Tài liệu Giáo trình Kinh tế phát triển (Phần 1): GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 1
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
Chương 1. TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 3
1.1. Khái niệm tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.2. Các thước đo tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.3. Nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế và đặc điểm của các nước đang phát triển
1.4. Vai trò của Nhà nước đối với quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế
Chương 2. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI 26
2.1. Các hình thức phân phối thu nhập
2.2. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
2.3. Vấn đề nghèo đói
Chương 3. CÁC NGUỒN LỰC VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 45
3.1. Tài nguyên thiên nhiên với tăng trưởng và phát triển kinh tế
3.2. Nguồn lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế
3.3. Khoa học và công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế
3.4. Vốn với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Chương 4. CƠ CẤU KINH TẾ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 72
4.1. Lý luận chung về cơ cấu k...
88 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 602 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình Kinh tế phát triển (Phần 1), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 1
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
Chương 1. TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 3
1.1. Khái niệm tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.2. Các thước đo tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.3. Nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế và đặc điểm của các nước đang phát triển
1.4. Vai trò của Nhà nước đối với quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế
Chương 2. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI 26
2.1. Các hình thức phân phối thu nhập
2.2. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
2.3. Vấn đề nghèo đói
Chương 3. CÁC NGUỒN LỰC VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 45
3.1. Tài nguyên thiên nhiên với tăng trưởng và phát triển kinh tế
3.2. Nguồn lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế
3.3. Khoa học và công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế
3.4. Vốn với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Chương 4. CƠ CẤU KINH TẾ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 72
4.1. Lý luận chung về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
4.2. Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chương 5. NÔNG NGHIỆP VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 89
5.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
5.2. Vai trò của sản xuất nông nghiệp đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
5.3. Một số vấn đề kinh tế chủ yếu trong phát triển nông nghiệp nước ta
Chương 6. CÔNG NGHIỆP VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 127
6.1. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp
6.2. Vai trò của sản xuất công nghiệp đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
6.3. Những vấn đề kinh tế chủ yếu để phát triển ngành nông nghiệp
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 2
Chương 7. XÂY DỰNG CƠ BẢN VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN 142
7.1. Đặc điểm của xây dựng cơ bản
7.2. Vai trò của xây dựng cơ bản đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
7.3. Những vấn đề kinh tế chủ yếu để phát triển ngành xây dựng nước ta
Chương 8. DỊCH VỤ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIÊN KINH TẾ 175
8.1. Đặc điểm của dịch vụ
8.2. Vai trò của dịch vụ đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
8.3. Những vấn đề kinh tế chủ yếu để phát triển ngành dịch vụ
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 3
Chương I
TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Kinh tế học nghiên cứu cách thức xã hội phân bổ các nguồn lực có hạn để
thoả mãn nhu cầu của xã hội. Kinh tế chính trị học - vượt ra ngoài kinh tế học
thuần tuý - nghiên cứu quan hệ sản xuất, tức là mối quan hệ giữa con người với
con người trong quá trình sản xuất xã hội. Do đó, kinh tế chính trị học quan tâm
đến sự tác động qua lại giữa chính trị và kinh tế học. Còn kinh tế học phát triển
"ngoài việc nghiên cứu cách thức xã hội phân bổ có hiệu quả các nguồn lực sản
xuất khan hiếm hiện có, cũng như sự phát triển bền vững của những nguồn lực
này theo thời gian và những nội dung chính trị của những quyết định kinh tế, nó
còn quan tâm đến những cơ chế về kinh tế, xã hội và thể chế cần thiết để ... tác
động đến những chuyển đổi nhanh chóng về thể chế và cơ cấu của toàn thể xã
hội, sao cho có thể mang lại một cách hiệu quả nhất những thành quả của những
tiến bộ kinh tế cho hầu hết các tầng lớp nhân dân trong xã hội đó". Với nội dung
nghiên cứu trên đây, Kinh tế học phát triển sử dụng tri thức của nhiều ngành
khoa học khác nhau trước hết là Kinh tế học vĩ mô, Kinh tế học vi mô, Kinh tế
học công cộng, Kinh tế chính trị học ...
Nghiên cứu kinh tế học phát triển rất có ý nghĩa đối với nước ta, một
trong các nước có thu nhập thấp, đang muốn chuyển nền kinh tế từ trạng thái thu
nhập thấp, nghèo nàn, lạc hậu sang trạng thái phát triển, hiện đại, có thu nhập
cao nhằm cải thiện sâu rộng đời sống của mọi tầng lớp nhân dân.
1.1. Khái niệm tăng trưởng và phát triển kinh tế
Sản xuất của cải vật chất và cung ứng các dịch vụ nhằm thoả mãn các nhu
cầu của con người như ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh, giải trí ... là cơ sở
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Bởi vậy, từ xưa đến nay, sự tiến bộ
kinh tế trở thành mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia, mọi dân tộc. Sự tiến
bộ đó liên quan tới hai khái niệm cơ bản: tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế.
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng kết quả đầu ra hoạt động của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là năm, quý).
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 4
Giả sử kết quả đầu ra của nền kinh tế của một quốc gia được ký hiệu là Y.
Y0 là kết quả đầu ra của năm 0; Yn là kết quả đầu ra của năm n. Khi đó tăng
trưởng của nền kinh tế của năm n so với năm 0 được biểu thị bởi mức tăng
trưởng tuyệt đối hoặc tốc độ tăng trưởng như sau:
Mức tăng trưởng tuyệt đối: Yn = Yn - Y0
Tốc độ tăng trưởng: g =
0
0n
0
n
Y
YY
Y
Y
1.1.2. Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là khái niệm có nội dung sâu rộng hơn và luôn luôn
được bổ sung gắn với những nhận thức mới về ý nghĩa của quá trình phát triển.
Vì lẽ đó có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm phát triển kinh tế. Diễn
tả một cách ngắn gọn có thể hiểu phát triển kinh tế là quá trình thay đổi theo
hướng tiến bộ về mọi mặt kinh tế - xã hội của một quốc gia trong bối cảnh một
nền kinh tế đang tăng trưởng. Phát triển kinh tế bao gồm những nội dung chủ
yếu sau đây:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế dài hạn. Đây là điều kiện tiên quyết để tạo
ra những tiến bộ về kinh tế - xã hội, nhất là ở các nước đang phát triển thu nhập
thấp.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế - xã hội thay đổi theo hướng tiến bộ. Xu hướng
tiến bộ của quá trình thay đổi này ở những nước đang phát triển đang hoặc chưa
trải qua quá trình công nghiệp hoá thể hiện ở quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá và đô thị hoá; đó không đơn thuần là sự gia tăng
về quy mô, mà còn bao hàm việc mở rộng chủng loại và nâng cao chất lượng
sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra; hoạt động của nền kinh tế ngày
càng gia tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh, tạo cơ sở cho việc đạt được
những tiến bộ xã hội một cách sâu rộng.
Thứ ba, những tiến bộ kinh tế - xã hội chủ yếu phải xuất phát từ động lực
nội tại. Đến lượt mình kết quả của những tiến bộ kinh tế đạt được lại làm gia
tăng không ngừng năng lực nội sinh của nền kinh tế (thể hiện ở những tiến bộ về
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 5
công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và gia tăng nguồn vốn trong
nước ...)
Thứ tư, đạt được sự cải thiện sâu rộng chất lượng cuộc sống của mọi
thành viên trong xã hội như là mục tiêu hàng đầu và là kết quả của sự phát triển.
Đương nhiên một kết quả như thế không thể chỉ là sự gia tăng thu nhập bình
quân đầu người, một con số bình quân có thể che lấp đằng sau nó sự phân phối
bất bình đẳng, nạn nghèo đói, thất nghiệp và những thụ hưởng khác về giáo dục,
y tế, văn hoá ...
- Tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế là hai khái niệm khác nhau nhưng
có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để phát triển kinh tế. Ở những nước
đang phát triển, đặc biệt là những nước đang phát triển có thu nhập bình quân
đầu người thấp, nếu không đạt được tăng trưởng tương đối cao và liên tục trong
nhiều năm, thì khó có thể có điều kiện kinh tế để cải thiện mọi mặt của đời sống
kinh tế xã hội.
Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần, không phải là điều
kiện đủ để phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế có thể được thực hiện bởi
những phương thức khác nhau và do đó có thể dẫn đến những kết quả khác
nhau. Nếu phương thức tăng trưởng kinh tế không gắn với sự thúc đẩy cơ cấu
kinh tế xã hội theo hướng tiến bộ, không làm gia tăng, mà thậm chí còn làm xói
mòn năng lực nội sinh của nền kinh tế, sẽ không thể tạo ra phát triển kinh tế.
Nếu phương thức tăng trưởng kinh tế chỉ đem lại lợi ích kinh tế cho nhóm dân
cư này, cho vùng này, mà không hoặc đem lại lợi ích không đáng kể cho nhóm
dân cư khác, vùng khác; thì tăng trưởng kinh tế như vậy sẽ khoét sâu bất bình
đẳng xã hội. Những phương thức tăng trưởng như vậy, rốt cục cũng chỉ là kết
quả ngắn hạn, không những không thúc đẩy được phát triển; mà bản thân nó
cũng khó có thể tồn tại được lâu dài.
Phát triển bền vững
Trong tác phẩm "Chăm lo cho trái đất" định nghĩa sự phát triển bền vững
là "sự nâng cao chất lượng đời sống con người trong lúc đang tồn tại, trong
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 6
khuôn khổ đảm bảo các hệ thống sinh thái", còn tính bền vững là "một đặc điểm
đặc trưng của một quá trình hoặc một trạng thái có thể duy trì mãi mãi".
Phát triển bền vững về mặt kinh tế đòi hỏi phải sử dụng tối ưu các nguồn
lực, trong đó yếu tố quan trọng nhất là nâng cao năng suất, đổi mới công nghệ
để duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế lâu dài, ổn định.
Phát triển bền vững về mặt xã hội đòi hỏi phát triển kinh tế phải đi đôi
phát triển xã hội: chống đói nghèo, thất nghiệp và bất công xã hội cũng như cải
thiện sâu rộng về mọi khía cạnh của cuộc sống cho tất cả mọi người; đảm bảo sự
cân bằng giữa phát triển vật chất và tinh thần, bảo đảm duy trì và phát triển
những giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa nhân loại.
Phát triển bền vững về mặt môi trường đòi hỏi trong bất kỳ chiến lược
phát triển nào theo hướng bền vững cũng phải tính toán kỹ các tác động qua lại
giữa con người và thiên nhiên sao cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống con người trong khuôn khổ đảm bảo cân bằng các hệ
sinh thái. Phát triển bền vững về môi trường, do đó, liên quan trước hết đến xử
lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng
chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên.
Các khía cạnh khác nhau của phát triển bền vững có mối liên hệ biện
chứng với nhau. Không thể có phát triển bền vững nếu thiếu đi một khía cạnh
nào đó đã nêu của phát triển bền vững nói chung.
1.2. Các thước đo tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.2.1. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân
(GNP)
Kết quả đầu ra của hoạt động kinh tế được đặc trưng bởi các loại sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ hết sức đa dạng về chủng loại, mục đích sử dụng và
chất lượng. Tuy nhiên, các chỉ tiêu GDP và GNP thông qua sử dụng thớc đo tiền
tệ có thể tổng hợp được kết quả đầu ra hết sức phong phú và đa dạng đó của nền
kinh tế. Nhờ đó, đã cung cấp một công cụ hữu hiệu cho việc đánh giá sự tăng
trưởng, phát triển kinh tế của một quốc gia.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 7
Tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product-GDP)
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là giá trị thị trường của tất cả các hàng
hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra bởi các yếu tố sản xuất trong lãnh thổ
kinh tế của một nước trong một thời kỳ nhất định.
Để hiểu được định nghĩa trên đây cần chú ý:
"Gí trị thị trường" có nghĩa là sản lượng được tính theo mức giá phổ biến
trên thị trường.
"Tất cả các hàng hoá và dịch vụ" có nghĩa là GDP cố gắng đo lường mọi
sản phẩm được sản xuất trong nền kinh tế và được bán hợp pháp trên các thị
trường. Do đó, GDP không tính đến việc sản xuất và bán các loại sản phẩm bất
hợp pháp và các hoạt động sản xuất và tiêu dùng tại gia đình.
"Cuối cùng" có nghĩa là GDP chỉ tính những hàng hoá và dịch vụ được
bán cho người sử dụng cuối cùng. Nhờ cách tính này mà tránh được việc tính
trùng giá trị của các hàng hoá trung gian.
"Hàng hoá và dịch vụ" có nghĩa là trong GDP tính cả hàng hoá hữu hình,
ví dụ như bánh mì, rượu, bia, xe đạp cũng như các hàng hoá vô hình như dịch vụ
do các bác sỹ và luật sư cung cấp.
"Được sản xuất ra" có nghĩa là chỉ tính giá trị sản xuất hiện tại. Nó không
bao gồm những giao dịch liên quan đến hàng hoá đã được sản xuất ra trong quá
khứ. Chẳng hạn, một người nào đó bán một chiếc xe hơi đã qua sử dụng cho
người khác, thì giá trị của chiếc xe hơi đã qua sử dụng đó không nằm trong
GDP.
"Các yếu tố sản xuất trong lãnh thổ kinh tế quốc gia" nghĩa là các sản
phẩm được đưa vào GDP của một quốc gia khi chúng được sản xuất ra bởi các
yếu tố sản xuất trên lãnh thổ quốc gia đó, bất kể các yếu tố sản xuất đó thuộc sở
hữu của các công dân nước đó hay nước ngoài.
"Trong một thời kỳ nhất định" nghĩa là GDP phản ánh giá trị sản xuất
thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể, thường là một năm hay một quý.
Về nguyên tắc, GDP có thể được tính theo ba phương pháp: phương pháp
sản xuất (sử dụng luồng thông tin từ sản xuất); phương pháp chi tiêu (sử dụng
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 8
luồng thông tin từ chi tiêu) và phương pháp thu nhập (sử dụng luồng thông tin từ
thu nhập). Kết quả thu được từ các cách tiếp cận này hoàn toàn tương đương nếu
như tất cả các số liệu được thu thập đầy đủ và chính xác.
Phương pháp sản xuất còn được gọi là phương pháp giá trị gia tăng. Theo
phương pháp này GDP tổng hợp giá trị gia tăng của mọi doanh nghiệp (hoặc
ngành) trong nền kinh tế. Giá trị gia tăng được tính bằng cách lấy giá trị tổng
hợp sản lượng trừ đi giá trị của tất cả các hàng hoá và dịch vụ mua ngoài đã
được sử dụng hết trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp (được gọi là tiêu
dùng trung gian).
Phương pháp thu nhập. Phương pháp này đo lường GDP trên cơ sở thu
nhập tạo ra trong quá trình sản xuất hàng hoá chứ không phải là giá trị của bản
thân hàng hoá. Phương pháp này sử dụng thông tin từ luồng thu nhập, tức các
khoản thu nhập được phân phối cho những nhân tố tham gia vào quá trình sản
xuất GDP như lao động, tư bản, đất đai. Ngoài ra, Chính phủ cũng nhận được
thu nhập từ thuế gián thu, tức là các khoản thuế đánh vào các hàng hoá và dịch
vụ bán trên thị trường (nếu có trợ cấp liên quan đến sản xuất được coi là một
khoản gián thu âm).
GDP = w + i + R + Pr + Te
Trong đó: w là thu nhập từ tiền công, tiền lương
i là tiền lãi nhận được từ việc cho doanh nghiệp vay tiền
R là tiền thuê đất đai, tài sản
Pr là lợi nhuận
Te là thuế gián thu mà Chính phủ nhận được
Phương pháp chi tiêu. Phương pháp này sử dụng các thông tin từ luồng
chi tiêu để mua hàng hoá và dịch vụ cuối cùng. Vì tổng giá trị hàng hoá bán ra
phải bằng tổng số tiền được chi ra để mua chúng, nên tổng chi tiêu để mua hàn
hoá và dịch vụ cuối cùng phải bằng GDP. Điều đó nghĩa là:
GDp = C + I + G + X - M
Trong đó:
C (Consumption) là các khoản chi tiêu của các hộ gia đình về hàng hoá và
dịch vụ (không kể chi tiêu xây nhà ở mới).
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 9
I (Investment) là tổng đầu tư của khu vực tư nhân bao gồm các khoản chi
tiêu mua máy móc, thiết bị, xây dựng nhà xưởng và bổ sung hàng tồn kho và xây
dựng nhà ở mới (không tính các khoản đầu tư tài chính như cổ phiếu, trái phiếu,
tiền gửi tiết kiệm). Chú ý rằng, tổng đầu tư bao gồm hai bộ phận: chi tiêu để bù
đắp bộ phận tư bản đã hao mòn, được gọi là đầu tư thay thế; và đầu tư ròng (Net
Investment - IN) phản ánh sự thay đổi quy mô tư bản trong nền kinh tế.
G (Government Purchases) là chi tiêu của Chính phủ về hàng hoá và dịch
vụ (không tính các khoản thanh toán chuyển giao như chi cho các dịch vụ an
sinh xã hội, phúc lợi và trợ cấp thất nghiệp).
X - M hay là xuất khẩu ròng (Net Exports - NX) là giá trị các khoản chi
tiêu của người nước ngoài cho hàng hoá và dịch vụ trong nước (xuất khẩu:
Exports - X) trừ đi các khoản chi tiêu của dân cư trong nước cho hàng hoá và
dịch vụ được sản xuất ở nước ngoài (nhập khẩu: Imports - M).
Tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Product - GNP)
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) đo lường toàn bộ thu nhập hay giá trị sản
xuất mà các công dân của một quốc gia tạo ra trong một thời kỳ nhất định,
không kể trong hay ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia.
GNP = GDP +
Thu nhập về các nhân tố
sản xuất thuộc sở hữu
trong nước ở nước ngoài
-
Chi trả các nhân tố sản
xuất thuộc sở hữu nước
ngoài ở trong nước
Hay: GNP = GDP + Thu nhập ròng nhận được từ nước ngoài
Thu nhập về các nhân tố sản xuất thuộc sở hữu trong nước và ở nước
ngoài bao gồm: thu tiền lương và thù lao lao động làm thuê từ nước ngoài; thu
lợi tức kinh doanh và tiền cho vay; thu lợi tức cho thuê đất, vùng trời, vùng biể
và sử dụng bản quyền sáng chế.
Chi trả các nhân tố sản xuất thuộc sở hữu nước ngoài ở trong nước bao
gồm: trả tiền lương và thù lao làm thuê của nước ngoài; trả lợi tức kinh doanh và
tiền đi vay; trả lợi tức đi thuê đất, vùng trời, vùng biển và sử dụng bản quyền
sáng chế ...
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 10
Ý nghĩa và hạn chế của các chỉ tiêu GDP và GNP
Với hai cách tính trên GDP phản ánh khả năng sản xuất của nền kinh tế
(bao gồm cả việc thu hút các nhân tố sản xuất từ bên ngoài); GNP đánh giá thu
nhập hay giá trị sản xuất của một quốc gia do chính các công dân của nước đó
tạo ra. Do đó mỗi chỉ tiêu được sử dụng đều có ý nghĩa riêng.
Tuy nhiên hạn chế của các chỉ tiêu này là:
Trong tính toán có thể bị sai lệch do a) bỏ sót không tính vào các hoạt
động tự sản tự tiêu không thông qua giao dịch thị trường và các hoạt động dịch
vụ do gia đình tự làm; b) chọn mẫu và sử dụng phương pháp điều tra thống kê
không chính xác.
Các tính toán trên cũng chưa tính đến những thiệt hại do ô nhiễm.
Việc tính toán GDP có quan hệ chặt chẽ với giá cả hàng hoá. Sự biến
động của giá cả của các loại hàng hoá có ảnh hưởng không nhỏ đến việc sử dụng
các chỉ tiêu này trong đánh giá so sánh giữa các thời kỳ.
Để khắc phục sự sai lệch về giá trong việc so sánh giữa các thời kỳ người
ta thường tính GDP theo hai loại giá: giá cố định của một năm nào đó trong quá
khứ được lấy là năm gốc và giá hiện hành. GDP danh nghĩa (nominal GDP) sử
dụng giá hiện hành để tính giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế.
GDP thực tế (Real GDP) sử dụng giá cố định trong năm gốc để tính giá trị sản
lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế. Do GDP thực tế không chịu ảnh
hưởng của sự biến động giá cả, nên những thay đổi của GDP thực tế chỉ phản
ánh sự thay đổi của lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế giữa các thời kỳ.
Từ hai chỉ tiêu thống kê này, chúng ta có thể tính được chỉ tiêu thứ ba, gọi
là chỉ số điều chỉnh GDP (GDP Deflator), nó phản ánh mức giá hiện hành so với
năm gốc, chứ không phản ánh lượng hàng hoá và dịch vụ.
Chỉ số điều
chỉnh GDP
=
GDP danh nghĩa
=
PnQn
GDP thực P0Qn
Trong đó: P0; Pn tương ứng là giá thực tế (giá cố định) và giá hiện hành;
Qn là sản lượng hàng hoá và dịch vụ của năm hiện hành.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 11
Để phục vụ cho việc so sánh kinh tế giữa các nước trên thế giới chúng ta
có thể tính GDP theo hệ số quy đổi giữa đồng tiền quốc gia với đồng tiền nước
ngoài.
GDP của
Việt Nam
theo ngoại tệ
=
GDP của Việt Nam theo tiền quốc gia
Hệ số quy đổi giữa tiền quốc gia với
đồng ngoại tệ
Tuy nhiên, việc lựa chọn hệ số quy đổi như thế nào có ảnh hưởng không
nhỏ trong việc so sánh. Trên thực tế, hệ số quy đổi thường được áp dụng song
hành: theo tỷ giá hối đoái ngoại tệ bình quân năm do ngân hàng Nhà nước công
bố và theo tỷ giá sức mua tương đương.
1.2.2. Các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
Kết quả đầu ra (Y) của nền kinh tế có thể được đo lường thông qua chỉ
tiêu GDP hoặc GNP. Khi đó tăng trưởng kinh tế có thể được xác định thông qua
tăng trưởng GDP hoặc GNP. Để xác định tăng trưởng kinh tế của một quốc gia
chúng ta có các chỉ tiêu sau đây:
- Mức tăng trưởng kinh tế tuyệt đối: GDPn = GDPn - GDP0
Ví dụ, mức tăng trưởng tuyệt đối của năm 2000 so với năm 1999 là:
GDP2000 = GDP2000 - GDP1999
= 273.582 tỷ VNđ - 256.272 tỷ VNđ = 17.310 tỷ VNđ
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
g =
GDPn
=
GDPn - GDP0
GDP0 GDP0
Ví dụ, tốc độ tăng trưởng của năm 2000 so với năm 1999 là:
17.310 / 256.272 = 6,75%
- Tốc độ tăng trưởng hàng năm: là tốc độ tăng trưởng của năm sau so với
năm liền trước. Chẳng hạn, tốc độ tăng trưởng của năm: 1995/1994 là 9,54%;
1996/1995 là 9,34%; 1997/1996 là 8,15%; 1998/1997 là 5,76%; 1999/1998 là
4,77%; 2000/1999 là 6,75%.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của một giai đoạn:
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 12
1
GDP
GDPGDP
g n
0
0n
Trong đó: GDP0 là tổng sản phẩm trong nước của năm 0; GDPn là tổng
sản phẩm trong nước của năm thứ n.
Giả sử tính tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm (g) của giai đoạn
1991-1995.
Ta có: 1
GDP
GDPGDP
g 5
1990
19901995
Ví dụ: GDP1990 = 131.968 tỷ đồng; GDP1995 = 195.567 tỷ đồng. Khi đó tốc
độ tăng trưởng bình quân năm của giai đoạn 1991 - 1995 là:
1
968.131
968.131567.195
g 5
= 8,2%
Trên đây chúng ta đã tính tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Chúng ta
cũng có thể tính tốc độ tăng trưởng theo GDP (GNP) bình quân đầu người. Tốc
độ tăng trưởng bình quân đầu người không chỉ phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế, mà còn phụ thuộc vào tốc độ gia tăng dân số. Nếu cùng có tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế như nhau, quốc gia nào có tốc độ gia tăng dân số
lớn hơn thì tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người sẽ thấp hơn.
1.2.3. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế
Để phản ánh các nội dung khác nhau của khái niệm phát triển kinh tế cần
phải có các nhóm chỉ tiêu khác nhau:
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
hàng năm hay bình quân năm (của cả nền kinh tế hoặc tính theo bình quân đầu
người) của một giai đoạn nhất định.
- Nhóm các chỉ tiêu phản ánh sự biến đổi về cơ cấu kinh tế xã hội: chỉ số
cơ cấu kinh tế theo ngành trong GDP; chỉ số cơ cấu về hoạt động ngoại thương;
tỷ lệ dân cư sống trong khu vực thành thị (nông thôn) trong tổng số dân; tỷ lệ lao
động làm việc trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ...
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 13
- Nhóm các chỉ tiêu phản ánh năng lực nội sinh của nền kinh tế quốc gia:
Tỷ lệ tiết kiệm (đầu tư) trên GDP; các chỉ tiêu phản ánh trình độ công nghệ quốc
gia; các chỉ tiêu phản ánh chất lượng lao động ...
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lượng cuộc sống:
Thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân
đầu người;
Các chỉ số về dinh dưỡng: số calo bình quân/người/ngày;
Các chỉ số về giáo dục: tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ người đi học trong các
độ tuổi, số năm đi học bình quân, số giáo viên trên một nghìn dân, số sinh viên
trên một nghìn dân, số người có trình độ đại học và trên đại học trên một nghìn
dân ... Các chỉ số này phản ánh trình độ phát triển giáo dục của một quốc gia và
mức độ thụ hưởng các dịch vụ giáo dục của dân cư.
Các chỉ số về y tế: tỷ lệ trẻ em trong các độ tuổi, tỷ lệ dân cư được tiêm
phòng; số bác sĩ trên một nghìn dân; số giường bệnh trên một nghìn dân ... Các
chỉ số này phản ánh trình độ phát triển y tế của một quốc gia và mức độ thụ
hưởng các dịch vụ y tế của dân cư.
Các chỉ số phản ánh về công bằng xã hội và nghèo đói: tỷ lệ nghèo đói và
khoảng cách nghèo đó; chỉ tiêu phản ánh mức độ bình đẳng giới, chỉ số phản
ánh công bằng xã hội. Ngoài ra, có thể có các chỉ tiêu khác nhau như các chỉ tiêu
phản ánh sử dụng nước sạch hay các điều kiện về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
khác ...
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI)
Để khắc phục sự khiếm khuyết trong việc sử dụng chỉ tiêu GDP (hoặc
GNI) bình quân đầu người trong việc đánh giá trình độ phát triển của một quốc
gia, Liên hợp quốc đã đưa ra chỉ số phát triển con người (HDI). Chỉ số này được
tổng hợp từ 3 chỉ số: thu nhập bình quân đầu người; mức độ phổ cập giáo dục;
tuổi thọ trung bình. Như vậy, HDI không chỉ phản ánh mức sống vật chất, mà
còn đo lường cả mức sống tinh thần của dân cư và do đó, chỉ số này đo lường
chính xác hơn chất lượng cuộc sống của dân cư. Chỉ tiêu HDI của Việt Nam
theo Liên hợp quốc công bố là: 0,649 (1995) xếp thứ 122/174 nước; 0,688
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 14
(2003) xếp thứ 109/175 nước; trong khi thu nhập bình quân đầu người tính theo
sức mua tương đương xếp thứ 130/175 nước (HDI càng gần một trình độ phát
triển con người càng cao).
1.3. Nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế và đặc điểm của các nước
đang phát triển
1.3.1. Nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế
Chúng ta đã biết, các đầu ra của nền kinh tế như: GDP thực, công việc
làm và giá cả ... là kết quả tác động qua lại của tổng mức cung và tổng mức cầu
của nền kinh tế.
Tổng mức cung đề cập đến khối lượng mà các ngành kinh doanh sản xuất
và bán ra trong điều kiện giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất nhất định.
Như vậy tổng mức cung liên quan chặt chẽ với sản lượng tiềm năng. Vậy cái gì
tác động đến sản lượng tiềm năng và do đó quyết định tổng mức cung ? Đó
chính là khối lượng đầu vào của sản xuất (sức lao động và vốn là 2 yếu tố quan
trọng nhất) và hiệu quả của những đầu vào đó kết hợp với nhau (đó là kỹ thuật
của xã hội).
Tổng mức cầu đề cập đến khối lượng mà người tiêu dùng, các doanh
nghiệp và Chính phủ sẽ sử dụng.
Như vậy cả tổng cung và tổng cầu đều tác động đến GDP thực. Tuy nhiên
kinh nghiệm xác nhận rằng chừng nào sản lượng bằng hoặc thấp hơn sản lượng
tiềm năng thì những thay đổi ngắn hạn (chẳng hạn từ 1 đến 2 năm) của sản
lượng chủ yếu do những thay đổi về chi tiêu (nhân tố tác động đến tổng cầu)
quyết định. Tuy nhiên, về lâu dài, tổng mức cầu trở nên ít quan trọng hơn đối
với GDP thực. Tổng mức cầu thay đổi tác động đến mức giá nhưng không tác
động đến sản lượng thực tế. Có thể nói, tổng mức cầu là động lực nằm sau
những thay đổi ngắn hạn về sản lượng thực tế. Tuy nhiên, về mặt rất lâu dài, sản
lượng thực tế chủ yếu do sản lượng tiềm năng quyết định và tổng mức cầu chủ
yếu tác động đến mức giá.
Thực chất của tăng trưởng kinh tế có thể trình bày thông qua đường giới
hạn khả năng sản xuất như sau:
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 15
Hình 1.1. Đường giới hạn khả năng sản xuất
Khi GDP thực nằm phía trong đường giới hạn khả năng sản xuất (tức là
sản lượng tiềm năng) thì chính sách kích cầu sẽ có thể làm cho GDP thực tăng
lên đến mức GDP tiềm năng. Tuy nhiên, khi GDP thực đã nằm trên đường giới
hạn khả năng sản xuất, để tăng GDP đòi hỏi phải làm dịch chuyển đường giới
hạn khả năng sản xuất ra phía ngoài, thông qua việc tăng quy mô các yếu tố đầu
vào và thay đổi cách thức kết hợp giữa các yếu tố đó với nhau.
Tăng trưởng kinh tế là một quá trình lâu dài chủ yếu gắn với sự gia tăng
về sản lượng tiềm năng và những nhân tố tác động đến sản lượng tiềm năng như:
khối lượng vốn, lao động, tiến bộ công nghệ và tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy
có thể nói, nguồn gốc của tăng trưởng là sản xuất và các nhân tố cơ bản quyết
định tăng trưởng là vốn, lao động, tiến bộ công nghệ và tài nguyên thiên nhiên.
Vốn vật chất bao gồm các máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận
tải, hàng tồn kho ... là những yếu tố cần thiết cho các quá trình sản xuất trực tiếp.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội (như đường xá, điện, nước, vệ sinh,
thông tin liên lạc ...) nhằm hỗ trợ và kết hợp các hoạt động kinh tế với nhau. Đầu
tư tăng thêm vốn làm gia tăng năng lực sản xuất, cơ sở để tăng thêm sản lượng
thực tế. Đối với các nước đang phát triển, vốn đang là nhân tố khan hiếm nhất
hiện nay, trong khi nó lại là khởi nguồn để có thể huy động và sử dụng có hiệu
quả các tiềm năng khác cho tăng trưởng. Vì vậy, vốn giữ một vai trò hết sức to
lớn đối với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của các nước đang phát triển.
Vốn nhân lực chủ yếu thể hiện ở kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp đạt được
nhờ giáo dục, đào tạo và kinh nghiệm của người lao động. Đây là nhân tố có tác
động quan trọng đến tăng trưởng kinh tế, vì nó làm tăng năng lực sản xuất của
Hàng hoá Y
Hàng hoá X
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 16
một quốc gia. Thiếu lực lượng lao động hoặc/ và chất lượng lao động thấp sẽ có
ảnh hưởng to lớn đến tăng trưởng kinh tế. Ở các nước đang phát triển thường có
hiện tượng thừa lao động nhưng chất lượng lao động thấp và cả hai mặt đó đều
có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Tiến bộ khoa học và công nghệ được đưa vào sản xuất làm tăng năng lực
sản xuất vì nó đem đến cách tốt nhất để sản xuất các hàng hoá và dịch vụ. Đây là
nhân tố thiết yếu trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đối với tất cả các quốc gia,
nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, song đây cũng là nguồn lực khan
hiếm ở các nước đang phát triển. Tại các nước đang phát triển hiện nay, quá
trình thay đổi công nghệ diễn ra dưới hình thức chuyển giao công nghệ, chứ
không phải do hoạt động R & D nội tại. Sự lựa chọn và tiếp thu công nghệ nào
và làm thế nào để không chỉ sử dụng thành công các công nghệ đó vàn sản xuất,
mà còn giúp cho nâng cao chất lượng công nghệ nội sinh của quốc gia là những
vấn đề có ý nghĩa lớn lao.
Tài nguyên thiên nhiên cũng là những nhân tố quan tọng ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế. Tuy tài nguyên thiên nhiên quan trọng, song không nhất
thiết hoàn toàn quyết định đến năng suất sản xuất hàng hoá và dịch vụ của một
quốc gia. Đối với nước ta hiện nay khởi đầu tăng trưởng kinh tế với một xuất
phát điểm thấp về kinh tế - xã hội, diện tích đất đai bình quân đầu người thấp
(mật độ 250 người/ 1km2, có mật độ cao thứ 13 thế giới) đã và đang được khai
thác khá triệt để; tài nguyên thiên nhiên không phải là dồi dào; tốc độ tăng dân
số tuy đã giảm song vẫn cao, lao động vẫn tiếp tục gia tăng với tốc độ cao tạo ra
sức ép rất lớn trong giải quyết việc làm và những vấn đề xã hội. Đó là những
yếu tố có tác động hạn chế không thể không tính đến trong bài toán phát triển
của đất nước.
Khi nghiên cứu các nhân tố của tăng trưởng, phát triển kinh tế các nhà
kinh tế cũng quan tâm nhiều đến các nhân tố như: cơ cấu dân tộc, tôn giáo, đặc
điểm văn hoá - xã hội và các thể chế chính trị - kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong
những nghiên cứu gần đây các vấn đề như thể chế kinh tế - xã hội và vốn xã hội
được nhiều nhà kinh tế, xã hội quan tâm. Các nhân tố trên có khi còn được
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 17
người ta gọi là các nhân tố phi kinh tế, bởi vì chúng không tham gia trực tiếp
vào các quá trình kinh tế như là những yếu tố sản xuất đầu vào, cũng không biểu
hiện ra như là một kết quả kinh tế đầu ra. Tuy vậy chúng nó ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động kinh tế, bởi vì thông qua các hành vi ứng xử và các phản ứng của
các cá nhân và cộng đồng mà tác động đến các quá trình kinh tế - xã hội và sự
thay đổi của các quá trình đó.
1.3.2. Những đặc điểm chung của các nước đang phát triển thu nhập thấp
Các nước đang phát triển có thu nhập thấp, nghèo, lạc hậu thường có
những đặc điểm chung sau đây:
a) Mức sống thấp
Tuy có khác nhau nhưng nhìn chung mức sống của dân cơ ở các nước
đang phát triển thấp, đặc biệt là các nước có thu nhập thấp. Trong khi thu nhập
bình quân trên đầu người ở các nước phát triển hàng chục nghìn đô la một năm
thì thu nhập bình quân trên đầu người ở các nước đang phát triển chỉ là hàng
nghìn đô la Mỹ một năm, thậm chí dưới một nghìn đô la Mỹ một năm.
Do mức sống thấp nên tỷ lệ tiết kiệm thấp và từ đó đầu tư thấp. Đầu tư
thấp làm cho nền kinh tế tăng trưởng chậm, mức sống thấp. Đó là cái vòng luẩn
quẩn đầu tiên mà các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước có thu nhập thấp
gặp phải và rất khó thoát ra. Đây là một trở ngại to lớn với quá trình tăng trưởng
kinh tế của các nước này.
b) Năng suất lao động thấp
Năng suất lao động nhìn chung rất thấp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng đó: công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém, trình độ và sức khoẻ người
lao động thấp kém ... Năng suất lao động thấp làm cho nền kinh tế tăng trưởng
chậm, không có điều kiện để đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, nâng cao sức
khoẻ, thể lực cho người lao động ... do đó, việc nâng cao năng suất lao động rất
khó khăn và nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng chậm chạp.
c) Tỷ lệ thất nghiệp cao
Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm nhìn chung là rất quan trọng. Đó
là kết quả việc dân số tăng nhanh, việc di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 18
phố, khả năng tạo việc làm rất hạn chế ... Điều đó làm cho số người ăn theo rất
lớn. Dân số trở thành gánh nặng của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế tăng
trưởng chậm.
d) Phụ thuộc vào nông nghiệp và các sản phẩm xuất khẩu thường có giá
trị gia tăng thấp
Đa số các nước đang phát triển có thu nhập thấp là nước nông nghiệp tức
là ở các nước này, nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu và nông phẩm là mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu. Điều đó làm cho nền kinh tế của các nước này phụ
thuộc nặng nề vào tự nhiên, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế rất thấp. Tình
trạng đó làm cho quá trình tăng trưởng kinh tế hết sức khó khăn chậm chạp.
e) Phụ thuộc cao vào các quan hệ quốc tế
Trong xu thế chung của thời đại, quan hệ kinh tế giữa các quốc gia không
ngừng mở rộng và phát triển, việc các nước đang phát triển tham gia vào đời
sống kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan và cần thiết. Nhưng các quan hệ kinh
tế quốc tế đã được thiết lập theo "trật tự" có lợi cho các nước phát triển và không
có lợi cho các nứơc đang phát triển. Thậm chí, các quan hệ kinh tế quốc tế bị chi
phối bởi chính sách của các nước phát triển. Do đó, quá trình tăng trưởng kinh tế
của các nước này gặp rất nhiều khó khăn.
Những đặc điểm trên đây làm cho quá trình tăng trưởng kinh tế của các
nước đang phát triển, đặc biệt là các nước có thu nhập thấp, hiện nay khó khăn
hơn rất nhiều so với các nớc phát triển trước đây. Các nước đang phát triển khó
có thể đi những con đường mà các nước phát triển đã đi qua.
1.3.3. Tính đa dạng của các nước đang phát triển
Mặc dù có những đặc điểm chung hết sức quan trọng trên đây nhưng sự
khác biệt (hay tính đa dạng) giữa các nước đang phát triển cũng hết sức to lớn.
a) Sự khác biệt về quy mô
Các nước đang phát triển có diện tích không giống nhau. Trong khi có
những quốc gia có diện tích rất lớn như Trung Quốc, Ấn Độ thì lại có những
quốc gia hay lãnh thổ rất nhỏ như Brunây, Butan ... Sự khác biệt về quy mô sẽ
ảnh hưởng rất khác nhau đến quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế. Quy mô
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 19
lớn có ưu điểm là tài nguyên nhiều, thị trường tiềm năng lớn, ít phụ thuộc hơn
vào bên ngoài ... nhưng lại có nhược điểm là quản lý hành chính khó khăn, phát
triển không cân bằng giữa các vùng, sự không đồng nhất về dân tộc ... Những
quốc gia có quy mô nhỏ lại có những thuận lợi và khó khăn hoàn toàn khác so
với các nước có quy mô lớn.
b) Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên của các quốc gia cũng không giống nhau. Những quốc
gia có nhiều tài nguyên, đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà, ít thiên tai ... quá trình
tăng trưởng kinh tế sẽ thuận lợi hơn. Ngược lại, những quốc gia nghèo tài
nguyên, khí hậu khắc nghiệt, nhiều thiên tai ... quá trình tăng trưởng kinh tế sẽ
rất khó khăn.
c) Sự khác biệt về con người
Mỗi quốc gia có lịch sử hình thành và phát triển riêng. Điều đó để lại dấu
ấn rất sâu đậm về nhân cách, lối sống, tác phong lao động ... Những phẩm chất
riêng của mỗi dân tộc sẽ có ảnh hưởng to lớn đến quá trình tăng trưởng, phát
triển kinh tế.
d) Sự khác biệt về thu nhập
Trong số hơn 200 các nền kinh tế trên thế giới tính theo GNI trên đầu
người năm 2003, chỉ có 55 nền kinh tế thuộc nhóm thu nhập cao (trong đó có 24
nước thuộc OECD); 37 thuộc thu nhập trung bình lớp trên; trong khi đó có 56
nền kinh tế thuộc nhóm thu nhập trung bình lớp dưới; đặc biệt có tới 61 nền kinh
tế thuộc nhóm thu nhập thấp. Trong nhóm thu nhập thấp, có nhiều nước thuộc
Châu Phi có thu nhập rất thấp như Etopia thu nhập 90 USD đầu người (năm
2000 là 100 USD trên đầu người), CHDC Công Gô 100 USD, Burundi 110
USD, Eritơria 190 USD ...
e) Mức độ phụ thuộc vào bên ngoài về kinh tế, chính trị khác nhau
Do những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, mức độ phụ
thuộc của các quốc gia vào các quan hệ quốc tế cũng không giống nhau. Điều đó
sẽ làm cho quá trình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thuận lợi hoặc khó
khăn rất khác nhau.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 20
Những khác biệt trên đây làm cho quá trình tăng trưởng kinh tế ở các
nước đang phát triển không giống nhau. Đây là điều cần tính đến khi tham khảo
kinh nghiệm lẫn nhau giữa các nước này.
1.4. Vai trò của nhà nước đối với quá trình tăng trưởng, phát triển
kinh tế
1.4.1. Sự cần thiết phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế
Cơ chế thị trường không chỉ có những ưu việt mà còn có nhiều khuyết tật,
những thất bại thị trường trong việc điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế.
Thứ nhất, đó là sự xuất hiện của độc quyền khiến cho không thực hiện
được hiệu quả Pareto trong phân bổ nguồn lực, làm tổn hại lợi ích của người tiêu
dùng và của xã hội.
Thứ hai, đó là các ngoại ứng. Ngoại ứng xuất hiện khi việc sản xuất và
tiêu dùngg hàng hoá của một cá nhân ảnh hưởng đến những người khác không
thông qua các giao dịch thị trường. Ngoại ứng được coi là thất bại của thị trường
(ngay cả trong trường hợp ảnh hưởng tích cực đối với người khác) vì khi tồn tại
ngoại ứng, giá cả thị trường trở nên sai lạc, không còn là tín hiệu đúng để phân
bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả. Xã hội sẽ sản xuất nhiều hơn (với ngoại
ứng tiêu cực) hoặc ít hơn (với ngoại ứng tích cưch) so với mức sản lượng hiệu
quả.
Thứ ba, hàng hoá công cộng. Người ta phân biệt hàng hoá tư nhân và
hàng hoá công cộng dựa trên 2 đặc điểm: tính cạnh tranh trong tiêu dùng và khả
năng loại trừ sự tiêu dùng. Một hàng hoá công cộng thuần tuý không có cả 2
thuộc tính này. Do đặc tính trên của hàng hoá công cộng mà xuất hiện vấn đề
"kẻ ăn không" trong việc tiêu dùng hàng hoá công cộng. Do vậy, xu hướng xảy
ra là thị trường sẽ cung ứng lượng hàng hoá công cộng thấp hơn nhiều so với
lượng cung có hiệu quả (theo nghĩa tối đa hoá tổng lợi ích xã hội), đó là một thất
bại nghiêm trọng của thị trường.
Thứ tư, vấn đề công bằng trong phân phối thu nhập. Trạng thái phân phối
thu nhập không công bằng, tồn tại sự khác biệt quá lớn trong thu nhập giữa các
cá nhân và các nhóm trong xã hội cũng là một thất bại của thị trường.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 21
Thứ năm, sự mất ổn định vĩ mô. Kinh tế thị trường vận động theo chu kỳ.
Ở giai đoạn suy thoái, sản lượng giảm thấp so với mức tiềm năng, thất nghiệp
cao. Sang thời kỳ phục hồi, kinh tế tăng trưởng nhanh dần, việc làm nhiều lên,
lạm phát lại có thể trở thành nguy cơ. Khi tình trạng đó đạt đến đỉnh cao, nền
kinh tế lại bắt đầu xuống dốc. Tính bất ổn định đó của nền kinh tế có thể dẫn đến
những cuộc khủng hoảng chu kỳ tự thị trường không thể khắc phục được.
Thứ sáu, tính bất tương xứng giữa nhu cầu và khả năng thu thập và xử lý
thông tin gây nên những trục trặc trong việc phân bổ có hiệu quả các nguồn lực
trong nền kinh tế thị trường.
Những khuyết tật nói trên đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước. Như
vậy, để tăng trưởng, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, vừa phải sử dụng cơ
chế thị trường, vừa phải có sự can thiệp của nhà nước. Trong nền kinh tế thị
trường, nhà nước can thiệp vào nền kinh tế thông qua nhiều loại công cụ khác
nhau: hành chính, luật pháp, kinh tế. Các công cụ kinh tế quan trọng và phổ biến
nhất là công cụ tài chính, tiền tệ, giá cả, phân phối thu nhập ... là những công cụ
gián tiếp. Kế hoạch hoá cũng là công cụ hết sức quan trọng được sử dụng, song
khác về nguyên tắc so với cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước kia.
1.4.2. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Từ năm 1986 đêns nay, nền kinh tế nước ta ở trong quá trình chuyển đổi
từ cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hành chính, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, sự can thiệp của nhà
nước vào nền kinh tế là hết sức cần thiết.
Cũng như các nước có nền kinh tế thị trường, Nhà nước có nghĩa vụ cơ
bản nhất là cung cấp "hàng hoá công cộng" - những hàng hoá và dịch vụ mà thị
trường không thể cung cấp được hay không thể cung cấp một cách có hiệu quả,
về cơ bản là kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội của nền kinh tế. Nhà nước cũng có
nghĩa vụ cơ bản trong việc cung cấp các khuôn khổ thể chế và chính sách để
điều hành nền kinh tế. Có các lĩnh vực đặc biệt quan trọng sau đây.
Thứ nhất, xác lập một nền pháp trị mang tính hỗ trợ đối với các thể chế thị
trường và bảo hộ quyền sử hữu.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 22
Thứ hai, xây dựng năng lực đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định
tài chính kể cả trách nhiệm củng cố khu vực tài chính trong nước.
Thứ ba, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thúc đảy cạnh
tranh để khuyến khích đổi mới và phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả.
Thứ tư, thúc đẩy công nghệ mới.
Thứ năm, Định hướng phát triển nền kinh tế nhằm khắc phục những thất
bại thị trường.
Thứ sáu, Chế định các chính sách xã hội.
Tuy nhiên, phạm vi và mức độ can thiệp của Nhà nước ở Việt Nam hiện
nay không hoàn toàn giống với các nước khác. Những nguyên nhân chủ yếu là:
Nền kinh tế Việt Nam vẫn đang ở trong quá trình chuyển đổi nên chức năng
kinh tế của Nhà nước không chỉ là khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị
trương, mà còn là tạo dựng các quan hệ thị trường; không chỉ trong khuôn khổ
quốc gia, mà phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; Nhà nước không
chỉ khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, mà còn phải khắc phục dấu
ấn của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hành chính, bao cấp; nền
kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ...
Những cải cách chủ yếu đã được thực hiện trong quá trình đổi mới bao
gồm:
Chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với việc thiết lập các yếu tố cơ bản của nền
kinh tế thị trường.
Chuyển từ một nền kinh tế chủ yếu do khu vực Nhà nước và khu vực hợp
tác chi phối sang nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó khu vực tư nhân và đầu
tư nước ngoài chiếm tỷ trọng tương đối trong GDP.
Chuyển từ tình trạng đất nước bị bao vây cấm vận và hạn chế ở các thị
trường truyền thống ở Liên Xô và khối xã kội chủ nghĩa Đông Âu trước đây
sang phát triển hợp tác kinh tế với hầu hết các nước trên thế giới. Việt Nam đã
trở thành thành viên của ASEAN và APEC, đàm phán một số hiệp định thương
mại song phương, kể cả /hiệp định Việt - Mỹ và đang đàm phán để trở thành
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 23
thành viên của WTO. Việt Nam đang trở nên ngày càng hội nhập với nền kinh
tế khu vực và thế giới.
Nhờ đổi mới trên tất cả các lĩnh vực đã nêu của nền kinh tế trong những
năm qua mà đất nước ta đã đạt được những tiến bộ kinh tế - xã hội toàn diện và
sâu sắc.
Đại hội lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam đã thông quan Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: "Đưa nước ta ra khỏi tình trang
kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu
hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của
nước ta trên trường quốc tế được nâng cao".
Mục tiêu cụ thể của chiến lược là: "Đưa GDP năm 2010 tăng ít nhất gấp
đôi so với năm 2000; nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm,
doanh nghiệp và nền kinh tế; tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP; nhịp
độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP; chuyển dịch mạnh cơ cấu
ngành kinh tế (nông nghiệp 16 - 17%, công nghiệp 40 - 41%, dịch vụ 42 - 43%);
tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%; nâng lên đáng kể chỉ số phát triển
con người (HDI); nâng cao năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả
năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển
trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu mới, công nghệ tự động hoá; kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước; thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản và vận hành
thông suốt, có hiệu quả".
Để thực hiện các mục tiêu đã nêu, chiến lược cũng đưa ra năm quan điểm
cần quán triệt sau đây:
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 24
- Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
- Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng
cho một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết.
- Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi
nguồn lực.
- Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh.
Trên cơ sở những mục tiêu và quan điểm đã xác định. Chiến lược đã đề ra
định hướng phát triển các ngành, các vùng kinh tế của đất nước.
Định hướng phát triển các ngành gắn chặt với việc phát triển và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nâng cao chất
lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, tăng sức cạnh tranh.
Trong phát triển vùng, chủ trương của chiến lược là phát huy vai trò của
các vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn; đồng thời tạo
điều kiện để phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng
vùng.
Hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN không
chỉ là mục tiêu, mà còn là yêu cầu tất yếu để thực hiện thành công mục tiêu của
chiến lược. Những nội dung cơ bản của thể chế đã được chiến lược đưa ra bao
gồm: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu; tạo lập
đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước;
đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính - tiền tệ; mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Chiến lược cũng đã đề ra những mục tiêu nhằm tạo ra những chuyển biến
cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo; tăng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản
lý khoa học và công nghệ; phát triển văn hoá, xã hội và đẩy mạnh cải cách hành
chính.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 25
Cùng với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 Thủ
tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá
đói giảm nghèo, coi đây là văn kiện cụ thể hoá các mục tiêu, cơ chế, chính sách,
giải pháp chung của chiến lược 10 năm và kế hoạch 5 năm.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg, ngày 17
tháng 8 năm 2004 ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt
Nam, trong đó xác định: "Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được
sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hoá, sự bình đẳng của các
công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người và tự nhiên;
phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh
tế, phát triển xã hội và môi trường".
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 26
Chương 2
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI
2.1. Các hình thức phân phối thu nhập
Để đảm bảo phúc lợi cho mọi thành viên của xã hội cần phải vừa thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, vừa phải thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Điều có ý
nghĩa quan trọng và thiết thực khi xem xét công bằng xã hội là phải chú ý đến
vấn đề công bằng xã hội trong phân phối thu nhập.
2.1.1. Phân phối thu nhập theo quy mô (theo nhóm)
Phân phối thu nhập theo quy mô xem xét việc phân phối thu nhập căn cứ
vào tổng thu nhập mà các cá nhân và hộ gia đình nhận được, không tính đến thu
nhập đó có được bằng cách nào. Vấn đề là mỗi cá nhân hay hộ gia đình có được
bao nhiêu thu nhập, không thể thu nhập đó thuần tuý do lao động mà có hay từ
các nguồn khác như lợi tức, lợi nhuận, tiền cho thuê đất, quà tặng, thừa kế ... mà
có. Hơn nữa, các nguồn gốc về địa điểm (thành thị, nông thôn), ngành nghề
(công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ ...) đều không được xét đến, miễn là có thu
nhập hàng năm như nhau là được xếp vào cùng một loại.
Xem xét phân phối thu nhập theo quy mô cho chúng ta sự hiểu biết về bất
công bằng trong phân phối thu nhập giữa các nhóm dân cư.
Để đánh giá tình trạng bất công bằng trong phân phối thu nhập giữa các
nhóm dân cư các nhà kinh tế và thống kê thường căn cứ vào phân phối thu nhập
theo quy mô để sắp xếp thu nhập của các cá nhân và nhóm theo mức độ thu
nhập tăng, rồi chia tổng dân số thành các nhóm, trong đó mỗi nhóm có quy mô
thu nhập khác nhau. Một phương pháp chung là chia dân số thành 5 hoặc 10
nhóm kế tiếp nhau theo mức độ thu nhập tăng, rồi xác định xem mỗi nhóm sẽ
nhận được một tỷ lệ như thế nào của tổng thu nhập. Giả sử, số liệu phân phối thu
nhập của 10 nhóm dân cư của một nước như sau:
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 27
Nhóm
Tỷ lệ % trong
tổng thu nhập
Nhóm
Tỷ lệ % trong
tổng thu nhập
A 1,8 F 7,2
7,2 3,2 G 9,0
C 3,9 H 13,5
D 5,1 I 22,0
E 5,8 J 28,5
Nhìn vào bảng trên cho thấy mức độ bất công bằng trong phân phối thu
nhập thể hiện ở chỗ 10% số người có thu nhập cao nhất chiếm 28,5% tổng thu
nhập của toàn xã hội, trong khi đó 10% số người có thu nhập thấp nhất chỉ
chiếm 1,8% tổng thu nhập của toàn xã hội, nghĩa là chênh lệch giữa nhóm cao
nhất với nhóm thấp nhất là 15,5 lần (28,5/1,8).
Cơ cấu phân phối thu nhập trên đây có thể biểu diễn bằng đồ thị cột như
sau:
Mức thu nhập
Hình 2.1. Biểu đồ cơ cấu thu nhập dân cư
Người ta cũng có thể mô tả mức độ bất công bằng trong phân phối thu
nhập bằng việc xây dựng đường cong Lorenz (là tên của Conral Lorenz, nhà
30
25
20
15
10
5
0
A B C D E F G H I J
Nhóm dân cư
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 28
thống kê người Mỹ năm 1905 đã đưa ra việc sử dụng đường cong này). Đường
cong Lorenz được minh hoạ trên đồ thị, trong đó trục tung biểu thị tỷ lệ % thu
nhập của mỗi nhóm dân cư; trục hoành biểu thị tỷ lệ % của các nhóm dân cư sắp
xếp theo thứ tự mức thu nhập tăng dần. Đường cong Lorenz chỉ ra tỷ lệ phần
trăm của tổng thu nhập cộng dồn theo tỷ lệ phần trăm của các nhóm dân cư cộng
dồn. Đường cong Lorenz được xác định như sau:
Từ tỷ lệ % của nhóm dân cư đầu tiên (10%) kẻ 1 đường song song với
trục tung và từ tỷ lệ % thu nhập của nhóm dân cư này (1,8%) kẻ 1 đường song
song với trục hoành, giao điểm của hai đường đó là điểm đầu tiên trên đường
cong Lorenz. Tương tự, điểm thứ hai được xác định bằng cách từ 20% dân cư
(được tính bằng cách cộng dồn 10% của nhóm dân cư thứ nhất với 10% của
nhóm dân cư thứ hai) kẻ 1 đường song song với trục tung và từ % thu nhập cộng
dồn của 2 nhóm dân cư này (5% = 1,8% + 3,2%) kẻ đường song song với trục
hoành và cứ làm như vậy cho đến nhóm dân cư cuối cùng. Tóm lại, mỗi điểm
trên đường cong Lorenz chính là giao điểm của đường phần trăm cộng dồn của
dân cư và đường phần trăm cộng dồn của thu nhập. Nối các điểm trên, ta được
đường cong Lorenz.
% cộng dồn của thu nhập
Hình 2.2. Đường cong Lorenz
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
C
% cộng dồn của dân cư
đường công bằng
đường cong Lorenz
D
B
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 29
Đường cong Lorenz gặp đường công bằng tại điểm B và D vì 0% dân cư
sẽ có 0% thu nhập và 100% dân cư đương nhiên sẽ có 100% thu nhập. Hình
dạng của đường cong này chỉ ra mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Đường cong Lorenz càng gần đường công bằng bao nhiêu thì sự phân phối thu
nhập càng bình đẳng bấy nhiêu và ngược lại, đường cong Lorenz càng xa đường
công bằng bao nhiêu thì phân phối thu nhập càng bất công bằng bấy nhiêu.
Để đo lường cụ thể hơn mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
người ta sử dụng hệ số Gini.
Hệ số Gini =
Diện tích của hình A
Diện tích của tam giác BDC
Trong thực tế không thể có phân phối thu nhập hoàn toàn công bằng cũng
như hoàn toàn bất công bằng. Do đó, hệ số Gini luôn luôn lớn hơn 0 và nhỏ hơn
1. Hệ số Gini càng nhỏ thì phân phối thu nhập càng công bằng; hệ số Gini càng
lớn thì phân phối thu nhập càng trở nên bất công bằng. Trên thực tế hệ số Gini
của các quốc gia trong những năm gần đây thường nằm trong khoảng từ 0,25
đến 0,60.
2.1.2. Phân phối thu nhập theo chức năng
Là hình thức phân phối thu nhập theo sở hữu các yếu tố sản xuất (sức lao
động, tài sản, vốn. Người lao động được hưởng tiền lương hoặc tiền công từ việc
sở hữu và cung cấp sức lao động; người sở hữu vốn, tài sản hoặc tài nguyên
khác khi tham gia vào quá trình sản xuất được hưởng phần lợi tức hay địa tô
tương ứng với phần mà chúng đóng góp vào việc tạo ra thu nhập cũng như tính
khan hiếm của các nhân tố sản xuất đó. Chủ doanh nghiệp được hưởng phần lợi
nhuận với tư cách là lợi tức từ sở hữu vốn và phần trả công cho sức lao động
cũng như tài năng kinh doanh của họ.
Nếu thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá các nhân tố sản xuất phản ánh
đúng đắn tính khan hiếm, thì việc phân bổ các yếu tố sản xuất là tối ưu đối với
sản xuất. Phân phối thu nhập trong trường hợp ấy cũng theo "sự đóng góp của
các yếu tố sản xuất và tính khan hiếm của chúng" được coi là "công bằng" theo
nguyên tắc thị trường. Điều đó cũng được coi là cần thiết để khuyến khích động
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 30
cơ lợi ích của các cá nhân và giúp cho sử dụng một cách tiết kiệm các nguồn lực
khan hiếm, do đó đóng góp tích cưc vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, theo cách phân phối đó lại gây ra phân hoá giàu nghèo lớn, do
năng lực của mỗi người và sở hữu các yếu tố sản xấut ở mỗi người là khách
nhau. Mặt khác, trên thực tế không tồn tại thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả
các yếu tố sản xuất bị bóp méo không phản ánh đúng đắn sự đóng góp của các
yếu tố sản xuất vào kết quả đầu ra, do đó, vẫn không công bằng dù theo nguyên
tắc thị trường. Do đó, chỉ dựa vào thị trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các yếu
tố sản xuất và đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập.
2.2. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
Để giải thích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
trong phân phối thu nhập, năm 1955, nhà kinh tế học người Mỹ Simon Kuznets,
dựa vào những số liệu thu thập được của thời kỳ này của một số nước có mức độ
giàu nghèo khác nhau và trên xu hướng phân phối của một số ít nước ở châu Âu,
đã nhận thấy, mối quan hệ giữa thu nhập bình quân đầu người và sự bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập có thể có dạng chữ U ngược, như đồ thị dưới
đây:
Hình 2.3. Mô hình Kuznets và mối quan hệ giữa thu nhập bình quân đầu người
và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
Đồ thị trên đây được giải thích như sau: ở trình độ thu nhập bình quân đầu
người thấp, khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên, sự bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập sẽ tăng lên và đạt đến cực đại ở mức trung bình của thu nhập
0 Thu nhập bình quân đầu tư
Hệ số Gini
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 31
và sau đó giảm xuống khi thu nhập đạt tới mức đặc trưng cho một nước công
nghiệp.
Tuy nhiên Kuznets không giải thích nguyên nhân cũng như sự khác biệt
giữa các nước về sự thay đổi này trong điều kiện họ sử dụng những chính sách
khác nhau tác động đến tăng trưởng và công bằng xã hội.
Thực tế quá trình tăng trưởng của nhiều nước trên thế giới cho thấy, tăng
trưởng kinh tế tạo điều kiện mở rộng khả năng huy động và sử dụng các nguồn
lực vào hoạt động kinh tế. Nhờ đó tạo điều kiện cho mọi lực lượng xã hội, trong
đó có người nghèo tham gia vào các hoạt động kinh tế để tăng thu nhập nhằm
cải thiện đời sống. Tăng trưởng kinh tế có thể giúp cho nhà nước gia tăng các
nguồn lực tài chính để chi tiêu công nhằm cung cấp các dịch vụ cơ bản đến các
hộ nghèo và các chương trình đầu tư công cộng cho các vùng nghèo.
Ngược lại, giảm nghèo đói và bất công trong phân phối thu nhập và thụ
hưởng các dịch vụ công và đầu tư công giúp cho xã hội "ổn định" và "đoàn kết"
hơn cũng là tiền đề cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững.
2.3. Vấn đề nghèo đói
2.3.1. Khái niệm, ngưỡng, tỷ lệ và khoảng cách nghèo
Khái niệm nghèo: Nghèo có nhiều khía cạnh khác nhau như thiếu về
lương thực và thực phẩm, thiếu học hành, chăm sóc y tế, thiếu nước sạch và các
điều kiện thiết yếu về cơ sở hạ tầng; tính dễ bị tổn thương khi gặp phải những tai
ương bất ngờ và ít có khả năng tham gia vào các quyết định của cộng đồng.
Chính vì vậy khó mà có một định nghĩa duy nhất về nghèo đói.
"Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phương".
"Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được đảm bảo
những nhu cầu cơ bản tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống".
Ở Việt Nam trong Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo
giai đoạn 1998 - 2000 còn đưa ra định nghĩa về đói như sau:
"Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 32
Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường
vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng".
Như vậy, nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối là hai khái niệm có nội hàm
không giống nhau. Nếu như nghèo tuyệt đối là do mức thu nhập thấp không cho
phép thoả mãn đầy đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu thuộc về bản thân con
người; thì nghèo tương đối lại là kết quả của việc so sánh mức thu nhập với
người khác. Do vậy, nếu quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế và việc thực
hiện chính sách phân phối thu nhập công bằng hơn sẽ làm cho tình trạng nghèo
tuyệt đối ngày càng giảm thì tình trạng nghèo tương đối sẽ còn tồn tại lâu dài.
Ngưỡng nghèo là một mức thu nhập tối thiểu cần thiết để đảm bảo những
nhu cầu vật chất cơ bản cho con người có thể tiếp tục tồn tại. Ở Việt Nam có
nhiều tổ chức đưa ra các ngưỡng nghèo khác nhau. Ngân hàng Thế giới đã lấy
mức chi tiêu cần để mua gạo và lương thực, thực phẩm khác để có thể cung cấp
dược 2100 calo/người/ngày là ngưỡng nghèo về lương thực thực phẩm. Mức
nghèo chung được xác định bằng cách kết hợp mức nghèo về lương thực, thực
phẩm như trên (tương đương 70% chi tiêu) với mức chi tiêu cho những nhu cầu
phi lương thực cơ bản (30%). Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội căn cứ vào
quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, nguồn lực tài chính 2001 - 2005 và mức
sống thực tế của người dân của từng vùng để đưa ra chuẩn nghèo đói nhằm lập
danh sách hộ nghèo từ cấp thôn, xã và danh sách nghèo từ các huyện trở lên để
hưởng sự trợ giúp của Chính phủ từ Chương trình mục tiêu Quốc gia về xoá đói
giảm nghèo và các chính sách xã hội khác.
Ngưỡng nghèo được xác định là cơ sở để thống kê, tính toán số dân sống
dưới ngưỡng nghèo.
Tỷ lệ nghèo được đo bằng tỷ lệ số người sống dưới ngưỡng nghèo trên
tổng số dân của vùng (hoặc quốc gia).
Khoảng nghèo là sự thiếu hụt của những người thuộc diện dưới mức
nghèo so với ngưỡng nghèo. Khoảng nghèo trung bình đo mức thiếu hụt trung
bình giữa thu nhập (hoặc chi tiêu) của người nghèo so với ngưỡng nghèo, tính
bằng tỷ lệ phần trăm so với ngưỡng nghèo.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 33
Bảng 2.1. Quy định về ngưỡng nghèo của Việt Nam
Cơ quan Ngưỡng nghèo
Phân loại
người nghèo
Mức tối thiểu
Bộ Lao
động,
Thương
binh và
Xã hội
Thời điểm 1995- 1997
Mức nghèo được tính bằng
gạo: là mức thu nhập để
mua được 13kg; 15kg;
20kg hoặc 25kg gạo mỗi
tháng (giá 1995)
Đói 45.000 (13 kg)
Nghèo (nông thôn
miền núi)
55.000 (15 kg)
Nghèo (nông thôn
đồng bằng)
70.000 (20 kg)
Nghèo (thành thị) 90.000 (25 kg)
Thời điểm 2000-2005 Nghèo (nông thôn
miền núi)
80.000
Nghèo (nông thôn
đồng bằng)
100.000
Nghèo (thành thị) 150.000
Tổng
cục
Thống
kê
Mức nghèo về lương thực
thực phẩm (gạo và các loại
lương thực, thực phẩm
khác): mức thu nhập cần
thiết để mua được 2100
calo/người/ngày
Nghèo về lương
thực, thực phẩm
(nông thôn)
50.000 (1993)
100.000 (1996)
Nghèo về lương
thực, thực phẩm
(thành thị)
7.000 (1993)
130.000 (1996)
Ngân
hàng thế
giới
Mức nghèo về lương thực,
thực phẩm: Mức chi tiêu
cần để mua gạo và lương
thực, thực phẩm khác để có
thể cung cấp được 2100
calo/người/ngày
Nghèo về lương
thực, thực phẩm
66.500 (92/93)
107.000 (97/98)
Nghèo chung 97.000 (92/93)
149.000 (97/98)
Nguồn: Ngân hàng thế giới. Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2000; Tổng
cục Thống kê 1994, 1996; Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội và Chương trình mục
tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo 1998 - 2000.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 34
2.3.2. Tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng ở Việt Nam
2.3.2.1. Tình trạng nghèo đói
Trong những năm qua nhờ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, nhất là
phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản; nhờ nỗ lực của Chính phủ trong
việc tăng cường các nguồn lực cũng như ban hành các chính sách giải quyết việc
làm và xoá đói giảm nghèo Việt Nam đã đạt được kết quả xuất sắc trong xoá đói
giảm nghèo. Tính theo chuẩn nghèo quốc tế, tỷ lệ nghèo đói chung là giảm từ
58,1% năm 1993 xuống còn 37% năm 1998 và 29% năm 2002. Xu hướng giảm
nghèo diễn ra ở tất cả các vùng và đối với tất cả các dân tộc trong cả nước.
Bảng 2.2. Tỷ lệ nghèo và khoảng cách nghèo ở Việt Nam
1993 1998 2002
Tỷ lệ nghèo
Thành thị
Nông thôn
Người Kinh và người Hoa
Dân tộc thiểu số
58,1
25,1
66,4
53,9
86,4
37,4
9,2
45,5
31,1
75,2
28,9
6,6
35,7
23,1
69,3
Nghèo lương thực
Thành thị
Nông thôn
Người Kinh và người Hoa
Dân tộc thiểu số
24,9
7,9
29,1
20,8
52
15
2,5
18,6
10,6
41,8
9,96
3,61
11,99
6,5
41,5
Khoảng cách nghèo
Thành thị
Nông thôn
Người Kinh và người Hoa
Dân tộc thiểu số
18,5
6,4
21,5
16
34,7
9,5
1,7
11,8
7,1
24,2
6,9
1,3
8,7
4,7
22,1
Nguồn: Báo cáo phát triển Việt Nam 2004; Nghèo. Ngân hàng thế giới (dựa
vào kết quả điều tra mức sống dân cư 1993, 1998 của TCTK và WB và điều tra mức
sống hộ gia đình 2002 của TCTK)
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 35
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn được xếp vào nhóm các nước nghèo của thế
giới. Thu nhập của bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do đó chỉ
cần điều chỉnh nhỏ về ngưỡng nghèo, cũng khiến cho tỷ lệ nghèo tăng lên, trong
khi tốc độ giảm nghèo cũng đang chậm dần. Trong 5 năm đầu tỷ lệ nghèo giảm
trung bình 4% một năm. Nhưng trong bốn năm sau chỉ giảm 2% một năm. Phần
lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện về nguồn lực rất
hạn chế, thu nhập của họ rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến
của mỗi gia đình và cộng đồng. Nghèo đói tập trung chủ yếu ở nông thôn với
trên 90% số người nghèo sinh sống, nhất là ở các vùng đặc biệt khó khăn như
vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao. Tỷ lệ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm
dân tộc ít người.
Bảng 2.3. Nghèo đói phân theo vùng
Tính theo phần trăm 1993 1998 2002
Nghèo chung
Miền núi phía Bắc
Đông Bắc
Tây Bắc
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung bộ
Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
58,1
81,5
86,1
81
62,7
74,5
47,2
70
37
47,1
37,4
64,2
62
73,4
29,3
48,1
34,5
52,4
12,2
36,9
28,9
43,9
38,0
68,7
22,6
44,4
25,2
51,8
10,7
23,2
Nghèo lương thực
Miền núi phía Bắc
Đông Bắc
Tây Bắc
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung bộ
Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
24,9
42,3
29,6
26,2
24,2
35,5
22,8
32
11,7
17,7
15,0
32,4
17,6
22,1
8,5
19
15,9
31,5
5
11,3
9,96
21,1
14,14
26,66
6,8
18,51
9,95
17,59
2,22
7,57
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 36
Khoảng cách nghèo
Miền núi phía Bắc
Đông Bắc
Tây Bắc
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung bộ
Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
18,5
29
29,6
26,2
18,3
24,7
17,2
26,3
10,1
13,8
9,5
18,5
17,6
22,1
6,2
11,8
10,2
19,1
3,0
8,1
6,9
12,3
9,6
24,1
4,3
10,6
6,0
16,7
2,2
4,7
Bảng 2.4. Phân bố người nghèo giữa các vùng
Tính theo phần trăm
Người nghèo Dân số
1993 1998 2002 2002
Nghèo chung
Miền núi phía Bắc
Đông Bắc
Tây Bắc
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung bộ
Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
100
23
19
4
24
16
5
3
11
17
100
25
20
6
18
18
8
5
5
21
100
22
16
7
17
20
7
10
5
17
100
15
12
3
22
13
8
6
15
21
Nghèo lương thực
Miền núi phía Bắc
Đông Bắc
Tây Bắc
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung bộ
Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
100
16
22
4
24
18
5
3
9
15
100
32
24
7
13
18
9
8
5
16
100
28
17
11
11
22
7
6
4
13
100
15
12
3
22
13
8
6
15
21
Nguồn: Ngân hàng thế giới báo cáo phát triển Việt Nam 2004: Nghèo
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 37
2.3.2.2. Tình trạng bất bình đẳng
Nghèo đói có liên quan chặt chẽ đến bất bình đẳng. Tình trạng bất bình
đẳng cũng đang dần gia tăng ở Việt Nam: 0,33 (1993); 0,36 (1996); 0,39 (1999);
0,42 (2003). Xu hướng bất bình đẳng cũng thể hiện trong sự thay đổi tỷ trọng
chi tiêu trong các nhóm dân cư. Tỷ trọng chi tiêu của 20% dân số giàu nhất gia
tăng, trong khi 80% dân số còn lại giảm dần theo thời gian. Hệ số Gini năm
2002 là 0,42 gần bằng của Trung Quốc, trong khi mức thu nhập bình quân đầu
người của Việt Nam thấp hơn nhiều. Điều đáng lưu ý nữa là hệ số Gini khi được
tính theo mức chi tiêu cho các khoản phi lương thực tăng tới 0,49 (2002), thể
hiện mức độ bất bình đẳng lớn hơn nhiều.
Bảng 2.5. Chi tiêu của các nhóm dân cư
Phần trăm hoặc tỷ lệ 1993 1998 2002
Nghèo nhất
Gần nghèo nhất
Trung bình
Gần giàu nhất
Giàu nhất
8,4
12,3
16,0
21,5
41,8
8,2
11,9
15,5
21,2
43,3
7,8
11,2
14,6
20,6
45,9
Tổng cộng 100 100 100
Giàu nhất/ nghèo nhất 4,97 5,49 6,03
Nguồn: Báo cáo phát triển Việt Nam 2004: Nghèo. Ngân hàng thế giới
Chú ý: Theo ĐTMSHGĐ năm 2002 của TCTK thì mức chênh lệch giữa
20% số hộ có thu nhập cao nhất với 20% số hộ có mức thu nhập thấp nhất năm
2002 là 8,1 lần; còn so sánh theo các nhóm 10% thì mức chênh lệch là 13,9 lần,
do đó hệ số Gini năm 2002 là 0,42 chứ không phải là 0,37.
2.3.2.3. Nguyên nhân và các yếu tố chính ảnh hưởng đến nghèo đói ở Việt Nam
Có nhiều nguyên nhân tác động đến tình trạng nghèo đói và bất bình
đẳng, xuất phát từ bản thân con người như yếu tố di truyền, sự thừa kế về tài
sản, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
vùng; sự tác động của cơ chế thị trường; chính sách của nhà nước và những rủi
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 38
ro bất trắc khác có thể xảy ra đối với mỗi cá nhân, hộ gia đình và mỗi vùng ...
Sau đây là một số nguyên nhân và yếu tố cơ bản tác động đến nghèo đói ở Việt
Nam.
- Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn
của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng
không có đất có xu hướng gia tăng, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Bên cạnh đó, đa số chọn phương pháp sản xuất tự túc tự cấp với phương
pháp truyền thống có giá trị thấp, chưa có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản
xuất như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động thực vật, các yếu tố đầu vào
của sản xuất như điện, nước, giống ... thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín
dụng, thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin về pháp luật, chính sách và thị trường.
Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì không có khả năng đầu tư vào nguồn
vốn nhân lực của họ và nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở của họ thoát nghèo.
- Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp. Khoảng
90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. 80% số người
nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Trình độ
học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực khác, trong các
ngành phi nông nghiệp, những ngành mang lại thu nhập cao và ổn định hơn; ảnh
hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con
cái ... do đó ảnh hưởng đến cả các thế hệ tương lai.
- Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp.
- Quy mô gia đình lớn, mà đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả
của nghèo đói. Quy mô gia đình lớn làm cho tỷ lệ người ăn theo cao và thiếu
nguồn lực về lao động.
- Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác
vì thu nhập thấp, tích luỹ kém khó có khả năng chống chọi với những biến cố
xảy ra trong cuộc sống. Do không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm
ăn nên các rủi ro trong sản xuất và kinh doanh cũng tương đối cao.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 39
- Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống phụ nữ và trẻ em và
tác động bất lợi đối với gia đình.
- Bệnh tật và sức khoẻ yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình
trạng nghèo đói trầm trọng, vì nó ảnh hưởng đến thu nhập và chi tiêu của người
nghèo, làm cho họ rơi vào tình trạng luẩn quẩn của nghèo đói.
- Những tác động chính sách vĩ mô và cải cách cũng có ảnh hưởng đến
nghèo đói. Bên cạnh những tác động tích cực, thì những hạn chế trong cơ cấu
đầu tư, trong lựa chọn loại hình tăng trưởng, trong cải cách doanh nghiệp nhà
nước dẫn tới mất việc làm của một số người lao động, chưa quan tâm và tạo cơ
hội cho phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kết cấu hạ tầng giao thông đến
các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo còn thiếu và yếu kém ... cũng làm ảnh
hưởng đến kết quả của xoá đói giảm nghèo.
2.3.2.4. Các giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện
công bằng xã hội, xoá đói, giảm nghèo
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn luôn là những mục tiêu
hàng đầu mà Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt là từ quá trình đổi mới đến
nay. Trong chỉ đạo thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001
- 2010 Đại hội IX đề ra quan điểm: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững,
tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường". Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt "Chiến lược toàn diện về tăng
trưởng và xoá đói giảm nghèo" và được coi là bộ phận cấu thành của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010.
Để thực hiện quan điểm trên, trước hết phải coi trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và hướng tăng trưởng kinh tế vào giải quyết những vấn đề đảm
bảo công bằng xã hội, đặc biệt là cần phải ưu tiên cho xoá đói giảm nghèo. Mặt
khác, Nhà nước còn phải phân bổ chi tiêu công và đầu tư công sao cho công
bằng và hiệu quả, phải có sự trợ giúp đặc biệt đối với những người nghèo và
những người yếu thế. Đồng thời, cần kết hợp nhiều biện pháp, chính sách và
nhiều lực lượng xã hội tham gia vào công cuộc xoá đói giảm nghèo và các hoạt
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 40
động xã hội cần thiết khác. Những giải pháp chủ yếu cần hướng vào giải quyết
những vấn đề sau:
Thứ nhất, chiến lược tăng trưởng kinh tế đồng thời phải hướng vào giải
quyết vấn đề nghèo đói và công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế phải trên cơ sở một chiến lược phát triển kinh tế, xã
hội phù hợp khai thác được lợi thế, tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế
và phù hợp với bối cảnh của quá trình hội nhập quốc tế; đồng thời phải gắn với
việc tạo ra nhiều việc làm mới, tăng thu nhập cho các tầng lớp dân cư, giảm
chênh lệch giữa các vùng và các nhóm dân cư. Đối với nước ta để gắn tăng
trưởng với giảm nghèo và bất công bằng trong phân phối thu nhập trong giai
đoạn tới cần chú ý:
- Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục là hướng được quan
tâm để có thể thực hiện xoá nghèo trên diện rộng.
Người nghèo đặc biệt là nghèo về lương thực, thực phẩm chủ yếu vẫn tập
trung ở nông thôn và việc tạo thu nhập của họ chủ yếu gắn với hoạt động nông
nghiệp. Vì vậy, phát triển toàn diện nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu sản xuất và
đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, tập trung thâm canh, nâng cao hiệu quả của
sản xuất nông nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy tăng tưởng
kinh tế nông nghiệp và cải thiện đời sống nông dân.
Khu vực nông thôn Việt Nam có diện tích đất đai tính theo đầu người rất
thấp, nên lực lượng lao động nông thôn không thể sử dụng toàn bộ vào các hoạt
động thuần tuý nông nghiệp. Hậu quả là tỷ lệ thiếu việc làm và thất nghiệp lên
rất cao. Các hoạt động phi nông nghiệp được xem là các ngành nghề chỉ đòi hỏi
ít vốn đầu tư, công nghệ và kỹ thuật đơn giản, nhưng lại được sử dụng được
nhiều lao động. Do đó, phát triển các hoạt động phi nông nghiệp là phương tiện
hữu hiệu để thu hút lao động dôi dư ở nông thôn nhằm tạo việc làm, tăng thu
nhập để cải thiện đời sống người dân.
- Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và dịch vụ của khu vực đô thị .
Hiện nay khu vực đô thị của nước ta thất nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Quá
trình đo thị hoá diễn ra khá nhanh, diện tích đất nông nghiệp khu vực ven đô bị
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 41
thu hẹp đáng kể cộng với tình trạng di cư từ nông thôn tới các khu đô thị đang
tạo ra những thách thức lớn trong vấn đề giảm nghèo đói và những vấn đề xã hội
khác cần giải quyết. Kinh nghiệm cho thấy phát triển tiểu thủ công nghiệp, các
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ có quy mô vừa và nhỏ, phát triển các cơ
sở công nghiệp hỗ trợ cho các doanh nghiệp công nghiệp lớn có tác động to lớn
trong vấn đề tạo việc làm. Tuy nhiên, cần chú ý khắc phục tình trạng ô nhiễm
môi trường có thể xảy ra trong phát triển các loại hình này.
Thứ hai, Tiếp tục đổi mới kinh tế nhằm đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng
bền vững.
Nền kinh tế tăng trưởng chậm, thiếu bền vững thì những nhóm nghèo hay
vừa thoát nghèo, những vùng nghèo sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất và Nhà nước
cũng không đủ nguồn tài chính để đảm bảo các dịch vụ công và đầu tư công.
Mặc dù tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt được trong thời gian tương
đối dài và tốc độ tăng trưởng cao, song nhiều tiềm năng vẫn chưa được khai thác
có hiệu quả, "năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp". Đổi mới khu vực
DNNN tuy đạt được những kết quả nhất định, song vẫn chứa đựng nhiều hạn
chế, nhất là tình trạng nợ nần đem lại những hậu quả xấu. Chi tiêu và đầu tư
công kém hiệu quả. Đầu tư trở nên tốt vốn hơn. Tình trạng đó rất có thể làm cho
tăng trưởng kinh tế chậm lại; tài chính nhà nước cho chi tiêu công và đầu tư
công cho xoá đói giảm nghèo có nguy cơ bị thu hẹp, trong khi hỗ trợ để cho
người nghèo và vùng nghèo trở nên khó khăn hơn.
Vì thế, cần tiếp tục đẩy nhanh cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước;
cải cách khu vực tài chính; khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần; nâng cao sức cạnh tranh và mức độ hội nhập của nền kinh tế; cải thiện tính
hiệu quả và tính minh bạch trong quản lý khu vực nhà nước; cải cách nền hành
chính quốc gia đồng thời tiếp tục đảm bảo các chính sách nhằm duy trì sự ổn
định và cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô.
Đó là những cải cách cần thiết để duy trì tăng trưởng bền vững, qua đó tạo
khả năng tiếp tục xóa đói giảm nghèo trong những năm tiếp theo.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 42
Thứ ba, Phát triển giáo dục, đào tạo và có chính sách quan tâm đến người
nghèo, vùng nghèo.
Nâng cao kiến thức, kỹ năng cho người lao động có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng lao động để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
tạo điều kiện cho người có sức lao động có thể tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo
việc làm, tạo thu nhập và giúp cho cá nhân và gia đình họ thoát khỏi cảnh
nghèo. Để đạt được điều đó cần phải:
- Xâu dựng nền giáo dục công bằng hơn, chất lượng hơn cho tất cả mọi
người, đặc biệt quan tâm đến người nghèo, vùng nghèo. Tăng tỷ lệ đầu tư cho
giáo dục và phân bổ công bằng hơn để có kinh phí đầu tư cho cải cách giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng; để nâng cấp cơ sở vật chất cho giáo dục và giảm bớt
việc đi học xa của trẻ em; có chính sách ưu đãi để các hộ nghèo có thể giảm các
đóng góp trực tiếp cho giáo dục nhất là đối với cùng sâu, vùng xa và đồng bào
các dân tộc ít người.
- Mở rộng mạng lưới và nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Chú ý đến các
đối tượng nghèo thiếu kỹ năng nghề nghiệp để tìm kiếm việc làm và những
người mất đất nông nghiệp phải chuyển đổi sang các nghề nghiệp phi nông
nghiệp.
Thứ tư, nâng cao dịch vụ y tế, kế hoạch hoá gia đình, giảm gánh nặng chi
phí y tế cho người nghèo.
Thành tựu về y tế của Việt Nam nhìn chung cao hơn các nước có cùng
trình độ phát triển. Tuy nhiên, có sự chênh lệch đáng kể giữa người giàu và
người nghèo; giữa thành thị và nông thôn. Vì thế, Nhà nước cần nỗ lực rất nhiều
trong lĩnh vực này hướng vào:
- Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y té cơ sở và nâng cao dịch vụ y tế
công, đặc biệt là tuyến cơ sở ở các xã theo tiêu chuẩn quốc gia, đẩy mạnh y tế
dự phòng.
- Tăng cường nguồn lực tài chính và ban hành chính sách ưu tiên đối với
các vùng, tuyến y tế cơ sở có khó khăn và đối với người nghèo đảm bảo khả
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 43
năng thực thi một cách có hiệu quả hơn. Giúp người dân cải thiện điều kiện vệ
sinh, đặc biệt là chương trình nước sạch và nhà vệ sinh sạch.
- Gắn với chương trình quốc gia vì trẻ em, chiến lược sức khoẻ sinh sản,
lồng ghép các mục tiêu y tế với xoá đói giảm nghèo.
- Thực hiện chiến lược dân số, kế hoạch hoá gia đình, giảm tỷ lệ sinh và
nâng cao chát lượng dân số.
Thứ năm, đảm bảo tính hiệu quả và công bằng trong việc phân bổ chi tiêu
và các chương trình đầu tư công, chú ý đầu tư công nhằm thúc đẩy tăng trưởng
và trực tiếp cải thiện đời sống của các vùng nghèo.
- Các chương trình, dự án đầu tư công có những tác động khác nhau đến
tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo và thực hiện công bằng trong phân phối thu
nhập. Tuy nhiên, tác động của các dự án không phải bao giờ cũng đồng thời đạt
được cả hai mục tiêu trên. Nếu đầu tư các chương trình dự án công vào các vùng
giàu tiềm năng và có điều kiện kinh tế thuận lợi, sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao
hơn vùng nghèo và có thể có hiệu quả hơn xét trên phạm vi lợi ích chung của xã
hội. Tuy nhiên, tập trung đầu tư vào vùng giàu, làm cho các vùng này tăng
trưởng nhanh hơn, khiến cho sự phân hoá thu nhập giàu nghèo giữa các vùng sẽ
ngày càng tăng. Người ta cho rằng, có thể phân phối lại qua ngân sách nhà nước
để giảm bớt chênh lệch này. Song vấn đề không đơn giản như vậy, vì phân phối
qua lại ngân sách nhà nước không dễ. Hơn nữa, điều sâu xa hơn nằm đằng sau
chênh lệch về thu nhập, là chênh lệch về năng suất giữa vùng giàu và vùng
nghèo làm cho chênh lệch này còn tiếp tục gia tăng trong tương lai.
Ngược lại, đầu tư dàn trải giữa các vùng hay thiên về vùng nghèo chỉ xuất
phát từ mục tiêu xã hội có thể làm hạn chế tăng trưởng. Kết quả là tăng trưởng
chậm và bản thân vấn đề giảm nghèo đói càng trở nên khó khăn. Như vậy, cần
thiết kế cơ chế phân bổ đầu tư sao cho đảm bảo công bằng và hiệu quả hơn, chú
ý đến tính công bằng, nhất là trong lĩnh vực xã hội.
- Đa số người nghèo hiện nay sống bằng nghề nông và ở nông thôn. Vì
vậy, việc quan tam đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn (thuỷ lợi, đường xá,
giáo dục ...) có tác động mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh doanh nông nghiệp,
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 44
cũng như tăng thêm việc làm phi nông nghiệp là biện pháp thúc đẩy tăng trưởng
và giảm nghèo.
Thứ sáu, cần có chương trình hỗ trợ đặc biệt và phát triển mạng lưới an
sinh xã hội để trợ giúp các đối tượng khó khăn.
Những người nghèo do đặc điểm và hoàn cảnh của mình nên khó tiếp cận
thị trường lao động để tìm kiếm việc làm hoặc không đủ tài sản, đất đai, vốn
liếng hay kỹ năng cần thiết để tự tạo việc làm. Vì vậy, giúp đỡ họ tiếp cận đến
các nguồn tín dụng ưu đãi, chuyển giao kỹ thuật sản xuất thông qua các hình
thức khuyến nông thích hợp hoặc các hoạt động dạy nghề sẽ có tác động thiết
thực trong việc giúp đỡ họ tự tạo việc làm tăng thu nhập.
Trong chính sách xoá đói giảm nghèo Chính phủ đã có một số hỗ trợ trực
tiếp hướng vào đối tượng hộ nghèo và những nhóm khác trong xã nghèo như:
cấp "chứng nhận hộ nghèo" và "thẻ khám chữa bệnh", vay tín dụng ưu đãi, thành
lập Ngân hàng chính sách xã hội, miễn học phí và ở cấp xã đã thực hiện chương
trình trợ cấp cho những xã nghèo. Những hỗ trợ trên đã đem lại kết quả đáng
khích lệ.
Những nỗ lực tới cần phải tập trung vào một số chương trình đã được
chứng minh là có hiệu quả, đảm bảo cấp ngân sách đến được đúng những đối
tượng có nhu cầu, thiết kế các chương trình sao cho các phạm vi phục vụ người
nghèo được mở rộng, tạo điều kiện cho công tác giám sát và đánh giá để nâng
cao hiệu quả của các chương trình hỗ trợ; nâng cao năng lực và tinh thần trách
nhiệm của các cấp chính quyền ở địa phương; tăng cường tiếng nói và sự tham
gia của người dân trong các chương trình.
Hiện nay và trong những năm tới nghèo đói vẫn diễn ra chủ yếu ở nông
thôn. Nhưng nó sẽ tập trung nhiều hơn ở vùng sâu, vùng xa và sẽ ảnh hưởng
mạnh đến các dân tộc ít người. Do đó cần có những biện pháp đặc biệt hơn, ưu
đãi hơn với đồng bào dân tộc. Chẳng hạn, chương trình cấp đất cho các hộ
nghèo người dân tộc là một trong những giải pháp cần thiết giúp đỡ đồng bào có
đất sản xuất hiện đang được Chính phủ tiến hành.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 45
Chương 3
CÁC NGUỒN LỰC VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Các nhân tố đầu vào của sản xuất quyết định đến khả năng sản xuất của
nền kinh tế bao gồm: vốn, lao động, khoa học và công nghệ, tài nguyên thiên
nhiên được quan niệm là các nguồn lực kinh tế.
Các nguồn lực kinh tế trên có nguồn gốc khác nhau: Tài nguyên thiên
nhiên được hình thành một cách khách quan do tự nhiên ban tặng; nguồn lao
động gắn với bản thân con người và đầu tư cho con người; vốn, khoa học và
công nghệ là do con người sáng tạo ra.
Các nguồn lực kinh tế tham gia vào các quá trình kinh tế với những tư
cách khác nhau: tài nguyên thiên nhiên là đối tượng của lao động; là cốt vật chất
của các sản phẩm hoặc là nguồn năng lượng, lực lượng trợ giúp cho hoạt động
sản xuất các sản phẩm, dịch vụ. Các loại vốn, khoa học và công nghệ hình thành
nên các loại công cụ, phương tiện và phương thức khác nhau, giúp con người tác
động vào các yếu tố tài nguyên để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ. Lao động của
con người với tư cách là chủ thể sáng tạo có vị trí trung tâm trong việc tổ chức
và sử dụng tối ưu các nguồn lực kinh tế.
3.1. Tài nguyên thiên nhiên với tăng trưởng và phát triển kinh tế
3.1.1. Khái niệm và phân loại tài nguyên thiên nhiên
a) Khái niệm
Tài nguyên thiên nhiên là tất cả những yếu tố tự hiên mà con người có thể
sử dụng để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.
Tài nguyên thiên nhiên vừa bao gồm các yếu tố vật chất trực tiếp tham gia
các hoạt động kinh tế như: đất đai, các loại động thực vật, khoáng sản, năng
lượng ...; vừa tạo môi trường cho các hoạt động đó như: không gian, vị trí địa lý,
khí hậu, thời tiết ...
Tài nguyên thiên nhiên được coi là một loại nguồn lực kinh tế chính trị là
do lợi ích kinh tế của nó đóng góp vào quá trình phát triển. Tuy nhiên, điều đó
còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học và công nghệ để phát hiện ra
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 46
những tài nguyên vốn còn tiềm ẩn chưa được biết đến và những phương pháp
công nghệ mới để đưa vào sử dụng một cách hữu ích. Nói chung, loại tài nguyên
nào càng hữu ích, khan hiếm càng trở thành nguồn lực có giá trị kinh tế cao.
Tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia bao gồm tất cả các loại tài
nguyên có trên mặt đất, trong biển và dưới đáy biển; trong không gian vũ trụ
thuộc chủ quyền của quốc gia đó.
b) Phân loại tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, đa dạng. Tuỳ theo mục đích nghiên
cứu, có thể phân loại theo những cách khác nhau:
+ Căn cứ vào thuộc tính tự nhiên có: đất đai, rừng, biển, các loại động
thực vật, các loại khoáng ssản kim loại, phi kim loại và các loại nhiên liệu, năng
lượng.
+ Căn cứ vào khả năng tái tạo có: các loại tài nguyên hữu hạn và vô hạn.
Tài nguyên hữu hạn bao gồm loại tài nguyên có thể phục hồi được và loại không
thể phục hồi được.
Các loại tài nguyên có thể phục hồi được gắn với đặc điểm tuần hoàn.
Theo quy luật của tự nhiên (chẳng hạn, nguồn nước sạch ...) hay đặc điểm của
sinh học (động thực vật, vi sinh vật). Đối với các loại tài nguyên sinh học, ngay
cả sau khi khai thác đến mức có nguy cơ huỷ diệt, nếu được bảo vệ cũng có thể
được phục hồi, song phải có thời gian và trong những điều kiện phù hợp với khả
năng tái sinh của chúng. Các loại tài nguyên không thể phục hồi được (các mỏ
khoáng sản) là những tài nguyên khai thác đến đâu hết đến đó, những phần còn
sót lại không thể tái sinh trở lại dạng ban đầu. Các tài nguyên vô tận là những tài
nguyên có sẵn trong tự nhiên mà nguồn cung cấp được coi là vô tận như năng
lượng mặt trời, không khí, nước ...
3.1.2. Vai trò của tài nguyên thiên nhiên đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế
- Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố đầu vào không thể thiếu được trong các
hoạt động kinh tê. Bởi vì, tài nguyên thiên nhiên chính là điều kiện vật chất ban
đầu để sản xuất ra các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Đất đai, thổ nhưỡng,
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 47
nguồn nước, các nguồn gien động, thực vật, khí hậu, thời tiết... là những yếu tố
tài nguyên không thể thiếu và có ảnh hưởng rất lớn đến kết qủa sản xuất nông,
lâm, thuỷ sản. Quy mô, chủng loại, chất lượng của các loại tài nguyên khoáng
sản có ảnh hưởng không chỉ đến ngành khai thác khoáng sản, mà còn tạo ra cơ
sở nguyên liệu trong nước cho phát triển các ngành công nghiệp chế biến.
- Số lượng, cơ cấu, chất lượng và tình hình phân bố tài nguyên thiên nhiên
ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu ngành và phân bố sản xuất theo vùng lãnh thổ
của các ngành nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp khai khoáng và công nghiệp chế
biến các loại tài nguyên đó. Ở các nước đang phát triển, khi trình độ phát triển
kinh tế - xã hội còn hạn chế, cơ cấu kinh tế theo ngành và lãnh thổ bị ảnh hưởng
khá lớn bởi đặc điểm của nguồn lực tài nguyên thiên nhiên.
- Tài nguyên thiên nhiên còn có vai trò tạo vốn, khắc phục sự thiếu hụt
các nguồn vốn thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. Trong phạm vi quốc gia,
tạo vốn có thể được thực hiện thông qua cho thuê, khai thác tài nguyên thiên
nhiên để xuất khẩu hoặc thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
đó để khai thác và sử dụng các loại tài nguyên thiên nhiên của quốc gia đó.
- Vai trò của tài nguyên thiên nhiên là có giới hạn. Các sản phẩm được
khai thác từ tài nguyên thiên nhiên cũng phải đối mặt với sức cạnh tranh thị
trường; giữa các quốc gia theo xu hướng bất lợi cho các nước xuất khẩu sản
phẩm thô. Hơn nữa, vai trò của tài nguyên thiên nhiên ngày càng giảm đi khi
khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, người ta càng có điều kiện phát
hiện và đưa vào sử dụng các loại tài nguyên mới đồng thời sử dụng trở nên tiết
kiệm và có hiệu quả hơn.
Ngoài ra, khai thác và sử dụng tài nguyên có ảnh hưởng rất lớn đến sự
cạan kiệt tài nguyên thiên nhiên và tác động xấu đến môi trường sinh thái, do đó,
ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các thế hệ tương lai.
3.1.3. Tài nguyên thiên nhiên ở nước ta hiện nay
Việt Nam nằm trên bán đảo, gần trung tâm Đông Nam Á, vừa có biên giới
lục địa, vừa có hải giới rộng lớn, là cửa ngõ đi ra Thái Bình Dương của một số
nước và của vùng Đông Nam Á. Nước ta nằm ở vành đai nhiệt đới bắc bán cầu,
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 48
đúng vào khu vực gió mùa Đông Nam Á, do đó mang đặc trưng của khí hậu
nhiệt đới gió mùa châu Á, khá thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Việt Nam có diện tích đất tự nhiên trên 33 triệu ha; đứng thứ 55 thế giới,
nhưng diện tích bình quân đầu người rất thấp, chỉ đạt 0,45 ha đứng thứ 159
trong số gần 200 nước trên thế giới. Trong số 33 triệu ha diện tích đất tự nhiên,
có 17 triệu ha đất xấu, độ phì thấp, hạn chế đối với việc sản xuất nông nghiệp.
Diện tích đất nông nghiệp được mở mang, sử dụng đất tự nhiên, với xu hướng
tăng dần: từ 20,54% (1980) lên 23% (1992) lên 25% (1997). Việt Nam có
khoảng hơn 19 triệu ha đất rừng, nhưng diện tích rừng ngày càng suy giảm. Diện
tích rừng năm 1943 là trên 14 triệu ha, đến năm 1990 chỉ còn khoảng 9 triệu ha,
độ che phủ của rừng giảm từ 48,5% xuống còn 27,7%. Những năm gần đây, do
nỗ lực trồng rừng, tái sinh rừng nên diện tích che phủ rừng đến năm 2001 đạt
34,4%.
Biển và bờ biển là một trong những ưu thế về tài nguyên của Việt Nam.
Bờ biển dài 3260km, vùng biển nước ta có hàng ngàn đảo nhỏ, dọc bờ biển có
nhiều vũng, vịnh kín gió, bờ biển không có hẻm vực sâu dốc, ít bãi lầy, thuận
tiện cho việc xây dựng các hải cảng. Biển Việt Nam có mật độ cá vào loại trung
bình thế giới và có đủ các loại hải sản chủ yếu của các biển nhiệt đới khác.
Tổng lượng nước ngọt trung bình hàng năm của Việt Nam khoảng 880 tỷ
m3, trong đó lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long chiếm 75%, nhưng lượng
nước trong lãnh thổ Việt Nam hàng năm chỉ khoảng 325 tỷ m3.
Việt Nam là 1 trong 14 nước giàu thuỷ năng trên thế giới. Trữ lượng thuỷ
năng ước tính khoảng gần 300 tỷ kw/h, mật độ thuỷ năng cao (94 kw/km2),
nhưng trữ lượng phân bố không đều, riêng vùng Bắc Bộ chiếm 47%, vùng Nam
Trung Bộ chiếm 28% trữ lượng thuỷ năng của cả nước.
Tài nguyên khoáng sản của nước ta có nhiều loại. Theo kết quả của công
tác điều tra, phát hiện tìm kiếm thăm dò thì cả nước có hơn 3.500 mỏ và điểm
quặng của 80 loại khoáng sản đã được đánh giá ở mức độ khác nhau, trong đó
có trên 30 loại khoáng sản và trên 270 mỏ được huy động vào khai thác. Tuy
nhiên, chỉ có một số mỏ và loại khoáng sản là có quy mô tương đối lớn như: mỏ
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 49
sắt ở Thạch Khê - Hà Tĩnh trữ lượng thăm dò khoảng 600 triệu tấn. Mỏ Bôxits
latêrit trữ lượng dự báo trên 10 tỷ tấn, tập trungở các tỉnh Đắc Lắc, Lâm Đồng,
chất lượng quặng trung bình và đều nằm lộ thiên, dễ khai thác. Quặng Apatít
Lào Cai có trữ lượng dự báo trên 2 tỷ tấn; than đá tập trung chủ yếu ở vùng
Quảng Ninh. Nếu tính cả các mỏ than địa phương thì tổng trữ lượng khoáng sản
6 tỷ tấn, trong đó Quảng Ninh chiếm gần 90% trữ lượng than cả nước. Dầu khí
nước ta tập trung chủ yếu ở vùng thềm lục địa các tỉnh phía Nam. Việc đánh giá
trữ lượng có nhiều ý kiến khác nhau, song nhìn chung không phải là lớn, nhất là
dầu mỏ.
Tóm lại, tài nguyên thiên nhiên Việt Nam không được thiên nhiên ưu đãi
lớn, nhưng khá phong phú, đa dạng, tạo điều kiện cho phát triển một nền kinh tế
đa ngành, ổn định, phát triển bền vững; môi trường sinh thái chưa bị ô nhiễm
nặng. Tuy nhiên, những khó khăn nảy sinh từ những đặc điểm về khí hậu, những
hậu quả tàn phá môi trường của thời kỳ chiến tranh, việc khai thác phi kinh tế và
sự thiếu ý thức của con người đã gây ra những lãng phí về tài nguyên và suy
giảm về môi trường.
3.1.4. Những vấn đề đặt ra trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo vệ môi trường
- Tiếp tục điều tra, thăm dò, đánh giá tài nguyên thiên nhiên. Để có căn cứ
khoa học trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch và quy hoạch phát triển kinh
tế, xã hội một cách bền vững, cần phải có những thông tin đầy đủ, đồng bộ,
chính xác về tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Mặc dù việc điều tra, thăm
dò tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam đã và đang được tiến hành với nhiều thành
tựu, nhưng những thông tin có được hiện nay vẫn thiếu và chưa thật chính xác.
Nhà nước cần quan tâm thích đáng hơn trong lĩnh vực này.
- Quy hoạch khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên cơ
sở không ngừng nâng cao tính hiệu quả, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ môi trường. Các phương án khai thác tài nguyên phải trên cơ sở các
nguồn thông tin cho phép đánh giá đầy đủ tài nguyên đó, chọn quy mô và công
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 50
nghệ khai thác phù hợp không chỉ đảm bảo tính hiệu quả, mà còn phải phù hợp
với đặc điểm sinh thái, tính chất xã hội, văn hoá của vùng, từng địa phương.
- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài
nguyên và môi trường.
Ở nước ta, tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Đối với đất đai, Luật đất đai đã được
Nhà nước ban hành năm 1993 thừa nhận 5 quyền của người chủ sử dụng đất là:
quyền chuyển nhượng; trao đổi; cho thuê; thừa kế và thế chấp. Thời gian giao
đất cho các chủ sử dụng cũng được kéo dài có thể đến 50 năm. Tuy nhiên chính
sách đất đai yếu kém kéo dài. Vì thế, đất đai bị sử dụng lãng phí, tình trạng lấn
chiếm, sử dụng sai mục đích xảy ra ở nhiều nơi. Lợi ích nhà nước với tư cách là
người đại diện chủ sở hữu và quản lý thống nhất trong nhiều trường hợp không
được đảm bảo, trong khi đó lại không đảm bảo công bằng giữa những người chủ
sử dụng. Tình hình trên đây đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục bổ sung, sửa đổi và
hoàn thiện hơn các chính sách và Pháp luật về quyền sở hữu, sử dụng và quản lý
nhà nước về đất đai. Xây dựng và sử dụng có hiệu quả hệ thống thông tin về tài
nguyên đất. Quy hoạch và quản lý sử dụng tài nguyên đất đối với tất cả các đối
tượng sử dụng đất. Đảm bảo sử dụng có hiệu quả và bền vững đối với tài nguyên
đất.
Nâng cao ý thức của người dân trong việc chấp hành pháp luật đi đôi với
việc tạo điều kiện cho họ tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành
quả của phát triển, để họ trở thành nhân tố tích cực trong việc khai thác, sử dụng
có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
3.2. Nguồn lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế
3.2.1. Nguồn lao động và vai trò của nó đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế
- Nguồn lao động là một bộ phận của dân số, trong đó độ tuổi quy định,
thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm, đang tích cực
tìm kiếm việc làm.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 51
Nguồn lao động theo định nghĩa đã nêu bao gồm hai bộ phận: một là,
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang thực tế tham gia
lao động và hai là, nhưng người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,
nhưng "không có việc làm, đang tích cực tìm kiếm việc làm" (tức là những
người thất nghiệp). Ở Việt Nam, do chưa đăng ký thất nghiẹp, nên chỉ tiêu này
chỉ là ước tính. Ngoài ra, trong khu vực nông thôn, khác với tình trạng thất
nghiệp ở thành thị, đó là hiện tượng thiếu việc làm.
Theo Bộ luật Lao động của nước CHXHCN Việt Nam, độ tuổi lao động
được quy định đối với nữ là từ 15 đến 55 tuổi, đối với nam là từ 15 đến 60 tuổi.
Định nghĩa trên đây mới nói lên mặt số lượng, chưa nói lên mặt chất
lượng lao động. Chất lượng lao động là đại lượng khó xác định. Người ta có thể
xem xét chất lượng của nguồn lao động thông qua các yếu tố làm cho lao động
có hiệu quả hơn. Ở từng người lao động cụ thể, chất lượng lao động được thể
hiện trên các khía cạnh sức khẻo, kiến thức, trình độ kỹ thuật và kinh nghiệp tích
luỹ được; ý thức, thái độ, tác phong của ngươì lao động. Ở tông thể nguồn lao
động, chất lượng lao động không chỉ xem xét dưới góc đội cá nhân từng người
lao động, mà còn thể hiện ở cơ cấu của người lao động xét theo ngành nghề và
cơ cấu lao động trong từng ngành cụ thể, cũng như cơ cấu xét theo tính chất lành
nghề của chất lượng chuyên môn và trình độ tổ chức của lao động.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng lao động.
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng của nguồn lao động: quy mô, cơ
cấu và tốc độ tăng dân số; quy định về độ tuổi lao động và thời gian lao động
trong năm của Nhà nước; các điều kiện thu nhập, điều kiện sống, tập quán ảnh
hưởng đến số người trong độ tuổi lao động không tham gia lao động.
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn lao động bao gồm:
giáo dục, đào tạo; vấn đề nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ; tình trạng việc làm
và thu nhập; môi trường sống và các yếu tố xã hội khác như đạo đức, truyền
thống, tập quán; chính sách sử dụng lao động trong các tổ chức, doanh nghiệp và
của nhà nước.
- Vai trò của nguồn lao động với tăng trường và phát triển kinh tế.
GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 52
Trước hết, nguồn lao động là nhân tố đầu vào không thể thiếu được của
bất kỳ quá trình kinh tế, xã hội nào. Dù trình độ khoa học và công nghệ thấp hay
cao nguồn lao động vẫn là yếu tố hết sức quan trọng. Ở trình độ thủ công lạc hậu
sức cơ bắp của con người thay thế cho sức máy móc, do đó việc huy động số
lượng lớn các nguồn lực lao động có ý nghĩa cơ bản cho quá trình phát triển. Khi
khoa học công nghệ phát triển sức cơ bắp của con người được thay dần bằng
máy móc, thì vai trò của nguồn lao động không vì thế mà giảm đi, mà lại đòi hỏi
cao hơn về chất lượng đặc biệt là về trình độ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm
nghề nghiệp, tính năng động sáng tạo của người lao động.
Thứ hai, nguồn lao động so với các yếu tố đầu vào khác không phải là yếu
tố thụ động mà còn là nhân tố quyết định việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực khác. Trên ý nghĩa ấy nguồn lao động có ý nghĩa quyết định đối
với quá trình phát triển. Không dựa trên nền tảng phát triển cao của nguồn lao
động về thể chất, trình độ văn hoá, tri thức và kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm
quản lý và lòng nhiệt tình ... thì chẳng những việc sử dụng nguồn lao động trở
nên lãng phí, mà còn không sử dụng hợp lý các nguồn lực trên thậm chí có thể
làm lãng phí, cạn kiệt và huỷ hoại các nguồn lực khác.
Nguồn lực lao động có đặc điểm là gắn với bản thân từng con người. Do
đó một mặt, nó là yếu tố "đầu vào" của quá trình kinh tế, mặt khác, nó đồng thời
lại là yếu tố gắn với phân phối kết quả "đầu ra" của các quá trình kinh tế ấy. Với
tư cách là yếu tố "đầu vào" việc sử dụng có hiệu quả lao động, nhằm giảm tương
đối chi phí lao động trong tổng chi phí sản xuất các hàng hoá dịch vụ (thông qua
chi phí tiền lương và các chi phí phát sinh theo nó) có ý nghĩa hết sức quan trọng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_te_phat_trien_p1_0101.pdf