Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại tam giáo đồng nguyên và tư tưởng phật giáo trong tám triều vua lý của Hoàng Quốc Hải - Nguyễn Thị Minh Phượng

Tài liệu Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại tam giáo đồng nguyên và tư tưởng phật giáo trong tám triều vua lý của Hoàng Quốc Hải - Nguyễn Thị Minh Phượng: 45 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0068 Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 10, pp. 45-54 This paper is available online at GIÁO HUẤN ĐẠO TRỊ BÌNH BẰNG ĐỐI THOẠI TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN VÀ TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG TÁM TRIỀU VUA LÝ CỦA HOÀNG QUỐC HẢI Nguyễn Thị Minh Phượng Trường Trung học phổ thông Cảm Nhân, Yên Bình, Yên Bái Tóm tắt. Hoàng Quốc Hải đã kết hợp tài tình giữa cốt lõi có thật của lịch sử với sự tưởng tượng hư cấu để sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật giáo huấn đạo trị bình bằng thuyết đối thoại “Tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng Phật giáo trong Tám triều vua Lý qua cuộc đối thoại lớn về tư tưởng, ý thức của các nhân vật thiền sư, vua hiền, tướng giỏi và nhân dân, để xây dựng một nước Đại Việt độc lập, tự chủ, tự cường và tự tôn dân tộc với một nền Phật giáo mang đậm bản sắc văn hóa riêng của người Việt Nam. Hình ảnh các nhà sư trong tác phẩm là những hình tượng thẩm mĩ tiêu biểu cho tầng lớp trí thức, họ đào tạo ra c...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 406 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại tam giáo đồng nguyên và tư tưởng phật giáo trong tám triều vua lý của Hoàng Quốc Hải - Nguyễn Thị Minh Phượng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
45 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0068 Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 10, pp. 45-54 This paper is available online at GIÁO HUẤN ĐẠO TRỊ BÌNH BẰNG ĐỐI THOẠI TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN VÀ TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG TÁM TRIỀU VUA LÝ CỦA HOÀNG QUỐC HẢI Nguyễn Thị Minh Phượng Trường Trung học phổ thông Cảm Nhân, Yên Bình, Yên Bái Tóm tắt. Hoàng Quốc Hải đã kết hợp tài tình giữa cốt lõi có thật của lịch sử với sự tưởng tượng hư cấu để sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật giáo huấn đạo trị bình bằng thuyết đối thoại “Tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng Phật giáo trong Tám triều vua Lý qua cuộc đối thoại lớn về tư tưởng, ý thức của các nhân vật thiền sư, vua hiền, tướng giỏi và nhân dân, để xây dựng một nước Đại Việt độc lập, tự chủ, tự cường và tự tôn dân tộc với một nền Phật giáo mang đậm bản sắc văn hóa riêng của người Việt Nam. Hình ảnh các nhà sư trong tác phẩm là những hình tượng thẩm mĩ tiêu biểu cho tầng lớp trí thức, họ đào tạo ra các vị vua hiền từ, các bậc tướng giỏi, giáo dục tư tưởng nhân đạo và lòng yêu nước, hướng tới xây dựng một đất nước cường thịnh.Vì thế các vị vua hành đạo, đối thoại với tướng sĩ và dân chúng để giúp họ nhận thức rõ trách nhiệm với đất nước. Các vị vua mang lại cuộc sống hạnh phúc cho dân, mở ra trang sử vinh quang, huy hoàng của dân tộc. Các bài học lịch sử giáo huấn về đạo trị bình qua đối thoại của các nhân vật có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong tương lai. Từ khóa: Hoàng Quốc Hải, Tám triều vua Lý, Tam giáo đồng nguyên, giáo huấn đạo trị bình. 1. Mở đầu Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mọi thời đại cần được mỗi người nhận thức sâu sắc và biến thành hành động thiết thực, tiểu thuyết lịch sử có vai trò quan trọng trong việc giáo dục các thế hệ nhận thức rõ bổn phận, trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp ấy qua những hình tượng nhân vật lịch sử chân thực, sống động và qua thể loại văn học này, nhiều bài học lịch sử quý báu được rút ra để phục vụ sự nghiệp chính trị cách mạng của quốc gia. Khi nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử, ta không thể không nhắc đến bộ tiểu thuyết Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải. Đây là bộ tiểu thuyết lớn bàn về sự nghiệp chính trị cách mạng của nhà Lý, cho thấy tài năng nghệ thuật của tác giả trong việc xây dựng các hình tượng nhân vật, kể chuyện, kết cấu không gian, thời gian Các bài viết nghiên cứu về tác phẩm này còn rất ít, chưa sâu. Ta có thể nhắc đến bài viết của Lê Thị Thu Trang ở Đại học Đồng Tháp bàn sơ lược về vấn đề người kể chuyện trong Tám triều vua Lý, bài viết của Nguyễn Thị Yến ở Đại học Vinh điểm qua một vài vấn đề thể loại như điểm nhìn trần thuật, thời gian nghệ thuật trong Tám triều vua Lý. Vì vậy trong bài viết này, tôi vận dụng lí thuyết đối thoại để phân tích một trong những nội dung quan trọng của tác phẩm này là giáo huấn đạo trị bình qua một số hình tượng nhân vật như Lý Thái Tổ, các bậc thiền sư và đây cũng là một hướng viết mới góp phần nghiên cứu sâu hơn về tác phẩm này nói riêng và sự phát triển của tiểu thuyết lịch sử nói chung. Ngày nhận bài: 19/6/2018. Ngày sửa bài: 19/7/2018. Ngày nhận đăng: 2/8/2018. Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Minh Phượng. Địa chỉ e-mail: ntminhhoa197671@gmail.com Nguyễn Thị Minh Phượng 46 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại “Tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng Phật giáo Thật vậy, Hoàng Quốc Hải đã kết hợp tài tình giữa cốt lõi có thật của lịch sử với sự tưởng tượng hư cấu để sáng tạo ra “cốt truyện phát triển các quan hệ giữa những con người, sáng tạo bởi con người và để cho con người” qua các nhân vật hành động và tạo những hình tượng nghệ thuật giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại “Tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng Phật giáo trong Tám triều vua Lý. Trong bài viết này, tôi tập trung nghiên cứu lí thuyết đối thoại và vận dụng nó vào việc phân tích luận điểm này. Ngay từ đầu thế kỷ XI, các nhân vật lịch sử được nói đến trong tác phẩm đã mang những “đặc tính chính trị” trong việc “điều hành đúng đắn- điều hành sai lầm” [4; tr.413, 415], có ý thức xây dựng một nước Đại Việt độc lập, tự chủ, tự cường, tự tôn dân tộc với một nền Phật giáo mang đậm bản sắc văn hóa riêng của người Việt Nam. Hình ảnh các nhà sư trong tác phẩm là những hình tượng thẩm mĩ tiêu biểu cho tầng lớp trí thức đại giác dạy bảo, đào tạo ra các vị vua hiền từ, các bậc tướng giỏi, đã định hướng cho các đấng minh quân, tướng sĩ và dân chúng đi theo con đường nhân đạo chính nghĩa, từ bi, hỷ xả, trút bỏ tham- sân- si, hướng tới sự giác ngộ chân lí của Phật pháp, hướng tới xây dựng một đất nước cường thịnh. Đi sâu vào tác phẩm, ta thấy nhà văn viết về họ bằng diễn ngôn lịch sử, tư tưởng của thời đại nhà Lý khá phù hợp. Đây là thời kì hệ thống chùa chiền được xây dựng ở khắp nơi, Phật giáo và nhiều tôn giáo khác được du nhập một cách chọn lọc những tinh hoa, tư tưởng Phật giáo bao trùm, thâm nhập sâu vào đời sống tinh thần mọi tầng lớp nhân dân, làm đời sống xã hội phát triển rất mạnh, thịnh vượng ở mọi mặt. Vì thế tư tưởng chủ đề của tác phẩm không nhuốm màu sắc siêu hình hay mê tín dị đoan khi giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại “tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng Phật giáo, những “lời cầu nguyện” chỉ là yếu tố “trợ thủ, điều kiện của hành động được nhân cách hóa” [4; tr.415]. Ta có thể khẳng định tư tưởng chủ đề của bộ tiểu thuyết lịch sử này mang tính nhân văn, hướng tới nguyên lí chính nghĩa, gợi cho ta tiếp nhận nhiều bài học lịch sử quý báu cho hôm nay và muôn đời sau để xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc đất nước. Thông qua nguyên lí đối thoại, tư tưởng giáo huấn đạo trị bình được thể hiện qua việc các nhà sư tham chính, cố vấn cho vua tôi, giáo huấn các hoàng tử được truyền ngôi thấm nhuần ý thức, tư tưởng của Phật giáo ngay từ khi mới bắt đầu học chữ, học đạo để rồi sau này vận dụng vào con đường hành đạo, cứu người giúp đời, đối thoại với dân chúng để giáo hóa họ hướng thiện, đóng góp công sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ là những nhà sư yêu nước, là những bậc vua hiền tướng giỏi, có trách nhiệm với quốc gia dân tộc. Vì thế, cảm hứng chủ đạo trong Tám triều vua Lý là cảm hứng yêu nước, lòng yêu kính, niềm tự hào, ngưỡng mộ, cảm phục các bậc thiền sư, đấng minh quân, các vị anh hùng hào kiệt đem cái tâm Phật mở ra một trang sử mới thật vinh quang, huy hoàng cho dân tộc. Nhà văn hư cấu những suy nghĩ, lời nói và tâm lí của tất cả các nhân vật một cách hợp lí, để nhân vật hiện lên sống động, đầy cá tính, tạo sức lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, khơi gợi nhiều chủ đề đối thoại của cuộc sống, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về con người và cuộc đời. Tám triều vua Lý được kết cấu theo kiểu truyện lồng trong truyện hay ghép mảnh, mở ra một “kết cấu vẫy gọi” với nhiều “điểm trắng” để người đọc cùng đối thoại với quá khứ và tương lai, đồng sáng tạo với tác giả trong những lời đối thoại giáo huấn đạo trị bình của các nhân vật. Nhà văn xây dựng lên hệ thống nhân vật khá phong phú, đa đạng đủ mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội, phân tích khá sâu sắc diễn biến tâm lí, hành động, tính cách của các nhân vật lịch sử có thật, khắc họa cá tính nhân vật khá sinh động. Đặc biệt là các bậc vua hiền tướng giỏi, các bậc thiền sư một cách cụ thể, tỉ mỉ và dùng hình thức nghệ thuật “trữ tình ngoại đề” và “lời nửa trực tiếp” qua đối thoại ý thức, tư tưởng giữa các thiền sư với các vị vua Lý và đối thoại giữa tư tưởng Phật giáo với đạo trị bình “Tầm đón” trong “vô thức tập thể” đã “dung hợp tầm nhìn”, thừa nhận tôn giáo, đặc biệt Phật giáo là một nét đẹp văn hóa tinh thần để hướng con người đến các giá trị Chân - Thiện - Mĩ của cuộc đời, nhân đạo hóa con người, kiến tạo nên xã hội văn minh với những con Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại Tam giáo đồng nguyên và tư tưởng Phật giáo trong Tám triều vua Lý 47 người có “lương tri, lương năng”, gạt bỏ quan điểm mê tín dị đoan, tư tưởng siêu hình nhằm mê hoặc con người vào con đường tà đạo, bác bỏ quan điểm ảo vọng đi tìm loại thuốc trường sinh, chắt lọc các giá trị thẩm mĩ, tinh hoa của tam giáo Nho- Phật- Lão với ba phần là Tâm linh Phật, Xã hội Nho và Thiên nhiên Đạo. Nhà Lý chủ trương chọn đạo Phật là nền đạo chính thống để xây dựng và bảo vệ quốc gia dân tộc. Hoàng Quốc Hải đã khẳng định ý nghĩa, vai trò của đạo Phật đối với sự ra đời và phát triển mạnh của triều Lí. Đối thoại trong Tám triều vua Lý là “đối thoại lớn có tính bản chất giữa đời sống loài người và bản thân tư tưởng của loài người, tức là quan hệ đối thoại bình đẳng của các tư tưởng loài người trong cuộc sống” để hướng tới những điều tốt đẹp[9, tr.345]. Đối thoại trong Tám triều vua Lý được thể hiện qua tính đối thoại trong độc thoại và đối thoại trong tương tác lời của các nhân vật, điều này đã được Bakhtin bàn đến từ lâu “Lời trên cửa miệng một người, khi chuyển sang miệng người khác, nội dung như cũ, nhưng ngữ điệu và ý vị thay đổi Lí thuyết đối thoại của Bakhtin đã đem lại một quan niệm về hệ thống mở, về mối liên hệ của các ý thức, các văn bản, phù hợp với quan niệm hiện đại về tiếp nhận, sáng tạo và hoạt động giao tiếp”. Trong Tám triều vua Lý, lí thuyết đối thoại không chỉ hiểu đơn giản là sự hỏi đáp, tương tác lời của mình và lời của người khác trong hoạt động giao tiếp hay nhân vật tự đối thoại nội tâm với chính mình bằng hình thức phân thân, mà “bản thân sự tồn tại của con người (cả bên trong và bên ngoài) là một cuộc giao tiếp sâu sắc nhất. Tồn tại có nghĩa là giao tiếp Tôi không thể sống mà không có người khác, tôi phải tìm thấy mình trong người khác và tìm thấy người khác trong chính mình” [9, tr. 344- 346]. Bản chất sự tồn tại của con người là “tổng hòa các mối quan hệ” và nó quy định sự sống của ngôn từ. Con người dùng ngôn ngữ- phương tiện giao tiếp chung của xã hội để đối thoại với nhau về ý thức, tư tưởng. Trong bài viết này, tôi đi sâu vào phân tích đối thoại giữa một số nhân vật, thể hiện “thái độ của ý thức, tư tưởng qua sự đồng tình, phản đối, khẳng định, phủ định, hoài nghi, chế giễu, nhại lại” [9, tr. 344, 345, 346] của các nhân vật và những bài học giáo huấn về đạo trị bình trong đối thoại ý thức “Tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng Phật giáo của các bậc thiền sư với các vị vua, đối thoại giữa vua với tướng lĩnh, dân chúng qua một số nhân vật chính có thật trong lịch sử như vua Lý Thái Tổ, các nhà sư như Vạn Hạnh, Đa Bảo, 2.2. Đối thoại giữa các nhân vật Thứ nhất là ta thấy nhân vật lịch sử có thật - Lý Công Uẩn là nhân vật chính, đồng thời là nhân vật trung tâm tham gia vào nhiều sự kiện chính của tác phẩm để mở rộng chủ đề đối thoại và thể hiện quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Lý Công Uẩn thấm nhuần tư tưởng giáo huấn đạo trị bình bằng “Tam giáo đồng nguyên” của các bậc thiền sư và đối thoại với dân chúng bằng ý thức, tư tưởng từ bi bác ái của Phật trong đạo trị bình, làm quốc thái dân an. Lý Công Uẩn được nuôi dưỡng nơi cửa Phật từ nhỏ, ở với sư Vạn Hạnh, được dạy dỗ và dẫn dắt để cứu nhân độ thế. Thiền sư Vạn Hạnh không nuôi đệ tử của mình để kế vị thiền sư, mà để cứu nước giúp đời, trị bình thiên hạ. Qua các lời đối thoại giáo huấn của mình, nhà sư trao cho học trò “cái tâm thiện của nhà Phật” [3, tập 1, 324], tiến cử người học trò ấy giữ chức quan võ trong triều đình nhà Lê. Vạn Hạnh đào tạo Lý Công Uẩn trở thành chính khách, chứ không phải trở thành thiền giả, vì sư nhận thấy từ nhỏ Lý Công Uẩn đã có “kỳ tướng, có tướng đế vương. Đây đích thị là bậc minh vương thánh đế trời ban cho nước ta”. Công Uẩn được coi là tài sản, báu vật của quốc gia và là “bậc thiên tử, đứng đầu trăm họ” [3, tập 1, 50- 73, 77]. Tất cả những phẩm chất, tính cách bền vững của nhân vật lịch sử Lý Công Uẩn phản ánh bản chất của thời đại, ông là bậc hiền tài để chấn hưng đất nước, chấn hưng Phật Đạo, lo việc quốc gia đại sự, làm cho quốc thái dân an. Chính điều này góp phần luận giải các nguyên nhân sâu xa mà nhà Lý mang đến sự phát triển vượt bậc về mọi mặt, nhân dân sống trong cảnh yên vui, giàu thịnh. Ngay từ nhỏ Công Uẩn đã rất thông minh, có trí nhớ tốt, lại có cái “tâm thiện”, “chí lớn”, đạo cao đức trọng, được coi là “một đức Bồ tát tại thế”, luôn để tâm đến mọi việc của mọi lĩnh vực cuộc sống” [3; tập 1, 83, 185]. Lý Công Uẩn lễ phép với sư thầy “bày tỏ lòng biết ơn thầy đã dạy dỗ”, khi được thầy giáo Nguyễn Thị Minh Phượng 48 huấn về đạo trị bình, vua đã đối thoại bằng các từ ngữ thể hiện thái độ lễ phép “Con xin nghiêm giữ lời sư phụ” [3; tập 1, 156]. Công Uẩn lúc nào cũng ghi nhớ lời giáo huấn của thầy: “Đạo làm vua phải lấy nước làm trọng. Nước phải lấy dân làm trọng”, không có dân thì không có nước và không có vua, dân nộp thuế để nuôi bộ máy chính quyền quốc gia. Việc trước mắt đối với vua là “phải làm cho dân sinh được no ấm, dân trí được khai mở, dân tâm được yên định, xã hội được thái bình, cái thiện được ở ngôi” [3; tập 1, 225, 257]. Đối thoại ý thức, tư tưởng của quần chúng nhân dân với vua Lê Long Đĩnh là đối thoại với cái xấu, cái ác, bạo lực bằng thái độ phản đối và phủ định. Sau khi tên vua độc ác hoang dâm vô độ này chết, Lý Công Uẩn là người trung nghĩa “đã ôm xác vua cũ mà khóc”. Ông lên ngôi vua, xây dựng một quốc gia văn minh, tiến bộ theo định hướng “Tam giáo đồng nguyên”, kế thừa có chọn lọc và phát huy những tinh hoa của tam giáo, tạo động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội về mọi mặt như kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, giáo dục, Sau khi lên ngôi, Công Uẩn hết lòng chăm lo cuộc sống của muôn dân, thực hiện hàng loạt chính sách đổi mới, làm cho “đất nước thanh bình, giàu thịnh như một xứ sở thần tiên” [3; tập 1, 624] và “từ khi Thái tổ trị vì thì bốn phương an định, cả nước không còn người nào phải chết đói nữa, lòng người quy tụ” [3; tập 2, 275]. Khi lên làm vua, ngài vẫn “tự cấy lấy lúa gạo để cúng tổ tiên, không ỷ lại vào dân” [3; tập 1, 545], lo lắng cho dân cho nước, làm được nhiều việc lớn ích nước lợi dân, đại nhân nghĩa như việc đã phá bỏ mọi rào cản để “nhà nhà có bát ăn, để dành, tha tô thuế ruộng đất cho cả nước trong ba năm liền, cấp tiền gạo cho dân, thương dân như cha mẹ thương con thì mới phục hưng được thế nước” [3; tập 1, 126]. Nhân vật Lý Công Uẩn như “một công cụ” giúp người đọc phát hiện ra bản chất của đời sống ở thời đại nhà Lý, thấu hiểu mọi yếu tố chi phối các diễn biến của lịch sử. Công Uẩn nhận thức rõ việc quan trọng nhất để ổn định một quốc gia là phải ổn định chính trị, kinh tế, giáo dục, ai cũng có việc làm, ai cũng có cơm ăn áo mặc, phải nuôi dưỡng hiền tài và tận dụng được hết người tài trong nước, cắt đặt đúng người đúng việc, phát huy sở trường của họ, biết nhún mình mới dùng được hiền tài vì họ trọng nghĩa khinh lợi. Nhân vật này tạo ra nhiều mối quan hệ trong tác phẩm, liên kết các sự kiện để tạo nên cốt truyện, làm gia tăng chủ đề đối thoại với mọi tầng lớp trong xã hội. Đối thoại với người hiền tài, vua chủ trương “Đối với kẻ sĩ thì hết lòng cung kính, tin dùng họ, sắp đặt họ vào nơi then máy của quốc gia, những người tài trí đều được trọng dụng không phân biệt tôn giáo” [3; tập 2, 275]. Đối thoại với dân chúng vì sự phát triển đi lên của đất nước, vua đã cho dân khai phá đất hoang, bãi bồi, rồi được làm chủ đất ấy, miễn thuế từ năm đến mười năm tùy theo công sức bỏ ra, làm cho người cày có ruộng, mọi điều luật ban hành đều xuất phát từ lợi ích của toàn dân. Ông lắng nghe tiếng nói của dân, “quý cái dân yêu, căm cái dân ghét” [3, tập 1, 478], ban hành chính sách nhân đạo như miễn thuế cho những người già yếu, trẻ mồ côi, đàn bà góa chồng, kêu gọi nhân dân giúp đỡ những người già yếu không nơi nương tựa. Vua cho tu bổ, dựng lại, dựng mới hệ thống chùa chiền dưới sự hỗ trợ một ít kinh phí của triều đình, còn lại huy động dân tùy tâm đóng góp: “vua còn cho mở cửa kho phát hơn một nghìn lạng vàng, bạc đúc chuông cho các chùa, mở đạo tràng cho các tăng đồ thụ giới” và “khuyến dân giúp đỡ các người già không nơi nương tựa” [3; tập 1, 182, 184, 275]. Vua phá bỏ các hình phạt man rợ, hành xử theo lối lấy đức báo oán, luôn gần dân, được dân chúng yêu mến, ngưỡng mộ, cảm phục như cha mẹ mình “dòng người xô lấn nhau để chiêm bái dung nhan ngài, tiếng hô ầm ầm như sấm rền, họ muốn tận mắt bày tỏ tấm lòng ưu trọng đối với bậc vua hiền” [3; tập 1, 84]. Vua đã sớm ổn định trật tự xã hội và nâng cao vị thế của nước ta. Ngài muốn các bậc đại trí, đại giác trong nước và tất cả mọi người dân phải “giám sát việc nước rất chặt” [3; tập 1, 127] để làm cho dân giàu nước mạnh. Vua di dân, cho xây dựng thành Đại La “nguy nga” tráng lệ, viết chiếu để định ngày dời đô, làm lễ cầu siêu để “đền đáp công ơn” mở mang bờ cõi, bảo tồn cương thổ, tạo lập văn hiến của “những người đã khuất” trong dịp Vu Lan. Vua Lý Công Uẩn xúc động trước tấm lòng dân, khóc khi được dân chúng xếp hàng kín hai bên vệ đường để chào tạm biệt vua dời về Đại La, cũng như dân ở thành Đại La đón rước vua về vui như chảy hội. Lý Thái Tổ rất thân dân, lúc nào cũng “lo đem một nền thái bình trường cửu, đời sống ấm no cho mỗi người dân trên đất nước, chặn đứng âm mưu Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại Tam giáo đồng nguyên và tư tưởng Phật giáo trong Tám triều vua Lý 49 thôn tính của các triều đại phương Bắc” [3; tập 1, 139, 147]. Đối thoại với lịch sử, giải thích khát vọng lịch sử bằng ý thức, tư tưởng yêu chuộng hòa bình, vì thế ngài đã chấp nhận gả công chúa Bình Dương cho đầu mục Lạng châu Thân Thiệu Thái, gả quận chúa An Nhân cho Hoàng Ân Vinh vì “sự tồn vong của đất nước”, tạo phên giậu cho Thăng Long để “quốc gia càng mạnh” [3; tập 2, 50]. Để hiểu sâu sắc tư tưởng của dân, vua đã đóng giả nhà sư, đi vi hành vào làng để hiểu được lòng dân, chứng kiến cảnh dân bị nhốt tù, ngài đối thoại với dân và một thiếu phụ tên Đào Thị Phúc, hiểu ra sự thật nghiệt ngã phũ phàng về thiếu phụ này. Bà Đào bị tên xã trưởng là lão Thằng tra tấn dã man vì tội “chửa hoang”. Qua sự tương tác lời, đối thoại trực tiếp với vua, bà Đào khẳng định thực tế chính hắn hằng đêm mò đến, dùng quyền lực bắt chị ta phải làm cái việc trăng hoa đốn mạt theo ý ngay trước mặt con gái nhỏ của chị, nếu không hắn sẽ bắt con gái chị làm, thương con nên chị đành phải đem thân xác cho hắn. Cả đoàn vi hành “đều có chung một cảm giác xót thương cho thân phận người dân” [3; tập 1, 165, 167]. Đối thoại với kẻ tàn nhẫn, độc ác bằng thái độ phản đối nghiêm khắc, vua đã phạt hắn tội đi đày và bắt gia đình hắn phải nộp thóc để nuôi thằng Cún đến lúc nó mười lăm tuổi. Đối thoại với những người dân bất hạnh bằng tình cảm nhân đạo, thái độ cảm thông, chia sẻ, sau này vua đã cho mẹ con bà Đào vào ban nhạc cung đình. Lý Công Uẩn mở cuộc họp để các quan đối thoại, tham vấn kế sách giúp dân, nhiều chính sách mới có lợi cho dân được ban hành, làm bộ đất nước sáng sủa, nhân dân khắp nơi góp của, góp công vào việc xây dựng và tu sửa nhiều ngôi chùa trong cả nước. Trong ý thức, tư tưởng của vua tỏ thái độ đồng tình với tư tưởng Phật giáo khi đối thoại về đạo trị bình: “Phật chỉ khuyên tự cày cấy lúa gạo mà ăn, làm dư dật thì phòng năm mất mùa và cứu giúp người cơ nhỡ, gắng làm điều thiện, tránh xa điều ác,vua tạo duyên phước cho toàn dân, thế là của cải cứ nở ra, điều thiện cứ nở ra khiến cho cái đói, cái ác phải lặng lẽ ra đi” [3; tập 1, 189, 190]. Từ đó, dân không phải chịu đói khổ, nhà nào cũng nhiều thóc, ăn vụ nọ gối vụ kia. Đó là quan điểm tích cực, biện chứng, bất cứ ai cũng đều có thể trở thành Phật nếu luôn làm việc thiện, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, dân giàu nước mạnh, tránh điều ác. Đối thoại với hậu thế để tìm một người hiền tài lãnh đạo cho mai sau, vua cha chọn Lí Đức Chính (Lí Phật Mã)- con trưởng có “cái tâm thiện, siêng năng học hành, có lòng thương kẻ khó, không xa dời dân lao khổ” để sau này nối ngôi. Đối thoại trong tư tưởng, ý thức của vua với người kế vị sau này, vua “muốn trao cho con mình cái tâm thiện để chăn dắt muôn dân”, giáo huấn con về đạo trị bình là phải dũng cảm lắng nghe những “điều nói thật, người làm vua phải biết gần các bề tôi trung thực, thẳng thắn thì đất nước vững mạnh. Người trung thực như một loài ngọc quý, tự thân nó đã đẹpphải bảo vệ trung thần bằng cách trao cho họ những trọng trách quốc gia, phải học được sự thành bại của đời trước, để bước đi của ta thêm vững vàng” [3; tập 1, 191, 579, 582- 587]. Đối thoại với hoàng tử nối ngôi về việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và nền văn hiến lâu đời của Đại Việt, Lý Công Uẩn truyền dạy con về các chính sách đối ngoại “phải hết sức tỉnh giác chính sách tằm ăn dâu lấn hết đất ta, họ lùa dân sang xâm canh, làm nhà cửa, đưa mồ ông mả cha sang chôn để giữ đất lấn cướp phi pháp, rồi bắt mình phải bỏ văn hóa, phong tục, tập quán, cách ăn mặc, bỏ cả tiếng nói của mình để xong cuộc đồng hóa của họ”. Vua giáo huấn con phải làm cho dân ta không bỏ tập tục, tiếng nói của mình vì “mất tiếng nói, mất phong tục tập quán thì sẽ mất đứt dân tộc và mất luôn cả Tổ quốc” [3; tập 1, 594, 595]. Lý Công Uẩn nghiêm khắc với bản thân mình và những người thân, ai phạm tội cũng đều trị theo phép nước, ngài muốn “tai mắt triều đình phải có ở khắp nơi” để nghe tiếng lòng của dân, không cho bọn gian thần vào hùa với bọn tham bẩn mà “che tai bịt mắt hoàng thượng, thao túng bộ máy quốc gia, vơ vét, bóc lột, hành hạ người dân” [3; tập 1, 215]. Vì thế ngài đã cho các con mình đi khắp nơi mở phủ để sống chung với dân, thực hiện chính sách thân dân, bình dị gần dân để hiểu mọi nỗi sướng, khổ, vui, buồn của dân. Việc làm này của vua xuất phát từ lòng yêu thương dân, trọng dân trong cái tâm thiện của nhà Phật, cùng dân nghĩ theo một hướng. Trước khi trao ngôi báu, vua cha giáo huấn con mọi việc phải làm “trên nền tảng của cái thiện” và phải biết “thương dân” [3; tập 1, 580]. Đối thoại với giáo dục, vua căn dặn các nhà sư phải giáo huấn các con của ngài và lớp trẻ “nuôi dưỡng nguồn tâm”, phải biết “cần lao”, “kính Nguyễn Thị Minh Phượng 50 cẩn, lễ nghĩa, liêm sỉ,, không làm các việc trái với đạo lí, trái với lương tâm” [3; tập 1, 114, 118]. Thái Tổ yêu cầu các thầy phải dạy đức thiện và lòng nhân là điều căn cốt nhất, “bất tác bất thực” (không làm thì không được ăn), mong “các hoàng tử phải là các tướng giỏi”, “phải thông hiểu kinh sách, phải giỏi việc quân. Mưu lược không chưa đủ, phải giỏi cả đường cung kiếm” [3; tập 1, 118, 224, 421]. Thái Tổ muốn các con của mình “phải trở thành các tướng võ, có tài cầm quân xông pha nơi trận mạc, hoàng nữ bắt buộc phải học chữ, học kinh sách Phật, Thánh để rèn trí, rèn đức” [3; tập 2, 50]. Đối thoại với sự thật lịch sử giặc Chiêm Thành cướp phá dọc biên giới nước ta, vua đã giao cho Phật Mã nhiệm vụ cầm quân đánh dẹp, triệt hạ, đánh nát sào huyệt của địch tại trại Bố Chính, đánh vào lòng người bằng kế hiếu hòa, tuyệt đối không được cướp phá và tàn sát dân ở đó. Vua Lý Thái Tổ đã chỉ ra cho con cái lợi của việc miễn thuế để hợp lòng dân, làm thế nước hưng thịnh, rồi ngài dùng chính sách “ngụ binh ư nông” [3; tập 1, 622] để nông phu được rèn luyện binh khí, sẵn sàng ra trận khi có biến cố, tăng gia sản xuất của cải vật chất, thay nhau tập hợp về lộ luyện tập võ nghệ, giữ kỉ cương quân đội, ngài nói: “phải rèn luyện binh bị cho tinh, tuần cảnh nghiêm ngặt ngày đêm nơi biên ải” [3; tập 1, 53; 275]. Tư tưởng đối thoại của vua Lý còn thể hiện sâu sắc trong việc ngoại giao với nước láng giềng, vua cho “những người có sức học rộng, lại biện bác giỏi sang sứ nước Tống để kết mối bang giao”, cho sứ giả dò tìm “mưu đồ của nhà Tống và việc họ bài bố binh lực trên vùng biên ải hai nước”, tìm hiểu “mưu mô xâm lấn, cướp phá hoặc đặt nội gián trên đất ta; hoặc có kẻ nào mưu mô tạo phản” [3; tập 1, 67, 276]. Đối thoại với dân chúng, vua dùng các lời đối thoại rất mộc mạc, giản dị, dễ hiểu, dễ tiếp nhận, phù hợp với trình độ hiểu biết, nhận thức của quần chúng nhân dân, lời nói của nhân vật được hư cấu theo tư tưởng thẩm mĩ của người sáng tạo, như việc vua Lý khích lệ mọi người hoàn thành trách nhiệm, bổn phận với quốc gia dân tộc để mang phúc hạnh đến muôn nhà. Ngài phân tích thời cơ, phong thủy, địa thế để quyết định dời đô từ vùng núi Hoa Lư chật hẹp về vùng đồng bằng rộng lớn, đất đai màu mỡ, giao thông thuận tiện, thế đất cao mà thoáng ở Đại La (Thăng Long- Hà Nội ngày nay) để “đem lại cho dân, cho nước sự an lạc và giàu thịnh”. Việc dời đô hợp với ý trời và lòng dân, vì Đại La là nơi kết tụ “anh linh, tú khí” để phát triển mọi mặt, mang hạnh phúc đến muôn đời. Vua đặc biệt coi trọng “dân sinh”, “dân trí”, “dân tâm”, phải làm cho dân “có cái tâm thiện” thì mới “nhìn thấu nhẽ đục trong”, “niệm Phật là để nhất tâm bất loạn” [3; tập 1, 135, 323]. Lý Thái Tổ chủ trương dùng “Phật pháp” để giáo hóa nhân dân phải “giữ Đạo”, “tự giữ lấy nhà, giữ lấy nước”, “giữ được cái tâm thiện, tính cần cù, kiệm ước”, tuyệt đối không để cho bậc quyền thế kéo bè kết cánh mà hại dân. Đối thoại với lịch sử phòng thủ và giữ nước của dân tộc, khi quân Tống chuẩn bị xâm lược nước ta, chúng gây sự bằng việc sang cướp bóc của dân ta đem về nước. Thái Tổ bình tĩnh, chủ động tìm hiểu về cách đi đứng của chúng, biết rõ nội bộ nước họ đang lục đục, rối ren nên họ muốn gây chiến với nước ta để dẹp yên nội tình trong nước họ. Thái Tổ và tướng sĩ đều dồn trí lực vào việc tìm kế sách dài lâu, bàn việc giữ đất, vẽ bản đồ dự đoán nơi giặc tràn sang, nơi chúng hội quân, nơi chiến trận sẽ diễn ra. Thái Tổ rất tỉnh táo, sáng suốt để điều khiển binh tướng trong chiến lược quân sự, ngài vạch ra kế sách “ta nên dụ địch vào sâu đất ta Quân ta phục sẵn, đánh dồn chúng sang đất ta, rồi cắt cầu phao chẹn đường về của giặc Cùng lúc, các cánh quân của ta đã ém trước trong rừng xông ra đánh làm giặc vón lại”, rồi ta mới “mở vòng vây cánh bắc cho giặc tháo chạy xuống sông, kẻ nào thoát chết sang bờ bắc thì cánh quân ém trước của ta sẽ bắt sống” để tra hỏi tình hình của giặc[3; tập 1, 222, 223]. Thái Tổ cho phép các tướng tự điều hành mọi việc ở nơi mặt trận mà không phải chờ lệnh vua, tuyệt đối không được làm nhụt ý chí quân ta. Vua dùng kế “phản gián”, cho Hoàng Ân Vinh giấu mặt, giả vờ theo giặc, tặng chúng nhiều sơn hào hải vị, đồ ăn kích dục, làm cả chủ và tướng giặc đều say mê tửu sắc, chủ quan “khinh địch” mà quên chuyện xâm lược nước ta. Lý Thái Tổ cho quân ta thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” để tuyệt nguồn lương thực của giặc, lại giả vờ cho Hoàng Ân Vinh cho người chở lương thực tiếp tế cho giặc, tình cờ chúng chỉ đường cho quân ta đến hai kho lương thực và quân ta đã đốt hết kho lương, đốt trại giặc mà xông lên. Nhà văn miêu tả hàng loạt các hành động, lời nói của nhân vật để làm cho người đọc cảm nhận được chân dung Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại Tam giáo đồng nguyên và tư tưởng Phật giáo trong Tám triều vua Lý 51 của xã hội và thời đại nhà Lý, như việc vua Lý cho quân ta chặn các ngả đường sang đất Tống, chặn các dòng suối để dồn nước, dùng sức nước và đất đá phục kích, lăn xuống dòng suối cạn mà địch đang men theo để chạy về đất Tống. Trong lúc hoảng loạn, tên giặc Trương Minh Tú dẫn Hoàng Ân Vinh đi tìm hai tên tướng Tống là Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí, kế sách đó đã giúp quân ta bắt sống hai tên tướng nhà Tống, biết mặt Hoàng Ân Vinh, hai tên này đã tức hộc máu mà chết. Vua của triều Tống là Tống Chân Tông run sợ, nhưng vua Lý đối nhân xử thế rất khôn khéo, vừa cống nạp cho chúng một trăm con ngựa tốt để nhân đó phô trương sức mạnh quân sự của nước Nam, vừa răn đe kẻ thù xâm lược nước ta, vừa duy trì hòa bình “không nên gieo hận cho cả nước người ta”. Vua Lý Thái Tổ cử Phùng Chân và Lý Thạc là những người “giỏi văn chương, lí sự biện bác giỏi, lại có lòng tự tôn dân tộc mình, đất nước mình” [3; tập 1, 288] đi sang Trung Quốc để dò la nội tình và mưu đồ của nước họ đối với nước ta, làm vua tôi nước Tống kinh hoàng, đau đầu. Trước lúc băng hà, vua dặn lại các bậc trung thần của mình “không được rời Đức Chính nửa bước, phải tuyên chiếu Đức Chính lên ngôi đã, rồi mới được phát tang” để phòng “có chuyện người trong một bọc gây họa” [3; tập 1, 630]. Qua đối thoại, tác giả kết hợp sự thật lịch sử và sự hư cấu nghệ thuật tài tình để khắc họa rõ nét hành động và tính cách của nhân vật lịch sử có thật, miêu tả nhất quán, quản lí suy nghĩ, tâm lí, lời nói, ứng xử của nhân vật phù hợp với tâm thức người đọc đã biết trước về nhân vật lịch sử có thật theo nguồn sử liệu, việc miêu tả ấy gắn với thái độ yêu mến, kính trọng, biết ơn và những tình cảm thẩm mĩ của nhà văn dành cho nhân vật lịch sử có thật. Thứ hai, đối thoại với tư tưởng tam giáo đồng nguyên, Phật giáo và các bậc vua tôi, dân chúng, hình tượng các nhân vật thiền sư được miêu tả như là những người đã thoát tục, vượt ra ngoài vòng sinh diệt, hòa vào các tình huống của đời sống và mọi mối quan hệ ứng xử để đối thoại, giáo huấn về “đạo trị bình”, làm diễn biến câu chuyện phát triển theo sự kiểm soát chặt chẽ của nhà văn. Các thiền sư Vạn Hạnh, Đa Bảo, là những bậc minh triết, đại trí, đại giác được Phật phái xuống trần gian để hành đạo, giáo huấn “đạo trị bình” cho vua kế vị, đối thoại và giáo hóa muôn dân thấm nhuần tư tưởng từ bi bác ái của Phật, mở ra thời đại hoàng kim cho triều đại nhà Lý. Thật ra, đây là cách nói nhân cách hóa hệ ý thức tư tưởng đại diện cho cái thiện, đó là tư tưởng Phật giáo. Sau khi công cuộc giáo huấn thành tựu, các bậc cao tăng, thiền sư trút bỏ mọi danh lợi, để tìm đến nơi suối rừng, sống “vô vi” thuận theo tự nhiên với thú lâm tuyền thanh cao. Một trong số đó, ta phải kể đến thiền sư Vạn Hạnh, đây là vị cao tăng đại diện tiêu biểu cho tầng lớp đại trí thức Phật giáo, ngài có hoài bão phù giúp một bậc vua anh minh, đủ tài đức xây dựng nước Nam “trở nên cường thịnh” và “biến nước ta trở thành quốc độ Phật” [3; tập 1, 571] đậm sắc thái văn hóa Việt. Vạn Hạnh và các bậc thiền sư khác từ xa xưa, đại diện cho tầng lớp đại trí thức Phật giáo đã sớm có ý thức xây dựng một nước Đại Việt độc lập, tự chủ, tự cường với một nền văn hóa Phật giáo mang đậm bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam. Vạn Hạnh và các nhà sư khác đối thoại, tham vấn cho nhà vua các công việc triều chính như sư Đa Bảo, Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chấn Lưu, Định Hương, đã hướng cho các vị hoàng đế đi vào con đường tâm linh Phật, chủ trương lên ngôi, lãnh đạo đất nước bằng con đường nhân đạo, chính nghĩa, coi trọng người “có trí tuệ, có đức tuệ, có tâm tuệ” [3; tập 1, 575], chứ không phải bằng con đường bạo lực, áp chế. Vì thế, nhà Lý đã huy động nhân dân đóng góp cây que, công sức để dựng lên nhiều ngôi chùa tranh vách đất ở các làng bản thôn quê trên khắp đất nước, để các bậc thiền sư vừa thực hiện việc khai tâm, dạy học, chữa bệnh cho nhân dân và dạy dân cách dùng các loại lá cây để chữa các bệnh thông thường. Điều này hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh lịch sử xã hội của nhà Lý ở thời điểm đó, tư tưởng bao trùm thời đại bấy giờ là tư tưởng Phật giáo. Như vậy, “nước ắt phải mạnh, đạo ắt phải vững vàng khởi phát” [3; tập 1, 575]. Ngay từ phút đầu nhìn thấy Lý Công Uẩn là đứa trẻ, sư Vạn Hạnh đã nhận ra “kỳ tướng, có tướng đế vương là bậc minh vương thánh đế”, là một vật báu quốc gia và là “bậc thiên tử, đứng đầu trăm họ” [3; tập 1, 50, 51, 73, 77]. Nhà sư Khánh Văn thấy Vạn Nguyễn Thị Minh Phượng 52 Hạnh là người “đạo cao vọng trọng” nên giao cho việc nuôi dạy Công Uẩn thành tài để lo việc “quốc gia đại sự”. Ngay từ phút ban đầu nhìn thấy Lý Công Uẩn, sư Vạn Hạnh đã buột miệng nói ra: “Thằng bé này không phải là người thường, sau này lớn lên, tất có thể giải quyết được mọi việc khó khăn trong đời, trở thành đấng vua giỏi trong thiê hạ” [3; tập 1, 324]. Vạn Hạnh là bậc thiền sư lỗi lạc, ngoài hiểu thông tam giáo, sư còn quán thông các khoa lí số, không việc gì ở đời sư không biết trước. Đối thoại với các thiền sinh, môn đệ của mình, sư nói: “nhân nào thì quả ấy, có gieo trồng mới có gặt hái. Hạnh phúc của mỗi người là do người ấy tạo lập, không ai có thể làm thay được, kể cả Phật” [3; tập 1, 564]. Niệm Phật tại tâm là để thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt, coi nhẹ quy luật sinh- lão- bệnh- tử của đời người, khai mở lòng từ bi, bác ái, phát khởi tâm thiện, trầm tĩnh, tâm trong, trí sáng, tránh cái ác và thói tham-sân-si. Vạn Hạnh đối thoại và giáo huấn các học trò của mình về các vấn đề lớn “dân sinh”, “dân trí”, “dân tâm”. Đối thoại với hoàng tử nối ngôi vua cha, sư dùng những lời đối thoại mang tính giáo huấn hướng thiện của Phật để căn dặn Phật Mã sau này nối ngôi vua thì phải lấy cái tâm “thương nước, thương dân, thương chúng sinh, nhưng trước hết phải thương lấy thân mình” [3; tập 1, 576] ra mà đối thoại với tất cả mọi người từ tướng sĩ đến nhân dân, để làm “yên dân” và trị bình thiên hạ. Đây là lời nói cuối cùng trước lúc sư vĩnh viễn đi vào cõi vĩnh hằng, tất cả vua quan, người dân đều tỏ “lòng tôn kính, thương tiếc một thiền tăng đã suốt đời phụng sự quốc gia dân tộc và đạo pháp” [3; tập 1, 577]. Vạn Hạnh đã giúp Lê Hoàn phá Tống bình Chiêm, được xem là bậc tiên tri đại giác. Đối thoại với kẻ muốn hại mình là Đỗ Ngân, sư Vạn Hạnh đã gửi bài thơ làm hắn phải từ bỏ âm mưu độc ác. Đối thoại với tên gián điệp phương Bắc là Cao Biền, Vạn Hạnh nhận ra âm mưu thâm độc của hắn, yểm nhiều nơi nhằm triệt long mạch đất Đại La, để chặt đứt long huyệt của ta. Vạn Hạnh đã cho đào lên, chôn nổi sát mặt đất, sét đánh bật tung và như vậy trời đã hóa giải. Vạn Hạnh nhiều lần đối thoại với vua, khuyên vua nên làm mọi việc tốt vì quốc gia dân tộc như “lo cho dân đủ ăn, đủ mặc”, lo giữ gìn lãnh thổ, đảm bạo sự yên bình, mở mang dân trí, bồi dưỡng nhân tài, tiết kiệm xây dựng chùa chiền mái tranh vách đất để nuôi dưỡng nhân tâm, hướng thiện và chăm sóc tâm linh cho bách tính, vời các bậc sư trẻ mà tài năng đức độ ra giúp vua chèo lái “con thuyền quốc gia”. Đối thoại với nhân dân, mỗi nhà sư phải là một nhà giáo giáo hóa dân, dạy chữ nghĩa cho lớp trẻ, khai thông trí tuệ cho dân. Hầu hết các bậc thiền sư tiên tri đại giác đều khuyên vua phải “định cái tâm của xã hội” bằng cách chọn Phật giáo làm quốc giáo, quốc đạo vì tông giáo này phù hợp với tâm thức người dân trong nước, cần loại bỏ các phần mê tín dị đoan, phải dung hòa tất cả các tông giáo, tín ngưỡng của Nho- Phật- Đạo” và “cấm ngặt việc kì thị giữa các tông giáo” [3; tập 1, 179]. Đạo Phật là đạo của từ bi hỉ xả, yêu mình, yêu người, không phân biệt sang hèn, giầu nghèo, vì tính thiện và tính nhân từ, bác ái. Đạo Phật là nội lực, là động cơ của tiến hóa, nó hợp với một xã hội mà mọi người đạt tới phần trí năng khuần khiết. Đạo Nho cũng dạy con người vị nhân nhưng ích kỉ vị kỷ, ganh đua dục vọng dễ làm cho thiên hạ đại loạn, chiến tranh bùng nổ. Đạo Lão tôn sùng “sự an bài của thượng đế” nên dễ tạo kẽ hở cho “bọn phù thủy gieo rắc những trò dị đoan nhảm nhí, lừa mị dân lành, gây hao người tốn của” [3; tập 1, 336]. Vì thế, vua chủ trương “ta không nhất thiết phải trung thành với một dòng nào cả, mà ta phải nhiếp thống cái tinh túy nhất của cả ba dòng đạo ấy lại, để có một nền đạo thuần Việt” [3; tập 1, 337], chủ trương lấy tư tưởng Phật giáo làm quốc giáo, là kim chỉ nam trong “đạo trị bình”, loại bỏ những điều mê tín dị đoan làm kìm hãm sự phát triển. Lời đối thoại sau cùng trước khi qua đời, sư Vạn Hạnh dặn lại vua Thái Tông “Việc đầu tiên của một triều đại là phải lo yên dân. Muốn yên dân phải lo cho dân đủ ăn, đủ mặc; không để chức dịch, quan lại chèn ép, nhũng nhiễu hà hiếp dân..., phải làm cho nước cường thịnh, để cho dân được tự do mở mang nghề nông, nghề công, nghề thương, thì dân giàu, nhà nước sẽ thu được nhiều thuế, nước sẽ mạnh. Nhưng thuế không thể thu cao quá, làm người buôn không có lợi, sẽ thôi không buôn, nhà nước mất nguồn thu, phải chăm dân, tôn trọng dân để dân mang lợi cho nước nhà Làm cho dân giàu nước mạnh, chính là thuật trị nước của các bậc vua sáng từ thượng cổ tới nay” [3; tập 2, 464]. Tiếp theo, ta thấy nhân vật sư Đa Bảo cũng nhiều lần đối thoại với vua về “đạo trị bình”, sư khuyên vua “việc gì mà lợi cho dân cho Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại Tam giáo đồng nguyên và tư tưởng Phật giáo trong Tám triều vua Lý 53 nước, thì khó mấy cũng nên làm, còn việc gì thiệt dân, hại nước để thu lợi về cho một số người, thì dễ mấy cũng cứ nên bỏ” [3; tập 1, 99]. Trong đạo trị bình, nhà sư dùng những lời giáo huấn vua phải coi trọng “quan văn, quan võ”, khuyên vua không nên trọng quan võ hơn quan văn, vì dễ dẫn đến con đường chuyên chế bạo tàn, phải chăm lo quốc sử, bề trên không nghe những lời “xu nịnh” của “bọn sâu bọ” mà phải biết lắng nghe “lời nói thật, nói thẳng, nói trái tai, người người trung hậu, triều đình phải gần dân, thấu hiểu lòng dân, không đàn áp người lương thiện, phải nghe xa muôn dặm, phải có con mắt nhìn thấu nghìn tầm, phải có tấm lòng bao dung như trời biển” [3; tập 1, 129]. Vua băn khoăn tìm cách đáp lại tấm lòng của trăm họ, sư Đa Bảo nói “khởi nghiệp của một triều đại bắt đầu từ những việc nhân nghĩa; triều đại ấy nhất định sẽ trường cửu” và “Một khi dân đã giàu thì nước ắt phải mạnh. Đó chính là cái đạo nước nổi thuyền nổi” [3; tập 1, 328, 332]. Nhìn chung, nhà văn đã chọn khá nhiều điểm nhìn bên ngoài và bên trong, tạo nên một trường nhìn lưu động để các nhân vật tương tác, giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại “tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng đạo Phật rất khách quan, chân thực. Điểm nhìn toàn tri bên ngoài giúp cho người trần thuật biết hết mọi chuyện, dẫn dắt người đọc hình dung ra khung sườn đồ sộ của bộ tiểu thuyết lịch sử Tám triều vua Lý một cách rõ ràng, mạch lạc về mối quan hệ đan chéo chằng chịt giữa các nhân vật. Nhà văn chọn lựa, kết hợp tài tình điểm nhìn bên ngoài với các điểm nhìn bên trong, trao điểm nhìn cho các nhân vật, đặt nhân vật vào nhiều môi trường, hoàn cảnh khác nhau, đối thoại với nhau hoặc độc thoại nội tâm bằng nhiều giọng điệu gắn với các sự kiện cụ thể trong các lớp thời gian tuyến tính, có khi là đồng hiện và không gian rộng lớn của mọi miền đất nước được hiện lên theo điểm nhìn của nhân vật, từ đó bộc lộ bản chất, ý thức, tư tưởng. Người trần thuật hầu hết tự sự ở ngôi thứ ba giấu mình, ẩn mình, có khi lại ở ngôi thứ nhất với tư cách là người trong cuộc chứng kiến câu chuyện để đối thoại trực tiếp với các nhân vật. Khi đối thoại với cái đẹp, cái thiện dưới thời vua Lý, giọng điệu chủ đạo là giọng nghiêm trang, vui tươi, tự hào, khẳng định, ngợi ca, biết ơn công đức của các bậc vua hiền tướng giỏi đã mang hạnh phúc đến cho nhân dân. 3. Kết luận Tóm lại, nguyên lí đối thoại là một vấn đề quan trọng trong nghệ thuật tự sự của Tám triều vua Lý, nó chi phối nhiều giọng điệu khác nhau của các nhân vật khi giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại tư tưởng “tam giáo đồng nguyên” và ý thức Phật giáo. Sự đối thoại giữa các quan điểm, ý thức bao quanh nhân vật sẽ làm tính cách, bản chất của nhân vật hiện lên sinh động, hấp dẫn. Các bài học lịch sử giáo huấn về đạo trị bình qua đối thoại của các nhân vật có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hôm nay và mai sau. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] M.Bakhtin, 1992. Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, (Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn và dịch). Nxb Văn hóa Thông tin, Trường viết văn Nguyễn Du. [2] 9. M.Bakhtin, 1998. Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch). Nxb Giáo dục. [3] Hoàng Quốc Hải, 2010. Tám triều vua Lý, tập 1, 2, 3, 4. Nxb Phụ nữ. [4] Iu.M. Lotman, 2007. Cấu trúc văn bản nghệ thuật. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. [5] Phương Lựu, 2001. Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX. Nxb Văn học, Trung tâm Văn hóa và Ngôn ngữ Đông Tây. [6] Phương Lựu (chủ biên), 2002. Lí luận văn học (tái bản lần thứ hai). Nxb Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Thị Minh Phượng 54 [7] Ilin I.P và E.A Tzurganova, 2003. Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ XX, Đào Tuấn Ảnh - Trần Hồng Vân - Lại Nguyên Ân dịch. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. [8] Trần Đình Sử, La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm, 2011. Lí luận văn học. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [9] Trần Đình Sử, 2013. Lí luận và phê bình văn học. Nxb Giáo dục Việt Nam. ABSTRACT Summary of teaching directed treatment by means of dialogical theory “Three pure religions” and Buddhist thought in The eight dynasties of king Ly by Hoang Quoc Hai Nguyen Thi Minh Phuong High School Cam Nhan, Yen Binh, Yen Bai Hoang Quoc Hai has incorporated the true essence of history with the fictitious imagination to create the artistic images of the teaching directed treatment by means of dialogical theory “Three pure religions” and Buddhist thought in The eight dynasties of king Ly through the great dialogue on the thoughts and consciousness of the characters eg the monks, the gentle kings, the great general and the people, to build a independent, autonomic, self-strengthening and ethnic self-respect Dai Viet with a Buddhist culture bearing the cultural identity of the Vietnamese. The images of the monks in the work are the aesthetic images of the intelligentsia, they train the gentle kings and the good generals, the education of humanitarian idealsand the patriotism, towards building a prosperous country. So the kings practiced the dialogue with the generals and the people to help people recognize the their responsibility for the country. Kings bring happiness to everyone, opening the historical page of glory and glory of the nation. The lessons in the history of teaching morality through the dialogue of the characters will have deep meaning in building and defending our country in the future. Keywords: Hoang Quoc Hai, The eight dynasties of king Ly, Three pure religions, the teaching directed treatment.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5349_6_nguyen_thi_minh_phuong_9434_2122851.pdf
Tài liệu liên quan