Tài liệu Giao tiếp giữa nhân viên y tế với sản phụ sau mổ lấy thai trong khía cạnh đảm bảo chất lượng dịch vụ và sự cảm thông tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2018: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 194
GIAO TIẾP GIỮA NHÂN VIÊN Y TẾ VỚI SẢN PHỤ
SAU MỔ LẤY THAI TRONG KHÍA CẠNH ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG
DỊCH VỤ VÀ SỰ CẢM THÔNG TẠI BỆNH VIỆN
PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG NĂM 2018
Đỗ Mạnh Hùng*, Trần Thị Tú Anh*, Lưu Thị Mỹ Thục**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả sự cảm nhận của sản phụ sau mổ lấy thai về sự đảm bảo chất lượng dịch vụ và sự cảm
thông với sản phụ thông qua hoat động giao tiếp với nhân viên y tế, tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm
2018.
Phương pháp: Mô tả cắt ngang, nghiên cứu định lượng trên 120 sản phụ sau mổ lấy thai, sử dụng thang đo
SERVQUAL.
Kết quả: Cảm nhận của sản phụ về được đảm bảo chất lượng dịch vụ có điểm trung bình 17,0 ± 2,0, mức rất
tốt chiếm 48,3%, mức độ tốt 50,8%, mức bình thường 0,8%. Sản phụ cảm nhận được cảm thông từ nhân viên y
tế có điểm trung bình 20,3 ± 2,6, mức độ rất tốt 40,8%, mức độ tốt 58,3% và mức độ kém 0,8%.
Kết luận: Hầu hết sản ph...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giao tiếp giữa nhân viên y tế với sản phụ sau mổ lấy thai trong khía cạnh đảm bảo chất lượng dịch vụ và sự cảm thông tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 194
GIAO TIẾP GIỮA NHÂN VIÊN Y TẾ VỚI SẢN PHỤ
SAU MỔ LẤY THAI TRONG KHÍA CẠNH ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG
DỊCH VỤ VÀ SỰ CẢM THÔNG TẠI BỆNH VIỆN
PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG NĂM 2018
Đỗ Mạnh Hùng*, Trần Thị Tú Anh*, Lưu Thị Mỹ Thục**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả sự cảm nhận của sản phụ sau mổ lấy thai về sự đảm bảo chất lượng dịch vụ và sự cảm
thông với sản phụ thông qua hoat động giao tiếp với nhân viên y tế, tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm
2018.
Phương pháp: Mô tả cắt ngang, nghiên cứu định lượng trên 120 sản phụ sau mổ lấy thai, sử dụng thang đo
SERVQUAL.
Kết quả: Cảm nhận của sản phụ về được đảm bảo chất lượng dịch vụ có điểm trung bình 17,0 ± 2,0, mức rất
tốt chiếm 48,3%, mức độ tốt 50,8%, mức bình thường 0,8%. Sản phụ cảm nhận được cảm thông từ nhân viên y
tế có điểm trung bình 20,3 ± 2,6, mức độ rất tốt 40,8%, mức độ tốt 58,3% và mức độ kém 0,8%.
Kết luận: Hầu hết sản phụ cảm nhận được đảm bảo chất lượng dịch vụ chăm sóc sau mổ lấy thai và được
nhân viên y tế cảm thông ở mức độ tốt và rất tốt (99,1%).
Từ khóa: giao tiếp, sản phụ, mổ lấy thai, sự cảm thông, chất lượng dịch vụ.
ABSTRACT
COMMUNICATION BETWEEN MEDICAL STAFF AND MOTHERS AFTER CESAREAN SECTION IN
TERMS OF HEALTH CARE QUALITY AND SYMPATHY AT THE NATIONAL HOSPITAL OF
OBSTETRICS AND GYNECOLOGY IN 2018
Do Manh Hung, Tran Thi Tu Anh, Luu Thi My Thuc
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 6- 2018: 194 - 200
Objective: To describe mothers’ feeling after cesarean section in terms of health care quality and sympathy of
medical staff at the National Hospital of Obstetrics and Gynecology in 2018.
Methodology: This is a cross-sectional and quantitative study conducted on 120 mothers after cesarean
section using SERVQUAL.
Result: Health care quality is evaluated by mothers, which has average point of 17.0 ± 2.0, in which excellent
level accounts for 48.3%, good level accounts for 50.8%, average level accounts for 0.8%. Mothers who feel
sympathy of medical staff have average point of 20.3 ± 2.6, in which excellent level accounts for 40.8%, good level
58.3% and poor level 0.8%.
Conclusion: Most of the mothers feel qualified health care and medical staff’s sympathy at excellent and
goold level after cesarean section (99.1%).
Keywords: communication, mothers, cesarean, sympathy, health care quality.
*Bệnh viện Phụ sản Trung Ương, **Bệnh viện Nhi Trung Ương.
Tác giả liên lạc: TS. Đỗ Mạnh Hùng, ĐT: 0913 304075, Email: hungdm.nip@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 195
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mổ lấy thai (MLT) chiếm tỷ lệ cao ở trên thế
giới cũng như ở Việt Nam. Tại một số nước đang
phát triển và các nước trong khu vực có tỷ lệ cao,
trong đó Trung Quốc chiếm tỷ lệ cao nhất với
46%, tiếp đến là Việt Nam 36%, Thái Lan 34%,
Ấn Độ 18%, tỷ lệ thấp nhất là Campuchia 15%(5).
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Vương Tiến Hòa
năm 2004 cho thấy, tỉ lệ MLT là 36,9%(11), nghiên
cứu của Ninh Văn Minh năm 2012 là 23,1%(6).
Nghiên cứu của Lê Hoài Chương và cộng sự
(2018) cho thấy, tỉ lệ MLT tại BV Phụ sản Trung
ương năm 2017 lên đến 54,4%(3).
Những biến chứng liên quan đến MLT lại
gia tăng, tỉ lệ thuận với tỉ lệ MLT(2). Nhiều nghiên
cứu cho thấy MLT gây nguy cơ tử vong và bệnh
tật cao hơn so với đẻ thường. Tỉ lệ tử vong với
phụ nữ sinh thường là 16,9/triệu so với 82,3/triệu
phụ nữ MLT. Theo NSCSA, 10% phụ nữ MLT
cần các dịch vụ chăm sóc đặc biệt sau sinh, 3,5%
trong số này cần phải chuyển đến các khoa hồi
sức cấp cứu(8).
Sản phụ sau MLT cần được chăm sóc đặc
biệt, cần được tư vấn hỗ trợ sau sinh, cũng như
cần được cảm thông chia sẻ từ nhân viên y tế.
Theo Đỗ Mạnh Hùng (2013), nhân viên y tế cần
giao tiếp với người bệnh trong đó có tư vấn để
người bệnh yên tâm điều trị hay sự đảm bảo
chất lượng dịch vụ, cũng như cảm thông chia sẻ
với những nỗi đau, khó khăn của người bệnh, sẽ
giúp người bệnh điều trị tốt hơn(1).
Nhằm đánh giá hiệu quả trong giao tiếp giữa
nhân viên y tế với sản phụ sau MLTvề khía cạnh
đảm bảo chất lượng và sự cảm thông qua đó tìm
ra các giải pháp can thiệp, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu với đề tài: “Giao tiếp giữa nhân viên
y tế với sản phụ sau mổ lấy thai trong khía cạnh
đảm bảo chất lượng dịch vụ và sự cảm thông tại
bệnh viện Phụ sản Trung ương, năm 2018”.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả sự cảm nhận của sản phụ sau mổ lấy
thai về sự đảm bảo chất lượng dịch vụ và sự cảm
thông với sản phụ thông qua hoat động giao tiếp
với nhân viên y tế, tại bệnh viện Phụ sản Trung
ương năm 2018.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Là các sản phụ sau MLT, với các tiêu chuẩn
lựa chọn sau:
Lựa chọn sản phụ sau MLT có con đã được
chăm sóc theo dõi tại khoa sản bệnh lý vào
thời điểm và có chỉ định ra viện.
NB từ 18 tuổi trở lên, tỉnh táo, đủ sức khỏe
để giao tiếp, trả lời câu hỏi.
NB đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
NB trong giai đoạn không tỉnh táo, không
thể giao tiếp.
NB chưa có chỉ định ra viện.
NB từ chối tham gia nghiên cứu.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 4/2018 đến tháng 7/2018.
Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu đã được tiến hành tại khoa sản
bệnh lý – bệnh viện Phụ sản Trung ương.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích,
nghiên cứu định lượng.
Cỡ mẫu:
Trong đó:
n: số NB sau MLT tại bệnh viện để điều tra.
Lấy mức tin cậy 95%, = 0,05 ta được
= (1,96)2
p: Do chưa có thông tin về tỷ lệ người bệnh
đánh giá chất lượng dịch vụ là tốt tại bệnh viện
PSTƯ, lựa chọn p=0.5 để cho cỡ mẫu tối đa.
d: sai số dự kiến 10%, d = 0,10.
Dựa vào các chỉ số và công thức trên đã tính
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 196
được cỡ mẫu là 97, tính thêm 20% cho trường
hợp mất BN hoặc từ chối tham gia nghiên cứu,
làm tròn 120 bệnh nhân.
Đánh giá khía cạnh đảm bảo chất lượng dịch
vụ và sự cảm thông
Sử dụng thang đo SERVQUAL bao gồm các
khía cạnh tin tưởng, khả năng đáp ứng, sự đảm
bảo, sự cảm thông, yếu tố hữu hình. Các câu hỏi
được đánh giá theo thang đo 5-likert, với các
mức điểm 1 5 theo các mức: 1. Rất kém; 2. Kém;
3. Bình thường; 4 Tốt; 5 Rất tốt.
Sự đảm bảo chất lượng dịch vụ, gồm 4 biến:
Cách cư xử của NVYT có tạo được sự tin
tưởng đối với sản phụ;
NVYT tại khoa Sản bệnh có luôn tỏ ra thân
thiện, cởi mở, chia sẻ với sản phụ;
Sản phụ cảm thấy an toàn khi sử dụng dịch
vụ chăm sóc sau MLT tại đây;
NVYT tại khoa Sản bệnh có đủ kiến thức,
có chuyên môn để trả lời đúng các câu hỏi của
sản phụ.
Mức độ cảm thông của NVYT, gồm 5 biến:
NVYT tại khoa Sản bệnh lý luôn thể hiện sự
quan tâm đến mỗi sản phụ;
Sản phụ cảm nhận được sự thân thiện của
NVYT đối với mình;
NVYT hiểu được những nhu cầu đặc biệt và
thông cảm với những khó khăn của sản phụ;
Sản phụ cảm thấy NVYT thực sự mong
muốn cho chị an toàn, mạnh khỏe;
Thời gian chăm sóc thuận tiện, kịp thời và
phù hợp với nhu cầu của sản phụ.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Điểm về sự đảm bảo về chất lượng dịch vụ
sau MLT
TT Mức độ cảm nhận
Mức điểm
TB ĐLC
1
Cách cư xử của NVYT có tạo được sự tin
tưởng đối với sản phụ
4,2 0,6
2
NVYT tại khoa Sản bệnh có luôn tỏ ra thân
thiện, cởi mở, chia sẻ với sản phụ
4,2 0,7
3 Sản phụ cảm thấy an toàn khi sử dụng dịch 4,4 0,6
TT Mức độ cảm nhận
Mức điểm
TB ĐLC
vụ chăm sóc sau MLT tại đây.
4
NVYT tại khoa Sản bệnh có đủ kiến thức, có
chuyên môn để trả lời đúng các câu hỏi của
sản phụ
4,3 0,6
Tổng điểm 17,0 2,0
Điểm các chỉ số đảm bảo chất lượng dịch vụ
cao nhất là chỉ số cảm thấy an toàn khi sử dụng
dịch vụ với mức điểm 4,4 ± 0,6, thấp nhất là chỉ
số cách cư xử của NVYT tạo được sự tin tưởng
tốt với mức điểm 4,2 ± 0,6 và NVYT luôn tỏ ra
thân thiện, cởi mở với mức điểm 4,2 ± 0,7.
Hình 1. Mức độ đảm bảo về chất lượng dịch vụ sau
MLT
Sản phụ cảm nhận sự đảm bảo chất lượng
dịch vụ với mức độ tốt/rất tốt cao nhất là chỉ số
NVYT tạo được sự tin tưởng với 95,8%, thấp
nhất là chỉ số NVYT thân thiện, cởi mở, chia sẻ
với 82,5%. Vẫn còn cảm nhận kém/rất kém ở chỉ
số NVYT thân thiện, chia sẻ, cởi mở và NVYT tại
được sự tin tưởng với tỷ lệ cùng chiếm 0,8%.
Hình 2. Đánh giá chung về sự đảm bảo về chất lượng
dịch vụ
Đánh giá chung về sự đảm bảo chất lượng
dịch vụ cho thấy tỷ lệ tốt chiếm cao nhất với hơn
1 nửa số bệnh nhân trong nghiên cứu, tỷ lệ rất
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 197
tốt chiếm 48,3%, mức độ bình thường chiếm
thấp nhất với 0,8%.
Bảng 2. Điểm mức độ cảm thông của NVYT
TT Mức độ cảm nhận
Mức điểm
Mean SD
1
NVYT tại khoa Sản bệnh lý luôn thể hiện
sự quan tâm đến cá nhân mỗi sản phụ
3,8 0,8
2
Sản phụ cảm nhận được sự thân thiện
của NVYT đối với mình.
4,1 0,7
3
NVYT hiểu được những nhu cầu đặc
biệt và thông cảm với những khó khăn
của sản phụ
3,9 0,8
4
Sản phụ cảm thấy NVYT thực sự mong
muốn cho chị an toàn, mạnh khỏe
4,3 0,6
5
NVYT thực hiện thời gian thăm khám,
điều trị thuận tiện, kịp thời và phù hợp
với nhu cầu của sản phụ
4,2 0,6
Điểm trung bình 20,3 2,6
Điểm các chỉ số mức độ cảm thông của
NVYT cao nhất là chỉ số cảm thấy NVYT mong
muốn cho sản phụ an toàn, mạnh khoẻ với mức
điểm 4,3 ± 0,6, thấp nhất là chỉ số NVYT luôn thể
hiện sự quan tâm đến cá nhân sản phụ với 3,8 ±
0,8. Tổng điểm có trung bình là 20,3 ± 2,6.
Hình 3. Mức độ cảm thông của NVYT
Sản phụ cảm nhận được mức độ cảm thông
của NVYT ở mức tốt/ rất tốt cao nhất là chỉ số
NVYT mong muốn sản phụ an toàn, khoẻ mạnh,
thấp nhất là chỉ số NVYT quan tâm đến cá nhân
sản phụ với 65%. Vẫn còn các chỉ số có mức độ
kém/rất kém bao gồm NVYT thân thiện với sản
phụ kém/rất kém và NVYT quan tâm đến cá
nhân sản phụ cùng chiếm 1,7%, và NVYT hiểu
được nhu cầu và cảm thông với mức kém, rất
kém chiếm 0,8%.
Hình 4. Đánh giá chung về sự cảm thông của NVYT
Đánh giá chung về sự cảm thông của NVYT
với sản phụ với mức tốt chiếm đa số với 58,3%,
tiếp đến là mức rất tốt với 40,8%, mức kém thấp
nhất với 0,8%.
BÀN LUẬN
Sự đảm bảo chất lượng dịch vụ
NVYT tạo sự tin tưởng: Trong nghiên cứu của
chúng tôi cách cư xử của NVYT tạo được sự tin
tưởng đối với sản phụ có mực điểm 4,2 ± 0,6,
mức tốt/rất tốt chiếm 95,8%, mức độ kém/rất
kém 0,8%.
So sánh với Phạm Ngọc Hưng, điểm NVYT
tạo sự tin tưởng là 4,31 ± 0,64, mức độ tốt chiếm
56,2%, mức độ rất tốt chiếm 38%, mức độ kém
chiếm 0,3%, mức độ rất kém chiếm 0,7%(7).
NVYT thân thiện, cởi mở: Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi cho thấy NVYT tỏ ra thân thiện,
cởi mở chia sẻ với sản phụ có mức điểm là 4,2 ±
0,7. Mức tốt/rất tốt chiếm 82,5%, trong khi mức
độ kém/rất kém vẫn còn 0,8%.
Chỉ số thân thiện cởi mở trong nghiên cứu
của chúng tôi thấp hơn so với Phạm Ngọc Hưng
tại BVPS Hà Nội, trong đó điểm thân thiện cởi
mở là 4,38 ± 0,65, mức độ tốt chiếm 49,5%, mức
độ rất tốt chiếm 45,1%(7).
Môi trường áp lực, dễ gây ra stress nghề
nghiệp, bên cạnh đó tiếng ồn thường xuyên làm
cho NVYT khó khăn trong vấn đề cư xử thân
thiện cởi mở. Điều này cũng phù hợp với nhận
định của tác gỉa Đỗ Mạnh Hùng, Trần Minh
Điển trong các nghiên cứu về stress nghề nghiệp
trước đó tại bệnh viện Nhi Trung ương(1,4,9).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 198
Sản phụ cảm nhận an toàn: Kết quả trong
nghiên cứu của chúng tôi điểm sản phụ cảm
thấy an toàn khi sử dụng dịch vụ chăm sóc sau
MLT là 4,4 ± 0,6. Mức độ tốt/rất tốt chiếm 94,2%.
Nghiên cứu của chúng tôi tương tự khi so
sánh với Phạm Ngọc Hưng tại BVPS Hà Nội
trong đó điểm cảm thấy an toàn của tác giả là
4,37±0,6, mức độ tốt chiếm 55,2%, mức độ rất tốt
chiếm 41,8%(7).
NVYT có kiến thức, chuyên môn: Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy cảm nhận
của sản phụ về NVYT có đủ kiến thức, chuyên
môn có mức điểm 4,3 ± 0,6, mức tốt/ rất tốt
chiếm 92,5%.
So sánh với nghiên cứu Phạm Ngọc Hưng tại
BVPS Hà Nội, tỷ lệ điểm về tin tưởng kiến thức
chuyên môn của NVYT là 4,35 ± 0,63, mức độ tốt
chiếm tỷ lệ 55,6, mức độ rất tốt chiếm 40,7%,
mức độ yếu và kém cùng chiếm 0,7%(7).
Thực tế, việc tin tưởng kiến thức chuyên
môn là chỉ số khó phản ánh sự thực, vì hiệu
quả quá trình điều trị phụ thuộc rất nhiều yếu
tố, mà người bệnh không thể đánh giá qua
cảm nhận được.
Đánh giá chung về mức độ đảm bảo chất lượng
dịch vụ: Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi
mức trung bình tổng điểm là 17,0 ± 2,0, mức độ
rất tốt 48,3%, mức độ tốt 50,8%, mức bình
thường chiếm 0,8%.
Nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn khi so
sánh với Phạm Ngọc Hưng trung bình tổng
điểm về mức độ đảm bảo an toàn chất lượng
dịch vụ là 17,41 ± 2,29(7).
Đánh giá mức độ đảm bảo chất lượng dịch
vụ thường phụ thuộc vào giao tiếp với sản
phụ. Trong khi, thực trạng nhân lực còn mỏng
tại BVPS Trung ương, ảnh hưởng đến khả
năng giao tiếp, tư vấn với người bệnh. Do vậy,
BVPS Trung ương cần bổ sung nhân lực, bên
cạnh đó cũng cần tăng cường các khoá tập
huấn về kỹ năng giao tiếp, hướng dẫn, giải
thích với người bệnh.
Mức độ cảm thông của NVYT
Khác với các ngành nghề dịch vụ khác, dịch
vụ chăm sóc sức khoẻ đòi hỏi cần có tình
thương, sự cảm thông của người cung cấp dịch
vụ (NVYT) đối với khách hàng (NB), sự cảm
thông giúp người bệnh vơi đi nỗi đau về thể xác
do bệnh tật mà họ đang phải chịu đựng và vượt
qua được những khó khăn, tuân thủ tốt quá
trình điều trị(1). Do vậy, sự cảm thông là yếu tố
quan trọng của khía cạnh dịch vụ y tế.
NVYT thể hiện sự quan tâm đến mỗi cá nhân sản
phụ: Ở chỉ số này, nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy mức điểm trung bình là 3,8 ± 0,8, mức độ
tốt/rất tốt chỉ số này chiếm 65%.
Thực tế sự quan tâm đến mỗi cá nhân người
bệnh tại bệnh viện phụ sản Trung ương là khó
khăn hơn, vì lượng bệnh nhân mà mỗi NVYT
chăm sóc thường đông (mỗi điều dưỡng chăm
sóc 18 - 32 sản phụ trong mỗi ca trực.
Nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn kết quả
của Phạm Ngọc Hưng tại BVPS Hà Nội, trong đó
điểm thể hiện sự quan tâm của NVYT đến mỗi
cá nhân NB là 4,16 ± 0,73. Mức độ tốt chiếm 55,6,
mức độ rất tốt chiếm 31,6%, mức độ yếu, kém
cùng chiếm tỷ lệ 1% số người bệnh(7).
So sánh với nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Tú
Uyên tại khoa khám bệnh, bệnh viện Nhi Trung
ương (2017) cho thấy tỷ lệ khách hàng được
nhân viên y tế tôn trọng, đối xử công bằng, quan
tâm, giúp đỡ mức độ hài lòng/rất hài lòng chiếm
98,25%(10).
Sự thân thiện của NVYT: Trong nghiên cứu
của chúng tôi điểm cảm nhận sự thân thiện
của sản phụ về NVYT là 4,1 ± 0,7. Mức độ tốt
chiếm tỷ lệ 83,3%, trong đó mức độ kém/rất
kém chiếm 1,7%.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn
so với Phạm Ngọc Hưng tại BVPS Hà Nội, trong
đó điểm thân thiện là 4,18 ± 0,71, mức độ tốt
chiếm 54,2%, mức độ rất tốt chiếm 33%, mức độ
kém chiếm 2%, mức độ rất kém chiếm 0,3%.
So sánh với nghiên cứu tại bệnh viện Nhi
Trung ương năm 2017 cho thấy NVYT (bác sỹ,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 199
điều dưỡng) có lời nói, thái độ phục vụ làm bệnh
nhân hài lòng chiếm 99,25%(10).
Sự thân thiện có thể thay đổi qua các cử chỉ
chào hỏi, tươi cười và hỏi thăm người bệnh. Điều
này cho thấy sự cần thiết tập huấn về giao tiếp
ứng xử cho NVYT.
NVYT hiểu được những nhu cầu và thông cảm
khó khăn sản phụ: Kết quả trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ số này có mức điểm là 3,9 ± 0,8,
mức độ tốt/rất tốt chiếm 69,2%, mức độ kém/rất
kém có 0,8%.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn
so với Phạm Ngọc Hưng, trong đó theo tác giả
điểm NVYT hiểu được những nhu cầu và thông
cảm khó khăn sản phụ có mức trung bình là 4,16
± 0,67, mức độ tốt chiếm 58,2%, mức độ rất tốt
29,6%(7).
Sự thăm hỏi, ân cần và động viên sản phụ là
những hoạt động có thể làm thay đổi cảm nhận
của sản phụ về NVYT tại khoa, đó cũng là biểu
hiện y đức của người thầy thuốc. Do đó, bệnh
viện cần tập huấn cũng như yêu cầu các NVYT
có những cử chỉ thăm hỏi, ân cần và động viên
người bệnh.
NVYT mong muốn sản phụ an toàn, khoẻ mạnh:
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
mức điểm sản phụ cảm nhận NVYT mong muốn
sản phụ an toàn khoẻ mạnh là 4,3 ± 0,6. Mức tốt/
rất tốt chiếm 95%.
Nghiên cứu của chúng tôi tương tự của tác
giả Phạm Ngọc Hưng tại BVPS Hà Nội, trong đó
mức điểm cảm nhận người bệnh về NVYT mong
muốn người bệnh an toàn, khoẻ mạnh là 4,32 ±
0,63. Tỷ lệ mức độ tốt 52,9%, mức độ rất tốt
40,1%(7).
Kết quả trên cũng phản ánh đúng với vai trò
nhiệm vụ của cán bộ y tế là chữa bệnh cứu
người. Tuy vậy, NVYT cũng cần quan tâm hơn
nữa đối với các sản phụ tại khoa nhằm giúp họ
vượt qua được khó khăn trong sinh nở.
Thời gian NVYT thăm khám, điều trị thuận tiện,
kịp thời và phù hợp: Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy mức điểm của chỉ số này là
4,2 ± 0,6, mức độ tốt/ rất tốt chiếm 91,7%.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn
của Phạm Ngọc Hưng tại BVPS Hà Nội, trong đó
thời gian thăm khám của NVYT thuận tiện và
phù hợp với nhu cầu người bệnh có mức điểm
4,07 ± 0,75. Mức độ tốt chiếm 50,8%, mức độ rất
tốt chiếm tỷ lệ 29,3%.
Thiếu NVYT là nguyên nhân của việc thăm
khám không được thuận tiện và phù hợp. Tuy
vậy, kết quả cũng cho thấy tỷ lệ khá cao về mức
độ tốt và rất tốt tại khoa Sản bệnh lý, BVPS
Trung ương.
Đánh giá chung mức độ cảm thông của NVYT:
Mức độ cảm thông của NVYT có trung bình tổng
mức điểm là 20,3 ± 2,6. Đánh giá mức độ cảm
thông của NVYT cho thấy mức độ rất tốt chiếm
40,8%, mức độ tốt chiếm 58,3%, mức độ kém
chiếm 0,8% và không có mức độ trung bình.
Mức cảm thông theo nghiên cứu của
chúng tôi tương tự với kết quả của tác giả
Phạm Ngọc Hưng có trung bình mức tổng
điểm là 20,72 ± 2,87(7).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự
với kết quả nghiên cứu tại tại bệnh viện Nhi
Trung ương, trong đó khách hàng hài lòng với
thái độ ứng xử, năng lực chuyên môn của NVYT
chiếm 96,25%(10).
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết quả nghiên cứu mô tả cắt ngang đánh
giá giao tiếp giữa NVYTvới sản phụ sau MLT
cho thấy việcđảm bảo chất lượng dịch vụ nhìn
chung đạt kết quả cao, trong đó mức điểm
trung bình 17,0 ± 2,0. Mức độ cảm nhận của
sản phụ được đảm bảo chất lượng dịch vụ
mức rất tốt chiếm 48,3%, mức độ tốt 50,8%,
mức bình thường 0,8%. Với dịch vụ chăm sóc
sau MLT, phụ sản nhận được nhiều cảm thông
từ NVYT, trong đó mức điểm trung bình 20,3
± 2,6. Mức độ sản phụ cảm nhận được cảm
thông mức độ rất tốt 40,8%, mức độ tốt 58,3%
và mức độ kém 0,8%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 200
Từ kết quả nghiên cứu, bệnh viện phụ sản
Trung ương cần tăng cường tập huấn nâng cao
kỹ năng giao tiếp và y đức cho nhân viên y tế đối
với người bệnh, qua đó giúp các sản phụ cảm
thấy an tâm và được cảm thông hơn trong quá
trình nằm viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Mạnh Hùng (2013), Nghiên cứu thực trạng nhận thức, thực
hành y đức của điều dưỡng viên tại bệnh viện Nhi Trung ương
và kết quả một số biện pháp can thiệp - Luận án Tiến sỹ Y tế công
cộng.
2. Health (UK) NCC for W and C (2011). Care of the woman after
caesarean section. PubMed Health.
3. Lê Hoài Chương và cộng sự (2018). Nhận xét thực trạng mổ lấy
thai tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2017. Tạp chí Phụ
sản, (Tập 16).
4. Lê Thanh Hải, Đỗ Mạnh Hùng (2014). Ảnh hưởng stress nghề
nghiệp đến một số biểu hiện tâm lý ở điều dưỡng viên tại bệnh
viện Nhi Trung ương. Tạp chí Y học thực hành, Số 926/2014.
5. Lumbiganon P, Laopaiboon M, Gülmezoglu AM et al (2010).
Method of delivery and pregnancy outcomes in Asia: the WHO
global survey on maternal and perinatal health 2007. Lancet Lond
Engl, 375(9713), 490–499.
6. Ninh Văn Minh (2013). Tình hình mổ lấy thai tại Bệnh viện Sản
Nhi Ninh Bình năm 2012. Tạp chí Y học Thực hành, Bộ Y tế, số
874.
7. Phạm Ngọc Hưng (2017), Đánh giá của khách hàng về chất
lượng dịch vụ sàng lọc chẩn đoán trước sinh tại bệnh viện Phụ
sản Hà Nội, năm 2017 và một số yếu tố ảnh hưởng, Luận văn
Thạc sỹ quản lý bệnh viện, Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
8. Thomas J, Paranjothy S (2001), Royal College of Obstetricians
and Gynaecologists Clinical Effectiveness Support Unit.The
National Sentinel Caesarean Section Audit Report, London:
RCOG Press.
9. Trần Minh Điển, Nguyễn Xuân Bái Stress ở nghề nghiệp ảnh
hưởng đến biểu hiện một số hành vi của điều dưỡng viên tại
bệnh viện Nhi Trung ương, 2012. Tạp chí Y học Thực hành, Bộ Y
tế, Số 926/2014.
10. Vũ Thị Tú Uyên (2017), Nghiên cứu sự hài lòng của người chăm
sóc trẻ và một số yếu tố ảnh hưởng tại khoa khám bệnh, bệnh
viện Nhi Trung ương năm 2017, Luận văn Thạc sỹ quản lý bệnh
viện, Đại học Y tế công cộng.
11. Vương Tiến Hoà (2004). Nghiên cứu chỉ định mổ lấy thai ở
người đẻ con so tại bệnh viện Phụ sản trung ương năm 2002.
Nghiên cứu y học, (Số 5), 79–84.
Ngày nhận bài báo: 10/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_tiep_giua_nhan_vien_y_te_voi_san_phu_sau_mo_lay_thai_tr.pdf