trẻ em nghèo là những trẻ em sống trong những hộ gia đình nghèo - là những
hộ giai đình có mức thu nhập hoặc chi tiêu thấp hơn mức sống tối thiểu hay dưới
chuẩn nghèo. Cách này xác định trẻ em nghèo dưới góc độ kinh tế đơn thuần. Trẻ
em nghèo được xác định theo cách này gọi là trẻ em nghèo tiền tệ (hoặc nghèo
kinh tế, nghèo thu nhập, nghèo chi tiêu) hoặc trẻ em nghèo đơn chiều.
Cách thứ hai xác định trẻ em nghèo theo cách nhìn đa chiều. Nói chung thu
nhập hoặc chi tiêu càng cao thì càng có khả năng đảm bảo một cuộc sống đẩy đủ
hơn về vật chất và tinh thần và ngược lại.. Tuy nhiên, trong thực tế trẻ em chưa tạo
ra được thu nhập cũng như không tự quyết định được chi tiêu mà hoàn toàn phụ
thuộc vào môi trường sống, sự bao cấp của gia đình và sự bảo trợ của xã hội. Mặt
khác, trẻ em cần có những nhu cầu đặc biệt khác để phát triển toàn diện cả về thể
chất, tinh thần và trí tuệ cho đnế khi trưởng thành, có khả năng tự quyết định, lựa
chọn và tạo dưngj cuộc sống tốt đẹp. Trên quan điểm đó, cách thứ hai xác định trẻ
em nghèo không chỉ dưới góc độ kinh tế mà xét 8 lĩnh vực khác thuộc về nhu cầu
phát triển của trẻ em, gồm: giáo dục, y tế, dinh dưỡng, nhà ở, nước sạch và điều
kiện vệ sinh, không lao động sớm, vui chơi giải trí và hòa nhập BTXH. Trẻ em
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
7
không được đảm bảo ít nhất 2 trong 8 nhu cầu trên thì được coi là trẻ em nghèo đa
chiều. Tỉ lệ trẻ em nghèo năm 2010 được tính trên 6 lĩnh vực (không có số liệu về
dĩnh dưỡng và vui chơi giải trí) là 20,6% so với năm 2008 là 28,9%.
1.2.Tiêu chí xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo
Tiêu chí xác định hộ nghèo và cận nghèo được xác định theo từng giai đoạn
khác nhau.
Chuẩn nghèo mới nhất được áp dụng theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg
về chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015:
- Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4,8 triệu đồng/người/năm) trở xuống.
- Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6 triệu đồng/người/năm) trở xuống.
- Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng
đến 520.000 đồng/người/tháng.
- Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến
650.000 đồng/người/tháng.
Mức chuẩn nghèo quy định nêu trên là căn cứ để thực hiện các chính sách an
sinh xã hội và chính sách kinh tế, xã hội khác.
Dựa trên căn cứ về chuẩn nghèo quốc gia này, các địa phương căn cứ tình
hình thực tế của địa phương mình và ban hành chuẩn hộ cận nghèo địa phương đó.
Ví dụ như UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định số
37/2012/QĐ-UBND ngày 12 tháng 8 năm 2012 về chuẩn hộ cận nghèo của thành
phố áp dụng cho giai đoạn 2012 - 2015 như sau: Hộ cận nghèo thành phố là những
hộ dân (thường trú và tạm trú KT3 trên địa bàn thành phố) có mức thu nhập bình
quân từ 12.000.001 đồng/người/năm đến 16 triệu đồng/người/năm), không phân
biệt nội thành và ngoại thành.
UBND Thành phố Hà Nội cũng ban hành Quyết định số 01/2011/QĐ-UBND
về chuẩn nghèo, chuẩn cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015 của Thành
phố Hà Nội như sau:
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
8
1. Chuẩn nghèo:
- Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 750.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo
- Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 550.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
2. Chuẩn cận nghèo:
- Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 751.000
đồng/người/tháng đến 1.000.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.
- Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 551.000
đồng/người/tháng đến 750.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.
1.3.Khái niệm người nghèo, xã nghèo, huyện nghèo
1.3.1.Người nghèo
Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội, tổ chức tại
Copenhagen, Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra định nghĩa: người nghèo là tất cả
những ai có thu nhập thấp hơn dưới 1 USD mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được
coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại.
Ở Việt Nam, theo Bộ Lao động thương binh và xã hội, từ năm 1993, một
người được coi là nghèo khi anh ta không có đủ tiền mua 20 kg gạo ở thành thị và
15kg gạo một tháng ở nông thôn. Những con số này sau đó tăng lên thành 25 và
20kg vào năm 1995 và đến năm 1997 thì ngưỡng 15 kg được đưa ra cho miền núi.
Năm 2001, những con số này bắt đầu được tính bằng tiền với mức 150.000 cho
thành thị và 100.000 cho nông thôn.
Cho tới nay, tiêu chí đánh giá về người nghèo đã có những thay đổi phù hợp
với sự phát triển của kinh tế và xã hội.
1.3.2. Xã nghèo
Năm 1997, Việt Nam đưa ra chuẩn nghèo đói thuộc phạm vi của chương
trình quốc gia (chuẩn nghèo quốc gia cũ) để áp dụng cho thời kỳ 1996-2000 như
sau: Xã nghèo: là xã có tỷ lệ hộ nghèo đói từ 40% trở lên, thiếu cơ sở hạ tầng
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
9
(đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sinh hoạt, thuỷ lợi
nhỏ và chợ).
Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-BLĐTHXH năm 2002 ban hành tiêu chí
xã nghèo giai đoạn 2001-2005 là:
1- Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên;
2- Chưa đủ từ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (bao gồm: đường
giao thông; trường học; trạm y tế; nước sinh hoạt; điện sinh hoạt; chợ) cụ thể là:
- Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch;
- Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt;
- Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được cả năm;
- Chưa có chợ hoặc chợ tạm thời.
- Chưa có trạm y tế hoặc có nhưng là nhà tạm
- Số phòng học (theo qui định của Bộ giáo dục và Đào tạo chỉ đáp ứng được dưới
70% nhu cầu của học sinh)
Trong Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 có
qui định hiện có 2 loại đối tượng xã nghèo, đó là xã đặc biệt khó khăn vùng bãi
ngang, vùng ven biển và hải đảo và xã có tỉ lệ nghèo trên 25%. Theo đó, xã đặc biệt
khó khăn vùng bãi ngang, vùng ven biển và hải đảo xác định theo tiêu chí trong
Quyết định số 257/2003/QĐ-Ttg ngày 03 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính
phủ), là các xã có vị trí ở vùng bãi ngang ven biển hoặc là các xã cồn, bãi, đầm phá,
bán đảo, hải đảo và có đủ các điều kiện: là các xã nghèo theo tiêu chí xã nghèo cho
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội qui định tại Quyết định số 587/2002/QĐ-
LĐTBXH ngày 22/5/2002 và không thuộc xã 135; Còn thiếu cơ sở hạ tầng thiết
yếu phục vụ sản xuất, tùy theo điều kiện cụ thể từng xã, bo gồm: bở bao chống
triều cường, kè, công trình thủy lợi, trạm bơm cấp nước biển cho nuôi trồng thủy
sản, làm muốn, đường ra bến cá, chợ cá; và xã có tỉ lệ nghèo trên 25% theo
chuẩn hiện hành tính từ năm 2006.
1.3.3. Huyện nghèo
Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và
bền vững đối với 62 huyện nghèo thuộc 20 tỉnh có số hộ nghèo trên 50%.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
10
Tỉnh Số huyện
nghèo
Tên huyện
Hà Giang 6 Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng
Xu Phì, Xín Mần
Cao Bằng 5 Bảo Lâm, Bảo Lạc, Thông Nông, Hà Quảng, Ha
Lang
Lào Cai 3 Si Ma Cai, Mường Khương, Bắc Hà
Yên Bái 2 Mù Cang Chải,Trạm Tấu
Bắc Kạn 2 Ba Bể, Pác Nặm
Bắc Giang 1 Sơn Động
Phú Thọ 1 Tân Sơn
Sơn La 5 Sốp Cộp, Phù Yên, Bắc Yên, Mường La, Quỳnh
Nhai
Lai Châu 5 Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tân Yêu, Than
Uyên
Điện Biên 4 Điện Biên Đông, Mường Nhé, Tủa Chủa, Mường
Ảng
Thanh
Hóa
7 Lang Chánh, Thường Xuyên, Quan Hóa, Quan Sơn,
Mường Lát, Như Xuân, Ba Thước
Nghệ An 3 Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong
Quảng
Bình
1 Minh Hóa
Quảng Trị 1 Đa Krong
Quảng
Ngãi
6 Sơn Hà, Trà Bông, Sơn Tây, Minh Long, Tây Trà,
Ba Tơ
Quảng
Nam
3 Nam Trà My, Tây Giang, Phước Sơn
Bình Định 3 An Lão, Vĩnh Thanh, Vân Canh
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
11
Ninh
Thuận
1 Bác Ái
Kon Tum 2 Tu Mơ Nông, Kon Plong
Lâm Đồng 1 Đam Rông
1.4.Khái niệm về chuẩn nghèo
1.4.1.Chuẩn nghèo là gì?
Chuẩn nghèo (hay còn gọi là ngưỡng nghèo) là tổng hợp các giá trị tối thiểu
mà cá nhân hay hộ gia đình ở dưới mức đó được coi là nghèo (nhu cầu ăn, mặc, ở,
đi lại, giáo dục, y tế, văn hóa, giao tiếp).
Như vậy, theo khái niệm này, chuẩn nghèo được hiểu là một tiêu chí nhằm
xác định một cá nhân hay một hộ gia đình nào đó có mức sống dưới mức sống tối
thiểu về các nhu cầu vật chất và tinh thần (nhu cầu lương thực, thực phẩm và phi
lương thực, thực phẩm)
Trên thực tế, hầu hết cách tính chuẩn nghèo hiện nay đều dựa trên cách xác
định chi phí để mua được lượng Kcalo nhất định (ước tính một người cần tối thiểu
2.100 kcalo/ngày để tồn tại) cộng với một khoản chi phí cho các nhu cầu phi lương
thực, thực phẩm như: y tế, giáo dục, văn hóa nghệ thuật
Các quốc gia khác nhau sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau để đánh giá mức
độ giàu nghèo. Nước Mỹ áp dụng mức chuẩn từ những năm 60 của thế kỷ trước, cụ
thể, thu nhập 18.600 đô la/năm là ngưỡng nghèo đối với các gia đình có bốn người
(gồm bố mẹ và hai con), và thu nhập 9.573 đô la/năm là ngưỡng nghèo đối với
người độc thân trong độ tuổi lao động. Theo chuẩn này thì năm 1993 nước Mỹ có
15,1% dân số nghèo khổ, năm 2000 tỷ lệ đó giảm xuống còn 11,3%, nhưng tới năm
2003 thì tỷ lệ người nghèo của nước Mỹ tăng lên 12,5% (tức là khoảng 35,9 triệu
người dân Mỹ sống trong tình trạng nghèo đói).
Malaysia sử dụng tiêu chuẩn 9.910 kcalo một ngày tính trên một gia đình có
hai người lớn và ba trẻ em để làm đường nghèo. Ấn Độ áp dụng ngưỡng nghèo với
chuẩn mực tiêu thụ bình quân đầu người hàng ngày 2.400 kcalo đối với vùng nông
thôn và 2.100 kcalo đối với vùng đô thị. Pakistan lấy đường nghèo là tiêu thụ 2.350
kcalo bình quân một người lớn qui ước hàng ngày. Philipines lại lấy ngưỡng nghèo
ở mức 2.000 kcalo. Tương tự, Sirilanca: 2.500 kcalo; Nepal: 2.124 kcalo; Thái Lan:
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
12
2.099 kcalo; Bangladesh: 2.122 kcalo; một số quốc gia khác lại sử dụng ngưỡng
nghèo là tiêu thụ một ngày 2.100 kcalo một người, như Lào, Campuchia, Trung
Quốc, Indonesia.
Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng ấy, vẫn còn tình trạng thiếu
thống nhất về tiêu chuẩn nghèo đói quốc gia. Năm 2000, Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội đưa ra ngưỡng nghèo mới làm căn cứ xác định mục tiêu xoá đói
giảm nghèo cho giai đoạn 2001 - 2005. Ngưỡng nghèo đó được ấn định cho từng
khu vực: nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng; nông thôn đồng
bằng: 100.000 đồng/người/tháng; thành thị: 150.000 đồng. Tiêu chuẩn được Tổng
cục Thống kê sử dụng trong các cuộc điều tra mức sống dân cư là mức tiêu thụ
2.100 ca-lo/ngày/người giống như một số quốc gia khu vực.
Hậu quả của việc sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau ấy giữa các quốc gia làm
ngưỡng nghèo đã gây ra những khó khăn lớn cho việc so sánh quốc tế. Ngay cả
việc so sánh động thái theo thời gian về tình trạng nghèo của một quốc gia cũng
thiếu chính xác. Ví dụ nước Mỹ dùng mức chuẩn của gần nửa thế kỷ trước, khi mà
mẫu tiêu dùng của dân cư khác hẳn với ngày nay, để phản ánh tình trạng nghèo đói
hiện nay là không phù hợp. Nửa thế kỷ trước, người dân Mỹ chi gần một phần ba
thu nhập cho ăn uống, nhưng ngày nay họ chỉ chi 13,2% thu nhập cho lương thực
và chi một phần ba thu nhập cho nhà ở. Việc sử dụng tiêu thức tỷ lệ dân số sống
dưới mức nghèo và tỷ lệ hộ gia đình nghèo cũng không đồng nhất, vì số lượng
thành viên trong gia đình rất khác nhau. Tỷ lệ hộ nghèo thấp, nhưng nếu đó lại là
các hộ đông người, thì khi chuyển sang tỷ lệ dân số nghèo chưa chắc đã thấp.
Để đảm bảo tính so sánh quốc tế của chỉ tiêu tỷ lệ dân số sống dưới mức
nghèo, WB đưa ra 2 mức chuẩn là thu nhập dưới 1 đô la Mỹ 1 ngày và thu nhập
dưới 2 đô la Mỹ 1 ngày được chuyển đổi theo sức mua tương đương (PPP -
Purchasing Power Parity) của đô la Mỹ năm 1993, có nghĩa là tương đương với
mức 1,08 USD/ngày/người và mức 2,16 USD/ngày/người của năm 2002.
1.4.2. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo của Chương trình XĐGN Quốc gia
Căn cứ vào quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, nguồn lực tài chính 2001-
2005 và mức sống thực tế của người dân ở từng vùng, Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội Việt Nam đưa ra chuẩn nghèo đói nhằm lập danh sách hộ nghèo từ cấp
thôn, xã và danh sách xã nghèo từ các huyện trở lên để hưởng sự trợ giúp của
Chính phủ từ Chương trình mục tiêu Quốc gia về XĐGN và các chính sách hỗ trợ
khác...
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
13
Trước những thành tích của công cuộc giảm nghèo cũng như tốc độ tăng
trưởng kinh tế và mức sống, từ năm 2001 đã công bố mức chuẩn nghèo mới để áp
dụng cho thời kỳ 2001-2005, theo đó chuẩn nghèo của Chương trình XĐGN quốc
gia mới được xác định ở mức độ khác nhau tuỳ theo từng vùng, cụ thể bình quân
thu nhập là: 80 nghìn đồng/người/tháng ở các vùng hải đảo và vùng núi nông
thôn;100 nghìn đồng/người/tháng ở các vùng đồng bằng nông thôn; 150 nghìn
đồng/người/ tháng ở khu vực thành thị.
Tuy nhiên, do sự phát triển kinh tế và biến động giá cả theo từng năm, chuẩn
nghèo quốc gia cũng được thay đổi cho phù hợp
Bảng: Chuẩn nghèo (sau khi được cập nhật giá) được sử dụng để tính tỷ lệ
nghèo cho các năm
Năm Thành thị Nông thôn
2004 218.000 168.000
2006 260.000 200.000
2008 370.000 290.000
2010 450.000 360.000
(Nguồn: Tổng cục thống kê. Kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2010)
Ý nghĩa của việc xác định chuẩn nghèo: Việc xác định chuẩn nghèo trong từng
giai đoạn phát triển của quốc gia có ý nghĩa đối với sự phát triển nói chung
- Xác định được đối tượng của Chương trình mục tiêu Quốc xóa đói, giảm nghèo
cần trợ giúp.
- Tổ chức thực hiện hỗ trợ người nghèo tiếp cận các chính sách xóa đói, giảm
nghèo.
- Cho phép đánh giá tác động của chính sách của Nhà nước tới người nghèo.
- Cho phép so sánh nghèo đói theo thời gian.
- Làm căn cứ để so sánh giữa các quốc gia với nhau.
- Giám sát chi tiêu xã hội có lợi cho người nghèo.
- Định hướng và hoạch định chính sách có lợi cho người nghèo.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
14
2. Thực trạng về nghèo đói và công tác XĐGN ở Việt Nam
2.1. Thực trạng vấn đề nghèo đói trên thế giới
Theo số liệu thống kê của WB (WB) năm 1981 trên thế giới có 1,5 tỉ người
nghèo tương ứng với 40% dân số thế giới, năm 1993 số người nghèo là 1,314 tỉ
người (29% dân số thế giới), đến năm 2001 có 1,1 tỷ người (21% dân số thế giới)
có thu nhập ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức mua địa phương và vì thế được xem là
rất nghèo. Phần lớn những người nghèo này sống tại Châu Phi, Châu Á. Trong khi
nhờ vào tăng trưởng kinh tế tại nhiều vùng của Châu Á, tỷ lệ người nghèo giảm
xuống rõ rệt (từ 58% xuống còn 16% tại Đông Á) thì con số những người nghèo
nhất lại tăng lên ở châu Phi (gần gấp đôi từ 1981 đến 2001 phía Nam sa mạc
Sahara). Tại Đông Âu và Trung Á con số những người nghèo nhất đã tăng lên đến
6% dân số năm 2004. Nếu như đặt ranh giới nghèo là 2 đô la Mỹ mỗi ngày thì có
tổng cộng là 2,7 tỉ người nghèo, gần một nửa dân số thế giới.
Nhưng trong năm 2008, năm đầu tiên của cuộc khủng hoảng tài chính và
lương thực trên thế giới thì cả số lượng và tỷ lệ người có mức sống dưới 1,25
USD/ngày (mức được xếp loại nghèo đói theo chuẩn giá cả năm 2005) đã giảm trên
mọi khu vực của thế giới. Theo WB ước tính năm 2010, tình trạng nghèo đói toàn
cầu chỉ bằng 1/2 mức năm 1990. Như vậy, thế giới đã đạt “Mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ " của LHQ là giảm tình trạng đói nghèo trên thế giới xuống còn một nửa từ
năm 1990 đến 2015, sớm hơn 5 năm. Điều này cho thấy, mặc dù cuộc khủng hoảng
kép, tốc độ giảm nghèo dài hạn vẫn được duy trì ở mức trên 1% trong giai đoạn
2008-2010.
2.2. Tình hình nghèo đói hiện nay ở Việt Nam
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc giảm tỷ lệ
nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn còn rất mong
manh.
Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do vậy
chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng
nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn
lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người nghèo rất bấp
bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và cộng đồng.
Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh với
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
15
ngưỡng nghèo đói, do vậy, khi có những dao động về thu nhập cũng có thể khiến
họ trượt xuống ngưỡng nghèo.
2.2.1. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn
Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo
nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc ở các
vùng Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của thời tiết (bão,
lụt, hạn hán...) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng
thêm khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng nghèo đã
làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. Năm 2000, khoảng 20-
30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung
tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa
có nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% chưa đủ công
trình thuỷ lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã.
Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện
cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái
đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi nghèo vẫn còn lớn.
2.2.2. Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% số người
nghèo sinh sống ở nông thôn. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực, thực phẩm
của thành thị là 4,6%, trong khi đó của nông thôn là 15,9%. Trên 80% số người
nghèo là nông dân, trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong
sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ...), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó
khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo
nàn. Những người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ
thống thông tin, khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông
nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ
cao tuổi là những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều
thời gian hơn, nhưng thu nhập ít hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đình và
cộng đồng do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang
lại.
2.2.3. Nghèo đói trong khu vực thành thị
Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức sống trung bình
cao hơn so với mức chung cả nước, nhưng mức độ cải thiện điều kiện sống không
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
16
đồng đều. Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức,
công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước dẫn
đến sự dôi dư lao động, mất việc làm của một bộ phận người lao động ở khu vực
này, làm cho điều kiện sống của họ càng thêm khó khăn hơn. Số lao động này phải
chuyển sang làm các công việc khác với mức lương thấp hơn, hoặc không tìm được
việc làm và trở thành thất nghiệp.
Người nghèo đô thị phần lớn sống ở những nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém, khó
có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản (nước sạch, vệ sinh môi trường, thoát
nước, ánh sáng và thu gom rác thải...).
Người nghèo đô thị dễ bị tổn thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn
thu nhập bằng tiền. Họ thường không có hoặc có ít khả năng tiết kiệm và gặp nhiều
khó khăn trong việc vay vốn tạo việc làm.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa làm tăng số lượng người di cư tự do
từ các vùng nông thôn đến các đô thị, chủ yếu là trẻ em và người trong độ tuổi lao
động. Hiện tại chưa có số liệu thống kê về số lượng người di cư tự do này trong các
báo cáo về nghèo đói đô thị. Những người này gặp rất nhiều khó khăn trong việc
đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú lâu dài, do đó họ khó có thể tìm kiếm được công ăn
việc làm và thu nhập ổn định. Họ có ít cơ hội tiếp cận các DVXH và phải chi trả
cho các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục ở mức cao hơn so với người dân đã có hộ
khẩu.
Ngoài ra, đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm đối tượng xã hội khác
như những người không nghề nghiệp, người thất nghiệp, người lang thang và người
bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội (mãi dâm, nghiện hút, cờ bạc...).
2.2.4. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
Đói nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới
64% số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây
Nguyên và Duyên hải miền Trung. Đây là những vùng có điều kiện sống khó khăn,
địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều
hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên
tai xảy ra thường xuyên.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
17
Kết quả giảm nghèo theo báo cáo kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2010
của Tổng cục thống kê:
Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2010 giảm còn 10,7% theo chuẩn nghèo của
Chính phủ ban hành giai đoạn 2006-2010 (năm 2008 là 13,4%, năm 2006 là
15,5%và năm 2004 là 18,1%). Nếu tính theo chuẩn nghèo mới do Chính phủ ban
hành giai đoạn 2011-2015 thì tỉ lệ hộ nghèo cả nước năm 2010 là 14,2%, thành thị
là 6,9% và nông thôn là 17,4%.
Bảng: Tỷ lệ hộ nghèo chia theo vùng
2004 2006 2008 2010 2010*
Cả nước 18,1 15,5 13,4 10,7 14,2
Thành thị 8,6 7,7 6,7 5,1 6,9
Nông thôn 21,2 18,0 16,1 13,2 17,4
6 vùng
Đồng bằng sông Hồng 12,7 10,0 8,6 6,4 8,3
Trung du
và miền núi phía Bắc
29,4 27,5 25,1 22,5 29,4
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền
Trung
25,3 22,2 19,2 16,0 20,4
Tây Nguyên 29,2 24,0 21,0 17,1 22,2
Đông Nam Bộ 4,6 3,1 2,5 1,3 2,3
Đồng bằng sông Cửu Long 15,3 13,0 11,4 8,9 12,6
(Tỷ lệ hộ nghèo 2010* được tính theo chuẩn nghèo của Chính phủ giai đoạn 2011-
2015)
(Nguồn: Tổng cục thống kê. Kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2010)
2.3. Tình hình XĐGN hiện nay
Từ năm 1986, đặc biệt là từ năm 1989 trở lại đây, thực hiện chính sách đổi
mới và mở cửa của Đảng - Nhà nước, đất nước đã có những chuyển biến tích cực
đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân ta đã được cải thiện đáng kể, đại
bộ phận dân cư đã có cuộc sống ổn định, nhiều nhu cầu của con người được đáp
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
18
ứng, nhân dân ta đã không chỉ có cơm no, áo mặc mà những nhu cầu về văn hoá
tinh thần đã được đáp ứng. Theo số liệu điều tra tình trạng giàu nghèo của Tổng
cục Thống kê (1993), cả nước có 51,7% gia đình tự đánh giá khá lên so với năm
1990; 30,7% gia đình có mức sống cải thiện một số mặt.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn còn một bộ phận dân cư sống trong
tình trạng nghèo khổ, dưới mức sống trung bình của xã hội trong đó không ít gia
đình rơi vào hoàn cảnh thiếu đói gay gắt. Đây là vấn đề cần được giải quyết cấp
bách, đó không chỉ là vấn đề nhân đạo mà còn là một trong những mục tiêu hàng
đầu trong chiến lược phát triển KTXH của đất nước, nhằm nâng cao mức sống cho
mọi người dân để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.
Nhận thức được trách nhiệm đó, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương Xoá
đói giảm nghèo, nhằm động viên sức mạnh toàn Đảng, toàn Dân, tạo điều kiện giúp
đỡ các hộ nghèo đói vượt qua khó khăn, tự vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo.
Nghị quyết V của Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa VII) đã nhấn
mạnh “Cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế phải tiến hành công tác
XĐGN, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hóa giàu nghèo quá giới hạn
cho phép” Chủ trương XĐGN là chủ trương rất đúng đắn và kịp thời của Đảng -
Nhà nước, hợp với lòng dân nên được các cấp các ngành và toàn dân hưởng ứng
thực hiện rộng rãi trong cả nước và bước đầu có kết quả. Từ 30% nghèo đói của
năm 1991, đã giảm xuống còn 28% năm 1992 và 22% năm 1993. [1]
Sau đó, Bộ LĐTBXH; Tổng cục Thống kê, Bộ Nông nghiệp và Công
nghiệp - Thực phẩm đưa ra chuẩn mực để xác định đói nghèo thời kỳ 1993-1995
(công bố lần thứ I) theo chuẩn này, năm 1995 cả nước có: 2.595.518 hộ nghèo,
chiếm 18,42% tổng số hộ cả nước; 716.184 hộ đói, chiếm 5,08% tổng số hộ cả
1 Theo chuẩn nghèo: TNBQ/ĐN nhỏ hơn 15 kg gạo; điều tra 43/53 tỉnh, thành phố, của BLĐ-TBXH –
Tổng cục Thống Kê.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
19
nước. Theo chuẩn nghèo (lần II) 1996-1997, tỷ lệ nghèo đói giảm từ 20,3% cuối
năm 1995 xuống 19,2% năm 1996 và 17,7% năm 1997.
XĐGN đã trở thành phong trào đều khắp ở các tỉnh, thành phố và hiệu quả
của XĐGN thể hiện rõ. Song, diện đói nghèo vẫn còn nhiều, nên việc triển khai
mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa chủ trương này đang là nhiệm vụ vô cùng quan
trọng của Đảng – Nhà nước ta. Đại hội VIII của Đảng đã xác định “XĐGN là một
trong những chương trình phát triển KTXH vừa cấp bách truớc mắt, vừa cơ bản
lâu dài”. Nghị quyết nhấn mạnh phải thực hiện tốt chuơng trình XĐGN, nhất là đối
với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng và phát triển quỹ
XĐGN bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoải nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng
đối tượng và có hiệu quả. Mục tiêu XĐGN do Đại hội Đảng VIII đề ra là “Giảm tỷ
lệ đói nghèo trong tổng số hộ cả nước từ 20-25% hiện nay xuống còn khỏang 10%
vào năm 2000, bình quân giảm 300 ngàn hộ/năm. Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch
5 năm, tập trung xóa cơ bản hộ đói kinh niên”.
Đại hội này đã đưa ra chủ trương xây dựng phong trào XĐGN trở thành
Chuơng trình Mục tiêu quốc gia XĐGN nhằm nhanh chóng đưa các hộ đói nghèo
thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu sớm hòa nhập với sự phát triển chung
của đất nước cũng là thực hiện cam kết XĐGN tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về
Phát triển xã hội tại Cophenhagen năm 1995. Chủ trương này đã được cụ thể trong
nghị quyết Trung ương IV khóa VIII của Đảng ta.
Thực hiện chủ trương trên, năm 1998 Thủ tướng chính phủ ký Quyết định
133/1998/QĐ-TTg 23/7/1998. Phê duyệt CTMTQG XĐGN thời kỳ 1998-2000 (gọi
tắt là chương trình 133); theo chuẩn mực nghèo của thông báo 1751/LĐBTXH,
20/5/97 (Chuẩn nghèo lần III).
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
20
Nhằm làm giảm sự cách biệt giàu–nghèo, nông thôn–thành thị. Thủ tướng
chính phủ ký Quyết định 135/1998/QĐ-TTg 31/7/1998. Phê duyệt chương trình
phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK).
Với sự chỉ đạo quyết liệt và sự hỗ trợ của chính phủ, sự cố gắng của các cấp
các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư và của chính bản thân người nghèo
chuơng trình đã từng bước đạt được những mục tiêu đề ra.
Theo chuẩn nghèo công bố năm 1995, tỷ lệ hộ nghèo đói giảm nhanh từ
19,23% năm 1996 đến cuối năm 2000 còn 10,0%. Tỷ lệ nghèo đói trung bình mỗi
năm giảm 2% (gần 300.000 hộ). Tổng cộng 5 năm qua giảm 1,5 triệu hộ nghèo
tương đương 7,5 triệu người; riêng hộ đói kinh niên chiếm tỷ lệ gần 1% tổng số hộ
cả nước.
Phát huy tác dụng mạnh mẽ của chương trình MTQG XĐGN thời kỳ 1998–
2000, Thủ tướng chính phủ ký QĐ 143/2001/QĐ-TTg, 27/9/2001. Phê duyệt
CTMT QG XĐGN và Việc làm giai đoạn 2001-2005. Tỷ lệ hộ nghèo từ 10,0%
(2000) tăng lên 17,18% (đầu 2001). Sau 5 năm thực hiện; số hộ nghèo giảm từ
17,18% của năm 2001 xuống còn 6,53% năm 2005 [2].
Phát huy tác dụng mạnh mẽ của chương trình MTQG XĐGN thời kỳ 2001-
2005. Thủ tướng chính phủ ký QĐ 20/2007/QĐ-TTg, ngày 5/02/2007 Phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010. Theo QĐ
170/2005/QĐ-TTg, ngày 8/7/2005, của Thủ tướng chính phủ) áp dụng cho chương
trình mục MTQGGN, giai đoạn 2006-2010 tỷ lệ hộ nghèo từ 6,53% (2005) tăng lên
22% (đầu năm 2006) và đến cuối năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 9,45%.
2 Chuẩn nghèo theo QĐ 1143/2000/QĐ-TBXH 1/11/2000.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
21
Kết thúc chương trình 20, Chính phủ ban hành Nghị quyết 80/NQ-CP,
19/05/2011, về Định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm
2020. Tỷ lệ hộ nghèo từ 9,45% (2010) tăng lên 14,20% (đầu 2011) [3].
Cả nước có 15 tỉnh, thành phố tỷ lệ hộ nghèo dưới 5%, trong đó có 5 tỉnh,
thành phố tỷ lệ hộ nghèo dưới 1% (T/p Hồ Chí Minh; Đà Nẵng; Khánh Hòa; Bà
Rịa-Vũng Tàu và Bình Dương); 21 tỉnh từ 5% đến nhỏ hơn 10%; 10 tỉnh từ 10%
đến nhỏ hơn 15%; 10 tỉnh từ 15% đến nhỏ hơn 20%; 04 tỉnh từ 20% đến nhỏ hơn
25% và 02 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo trên 25% [4].
Tình hình giảm nghèo: Trong năm 2010 có 26,7% số hộ dân cư được hưởng lợi
từ dự án/chính sách giảm nghèo, tăng so với năm 2009 (26,6%), trong đó 10,2% hộ
được hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế, 11,5% hộ được miễn giảm chi phí khám chữa
bệnh cho người nghèo, 9,9% hộ được hưởng tín dụng ưu đãi cho người nghèo.
Trong năm 2010, có 11,2% số hộ dân có vay hoặc còn nợ chương trình tín dụng ưu
đãi cho người nghèo. Nguồn vay chủ yếu của các hộ dân cứ là từ Ngân hàng chính
sách xã hội (chiến 82,6%), tiếp đến là các tổ chức chính trị xã hội (8,1%).
2.4. Nguyên nhân của sự nghèo đói
2.4.1. Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của
nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không
thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực thấp lại
cản trở họ thoát khỏi nghèo đói.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng
tăng lên, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến
việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hóa
sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với giá trị cao hơn. Đa số người
nghèo lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương thức
sản xuất truyền thống với giá trị thấp, thiếu cơ hội thực hiện các phương án sản
xuất mang lợi nhuận cao hơn. Do vẫn theo phương pháp sản xuất truyền thống nên
giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh
tranh trên thị trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó.
3 Chuẩn nghèo công bố lần 6 theo QĐ 09/2011/QĐ-TTg, ngày 30/01/2011, Về việc ban hành chuẩn hộ
nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011–2015.
4 Báo cáo CTMTQGGN giai đoạn 2006-2010, 31/3/2010 - Cục BTXH
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
22
Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch
vụ sản xuất như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; nhiều yếu tố đầu
vào sản xuất như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón... đã làm tăng chi
phí, giảm thu nhập tính trên đơn vị giá trị sản phẩm.
Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng. Sự hạn chế
của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản
xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới... Mặc dù trong khuôn khổ của dự án
tín dụng cho người nghèo thuộc Chương trình XĐGN quốc gia, khả năng tiếp cận
tín dụng đã tăng lên rất nhiều, song vẫn còn khá nhiều người nghèo, đặc biệt là
người rất nghèo, không có khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng. Một mặt, do
không có tài sản thế chấp, những người nghèo, phải dựa vào tín chấp với các khoản
vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác, đa số người
nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng các nguồn vốn vay không
đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn và cuối cùng sẽ
làm cho họ càng nghèo hơn.
Bên cạnh đó, việc thiếu các thông tin, đặc biệt là các thông tin về pháp luật,
chính sách và thị trường, đã làm cho người nghèo ngày càng trở nên nghèo hơn.
2.4.2. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội
kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ bảo đảm nhu
cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để nâng cao trình độ của
mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, trình độ học vấn
thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng
con cái... đến không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai. Suy
dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường
của con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo
dục trở nên khó khăn hơn.
Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng 90%
người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức
sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm
12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo
dục đối với người nghèo còn lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo tiếp cận
được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ
nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên. 80% số người nghèo làm các
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
23
công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp hạn
chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp,
những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn.
2.4.3. Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ
quyền lợi và lợi ích hợp pháp
Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh đặc
biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết các vấn
đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực
hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt; mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng
các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố,
thị xã; phí dịch vụ pháp lý còn cao.
2.4.4. Các nguyên nhân về nhân khẩu học
Quy mô hộ gia đình là "mẫu số" quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập
bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả
của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao. Đông con là một
trong những đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Năm 1998, số con bình quân trên
1 phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với mức 2,1 con của nhóm 20%
giàu nhất. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ người ăn theo cao. (Tỷ lệ người ăn
theo của nhóm nghèo nhất là 0,95 so với 0,37 của nhóm giàu nhất).
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh cao trong các hộ nghèo là
do họ không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khỏe
sinh sản. Tỷ lệ phụ nữ nghèo đặt vòng tránh thai thấp, tỷ lệ nam giới nhận thức đầy
đủ trách nhiệm kế hoạch hóa gia đình và sử dụng các biện pháp tránh thai chưa
cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục,
cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia tăng nhân
khẩu còn hạn chế.
Tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực về lao
động rất thiếu, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói
của họ.
2.4.5. Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác
Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày
và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do
nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên họ khó có khả
năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, mất việc làm,
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
24
thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khỏe...). Với khả năng kinh tế mong manh
của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra
những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ.
Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với người nghèo cũng rất cao, do họ
không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và khắc
phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu nhập hạn hẹp làm cho
hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể còn gặp rủi ro hơn nữa
2.4.6. Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai khoảng từ 1-1,2 triệu
người.
Bình quân hàng năm, số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói
nghèo vẫn còn lớn, do không ít số hộ đang sống bên ngưỡng đói nghèo và rất dễ bị
tác động bởi các yếu tố rủi ro như thiên tai, mất việc làm, ốm đau,...
Các phân tích từ cuộc điều tra hộ gia đình cho thấy các hộ gia đình phải chịu
nhiều thiên tai có nguy cơ dễ lún sâu vào nghèo đói. Do đó, việc tìm kiếm các giải
pháp giảm nhẹ hậu quả thiên tai được coi như là một phần quan trọng của quá trình
XĐGN.
2.4.7. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ em
Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt.
Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng do bất bình
đẳng thì còn có những tác động bất lợi đối với gia đình.
Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ
cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành nông nghiệp. Mặc dù vậy,
nhưng phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khoá khuyến nông về chăn nuôi, và
10% các khoá khuyến nông về trồng trọt.
Phụ nữ có ít cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, thường gặp
nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong hộ
gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại việc.
Phụ nữ có học vấn thấp dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà mẹ cao hơn, sức khỏe
của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn.
Bất bình đẳng giới còn là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ lây
truyền HIV do phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ tình dục.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
25
2.4.8. Bệnh tật và sức khỏe yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng
nghèo đói trầm trọng
Vấn đề bệnh tật và sức khỏe kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi
tiêu của người nghèo, làm họ rơi vào vòng tròn luẩn quẩn của đói nghèo. Họ phải
gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi
phí cao cho việc khám, chữa bệnh, kể cả các chi phí trực tiếp và gián tiếp. Do vậy,
chi phí chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ vay mượn,
cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng càng có ít cơ hội cho
người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo. Trong khi đó khả năng tiếp cận đến các
dịch vụ phòng bệnh (nước sạch, các chương trình y tế...) của người nghèo còn hạn
chế càng làm tăng khả năng bị mắc bệnh của họ.
Tình trạng sức khỏe ở Việt Nam trong thập kỷ qua đã được cải thiện, song tỷ
lệ người nghèo mắc các bệnh thông thường vẫn còn khá cao. Việc cải thiện điều
kiện sức khỏe cho người nghèo là một trong những yếu tố rất cơ bản để họ tự thoát
nghèo.
2.4.9. Những tác động của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách (tự do hóa
thương mại, cải cách doanh nghiệp nhà nước...) đến nghèo đói
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một trong
những nhân tố ảnh hưởng lớn tới mức giảm nghèo. Việt Nam đã đạt được những
thành tích giảm nghèo đói rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên, quá trình phát
triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực đến người nghèo.
- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn
thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi; các trục công nghiệp chính, chú trọng
nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, thu hút nhiều vốn; chưa chú trọng đầu tư các
ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú ý khuyến khích kịp thời phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp (lãi suất tín dụng, trợ giá,
trợ cước...) không đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường
nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa.
- Cải cách các doanh nghiệp nhà nước và các khó khăn về tài chính của các
doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi gần 800.000 việc làm trong giai đoạn
đầu tiến hành cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị mất việc đã gặp rất nhiều
khó khăn trong việc tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói. Phần lớn số người
này là phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp và người lớn tuổi.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
26
- Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tự
do hóa thương mại tạo ra những động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến khích các
doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công nghiệp thu hút nhiều lao
động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tạo việc làm
chưa được quan tâm và tạo cơ hội phát triển. Tình trạng thiếu thông tin, trang thiết
bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp, và năng lực sản xuất
hạn chế đã làm không ít các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản và đẩy công nhân
vào cảnh thất nghiệp, họ sẽ buộc phải gia nhập đội ngũ người nghèo.
- Tăng trưởng kinh tế giúp XĐGN trên diện rộng, song việc cải thiện tình
trạng của người nghèo (về thu nhập, khả năng tiếp cận, phát triển các nguồn lực) lại
phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối lợi ích tăng trưởng
trong các nhóm dân cư bao gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc vào đặc tính của
tăng trưởng. Phân tích tình hình biến đổi về thu nhập của các nhóm dân cư cho
thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn và kết quả đã làm tăng
thêm khoảng cách giàu nghèo.
- Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo còn
thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó khăn. Vốn đầu tư
của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực của nhân dân còn
hạn chế, chủ yếu bằng lao động.
2.5. Nội dung cơ bản của chương trình quốc gia về XĐGN
Giới thiệu một số chương trình mục tiêu quốc gia liên quan đến xóa đói giảm
nghèo
Nhiều năm qua, Đảng và Chính phủ đã ban hành, chỉ đạo thực hiện nhiều
chính sách năng động, phù hợp với mục tiêu kiên trì XĐGN nhanh và bền vững;
đồng thời bảo đảm sự công bằng, dân chủ và an sinh xã hội. Chính phủ đã nỗ lực
triển khai đồng bộ 8 Chương trình mục tiêu quốc gia, huy động nhiều nguồn lực
của xã hội vào cuộc (bao gồm cả Chương trình 134, 135 giai đoạn II và quyết liệt
thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh,
bền vững đối với 61 huyện nghèo) hướng mạnh vào các vùng nông thôn, huyện
nghèo, xã nghèo, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đông dân tộc thiểu số để giảm
nghèo nhanh ở những vùng nghèo nhất.
Các chương trình mục tiêu quốc gia: Chương trình XĐGN và tạo việc làm,
Chương trình phát triển KTXH các xã đặc biệt khó khăn, Chương trình phát triển
giáo dục, y tế, văn hoá, Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng... là các chương trình, dự
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
27
án có tác động trực tiếp nhất đến XĐGN. Vốn đầu tư của các chương trình, dự án
này được thực hiện bằng nhiều nguồn: vốn phân bổ trực tiếp của ngân sách trung
ương, ngân sách địa phương; vốn lồng ghép của các chương trình, dự án; vốn vay
tín dụng; vốn huy động từ cộng đồng; trong đó vốn Ngân sách Nhà nước dự kiến
chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư của chương trình, dự án.
Qua tính toán của các địa phương và các bộ trực tiếp quản lý chương trình,
dự án, nhu cầu của 8 chương trình, dự án quốc gia trong Kế hoạch 5 năm (2001-
2005) khoảng 70-75 nghìn tỷ đồng (khoảng 5-5,5 tỷ USD)
Căn cứ nhu cầu và khả năng huy động, dự kiến kinh phí thực hiện các chương
trình, dự án này trong 5 năm 2001-2005 sẽ tăng gấp đôi so với thực hiện năm 1996-
2000, khoảng 60 nghìn tỷ đồng, trong đó chi từ ngân sách khoảng 1/3.
Cụ thể mục tiêu và dự kiến chi của các chương trình, dự án là:
a. Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và việc làm
Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo, hỗ trợ sản xuất và phát
triển ngành nghề, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác XĐGN, hỗ trợ cho người
nghèo cách làm ăn khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và vay vốn để sản xuất.
Thực hiện hỗ trợ dân di cư đến các vùng kinh tế mới và định canh, định cư ở các xã
nghèo.
Tổng kinh phí cho chương trình này khoảng 22,5 nghìn tỷ đồng.
b. Chương trình mục tiêu quốc gia về Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn
Nhà nước tập trung hỗ trợ một phần cho những vùng có nhiều hộ nghèo,
vùng khó khăn, xây dựng hệ thống cấp nước tập trung, thực hiện chương trình nước
sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, hỗ trợ cho vay không lãi hoặc lãi suất thấp.
Kinh phí cho chương trình dự kiến khoảng 7,1 nghìn tỷ đồng.
c. Chương trình mục tiêu quốc gia về Dân số và Kế hoạch hóa gia đình
Tiến hành quy hoạch và phân bổ lại dân cư giữa các vùng; tiếp tục đầu tư
tăng cường dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho vùng nghèo, vùng khó khăn, vùng sâu,
vùng xa; đầu tư hoàn thiện hệ thống thông tin, nâng cao năng lực quản lý cho đội
ngũ cán bộ làm công tác dân số kế hoạch hóa gia đình.
Kinh phí cho chương trình khoảng 2,5 nghìn tỷ đồng.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
28
d. Chương trình mục tiêu quốc gia Phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch
nguy hiểm và HIV/AIDS
Tập trung thực hiện các dự án: Phòng chống bệnh sốt rét, phòng chống bệnh
bướu cổ, phòng chống bệnh phong, phòng chống bệnh lao, phòng chống bệnh sốt
xuất huyết; thực hiện tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em,
bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng; bảo đảm chất lượng và vệ sinh an toàn thực
phẩm; thực hiện phòng chống HIV/AIDS...
Kinh phí cho chương trình ước tính khoảng 4,5 nghìn tỷ đồng.
e. Chương trình mục tiêu quốc gia về Phát triển văn hoá
Tiếp tục đầu tư, hoàn thiện hệ thống phát thanh, truyền hình trên cả nước,
bảo đảm 90-95% hộ gia đình xem được đài truyền hình và nghe được đài tiếng nói
Việt Nam. Thực hiện đầu tư, dự án chống xuống cấp và tôn tạo các di tích lịch sử,
dự án nghiên cứu, điều tra, bảo tồn một số làng, bản, buôn tiêu biểu và lễ hội truyền
thống đặc sắc của dân tộc ít người. Tiến hành sưu tầm và bảo tồn các giá trị văn
hóa phi vật thể tiêu biểu, xây dựng ngân hàng dữ liệu về văn hóa phi vật thể; xây
dựng các thiết chế văn hóa thông tin cơ sở, xây dựng các mô hình hoạt động văn
hóa thông tin ở làng xã. Bảo đảm tất cả các xã đều có điểm văn hóa xã (điện thoại
liên lạc, thư viện sách báo, phòng hội họp, sinh hoạt chung...).
Kinh phí cho chương trình khoảng 1,3 nghìn tỷ đồng.
f. Chương trình mục tiêu quốc gia về Giáo dục và Đào tạo
Tăng cường củng cố và phát huy kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và xóa
mù chữ, thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tiến hành đổi mới chương
trình, nội dung sách giáo khoa; thực hiện dự án đào tạo cán bộ tin học và đưa tin
học vào nhà trường; chú trọng đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường cơ sở
vật chất các trường học, trường sư phạm, các trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng
nghiệp; xây dựng một số trường đại học, trung học chuyên nghiệp trọng điểm...
Kinh phí cho chương trình khoảng 6 nghìn tỷ đồng.
g. Chương trình phát triển KTXH các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135)
Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, quy hoạch và
xây dựng các trung tâm cụm xã; quy hoạch bố trí lại dân cư; đẩy mạnh phát triển
sản xuất nông lâm nghiệp; đào tạo cán bộ xã, bản, làng, phum sóc. Bảo đảm đến
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
29
năm 2005, về cơ bản các xã có đủ các công trình thiết yếu như hệ thống điện,
trường học, trạm xá, đường giao thông, chợ, cấp nước sạch. Đối với các trung tâm
cụm xã, chủ yếu là xây dựng các phòng khám đa khoa, trường học, trung tâm
khuyến nông, hệ thống cấp điện, nước...
Kinh phí cho chương trình khoảng 7,6 nghìn tỷ đồng.
h. Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng
Đi đôi với bảo vệ hơn 10 triệu ha rừng, tiếp tục trồng mới 1,43 triệu ha, bao
gồm trồng 390 nghìn ha rừng phòng hộ, đặc dụng và trồng rừng sản xuất khoảng 1
triệu ha, thực hiện khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung khoảng 650 nghìn ha,
khoán bảo vệ rừng 2 triệu ha.
Kinh phí dự kiến cho dự án khoảng 8,5 nghìn tỷ đồng.
Ngoài ra, sẽ tiếp tục đầu tư hỗ trợ, huy động cộng đồng và sự đóng góp của
người hưởng lợi để triển khai các dự án đã được cộng đồng quốc tế và chính phủ
các nước giúp đỡ như: dự án đa dạng hóa nông nghiệp; dự án đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng nông thôn; dự án giảm nghèo 6 tỉnh miền núi phía Bắc; dự án giảm
nghèo 5 tỉnh miền Trung; dự án cơ sở nông thôn dựa vào cộng đồng; dự án bảo vệ
rừng và phát triển nông thôn;...
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015
Quyết định 1489/QĐ-Ttg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2012 - 2015, bao gồm các nội dung chính sau đây:
1. Tên Chương trình và cơ quan quản lý Chương trình:
a) Tên Chương trình: Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững
giai đoạn 2012 - 2015 (sau đây viết tắt là Chương trình).
b) Cơ quan quản lý Chương trình: Bộ LDDTB&XH.
2. Mục tiêu của Chương trình:
a) Mục tiêu chung: Cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của
người nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo thuộc
huyện nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng
bãi ngang ven biển và hải đảo; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về công tác
giảm nghèo ở các vùng nghèo; góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức
sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
30
b) Mục tiêu cụ thể:
- Thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo cả nước tăng lên 1,6 lần so với
cuối năm 2011 (riêng các hộ nghèo ở các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc
biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi tăng gấp 2,5 lần); tỷ lệ hộ nghèo cả
nước giảm bình quân 2%/năm (riêng các huyện, xã nghèo giảm 4%/năm) theo
chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2011 - 2015.
- Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách giảm nghèo để cải thiện
điều kiện sống của người nghèo, trước hết là về y tế, giáo dục, văn hóa, nước sinh
hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn với các DVXH cơ bản.
- Cơ sở hạ tầng KTXH ở các huyện, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn
được tập trung đầu tư đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng
thiết yếu như: giao thông, điện, nước sinh hoạt...
c) Các chỉ tiêu chủ yếu cần đạt được đến năm 2015:
- Phấn đấu 10% số huyện nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn theo
Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo (sau
đây viết tắt là Nghị quyết 30a); 50% số xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven
biển và hải đảo và 30% số xã, thôn bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và
miền núi thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn theo tiêu chí do Thủ tướng Chính
phủ quy định.
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh và
dân sinh phù hợp quy hoạch dân cư và quy hoạch sản xuất, kinh doanh. Phấn đấu
đến năm 2015:
+ 85% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa
theo tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ Giao thông - Vận tải;
+ 60% thôn, bản có đường trục giao thông được cứng hóa theo tiêu chuẩn kỹ
thuật của Bộ Giao thông - Vận tải;
+ 100% trung tâm xã có điện; trên 90% thôn, bản có điện phục vụ sinh hoạt
và sản xuất, kinh doanh;
+ Các công trình thủy lợi nhỏ được đầu tư đáp ứng 80% nhu cầu tưới tiêu
cho diện tích cây trồng hằng năm.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
31
- Thu nhập của hộ nghèo tham gia mô hình tăng 15 - 20%/năm; bình quân
mỗi năm có 10% hộ tham gia mô hình thoát nghèo.
- 100% cán bộ, công chức xã, trưởng thôn, bản và cán bộ đoàn thể được tập
huấn về: kiến thức, kỹ năng quản lý và tổ chức thực hiện các chương trình, chính
sách, dự án; lập kế hoạch có sự tham gia của người dân; phát triển cộng đồng.
3. Đối tượng và phạm vi thực hiện của Chương trình
a) Đối tượng: Người nghèo, hộ nghèo; ưu tiên người nghèo là người dân tộc
thiểu số, người cao tuổi, người khuyết tật, phụ nữ và trẻ em.
b) Phạm vi thực hiện: Chương trình được thực hiện trên phạm vi cả nước; ưu
tiên nguồn lực của Chương trình đầu tư trên địa bàn trọng điểm sau:
- Huyện nghèo;
- Xã nghèo (xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi; xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; xã biên giới và xã an
toàn khu);
- Thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
4. Thời gian thực hiện Chương trình: từ năm 2012 đến năm 2015.
5. Tổng kinh phí cho Chương trình:
Tổng kinh phí cho Chương trình: 27.509 tỷ đồng, dự kiến huy động từ các
nguồn:
- Ngân sách trung ương: 20.509 tỷ đồng (trong đó 17.972 tỷ đồng vốn đầu tư
phát triển và 2.537 tỷ đồng vốn sự nghiệp);
- Ngân sách địa phương: 4.000 tỷ đồng;
- Viện trợ nước ngoài và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác: 3.000 tỷ
đồng.
6. Các dự án thành phần của Chương trình:
a) Dự án 1: Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó
khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo
Tiểu dự án 1: Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các huyện nghèo
+ Mục tiêu: Tăng cường cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất, kinh
doanh và dân sinh ở các huyện nghèo, thực hiện mục tiêu theo Nghị quyết 30a đến
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
32
năm 2015; tăng cường năng lực cho người dân và cộng đồng để phát huy hiệu quả
các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư, từng bước phát huy lợi thế về
địa lý, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
+ Đối tượng: Các huyện nghèo.
+ Nhiệm vụ chủ yếu:
- Hoàn thiện đường giao thông từ huyện đến trụ sở Ủy ban nhân dân các xã và hệ
thống giao thông trên địa bàn xã;
- Hoàn thiện hệ thống các công trình bảo đảm cung cấp điện phục vụ sinh hoạt và
sản xuất, kinh doanh trên địa bàn xã;
- Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn hóa trên
địa bàn xã gồm: Trạm chuyển tiếp phát thanh xã; nhà văn hóa xã, thôn, bản;
- Hoàn thiện hệ thống các công trình để bảo đảm chuẩn hóa về y tế trên địa bàn
huyện nghèo, xã nghèo;
- Hoàn thiện hệ thống các công trình để bảo đảm chuẩn hóa về giáo dục trên địa
bàn huyện nghèo, xã nghèo;
- Cải tạo, xây mới hệ thống thủy lợi trên địa bàn huyện nghèo, xã nghèo;
- Đầu tư trung tâm dịch vụ tổng hợp về nông, lâm, ngư nghiệp trên địa bàn huyện
nghèo;
- Đầu tư cơ sở dạy nghề tổng hợp (bao gồm cả nhà ở cho học viên) ở các huyện
nghèo;
- Duy tu, bảo dưỡng các công trình hạ tầng cơ sở các huyện nghèo.
+ Phân công thực hiện: Bộ LDDTB&XH chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan chỉ đạo tổ chức thực hiện Dự án.
Tiểu dự án 2: Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi
ngang ven biển và hải đảo
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
33
+ Mục tiêu: Tăng cường cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất, kinh doanh
và dân sinh ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, góp
phần thúc đẩy phát triển KTXH, cải thiện đời sống của người dân, giảm nghèo
nhanh và bền vững.
+ Đối tượng: Các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo.
+ Nhiệm vụ chủ yếu:
- Hoàn thiện đường giao thông nông thôn phục vụ sản xuất, kinh doanh và dân
sinh;
- Hoàn thiện hệ thống các công trình bảo đảm cung cấp điện phục vụ sinh hoạt và
sản xuất, kinh doanh;
- Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn hóa,
thể thao trên địa bàn xã;
- Đầu tư chuẩn hóa trạm y tế xã;
- Hoàn thiện hệ thống các công trình để bảo đảm chuẩn hóa về giáo dục;
- Đầu tư bờ bao chống triều cường, kè, công trình thủy lợi, trạm bơm cấp nước
biển cho nuôi trồng thủy sản hoặc làm muối;
- Duy tu, bảo dưỡng các công trình hạ tầng cơ sở các xã đặc biệt khó khăn vùng
bãi ngang ven biển và hải đảo.
+ Phân công thực hiện: Bộ LDDTB&XH chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan chỉ đạo tổ chức thực hiện Dự án.
+ Vốn và nguồn vốn
Tổng nhu cầu vốn thực hiện: 11.080 tỷ đồng, trong đó:
- Ngân sách trung ương: 8.180 tỷ đồng;
- Ngân sách địa phương: 2.000 tỷ đồng;
- Viện trợ nước ngoài và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác: 900 tỷ đồng.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
34
b) Dự án 2: Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên
giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn
- Mục tiêu: Tăng cường cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất, kinh
doanh và dân sinh ở các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các
thôn, bản đặc biệt khó khăn, góp phần thúc đẩy phát triển KTXH, cải thiện đời
sống của người dân, giảm nghèo nhanh và bền vững.
- Đối tượng: Các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn,
bản đặc biệt khó khăn.
- Nhiệm vụ chủ yếu:
+ Hoàn thiện hệ thống đường giao thông nông thôn phục vụ sản xuất, kinh
doanh và dân sinh trên địa bàn xã, thôn, bản;
+ Hoàn thiện hệ thống các công trình bảo đảm cung cấp điện phục vụ sinh
hoạt và sản xuất, kinh doanh trên địa bàn xã, thôn, bản;
+ Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn hóa
trên địa bàn xã gồm: Trạm chuyển tiếp phát thanh xã; nhà văn hóa, nhà sinh hoạt
cộng đồng ở xã, thôn, bản;
+ Hoàn thiện các công trình để bảo đảm chuẩn hóa trạm y tế trên địa bàn xã;
+ Hoàn thiện hệ thống các công trình để bảo đảm chuẩn hóa giáo dục trên địa
bàn xã; xây dựng lớp tiểu học, mẫu giáo, nhà trẻ, nhà ở giáo viên, trang bị bàn ghế,
điện, nước sinh hoạt, công trình phụ trên địa bàn thôn, bản;
+ Cải tạo, xây mới hệ thống thủy lợi trên địa bàn xã, thôn, bản;
+ Duy tu, bảo dưỡng các công trình hạ tầng cơ sở ở các xã đặc biệt khó khăn,
xã biên giới, xã an toàn khu; các thôn, bản đặc biệt khó khăn.
- Vốn và nguồn vốn:
Tổng nhu cầu vốn thực hiện: 12.392 tỷ đồng, trong đó:
+ Ngân sách trung ương: 9.792 tỷ đồng;
+ Ngân sách địa phương: 1.700 tỷ đồng;
+ Viện trợ nước ngoài và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác: 900 tỷ
đồng.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
35
- Phân công thực hiện: Ủy ban Dân tộc chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan chỉ đạo tổ chức thực hiện Dự án.
c) Dự án 3: Nhân rộng mô hình giảm nghèo
- Mục tiêu: Nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả, phù hợp nhằm
nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh và đa dạng hóa về thu nhập cho người
nghèo, hộ nghèo; tạo cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận các chính sách, nguồn lực
thị trường (thị trường vốn, lao động, đất đai, khoa học kỹ thuật - công nghệ và thị
trường hàng hóa đầu vào, đầu ra...) hướng đến phát triển sản xuất và dịch vụ, tăng
nhanh thu nhập, góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững.
- Đối tượng: Người nghèo, hộ nghèo, ưu tiên chủ hộ là nữ và hộ nghèo dân
tộc thiểu số trên địa bàn huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
- Nhiệm vụ chủ yếu:
+ Hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển ngành nghề; nhân rộng
các mô hình khuyến nông - lâm - ngư ở các vùng đặc thù, chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật cho lao động nghèo; hỗ trợ nhân rộng các mô hình sản xuất chuyên canh theo
hướng sản xuất hàng hóa;
+ Hỗ trợ hộ nghèo và cộng đồng tham gia liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ
sản phẩm; nhân rộng mô hình giảm nghèo liên kết giữa hộ nghèo với doanh nghiệp;
hỗ trợ kết nối hộ nghèo với thị trường thông qua phát triển các đơn vị cung cấp
dịch vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm;
+ Nhân rộng mô hình giảm nghèo gắn với an ninh - quốc phòng cho hộ
nghèo ở xã biên giới;
+ Thí điểm thực hiện mô hình tạo việc làm công cho người nghèo thông qua
thực hiện đầu tư các công trình hạ tầng quy mô nhỏ;
+ Thí điểm thực hiện mô hình sản xuất nông - lâm kết hợp, tạo việc làm cho
người nghèo gắn với trồng và bảo vệ rừng;
+ Thí điểm thực hiện mô hình phân cấp, trao quyền cho cơ sở, người dân
trong tổ chức thực hiện chương trình;
+ Nhân rộng các mô hình giảm nghèo đã được thử nghiệm thành công khác
do các địa phương, các tổ chức quốc tế đã thực hiện.
- Vốn và nguồn vốn:
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
36
Tổng nhu cầu vốn thực hiện: 2.850 tỷ đồng, trong đó:
+ Ngân sách trung ương: 2.000 tỷ đồng;
+ Ngân sách địa phương: 250 tỷ đồng;
+ Viện trợ nước ngoài và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác: 600 tỷ
đồng.
- Phân công thực hiện: Bộ LDDTB&XH chủ trì, phối hợp với Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, các Bộ liên quan hướng dẫn thực hiện.
d) Dự án 4: Hỗ trợ nâng cao năng lực giảm nghèo, truyền thông và giám sát
đánh giá thực hiện Chương trình
- Mục tiêu: Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ giảm nghèo các cấp; tuyên
truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng, người dân, các cấp, các ngành về ý
nghĩa và tầm quan trọng của giảm nghèo và cách tiếp cận về giảm nghèo bền vững;
thiết lập hệ thống giám sát, đánh giá đồng bộ, toàn diện đáp ứng yêu cầu quản lý,
thực hiện Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về
Định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 (sau đây viết
tắt là Nghị quyết 80).
- Đối tượng:
+ Người nghèo, hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư;
+ Đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo các cấp.
- Nhiệm vụ chủ yếu:
+ Nâng cao năng lực giảm nghèo:
Tổ chức đối thoại chính sách, xác định nhu cầu và năng lực tham gia của người
dân;
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch nâng cao năng lực cộng đồng; kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác giảm nghèo;
Xây dựng kế hoạch và tổ chức tham quan, trao đổi kinh nghiệm giữa các địa
phương; tổ chức hội thảo, hội nghị trong nước và quốc tế về giảm nghèo.
+ Truyền thông về giảm nghèo:
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
37
Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình truyền thông trên phương tiện
thông tin đại chúng về định hướng giảm nghèo bền vững, Chương trình mục
tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012 - 2015;
Xây dựng và phát triển mạng lưới cán bộ tuyên truyền viên, báo cáo viên về
giảm nghèo các cấp;
Xây dựng trang tin điện tử về giảm nghèo.
+ Hoạt động giám sát, đánh giá thực hiện Chương trình:
Xây dựng khung và hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá chính sách, Chương
trình, dự án giảm nghèo; khung kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết 80;
Xây dựng tài liệu hướng dẫn và tổ chức tập huấn về thiết lập, cập nhật, khai thác
thông tin theo dõi, giám sát giảm nghèo cho cán bộ quản lý các cấp;
Tổ chức việc theo dõi, giám sát và đánh giá việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo
hằng năm ở các cấp; đánh giá giữa kỳ Chương trình;
Thiết lập cơ sở dữ liệu và phần mềm quản lý dữ liệu về giảm nghèo ở cấp trung
ương, tỉnh và huyện; nâng cao năng lực vận hành hệ thống giám sát, đánh giá và
cập nhật thông tin về giảm nghèo.
- Vốn và nguồn vốn:
Tổng nhu cầu vốn thực hiện: 1.187 tỷ đồng, trong đó:
+ Ngân sách trung ương: 537 tỷ đồng;
+ Ngân sách địa phương: 50 tỷ đồng;
+ Viện trợ nước ngoài và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác: 600 tỷ
đồng.
CÂU HỎI ÔN TẬP BÀI 1
1. Thế nào là nghèo đói? Phân tích tình hình nghèo đói hiện nay ở Việt nam?
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
38
2. Hãy làm rõ khái niệm Người nghèo, Hộ nghèo? Chuẩn nghèo của Việt Nam có
sự khác biệt giữa các vùng hay không? Nêu các chuẩn nghèo hiện nay?
3. Phân tích những thách thức trong xóa đói giảm nghèo hiện nay ở Việt Nam?
Liên hệ thực tiễn tại địa phương?
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
39
BÀI 2: TÁC ĐỘNG CỦA NGHÈO ĐÓI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH
1. Đặc điểm của người nghèo, hộ nghèo
1.1. Người nghèo
1.1.1. Đặc điểm tâm lý
Do hoàn cảnh nghèo khó, người nghèo thường có mặc cảm cho thân phận
của mình. Người nghèo thường rụt rè, tự ti, ít tiếp xúc, phạm vi giao tiếp hẹp. Họ
thường không mạnh dạn tham gia vào các hoạt động mang tính tập thể, không dám
mơ ước mà làm những việc lớn lao, quan trọng, và họ thường luôn nghĩ rằng mình
không bao giờ làm được những việc như thế. Bị hạn chế bởi tính tự ti nên họ không
dám vươn lên học hỏi những kiến thức mới, hiện đại, từ đó dẫn đến hạn chế về khả
năng nhận thức và kỹ năng sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, người nghèo thường
tổ chức sản xuất theo thói quen, chưa biết mở mang ngành nghề và chưa có điều
kiện tiếp xúc với thị trường. Do đó sản xuất mang nặng tính tự cung, tự cấp.
Bên cạnh đó, người nghèo thường có tâm lý chán nản, buông xuôi, phó mặc
cam chịu số phận, thiếu nghị lực và sự cố gắng cần thiết để vươn lên làm chủ hoàn
cảnh, làm chủ cuộc đời mình. Họ có tâm lý bằng lòng với cuộc sống hiện tại, chấp
nhận cuộc sống nghèo khó, thiếu thốn.
Một bộ phận người nghèo có tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà
nước, của các cá nhân và tổ chức từ thiện, không có hoặc mất hẳn ý chí vươn lên.
Nguyên nhân của hiện tượng tâm lý này là do chính bản thân người nghèo và
môi trường xã hội xung quanh họ. Một mặt, người nghèo không được đảm bảo các
nhu cầu cơ bản; họ thường không có điều kiện học hành lâu dài, không có điều kiện
giao lưu, tiếp xúc và mở rộng các mối quan hệ nên vốn tri thức, sự hiểu biết của hộ
rất hạn chế. Mặt khác, cũng từ đặc điểm trên mà xã hội không tin tưởng và thừa
nhận sự tham gia của họ, ý kiến đóng góp củ họ cũng khó được mọi người chấp
nhận.
Người nghèo cũng có những tiềm năng nhất định chỉ có điều chính họ có
nhận ra điều đó hay không và cơ hội để thể hiện và phát triển nó như thế nào mà
thôi. Chính sự mặc cảm, tự ti, người nghèo không nhận ra hết những giá trị và tiềm
năng sẵn có của mình và cũng chưa có môi trường thuận lợi để thể hiện và bồi
dưỡng những tiềm năng đó. Vì vậy, xã hội cần tạo môi trường thuận lợi cho họ thể
hiện tiềm năng của mình, nâng cao năng lực, xóa bỏ tâm lý mặc cảm tự ti. Người
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
40
nghèo rất cần được xã hội cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ. Họ rất cần được sự quan
tâm, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi nhất để họ tham gia vào các hoạt động
cộng đồng, chia sẻ những khó khăn, thiếu thốn và cả những kỹ năng sống đời
thường.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế
Người và gia đình người nghèo có một đặc trưng cơ bản là kinh tế nghèo
nàn, thiếu thốn mọi bề. Có thể nói người nghèo không có tài sản nào đáng giá, càng
không có “của ăn, của để” để phòng khi “sa cơ lỡ vận” hoặc khi “trái nắng trở trời”,
họ không có đủ dư dật để phòng khi gặp bất trắc, tai họa trong cuộc sống mà thiên
tai, dịch bệnh hoặc những rủi ro khác mang lại.
Nhà ở của người nghèo thường là loại nhà cấp 4, xập xệ, ọp ẹp, dột nát,
không đủ khả năng để trụ lại sau những cơn bão lũ. Trong nhà không có vật dụng
gì đáng kể có giá trị được gọi là tài sản. Người nghèo không có vốn liếng để đầu tư
cho sản xuất, cho giáo dục và chăm sóc y tế.
Người nghèo thường rụt rè, tự ti, ít tiếp xúc, phạm vi giao tiếp hẹp. Bị hạn
chế về khả năng nhận thức và kỹ năng sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, người
nghèo thường tổ chức sản xuất theo thói quen, chưa biết mở mang nghành nghề và
chưa có điều kiện tiếp xúc với thị trường. Do đó sản xuất mang nặng tính tự cung,
tự cấp.
Người nghèo thường sử dụng vốn vào sản xuất nông nghiệp là chủ yếu hoặc
là những ngành nghề thủ công buôn bán nhỏ. Do vậy mà nhu cầu vốn thường mang
tính thời vụ.
Do không có điều kiện về kinh tế nên người nghèo thường ở rải rác ở những
vùng sâu, vùng xa. Họ thường tập trung ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới hải đảo, vùng bãi ngang ven biển, vùng dân tộc thiểu số. Đó là
những nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt không thuận lợi cho việc làm ăn, giao
thông đi lại khó khăn, phong tục tập quán còn quá lạc hậu. Tất cả những cái đó trở
thành cái vòng trói vô hình, cột chặt cuộc sống và số phận của họ trong nghèo đói
và khó khăn không thoát ra được.
Về cơ bản, người nghèo thiếu các loại vốn cần thiết để tồn tại bình thường và
vươn lên:
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
41
+ Vốn con người : Dân trí thấp, ít trải nghiệm, thiếu kỹ năng sống cần thiết,
sức khỏe về thể chất và tinh thần kém do không được hưởng đầy đủ sự giáo dục và
chăm sóc y tế.
+ Vốn xã hội : Ít giao lưu học hỏi, giao tiếp hạn chế, các mối quan hệ hạn
hẹp chủ yếu là các mối quan hệ với người thân ruột thịt và bà con trong địa
phương, cộng đồng.
+ Vốn tài sản : Chẳng có gì đáng kể để xác định là tài sản, thiếu tiền mặt để
đảm bảo cuộc sống và đầu tư cho sản xuất, giáo dục, y tế
+ Vốn tự nhiên : Nghèo nàn, khắc nghiệt
Chính vì vậy, nhà nước ta đã có chính sách TGXH đối với người và gia đình
nghèo nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho họ; đồng thời triển khai thực hiện một loạt
các chính sách xã hội khác để từng bước giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo đói như
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, chương trình mục tiêu quốc gia về
việc làm, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án lớn phát triển kinh tế theo
vùng, miền, đồng thời tăng cường cung cấp các DVXH cơ bản cho người nghèo,
vùng dân nghèo.
1.1.3. Thiếu điều kiện chăm sóc y tế và sức khỏe
Người nghèo rất thiếu điều kiện trong việc chăm sóc y tế và bảo vệ sức khỏe.
Người nghèo gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, môi trường tự nhiên khắc nghiệt,
vốn tri thức và hiểu biết xã hôi ít, thiếu thông tin nên người nghèo càng gặp khó
khăn trong chăm sóc y tế và bảo vệ sức khỏe. Trạm y tế, bệnh viện huyện, tỉnh xa
xôi, chi phí tốn kém; điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, không đảm bảo vệ sinh; tập tục
sinh hoạt, chữa bệnh lạc hậu, mê tín dị đoan là những cản trở lớn đối với người
nghèo trong chăm sóc y tế và bảo vệ sức khỏe. Người nghèo thường ăn uống không
đủ dinh dưỡng và đúng cách nên tình trạng suy dinh dưỡng còn cao, khả năng lây
truyền bệnh tật lớn, khả năng miễn dịch, kháng bệnh còn thấp, sức khỏe nhanh
chóng giảm sút.
Mặt khác, điều kiện chăm sóc y tế cho nhân dân nói chung và cho người
nghèo nói riêng ở cơ sở còn thấp. Trên thực tế và theo khảo sát của Bộ Y tế, hệ
thống chăm sóc sức khỏe ở tuyến cấp huyện thì xuống cấp, tuyến cấp xã không
được đầu tư và quan tâm đúng mức, thiếu cán bộ chuyên môn có trình độ và tay
nghề cao, nhiều cán bộ y tế không được tổ chức tập huấn nâng cao trình độ. Bên
cạnh đó, hoạt động tuyên truyền vệ sinh môi trường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
42
còn bỏ ngỏ ở nhiều nơi, nhất là ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, nơi
tập trung nhiều người nghèo sinh sống. Tình trạng này làm cho các tuyến y tế trên
thì quá tải và chi phí tốn nên người nghèo rất khó tiếp cận với các dịch vụ y tế có
chất lượng cao.
Tình trạng nghèo khó, thiếu thốn cơ sở hạ tầng cũng như trình độ chuyên
môn của nhân viên y tế kém của các cơ sở y tế ở các vùng nghèo đã làm cho người
nghèo tiếp cận với chăm sóc y tế đã khó khăn lại càng khó khăn nhiều hơn.
Điều kiện địa lý cũng là một rào cản trong việc khám, chữa bệnh cho người
nghèo. Các thống kê cho thấy người dân sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đến
khám, chữa bệnh ở các cơ sở y tế tuyến trên thấp hơn người dân sống ở miền xuôi.
Người nghèo sống ở miền núi tiếp xúc với y tế tuyến xã và huyện là chủ yếu. Có
đến 70% số người nghèo sống ở miền núi sử dụng tuyến xã, cao hơn nhiều so với
người nghèo sống ở miền xuôi. Nếu so sánh riêng trong những người nghèo thì khả
năng tiếp cận các bệnh viện tuyến trên của người nghèo sống ở miền núi chỉ bằng
một phần ba so với người nghèo sống ở miền xuôi. Nếu xem xét các tác động kép
giữa yếu tố kinh tế và địa lý thì khả năng tiếp cận cơ sở y tế tuyến trên của người
nghèo sống tại miền núi thấp hơn người nghèo sống ở miền xuôi khoảng sáu lần.
Như vậy khả năng tiếp cận cơ sở y tế tuyến trên của người nghèo vốn đã khó khăn
thì đối với người nghèo sống tại miền núi còn khó khăn hơn nhiều.
Thêm nữa, dịch vụ y tế ở miền núi có chất lượng thấp hơn và chi phí ít hơn
các dịch vụ y tế ở miền xuôi. Nhiều tỉnh, huyện miền núi không có hoặc không sử
dụng được các thiết bị chẩn đoán, điều trị hiện đại cũng như không thực hiện được
các phẫu thuật, thủ thuật phức tạp chi phí cao. Một nghiên cứu về y tế cơ sở thực
hiện năm 2010 cho thấy chất lượng dịch vụ y tế tuyến xã không cao và năng lực
chuyên môn của các y, bác sĩ tuyến xã còn nhiều hạn chế. Đây là thách thức không
nhỏ trong công tác chăm sóc sức khỏe người nghèo. Nếu khó khăn về tài chính
được cải thiện, nhưng chất lượng dịch vụ y tế ở tuyến dưới vẫn thấp thì người
nghèo vẫn không được sử dụng các chất lượng dịch vụ y tế có chất lượng phù hợp
nhu cầu.
Bên cạnh đó, môi trường sống của người nghèo vốn trước đây rất trong lành
thì nay do nhiều nguyên nhân khác nhau trong phát triển KTXH và do ý thức bảo
vệ môi trường kém nên đã làm cho môi trường nơi họ sống nhiều nơi bị ô nhiễm
nặng nề, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân và làm tăng nguy cơ phát
sinh và lây lan các loại dịch bệnh.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
43
1.1.4. Điều kiện tham gia giáo dục
Nhìn chung, mức độ tham gia giáo dục của người nghèo thấp. Vì cuộc sống
nghèo khó, người nghèo phải lo vật lộn với cuộc sống hành ngày để kiếm miếng
cơm manh để mưu sinh và tần tại. Với bao khó khăn, vất vả, người nghèo chẳng có
đủ tiền bạc và thời gian để chăm lo cho chuyện học hành. Nhìn nhận một cách tổng
thể thì trình độ học vấn của người nghèo rất thấp, số năm đi học bình quân trên đầu
người không cao, họ thiếu kiến thức phổ thông, thiếu kỹ năng tư duy độc lập, sáng
tạo.
Mặt khác, do người nghèo thường sống ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, địa
hình hiểm trở, thiên nhiên khắc nghiệt nên ở những nơi đó rất thiếu các điều kiện
cần thiết cho học tập và giáo dục. Cụ thể là, trường lớp đơn sơ, trình độ giáo viên
thấp, nội dung giáo dục nghèo nàn, các phương tiện hỗ trợ cho giáo dục và học tập
rất thiếu thốn. Đội ngũ giáo viên ít được đi tập huấn, cập nhật các nội dung giáo
dục hiện đại và các phương pháp giảng dạy mới. Con em của nhiều gia đình nghèo
hàng ngày phải đi bộ hàng chục cây số mới đến được trườngnên các em thường
không mà lắm với chuyện học tập.
Những điều trên tạo ra cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói, cuộc sống vất vả
mưu sinh, không có tiền đầu tư cho học tập, giao lưunên họ nghèo cả kiến thức,
nghèo cả vốn liếng xã hội vì vậy dần dần họ càng trở nên thiếu năng lực tháo gỡ và
thoát ra khỏi cuộc sống nghèo đói.
Với nhiều chính sách xã hội ngày càng hoàn thiện và nâng cao, Nhà nước ta
cũng rất quan tâm và từng bước cải thiện, hỗ trợ nâng cao chất lượng sống về mọi
mặt của người nghèo. Tuy nhiên so với thực tế của họ thì người nghèo vẫn cần rất
nhiều sự hỗ trợ để cải thiện cuộc sống, XĐGN, nâng cao dân trí, được cung cấp
nhiều loại dịch vụ. Việc này không chỉ trông chờ vào sự giúp đỡ của cấp trung
ương mà còn cả sự giúp đỡ của các địa phương, các ngành, các tổ chức chính trị -
xã hội, các cộng đồng dân cư chung tay giúp đỡ người nghèo. Đặc biệt, rất cần sự
cầu thị một cách thực sự, có ý chí và trách nhiệm vươn lên thì số phận của họ mới
thay đổi được.
Ở các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, biên giới hải đảo, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số các đối tượng người nghèo còn đang phải sống trong điều kiện thiên
nhiên khắc nghiệt, xã hội khó khăn, phong tục tập quán lạc hậu, vẫn duy trì tập tục
sinh hoạt lạc hậu, không coi trọng sự học nên việc thoát nghèo sẽ gặp phải những
rào cản lớn. Nhà nước và các tổ chức xã hội không chỉ hỗ trợ vật chất cho người
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
44
nghèo mà cần phải tuyên truyền vận động học có ý thức vươn lên, tự thân vượt khó
để thoát nghèo. Muốn vậy, người nghèo không chỉ cần cù, chịu khó tham gia lao
động sản xuất mà còn phải tích cực học tập nâng cao trình độ của mình. Tùy từng
điều kiện và hoàn cảnh và độ tuổi mà người nghèo có thể lựa chọn các hình thức
học tập phù hợp. Họ có thể học tập qua sách vở, học qua trường lớp, học qua trao
đổi kinh nghiệm lẫn nhau, học qua các phương tiện truyền thông, qua các lớp tập
huấn ngắn hạn. Nội dung học cho người nghèo phải phong phú, thiết thực, không
qua hàn lâm như kiến thức về pháp luật, kiến thức về chăn nuôi, trồng trọt, tăng gia
sản xuất, kỹ năng xử lý các tình huống thường gặp, học nghề Việc học tập trước
hết là để nâng cao dân trí cho người nghèo, sau đó là bồi đắp vốn liếng xã hội, mở
mang hiểu biết và kiến thức cuộc sống, kiến thức sản xuất kinh doanh, kiến thức
nghề nghiệp. Các chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn trong những năm
qua đã làm cho cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn có nhiều thay đổi tích
cực, là điều kiện tích cực để người nghèo và những địa phương nghèo thoát được
cuộc sống khó khăn, mở ra tương lai tươi sáng cho họ.
1.1.5. Mức độ tiếp cận các DVXH cơ bản khác
Nghèo tiếp cận đã làm vững chắc hơn nữa cái nghèo thu nhập và vòng luẩn
quẩn đói nghèo. Người nghèo không tiếp cận được với rất nhiều dịch vụ và cơ sở
hạ tầng cơ bản, từ giao thông, giáo dục, nguồn vốn, nước sạch, nhà ở, an sinh xã
hội, thông tin và chính sách.
Chỉ cần bị nợ nần, họ đã không thể lọt vào danh sách đạt tiêu chuẩn cho vay
ưu đãi của địa phương và chỉ còn cách vay nóng ngoài chợ. Chỉ cần một vụ thu
hoạch thua lỗ, con cái họ đã không thể tiếp cận được với giáo dục.
Thiếu tiếp cận những dịch vụ và hạ tầng cơ bản nhất, người nghèo càng dễ bị
bệnh tật, và chính họ lại phải chi trả nhiều hơn cho chi phí khám chữa bệnh do
thiếu những chế độ bảo hiểm, an sinh. Chỉ cần bị bệnh nhẹ phải mua thuốc, cuộc
sống của họ lập tức bấp bênh thiếu hụt. Bệnh nặng, nhiều gia đình trở thành khánh
kiệt phải bán hết tài sản đất đai chữa bệnh, hoặc chọn lựa không chữa trị vì quá tốn
kém. Trẻ em thường phải nghỉ học, lao động sớm và chấp nhận một cuộc sống dễ
tổn thương như những em bé phải mưu sinh nặng nhọc và bị bạo hành dã man thời
gian gần đây.
Thiếu tiếp cận với thông tin và chính sách làm cho người nghèo trở thành
nạn nhân của rất nhiều nhân tố: vay nặng lãi, mua vật tư chất lượng kém, nông
sản/sản phẩm bị ép giá, thiếu hiểu biết về thị trường và công nghệ mới, không nắm
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
45
vững chính sách và định hướng phát triển để có thể có những ứng xử thích hợp và
nhạy bén hơn
Ngay cả những chương trình cho chính người nghèo, họ cũng không nắm rõ.
Trong một cuộc điều tra hộ gia đình, phần lớn người nghèo nói họ không hề biết
các tiêu chí để chọn hộ nghèo và thoát nghèo, không hiểu tại sao mình “có sổ” rồi
lại “mất sổ” (hộ nghèo). Được hỏi lý do thoát nghèo, một gia đình nói: “Tui cũng
không biết tại sao, thấy trên xã tới mượn lại cuốn sổ làm gì đó, rồi không trả nữa,
bây giờ mới biết là tui không còn trong danh sách hộ nghèo”.
Tất cả các chương trình XĐGN của các cơ quan chính phủ và phi chính phủ
đều có khẩu hiệu nôm na là: giúp người nghèo tự giúp chính họ. Trong khi đó,
người nghèo sống trong tình trạng mù thông tin và không tiếp cận với nhiều
phương tiện, dịch vụ cơ bản và chính sách, làm cách nào mà họ có thể đủ sức giúp
chính họ?
Mức độ tiếp cận các DVXH cơ bản của người nghèo rất hạn chế do các
nguyên nhân sau:
- Trình độ nhận thức của người nghèo thấp, ít hiểu biết, các mối quan hệ giap
lưu, giao tiếp hẹp, thiếu thông tin về các dịch vụ hỗ trợ.
- Số đông người nghèo sống ở nhẽng vùng khó khăn, tồn tại nhiều phong tục
tập quán lạc hậu nên đôi khi họ không thích ứng với những DVXH được cung cấp.
- Cơ chế có lúc không phù hợp, thủ tục hành chính phức tạp, nhiêu khê nên
người nghèo ngại tìm đến các DVXH.
- Một nguyên nhân khác, do người đại diện ở cấp cơ sở cũng không am hiểu
tường tận về các chính sách và dịch vụ hỗ trợ người nghèo, không thấy hết được
tầm quan trọng trong việc cung cấp các DVXH cơ bản cho mọi người nói chung và
người nghèo nói riêng.
Từ những nguyên nhân phân tích ở trên đòi hỏi các cấp chính quyền, các cơ
quan chức năng ở cấp cơ sở phải nâng cao trách nhiệm để mang đén cho người dân
nói chung và người nghèo nói riêng những DVXH cơ bản để họ cải thiện được môi
trường sống như: nhà cửa, nước sinh hoạt, các thủ tục pháp lý, thông tin truyền
thông, văn hóa, văn nghệ cần thiết, chăm sóc y tế và bảo vệ sức khỏe
1.1.6. Mức độ tham gia
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
46
Người nghèo thiếu thốn mọi thứ, cộng thêm tâm lý rụt rè, e sợ tự ti nên
người nghèo rất ngại tham gia các hoạt động tập thể. Nếu phải tham gia thì họ cũng
rất e ngại khi phải trình bày ý kiến, quan điểm, hơn nữa họ lại không đủ tri thức, sự
hiểu biết để tham gia tích cực. Chính vì điều này mà người nghèo thường không có
chính kiến, tiếng nói trong cộng đồng. Người nghèo cũng không được tham gia vào
các hoạt động của cộng đồng, địa phương với tư cách tham mưu, đóng góp ý kiến
và quyết định các vấn đề của cộng đồng. Nếu chúng ta không thực sự quan tâm tới
họ, tạo điều kiện cho họ thể hiện mình và tham gia vào các hoạt động của cộng
đồng thì chúng ta không thể biết họ như thế nào, họ cần ở xã hội cái gì để thay đổi
tâm lý, thay đổi cách nghĩ, cách tư duy, thay đổi quan điểm sống, thay đổi cuộc
sống khó khăn của họ.
Cũng từ mức độ tham gia hạn chế đó mà người nghèo ít có cơ hội giao lưu
học hỏi để nâng cao sự hiểu biết, học hỏi kinh nghiệm từ người khác, trải nghiệm
cuộc sống, ngày càng được “xã hội hóa” hoàn thiện hơn, được thừa nhận và khẳng
định. Nếu được động viên, hỗ trợ tạo điều kiện để người nghèo được tham gia vào
các hoạt động của tập thể và cộng đồng thì sẽ nâng cao ở họ khả năng hội nhập, khả
năng tự khẳng định mình.
1.1.7. Khả năng ra quyết định
Thiếu hoặc không có khả năng ra quyết định là hạn chế lớn ở người nghèo.
Người nghèo thường khó có thể phân tích, nhận thức đầy đủ những vấn đề mà cuộc
sống đặt ra. Họ thiếu khả năng giải quyết vấn đề của cuộc sống dựa trên nguồn lực
của của chính họ, không biết khai thác và tận dụng tài nguyên bên ngoài. Nhận thức
vấn đề và tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân sâu sa của vấn đề đi đến giải
quyết nó là một khó khăn, thách thức lớn đối với người nghèo.
Cho dù có thể tiếp cận được, thì những chính sách và thông tin có thực sự
giúp được những người nghèo không? Câu trả lời là “có” chỉ khi nó đáp ứng được
nhu cầu và bắt nguồn từ thực tế của họ. Điều đó liên quan đến việc người nghèo có
được tạo điều kiện, và có đủ năng lực, sức mạnh để có ý kiến tham gia vào quá
trình xây dựng chính sách và những quyết định liên quan đến chính họ hay không.
Chính vì vậy, khi nói về các hoạt động phát triển xã hội, XĐGN, người ta
thường nhắc đến từ “empower” mà rất nhiều người lúng túng khi dùng từ này trong
tiếng Việt, lúc thì gọi là “nâng cao năng lực”, lúc là “trao quyền”, lúc lại là “tăng
sức mạnh”. Điều khó khăn nhất khi diễn đạt khái niệm này, là nó không chỉ liên
quan đến những năng lực, quyền,... cụ thể nào đó, mà còn liên quan đến sức mạnh
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
47
nội tại của mỗi con người. Có được sức mạnh đó, người nghèo mới có thể thực hiện
được điều “tự giúp chính mình” và thoát nghèo bền vững.
Người nghèo không chỉ nghèo thu nhập và nghèo tiếp cận, họ còn đang rất
nghèo sức mạnh. Họ chưa đủ sức lên tiếng chất vấn về những lý do mình “có sổ”
hay “mất sổ” hộ nghèo, chưa biết tìm chỗ để hỏi, tôi nên trồng gì, nuôi gì để không
bị thua lỗ nữa, người dân ở khu quy hoạch vẫn chưa đủ sức đối thoại với nhà đầu tư
và Nhà nước về quyền lợi và phương kế mưu sinh bền vững mà các dự án có thể
đem lại cho họ...
Nghèo sức mạnh có thể nhìn thấy rất rõ khi con người không có khả năng
hành động, tác động hay ảnh hưởng đến môi trường xã hội xung quanh cho dù nó
liên quan đến cuộc sống của chính họ.
Đáng tiếc, không phải chỉ có người nghèo “nghèo sức mạnh”, nhiều bộ phận
trong xã hội cũng đang nghèo sức mạnh như vậy.
Có nhiều cán bộ địa phương trả lời về việc tại sao không hỏi ý kiến dân về
những vấn đề của họ là: “Mình cứ phải quyết định thôi, trình độ họ thấp lắm, có
biết gì đâu mà ý kiến ý cò”. Những cán bộ này cũng rất nghèo sức mạnh của cái
tâm để lắng nghe thực sự và để tôn trọng phẩm giá người khác.
Doanh nghiệp, cơ quan hay dự án kiếm lợi nhuận bằng mọi giá, bất kể tàn
phá môi trường hay tài nguyên cũng rất nghèo sức mạnh của ý thức và sức nghĩ xa
khi chặn đường sống của chính khách hàng của mình, và cả chính con cháu mình.
Một đất nước mà phát triển kinh tế chỉ đem lại thịnh vượng cho một bộ phận
người dân nào đó mà không chia sẻ những thành tựu của phát triển cho mọi thành
viên của xã hội, đất nước đó không thể gọi là mạnh được. Nghèo đói không chỉ liên
quan đến một bộ phận người dân có mức thu nhập hay tiêu dùng dưới một ngưỡng
nào đó. Nó liên quan đến mọi mặt của cơ chế, chính sách xã hội, triết lý giáo dục và
ứng xử xã hội của các tầng lớp người dân khác nhau. Nếu chỉ chạy theo những dự
án vĩ đại mà quên đi cái nghèo mọi mặt đang âm thầm tàn phá cuộc sống của không
chỉ người nghèo mà tất cả chúng ta, thì chúng ta cũng đang rất nghèo tầm nhìn vậy.
Nguyên nhân của việc hạn chế khả năng ra quyết định của người nghèo một
mặt là hạn chế từ chính họ về nhận thức thấp, thiếu kỹ năng xã hội, tâm lý e ngại,
sợ sệt, ỷ lại, không dám tạo ra bước đột phá, giao lưu hẹp, mối quan hệ xã hội ít;
mặt khác là hạn chế từ chính môi trường mà họ đang sống như hạn chế về
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_ctxh_voi_nguoi_ngheo_p1_8944.pdf