Tài liệu Giáo dục văn hóa mạng xã hội cho học sinh Trung học cơ sở ở Quận 1 – Thành phố Hồ Chí Minh: VŨ THỊ KIM CHUNG
165
đang được sống trong thời bình, được
hưởng trọn vẹn những giá trị về vật chất và
tinh thần, chúng ta càng phải biết trân trọng
quá khứ đau thương nhưng đáng tự hào của
dân tộc. Cả một thế hệ đã ngã xuống để đổi
lấy nền độc lập tự do hôm nay. Chúng ta
không được quyền quyên lãng quá khứ đặc
biệt là những người đã từng bước ra từ
chiến tranh, đã từng cầm súng chiến đấu để
bảo vệ từng tấc đất, từng cánh rừng. Mỗi
người cần phải có ý thức giữ gìn những giá
trị thiêng liêng của một thời ấy là lòng tự
tôn dân tộc, là quyết tâm đấu tranh cho lẽ
phải, cái tốt, cái thiện. Bên cạnh đó, nhà
văn muốn gióng lên một hồi chuông cảnh
tỉnh con người về sự cám dỗ của ham
muốn, dục vọng tầm thường của con người
trước những địa vị, quyền lực và đồng tiền.
Cuộc chiến với kẻ thù xâm lược rất khốc
liệt nhưng cuộc chiến khi con người đối
mặt với những kẻ thù vô hình trong cuộc
sống đời thường còn khốc liệt và nguy hiểm
hơn. Người ta không th...
28 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 389 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo dục văn hóa mạng xã hội cho học sinh Trung học cơ sở ở Quận 1 – Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VŨ THỊ KIM CHUNG
165
đang được sống trong thời bình, được
hưởng trọn vẹn những giá trị về vật chất và
tinh thần, chúng ta càng phải biết trân trọng
quá khứ đau thương nhưng đáng tự hào của
dân tộc. Cả một thế hệ đã ngã xuống để đổi
lấy nền độc lập tự do hôm nay. Chúng ta
không được quyền quyên lãng quá khứ đặc
biệt là những người đã từng bước ra từ
chiến tranh, đã từng cầm súng chiến đấu để
bảo vệ từng tấc đất, từng cánh rừng. Mỗi
người cần phải có ý thức giữ gìn những giá
trị thiêng liêng của một thời ấy là lòng tự
tôn dân tộc, là quyết tâm đấu tranh cho lẽ
phải, cái tốt, cái thiện. Bên cạnh đó, nhà
văn muốn gióng lên một hồi chuông cảnh
tỉnh con người về sự cám dỗ của ham
muốn, dục vọng tầm thường của con người
trước những địa vị, quyền lực và đồng tiền.
Cuộc chiến với kẻ thù xâm lược rất khốc
liệt nhưng cuộc chiến khi con người đối
mặt với những kẻ thù vô hình trong cuộc
sống đời thường còn khốc liệt và nguy hiểm
hơn. Người ta không thể chết dễ dàng trước
mũi súng kẻ thù nhưng con người ta sẽ tự
kết liễu mình trước những dục vọng của
chính mình. Mỗi người cần tự đấu tranh với
phần bản năng dục vọng tầm thường để
hướng đến cái thiện, cái mỹ trong chính
tâm hồn mình. Có lẽ đó là điều trăn trở
không riêng ở Chu Lai mà còn là trăn trở
của nhiều nhà văn khi viết về đề tài chiến
tranh và hình ảnh người lính thời hậu chiến.
Kết luận
Là một người trở về từ cuộc chiến, hơn
ai hết Chu Lai có cái nhìn về chiến tranh
của người trong cuộc. Những trang văn của
ông vì thế có sự chân thực đến sống động
và luôn ám ảnh người đọc. Không chỉ là
nhà văn thể hiện rất thành công mảng đề tài
viết về chiến tranh trong quá khứ, mà
những tác phẩm gần đây của ông đã khẳng
định thêm: Chiến tranh vẫn là một siêu đề
tài (chữ dùng của Bùi Việt Thắng) và xu
hướng trở lại của văn học viết về chiến
tranh trong đời sống văn học hôm nay.
Bằng việc sử dụng kỹ thuật “dòng ý thức”
Chu Lai đã “làm mới” chính mình. Chính
điều này đã giúp cho những tác phẩm của
ông dù vẫn “cày xới” trên mảnh đất cũ
nhưng lại đem đến những giá trị và cách
nhìn mới mẻ về quá khứ oanh hùng của
dân tộc qua cuộc chiến tranh. Tiếng vang
và sự đón nhận của độc giả đối với Mưa đỏ
trong thời gian vừa qua là một minh chứng
cho tâm lý tiếp nhận của độc giả hôm nay
về mảng đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
2. M. Bakhtin (1998), Lí luận và thi pháp tiểu
thuyết, Nxb Hội Nhà văn.
3. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu
thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục.
4. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại, Nxb Giáo dục.
5. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Kỹ thuật dòng ý
thức trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh, trong Tự sự học, Nxb Đại học sư phạm.
6. Chu Lai (1991), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Văn học.
7. Chu Lai (2009), Ba lần và một lần, Nxb Lao động.
8. Chu Lai (2015), Mưa đỏ, Nxb Quân đội
nhân dân.
9. Chu Lai (2009), Phố, Nxb Lao động.
10. Nguyễn Thị Thái (2015), Một số đặc điểm
ngôn ngữ người kể chuyện trong tiểu thuyết
Chu Lai, Tạp chí khoa Ngữ văn Đại học sư
phạm Hà Nội.
11. Nguyễn Bích Thu (2013), Một vài cảm nhận
về ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam đương đại,
Tạp chí Văn nghệ quân đội.
Ngày nhận bài: 14/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
166
Giáo dục văn hóa mạng xã hội cho học sinh
Trung học cơ sở ở Quận 1 – Thành phố Hồ Chí Minh
Educating Junior High School Students about Social Network Culture – A case of
District 1, Ho Chi Minh City
Đinh Huyền Trang,
Trường Quốc tế Á Châu
Dinh Huyen Trang,
The Asian International School
Tóm tắt
Văn hóa mạng xã hội là việc người sử dụng mạng xã hội phải có thái độ, hành vi ứng xử đúng đắn, biết
khai thác những yếu tố tích cực, lành mạnh trên mạng để nâng cao tri thức và hoàn thiện nhân cách bản
thân. Ngày nay, sử dụng mạng xã hội trở thành nhu cầu cấp thiết đối với mọi người dân sử dụng mạng
Internet. Tuy nhiên, việc khai thác mạng xã hội không đúng mục đích, khai thác thông tin sai lệch đã
gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho xã hội. Đặc biệt, Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh với sự phát
triển khá hoàn thiện về mạng thông tin, mạng xã hội và số lượng học sinh THCS rất đông thì nguy cơ
mạng xã hội càng lớn hơn. Vì thế, chúng ta cần có những giải pháp quản lý và xây dựng văn hóa sử
dụng mạng xã hội cho học sinh một các phù hợp.
Từ khóa: văn hóa, mạng xã hội, văn hóa mạng xã hội, Quận 1 - Thành phố Hồ Chí Minh.
Abstract
Social Network Culture refers to the appropriate attitudes and behaviors towards using social media that
a user should have. It can also refer to the ways the users exploit and take advantage of social networks
for improving their knowledge as well as personality. Nowadays, using social networks has become an
urgent need for Internet users. However, exploring situationally inappropriate social media contents has
caused many serious social consequences. The risks of social media are even rising among a huge
number of junior high school students who live in District 1, Ho Chi Minh City, where the social
networks are increasingly developing. Therefore, we need to have some solutions to the management of
students’ use of social networks as well as to build their social network culture.
Keywords: culture, social network, social network culture, District 1 - Ho Chi Minh City.
Đặt vấn đề
Ngày nay, Mạng xã hội như Facebook,
Youtube, Twitter, Google+, ZingMe trở
nên phổ biến với mọi người, đặc biệt là
giới trẻ. Mạng xã hội mang lại nhiều tiện
ích cho người sử dụng như trao đổi thông
tin, chia sẻ trong công việc, học tập Tuy
nhiên, thực trạng giới trẻ lạm dụng mạng
xã hội và xu hướng lệch lạc trong lối sống,
nhận thức ngày càng phổ biến. Quận 1
Thành phố Hố Chí Minh là địa bàn có mức
độ phủ sóng Internet, Wifi miễn phí tốt
ĐINH HUYỀN TRANG
167
nhất cả nước. Đây là một thuận lợi nhưng
cũng tạo ra rất nhiều thách thức cho công
tác quản lý khai thác mạng xã hội của giới
trẻ - đặc biệt là học sinh Trung học cơ sở.
Quan trọng hơn, chúng ta cần có những
biện pháp để giới trẻ sử dụng mạng xã hội
một cách có văn hóa. Vậy thế nào là văn
hóa mạng xã hội? Thực trạng và giải pháp
nào cho việc quản lý khai thác mạng xã hội
của học sinh Trung học cơ sở trên địa bàn
Quận 1? Đó là những nội dung chính sẽ
được làm rõ trong bài viết.
Nội dung
1. Khái niệm Văn hóa mạng xã hội
Cũng giống như văn hóa, văn hóa
mạng xã hội cũng được sinh ra từ những
chuyển biến của mạng Internet - một phát
sinh tinh thần từ mạng vật chất do con
người tạo ra. Ở Việt Nam hiện nay, chưa
có nhiều khái niệm chính thức về văn hóa
mạng xã hội. Văn hóa mạng là một khái
niệm có nội hàm rộng, khái quát lại là tất
cả những biểu hiện của con người tham gia
vào cộng đồng mạng Internet và văn hóa
được thể hiện trên mạng Internet. Cụ thể,
văn hóa mạng là thái độ, hành vi ứng xử
đúng mực đối với Internet, biết khai thác,
sử dụng mạng trên cơ sở có kiến thức, hiểu
biết, tận dụng và khai thác tối đa những
yếu tố tích cực, lành mạnh trên mạng để
góp phần nâng cao tri thức và xây dựng,
hoàn thiện nhân cách bản thân, đồng thời
biết tự phòng ngừa, tiết chế, đề kháng với
những mặt trái, tiêu cực từ Internet. Văn
hóa mạng là hệ thống những sự tương tác
và cách thức ứng xử của con người trong
không gian của Internet, mà biểu hiện cụ
thể nhất là ở mạng xã hội [5]. Theo nghĩa
này, văn hóa mạng xã hội là chỉ việc người
sử dụng mạng xã hội phải có thái độ, hành
vi ứng xử đúng đắn, phù hợp, tránh những
trường hợp chửi bậy, thiếu văn hóa trên các
diễn đàn, mạng xã hội.
2. Nguyên nhân phải xây dựng
văn hóa sử dụng mạng xã hội cho
học sinh Trung học cơ sở ở Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày nay, mạng xã hội là nhu cầu cấp
thiết đối với mọi người dân sử dụng mạng
Internet. Tuy nhiên, việc khai thác mạng xã
hội không đúng mục đích, khai thác thông
tin sai lệch đã gây ra nhiều hệ lụy
nghiêm trọng cho xã hội. Vì thế, việc xây
dựng văn hóa mạng xã hội là cần thiết vì
những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do sự hội nhập và phát triển
của Việt Nam, chúng ta không thể đứng
ngoài những tiến bộ của khoa học, đặc biệt
là mạng Internet. Đầu thế kỉ XXI, mạng xã
hội cũng bắt đầu du nhập vào Việt Nam và
phát triển một cách mạnh mẽ. Cùng với sự
xuất hiện của hàng loạt các mạng xã hội
lớn trên thế giới như Linkedin (ra đời năm
2002), Facebook (2004), Youtube (2005),
Twitter (năm 2006), Google+ (2011), có sự
xuất hiện và phát triển của hàng loạt mạng
xã hội thuần Việt như ZoomBan, Yobanbe,
FaceViet.com, VietSpace, Clip.vn. Yume,
Tamtay.vn, Truongxua.vn, ZingMe,
Go.vn, Tuy nhiên, việc khai thác mạng
xã hội của giới trẻ một cách không giới
hạn, thiếu văn hóa đã gây ra những hệ quả
nghiêm trọng cho bản thân và xã hội như
“Chết vì thách chiến trên Facebook” hoặc
nữ sinh lớp 12 ở huyện Thạch Thất, Hà
Nội tự tử vì bị ghép ảnh trên Facebook.
Hay dư luận đã phải lên tiếng bởi những cô
gái chỉ vì muốn nhanh chóng được nổi
tiếng mà post những tấm ảnh hở hang hết
cỡ, thậm chí không mảnh vải che thân, tạo
dáng sexy hoặc kì quặc, cốt sao cho nổi bật
gương mặt và đường cong cơ thể, hoặc
GIÁO DỤC VĂN HÓA MẠNG XÃ H I CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở QUẬN 1
168
trường hợp một nam thanh niên 24 tuổi vì
lời hứa “đủ 40.000 like sẽ tự thiêu” đã tẩm
dầu tự thiêu ở cầu Tân Hóa TP. HCM
Trên đây là một trong rất nhiều trường hợp
“sống ảo” trên mạng xã hội. Tuy nhiên,
vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay là khả
năng quản lý mạng xã hội của cơ quan
chức năng còn chưa phát huy hiệu quả.
Thậm chí, chúng ta chưa có thể quản lý hết
được những nội dung trên mạng xã hội. Do
đó, mỗi người cần phải có văn hóa khi sử
dụng mạng xã hội là điều rất cần thiết.
Thứ hai, chủ trương của nhà nước,
chính phủ trong việc khai thác thông tin
mạng phục vụ cho học tập, nghiên cứu.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI Đảng cộng sản Việt Nam xác định
nhiệm vụ trong tâm là “Phát triển, nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng
nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công
nghệ và kinh tế tri thức”[7]. Như vậy,
nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục đào
tạo gắn liền với phát triển khoa học công
nghệ. Do đó, việc vận dụng khoa học công
nghệ vào đổi mới, nâng cao chất lượng
giáo dục đào tạo là cấp thiết, đúng với
đường lối lãnh đạo của Đảng. Mặt khác,
trước xu thế ngày càng tăng của khoa học
công nghệ đối với giáo dục, Nghị quyết
Đại hội lần XII của Đảng cũng xác định
“Mạng lưới giáo dục, đào tạo được mở
rộng, quy mô và chất lượng được nâng lên,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội[]
Tập trung đầu tư cơ sở vật chất và đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong
giáo dục, đào tạo” và chúng ta cần phải
nghiêm túc thực hiện “Đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở,
hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát
triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân
cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng
pháp luật và trách nhiệm công dân”[2]. Để
xây dựng xã hội học tập, chúng ta cần phải
đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu
khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin vảo
lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Bên cạnh đó, trong Nghị định 72/2013,
Chính phủ cũng nêu rõ là phải “Thúc đẩy
việc sử dụng Internet trong mọi hoạt động
kinh tế, xã hội đặc biệt trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học,
công nghệ để tăng năng suất lao động, tạo
việc làm và nâng cao chất lượng cuộc
sống”[6]. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của
giáo dục đào tạo Việt Nam thời kì hội
nhập. Chính phủ cũng cho rằng, chúng ta
phải “Phát triển hạ tầng Internet băng rộng
đến trường học, bệnh viện, viện nghiên
cứu, thư viện, cơ quan nhà nước, doanh
nghiệp, các điểm truy nhập Internet công
cộng và hộ gia đình. Chú trọng việc phổ
cập dịch vụ Internet ở khu vực nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn”[6]. Như vậy, việc phát triển hệ thống
mạng thông tin Internet của Việt Nam là
một nhu cầu cấp thiết của toàn xã hội. Vì
vậy, trong tương lai, mạng xã hội ngày
càng phổ biến hơn là một quy luật tất yếu.
Do đó, việc cần phải xây dựng văn hóa sử
dụng mạng xã hội là một nhu cầu tất yếu
của cuộc sống. Việc quản lý mạng thông
tin Internet và mạng xã hội để phát huy
những giá trị tích cực và khắc phục, hạn
chế những mặt trái của nó là điều cần thiết.
Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng
mạng thông tin, mạng xã hội của địa
phương mang lại nhiều thuận lợi nhưng
cũng tiềm ẩn nhiều thách thức. Quận 1
nằm ở vị trí trung tâm của Thành phố Hồ
Chí Minh. Những năm qua, Quận 1 đã có
những bước chuyển biến lớn lao trong xây
ĐINH HUYỀN TRANG
169
dựng kinh tế và phát triển văn hóa xã hội,
giữ vững và phát huy ưu thế của một trung
tâm thành phố. Đồng thời, sự du nhập của
khoa học công nghệ, của toàn cầu hóa cũng
đang diễn ra mạnh mẽ nhất tại quận trung
tâm thành phố, trong đó có mạng xã hội.
Mặt khác, Quận 1 có cơ sở hạ tầng,
đường xá, bệnh viện đều phát triển rất
tốt. Chúng ta không thể bỏ qua sự phát
triển nhanh chóng của hệ thống mạng
thông tin Internet. Thậm chí, hiện nay khu
vực Quận 1 đã xuất hiện nhiều tuyến
đường, khu vực có sóng Wifi miễn phí cho
mọi cư dân sử dụng như khu vực Đường
sách Thành phố Hồ Chí Minh, Phố đi bộ
Nguyễn Huệ, Nhà thờ Đức Bà, các trạm xe
bus, v.v... Tại những nơi có wifi miễn phí,
việc kết nối wifi diễn ra khá nhanh, những
wifi này không có khóa mã, người dùng
chỉ cần bấm vào wifi có tên tương ứng và
mọi kết nối sẽ diễn ra hoàn toàn tự động.
Tốc độ truyền tải cũng khá nhanh, các tác
vụ cơ bản như check web, lướt Facebook,
nhắn tin bằng ứng dụng OTT (Zalo, Viber,
Messenger, Skype, v.v...) diễn ra hoàn toàn
bình thường và hiệu quả. Sự phát triển
nhanh chóng hệ thống thông tin Internet
miễn phí trên địa bàn Quận 1 mang lại
nhiều lợi ích cho người dân và cả chính
quyền địa phương. Mạng thông tin miễn
phí mở rộng sẽ góp phần quan trọng vào
việc phục vụ cho du khách trong việc tra
cứu thông tin, đồng thời cũng giúp cho
người dân và chính quyền giải quyết được
nhiều vấn đề trong việc xây dựng chính
quyền điện tử trong thời gian tương lai.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là sự
kiểm soát đối với lượng người dùng và đặc
biệt là giới trẻ hiện nay. Do đặc thù, Quận
1 có lượng học sinh THCS khá lớn về số
lượng, đa dạng về thành phần, phong phú
về loại hình đào tạo nên việc quản lý khai
thác, sử dụng mạng xã hội của học sinh
THCS trên địa bàn quận cần phải thực hiện
nghiêm túc và hiệu quả.
Thứ tư, quá trình hình thành nhân
cách của học sinh THCS mang nhiều nét
đặc thù của lứa tuổi. Do đặc điểm tâm sinh
lý, trong quá trình hình thành tự ý thức,
học sinh THCS xuất hiện mâu thuẫn giữa
nhu cầu tìm hiểu bản thân (khám phá
những khả năng của bản thân) với sự phát
triển chưa đầy đủ về kỹ năng phân tích
đúng đắn sự bộc lộ của bản thân mình. Vì
thế, học sinh THCS rất dễ rơi vào sự xung
đột trong tư tưởng về kì vọng của bản thân
với vị trí thực tế của các em trong xã hội.
Từ đó, học sinh THCS dễ có những hành
động và lời nói chưa thật sự đúng mực với
mọi người xung quanh, với người lớn và
bạn bè cùng trang lứa. Do đó, trong giáo
dục học sinh ở lứa tuổi này, “giáo viên cần
có sự đánh giá đúng đắn nhân cách của các
em, tránh để cho các em rơi vào tình trạng
xảy ra hai rung cảm khác nhau như tự cao
và kém cỏi, hoặc tự tin và thiếu tự tin, v.v.”
[3, tr.47].
Bên cạnh đó, ý thức của học sinh
THCS cũng được hình thành bằng con
đường tiếp thu các yếu tố từ bên ngoài như
nền văn hóa, ý thức xã hội. “Nển văn hoá
xã hội, ý thức xã hội là tri thức, là những
giá trị của nhân loại, của dân tộc, đó cũng
chính là nền tảng của ý thức cá nhân. Bằng
các loại hình hoạt động đa dạng, bằng con
đường giáo dục, học tập và giao tiếp xã
hội”[3, tr.47] mà các em hình thành nên lối
sống, lối tư duy và thái độ sống của mình.
Vì thế, môi trường xã hội, văn hóa dân tộc
có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành
và phát triển nhân cách của học sinh. Vì
vậy, nếu môi trường sống – có mạng xã hội
GIÁO DỤC VĂN HÓA MẠNG XÃ H I CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở QUẬN 1
170
không lành mạnh, học sinh chưa ý thức
được vai trò, chức năng của mạng xã hội
thì các em sẽ rất dễ rơi vào những cám dỗ
của mạng xã hội. Hiện nay, trước sự phát
triển nhanh chóng của công nghệ thông tin,
mạng Internet, mạng xã hội và sự “suy
thoái” trong văn hóa nhận thức đã có tác
động rất lớn đến sự hình thành ý thức và
nhân cách của học sinh THCS. Thực trạng
này sẽ hình thành nên một thế hệ trẻ sống
thực dụng, đề cao quyền lợi cá nhân mà
quên đi quyền lợi chung của đất nước, của
dâ tộc. Do đó, để học sinh THCS có sự
phát triển lành mạnh về đời sông tình cảm,
nhà trường cần chú ý tổ chức tốt hoạt động
học, hoạt động giao tiếp, đặc biệt là các
hoạt động tập thể và trong các nhóm bạn
bè. Việc xây dựng trường học theo tiêu
chuẩn quốc gia, xây dựng cơ quan văn hoá,
gia đình văn hoá, làng xã (tổ dân phố,
phường) văn hoá là tạo những môi trường
thuận lợi cho việc giáo dục, hình thành
nhân cách nói chung, tình cảm nói riêng
cho học sinh [3, tr.49] THCS.
Thứ năm, Quận 1 mang những đặc
trưng riêng về thành phần, tư tưởng nhận
thức của học sinh. Quận 1 cũng có một hệ
thống giáo dục hoàn chỉnh từ mẫu giáo đến
đại học, sau đại học. Trong đó, Quận có 09
trường Trung học cơ sở công lập với chất
lượng tốt là: Nguyễn Du, Minh Ðức, Ðức
Trí, Võ Trường Toản, Trần Văn Ơn, Văn
Lang, Huỳnh Khương Ninh, Ðồng Khởi,
Chu Văn An và hệ thống các trường Quốc
tế, dân lập, tư thục đang đóng trên địa bàn
như Quốc tế Á Châu, Việt Úc, Việt Mỹ
Sự tồn tại đa dạng các loại trường trung
học cơ sở trên địa bàn làm cho thành phần
học sinh ở đây cũng rất đa dạng. Lực lượng
học sinh THCS chủ yếu là con em người
dân có hộ khẩu thường trú tại Quận 1, tuy
nhiên, quận vẫn có một lực lượng khá đông
học sinh từ các nơi khác, địa phương khác
chuyển về học tập tại các trường quốc tế,
dân lập, tư thục. Do đó, việc quản lý được
số lượng học sinh THCS cũng khá khó
khăn. Đặc biệt, việc quản lý đối với văn
hóa học đường của học sinh trên địa bàn là
một thách thức đối với các cơ quan chức
năng. Đặc biệt, học sinh THCS là lứa tuổi
chịu rất nhiều ảnh hưởng, tác động từ bên
ngoài đối với quá trình hình thành, phát
triển và hoàn thiện nhân cách của mình.
Trong đó, chúng ta phải có những giải
pháp hợp lý để quản lý việc khai thác mạng
xã hội một cách có văn hóa cho học sinh là
việc làm cần thực hiện ngay.
3. Những giải pháp xây dựng
văn hóa sử dụng mạng xã hội cho
học sinh Trung học cơ sở ở Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh
Trước hết, Phòng Giáo dục & Đào tạo
Quận 1 và Sở Giáo dục & Đào tạo Thành
phố Hồ Chí Minh phải phối hợp với các
trường Trung học cơ sở đóng trên địa bàn
để xây dựng chương trình về văn hóa sử
dụng mạng xã hội cho học sinh. Trong đó,
chúng ta cần đẩy mạnh việc quản lý thông
tin nhằm phát huy tính tích cực, ngăn chặn
và đẩy lùi những hệ lụy tiêu cực từ sự tương
tác giữa các cá nhân, tổ chức thông qua
Internet tạo ra. Lãnh đạo Thành phố và Hiệu
trưởng các trường phải có chương trình làm
việc để đề xuất và ban hành các cơ chế
chính sách đặc thù nhằm khuyến khích phát
triển một số dịch vụ Internet quan trọng để
thu hút sự quan tâm của học sinh. Chúng ta
cần có chiến lược tập trung phát triển các
dịch vụ mạng xã hội, công cụ tìm kiếm và
các dịch vụ giải trí trực tuyến trên mạng xã
hội nhằm vào mục đích phát triển nhận thức
và khả năng tư duy của học sinh.
ĐINH HUYỀN TRANG
171
Thứ hai, đối với mức độ quản lý của
Nhà trường Trung học cơ sở. Lãnh đạo các
trường trên địa bàn Quận 1 cần có sự tham
mưu, chỉ đạo từ cấp trên để xây dựng được
các yếu tố quan trọng là:
1- Lãnh đạo nhà trường phải xây dựng
đội ngũ giáo viên chuyên trách về văn hóa
mạng và khai thác mạng xã hội cho trường
của mình. Lãnh đạo Nhà trường cần có
những tiêu chí, quy định cụ thể về chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của đội ngũ
cán bộ chuyên trách. Điều này hiện đang
gặp rất nhiều khó khăn vì kinh phí hoạt
động của nhà trường chưa đủ sức để thành
lập và duy trì đội ngũ cán bộ này. Ngoài ra,
số lượng giáo viên có trình độ chuyên môn
để có thể phụ trách công tác quản lý văn
hóa mạng cũng không có đủ để thực hiện.
Vì vậy, Nhà trường rất cần sự hỗ trợ về
nhân lực từ những cơ quan quản lý cấp trên
như Phòng giáo dục và Sở giáo dục.
2- Nhà trường cùng với đội ngũ
chuyên trách xây dựng được khung chương
trình văn hóa mạng cho cơ sở của mình.
Trong đó, chúng ta phải đảm bảo được các
tiêu chí về: Nội dung các trang mạng xã
hội cần được khai thác phục vụ học tập của
học sinh; Bố trí thời gian, địa điểm, mức
độ truy cập Internet một cách phù hợp đối
với mỗi học sinh đang theo học tại trường;
Ngôn ngữ sử dụng trên mạng xã hội phải
trong sáng, rõ ràng, mạch lạc khi tương tác
với các chủ thể khác thông qua Internet nói
chung, mạng xã hội nói riêng. Có như thế,
việc khai thác sử dụng mạng xã hội sẽ hiệu
quả và tránh được những nội dung xấu, tác
dụng ngược đối với quá trình đào tạo học
sinh tại trường.
3- Nhà trường phải có kế hoạch cụ
thể, chi tiết về các hoạt động khai thác
mạng xã hội phục vụ cho học tập của học
sinh. Theo chúng tôi, Nhà trường cần quy
định cụ thể việc khai thác, vận dụng mạng
xã hội cho học sinh tại cơ sở mình. Lãnh
đạo trường phải có những văn bản chỉ đạo,
hướng dẫn giáo viên và học sinh trong việc
khai thác một cách có văn hóa đối với
những trang mạng xã hội. Nhà trường cần
bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, bảo đảm môi trường pháp
lý rõ ràng, công khai, minh bạch và bình
đẳng cho mọi người khi thác thác, sử dụng
mạng xã hội. Đặc biệt, phải có hình thức
khen thưởng và xử phạt nghiêm minh đối
với tất cả những người sử dụng mạng xã
hội tại trường.
4- Nhà trường cũng phải tăng cường
các biện pháp kỹ thuật trong việc quản lý
văn hóa sử dụng mạng xã hội. Trong bối
cảnh Việt Nam chưa xây dựng được một hệ
thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh, đủ
mạnh để điều chỉnh những hành vi thiếu
văn hóa trên mạng xã hội. Nhà nước cũng
chưa xây dựng được quy chuẩn văn hóa và
đạo đức trong hoạt động sử dụng các trang
mạng xã hội thì việc Nhà trường phải tăng
cường các biện pháp kỹ thuật là điều cần
thiết. Nhà trường cần nâng cấp hệ thống
máy tính tại nhà trường, phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan liên quan và trung tâm an
ninh mạng, với các nhà cung cấp dịch vụ
như Google, Yahoo, các công ty, tổ chức
trong nước... để xây dựng nên những phần
mềm nhằm lọc các thông tin xấu, nhạy cảm
như văn hóa đồi trụy, tin nhảm của các thế
lực chống phá thù địch trong và ngoài
nước, ngăn chặn những thông tin độc hại từ
bên ngoài. Trước mắt, đây là giải pháp
mang tính khả thi nhất đối với lãnh đạo các
trường trung học cơ sở trên địa bàn Quận 1
hiện nay.
Thứ ba, đối với giáo viên tại các
GIÁO DỤC VĂN HÓA MẠNG XÃ H I CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở QUẬN 1
172
trường Trung học cơ sở. Giáo viên phải
cùng với nhà trường thực hiện các mục
tiêu, kế hoạch của nhà trường về văn hóa
sử dụng mạng xã hội. Để tăng cường phát
triển năng lực cá nhân cho học sinh, giáo
viên phải chú trọng đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, định hướng nhằm nâng cao
nhận thức cho người sử dụng mạng xã hội.
Quan trọng hơn, giáo viên cùng nhà trường
nâng cao năng lực xã hội cho học sinh.
Năng lực xã hội giúp cho học sinh biết
được mình là ai, mình có mối quan hệ như
thế nào với cộng đồng, với bạn bè và với
cả xã hội. Đây là một chương trình cụ thể
cần áp dụng trong các trường học để xây
dựng ý thức cá nhân cho học sinh. Giáo
viên phối hợp với Nhà trường trong việc
lồng ghép nội dung giảng dạy qua mạng xã
hội vào đánh giá năng lực nhận thức của
học sinh. Đây là một biện pháp rất cần thiết
để định hướng việc khai thác các trang
mạng xã hội cho học sinh.
Thứ tư, đối với phụ huynh và học sinh.
Công tác quản lý của nhà trường cũng cần
được thể hiện rõ nét thông qua việc vận
động, tuyên truyền cho phụ huynh và học
sinh những trang mạng cần thiết để phục
vụ học tập của học sinh. Quan trọng hơn,
nhà trường cần có những buổi trao đổi,
chia sẻ với phụ huynh, học sinh về những
mặt tiêu cực của việc khái thác, sử dụng
mạng xã hội không đúng cách, thiếu văn
hóa. Hiện nay, thực trạng nhiều thông tin
trên mạng xã hội hàm chứa nội dung xấu
độc, dụ dỗ, lôi kéo người tham gia như:
phim ảnh khiêu dâm, lối sống trụy lạc, kích
động bạo lực, khiêu khích chiến tranh, chia
rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo, đang diễn
ra rất phức tạp. Do đó, Nhà trường phải
tăng cường chức năng giám sát và tuyên
truyền đến phụ huynh, học sinh những nội
dung không đúng, không cần thiết cho quá
trình học tập của các em.
Nhà trường và giáo viên phải hướng
dẫn, tư vấn cho phụ huynh, học sinh những
kiến thức, kỹ năng sử dụng các trang mạng
xã hội. Chúng ta phải giúp cho họ thấy
được tính hai mặt của mạng xã hội, đặc
biệt là những hậu quả, hệ lụy của việc sử
dụng mạng xã hội một cách tùy tiện, thái
quá. Đặc biệt, Nhà trường và giáo viên cần
chỉ dẫn cho học sinh biết cách ứng xử và
khả năng miễn dịch khi tiếp xúc với những
thông tin xấu độc, mời gọi, khiêu khích,
phản động, trên các trang mạng xã hội.
Đồng thời, chúng ta cũng cần giáo dục
nâng cao ý thức, trách nhiệm xã hội cho
học sinh, giúp các em biết làm chủ và kiểm
soát được các hành vi của bản thân khi sử
dụng mạng xã hội.
4. Kết luận
Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh mang
nhiều đặc điểm riêng như sự phát triển
nhanh chóng của hệ thống công nghệ thông
tin, mạng xã hội; số lượng học sinh THCS
của quận cũng tăng nhanh về số lượng, đa
dạng về thành phần và phong phú trong
nhận thức. Do đó,việc quản lý khai thác
mạng xã hội của học THCS đang gặp rất
nhiều khó khăn. Nếu quản lý không tốt,
không hiệu quả thì sẽ gây ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho sự hình thành nhân cách
của học sinh và cho cả xã hội. Vì thế,
chúng ta cần xúc tiến thực hiện nhiều giải
pháp để xây dựng và phát huy văn hóa sử
dụng mạng xã hội cho học sinh.
Để văn hóa sử dụng mạng xã hội được
đi vào thực tiễn cuộc sống của học sinh
trung học cơ sở, chúng ta rất cần sự quan
tâm, nỗ lực của chính quyền địa phương,
Phòng Giáo dục và Sở Giáo dục & Đào tạo
TP. HCM. Bên cạnh đó, vai trò quản lý,
ĐINH HUYỀN TRANG
173
điều tiết của Nhà trường cùng việc giáo
dục nâng cao ý thức cho học sinh của giáo
viên, phụ huynh cũng là những nhân tố
không thể thiếu. Nếu có sự đồng thuận
giữa Gia đình – Nhà trường – Nhà nước thì
trong tương lai, văn hóa sử dụng mạng xã
hội của học sinh THCS trên địa bàn Quận 1
sẽ được thực hiện tốt hơn và hiệu quả hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1994), Hán - Việt từ điển, Nxb
TP.HCM.
2. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015
và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội 5 năm 2016 – 2020, nguồn:
lieu-ve-dang/sach-chinh-tri/books-
4331201610454246/index-
33312016104606465.html.
3. Nguyễn Kế Hào (cb, 2003), Giáo trình Tâm lý
học lứa tuổi và Tâm lý học Sư phạm, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị
Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011.
5. Nguyễn Duy Hạnh, Đinh Thị Thu Nga
(1/3/2017), Văn hóa mạng ở Việt Nam, thực
trạng và giải pháp quản lý, nguồn:
tien/item/1865-van-hoa-mang-o-viet-nam-
thuc-trang-va-giai-phap-quan-ly.html.
6. Nghị định Số 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 07
năm 2013 của Chính phủ về Quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.
7. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI Đảng cộng sản Việt Nam, nguồn:
inhphu/NuocCHXHCN
VietNam/ThongTinTongHop/noidungvankien
daihoidang?categoryId=10000716&articleId=
10038365.
8. UNESCO 1989, Tạp chí Người đưa tin
UNESCO, số 11-1989.
9. UNESCO Universal Declaration on Cultural
Diversity, source:
unversal_decla.shtml.
10. Trần Quốc Vượng (cb, 2005), Cơ sở văn hóa
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 18/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
174
Bàn thêm về nhân vật Trịnh Duy Sản trong kịch
Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng
Further discussion about Trinh Duy San in the play
Vu Nhu To written by Nguyen Huy Tuong
Nguyễn Thị Hồng,
Trường THPT Đồng Xoài, Bình Phước
Nguyen Thi Hong,
Dong Xoai High School, Binh Phuoc Province
Tóm tắt
Bài viết tập trung làm rõ nhân vật Trịnh Duy Sản trong vở kịch Vũ Như Tô của tác giả Nguyễn Huy
Tưởng. Qua sự đối sánh giữa cốt lõi lịch sử về nhân vật và biểu hiện nhân vật trong kịch Vũ Như Tô,
người viết chỉ ra chức năng “dự báo” của nhân vật này ở ba khía cạnh: Trịnh Duy Sản “dự báo” trước số
phận nhà Lê và vua Lê Tương Dực; Trịnh Duy Sản “dự báo” trước số phận của Vũ Như Tô; Trịnh Duy
Sản “dự báo” số phận của Cửu Trùng Đài. Mặt khác, bài viết cũng thể hiện những quan điểm tiếp cận
mới về nhân vật Trịnh Duy Sản.
Từ khóa: nhân vật kịch, kịch Vũ Như Tô, Trịnh Duy Sản, kịch Nguyễn Huy Tưởng.
Abstract
The article focuses on clarifying the character of Trinh Duy San in the play Vu Nhu To written by
Nguyen Huy Tuong. By comparing between the historical contexts of the character and character's
expression in the play Vu Nhu To, the writer pointed out the character's prediction function in three
aspects: Trinh Duy San "predicted" the fate of Le Dynasty and the King Le Tuong Duc; Trinh Duy San
"predicted" the fate of Vu Nhu To; Trinh Duy San "predicted" the fate of Cuu Trung Dai. On the other
hand, the article also presents new views on the character of Trinh Duy San.
Keywords: drama character, play Vu Nhu To, Trinh Duy San, Nguyen Huy Tuong drama.
1. Mở đầu
Kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy
Tưởng đăng trên tạp chí Tri Tân từ
18/11/1943 đến 20/4/1944, nhưng nó được
hoàn thành từ “mùa hạ năm 1941”. Khoảng
một năm sau, Nguyễn Huy Tưởng bổ sung
những dòng Đề tựa (8/6/1942). Nội dung
tác phẩm nói về một sự kiện lịch sử xảy ra
ở Thăng Long khoảng năm 1516-1517.
Vua Lê Tương Dực vì muốn phục vụ mục
đích vui chơi hưởng thụ đã cho tuy tìm thợ
giỏi xây dựng Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô
vốn là một kiến trúc sư có tài, ban đầu khi
bị vua Lê Tương Dực bắt xây Cửu Trùng
Đài Vũ Như Tô kiên quyết từ chối. Nhưng
sau nghe lời khuyên của cung nữ Đan
Thiềm nên trổ tài xây một lâu đài vĩ đại
làm niềm hãnh diện cho dân tộc. Công
trình đòi hỏi tiêu tốn rất nhiều mồ hôi,
xương máu và tài sản nên nhân dân vô
cùng phẫn nộ. Quận công Trịnh Duy Sản
dấy binh, lôi kéo thợ thuyền giết vua Lê
NGUYỄN THỊ HỒNG
175
Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và
cho An hòa hầu thiêu hủy Cửu Trùng Đài.
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả
muốn đặt ra những vấn đề gay gắt muôn
thuở về lý tưởng nghệ thuật cao siêu và
vĩnh cửu với những lợi ích thiết thực của
đời sống nhân dân.
Vũ Như Tô có 5 hồi, với hệ thống kịch
tính chặt chẽ, sinh động. Từ cốt lõi lịch sử,
được khúc xạ qua ngòi bút của Nguyễn
Huy Tưởng mỗi nhân vật có một vai trò thể
hiện hành động, bộc lộ xung đột và truyền
tải tư tưởng của nhà văn. Các nhà phê bình
nhiều năm nay rất chú ý đến cặp nhân vật
đặc biệt Vũ Như Tô – Đan Thiềm, một cặp
nhân vật đẹp, một sự hòa quyện hiếm hoi
trong lịch sử văn học nói chung và kịch bản
văn học nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh Vũ
Như Tô – Đan Thiềm, Lê Tương Dực, Kim
Phượng, Nguyễn Vũ, Thị Nhiên... trong vở
kịch này còn có một nhân vật một mình
một xu hướng - theo chúng tôi, đó là Trịnh
Duy Sản. Cũng như các nhân vật khác,
Trịnh Duy Sản được nhiều nhà nghiên cứu
nhìn nhận trong mối quan hệ với lịch sử, sự
thật lịch sử chi phối đến tâm lí tiếp nhận
Trịnh Duy Sản. Trong bài viết này, chúng
tôi thể hiện những kiến giải cá nhân về
nhân vật Trịnh Duy Sản- với tư cách là
nhân vật văn học qua khảo sát văn bản kịch
Vũ Như Tô nhằm làm rõ ý đồ nghệ thuật
của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
2. Nội dung
2.1. Trịnh Duy Sản qua ghi chép của
lịch sử
Trịnh Duy Sản là một nhân vật có thật
trong lịch sử, được nhiều nhà nghiên cứu
ghi chép và đánh giá trong các tài liệu sử
học: Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi:
Trịnh Duy Sản là tướng cuối thời Lê sơ
trong lịch sử Việt Nam, người làng Thủy
Chú, xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân,
Thanh Hoá. Trịnh Duy Sản là cháu nội
Bình Ngô khai quốc công thần, Thái úy an
quốc công Trịnh Khắc Phục là ngoại thích
của Lê Thái Tổ. Ông tham gia chính sự
triều Lê từ khi Lê Tương Dực chưa lên
ngôi [13]. Sách Đại Việt thông sử chép:
Năm Hồng Thuận thứ hai (1510), Trịnh
Duy Sản đứng về phe vua Tương Dực
trong cuộc chính biến lật đổ vua Lê Uy
Mục, được phong tước Mỹ Huệ hầu. Năm
1511, nông dân khắp nơi nổi dậy khởi
nghĩa, lớn nhất là khởi nghĩa Trần Tuân ở
Sơn Tây. Vua Tương Dực sai Duy Sản
mang quân đi đánh Trần Tuân. Lập được
công đầu, Trịnh Duy Sản được phong làm
Nguyên quận công, giao coi vệ Cẩm y.
Năm 1512, Lê Hy và Lê Minh Triệt khởi
nghĩa ở Nghệ An. Trần Nghi đi đánh bị tử
trận. Vua Tương Dực lại sai ông cầm quân
đi đánh, dẹp được cánh quân khởi nghĩa
này. Năm 1515, Phùng Cương khởi nghĩa
ở núi Tam Đảo, Duy Sản lại nhận lệnh đi
đánh và dẹp được [23].
Buổi đầu lên ngôi, Lê Tương Dực ban
hành giáo hóa, thận trọng hình phạt. Về
sau, vua chuyên làm điều thất đức. Trịnh
Duy Sản nhiều lần can gián nhưng trái với
ý nhà vua, bị phạt trượng. Tương Dực ngày
một ăn chơi trụy lạc, gian dâm với cung
nhân thời trước (sử sách gọi Lê Tương Dực
là “vua lợn”), giết hại 15 vương công, cho
xây Cửu Trùng đài hoang phí... nhân dân
cực khổ trăm bề, triều chính lục đục, các
thế lưc phong kiến địa phương nổi loạn...
những hành động của Lê Tương Dực làm
cho nhà Lê suy vong, tạo điều kiện cho
Mạc Đăng Dung cướp ngôi sau này. Can
gián vua nhiều lần không được, Trịnh Duy
Sản cùng thái sư Lê Quảng Độ, Thượng thư
Trình Chí Sâm giết Lê Tương Dực. Sự việc
giết vua của Trịnh Duy Sản được sách
Khâm định Việt sử thông giám cương
BÀN THÊM VỀ NHÂN VẬT TRỊNH DUY SẢN TRONG KỊCH VŨ NHƯ TÔ CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG
176
mục ghi lại như sau: "Trịnh Duy Sản
thường hay can ngăn làm trái ý Vua, bị Vua
tức giận, sai lấy gậy đánh. Duy Sản bèn
cùng Lê Quảng Độ, Trình Chí Sâm mưu
phế lập. Họ chuẩn bị binh thuyền khí giới
rồi hội họp ở bến Thái Cực (gần phố Hàng
Đào, Hà Nội ngày nay) nói phao là đem
quân đi đánh giặc. Nhân đêm tối, họ đem
quân Kim Ngô hộ vệ hơn ba ngàn người,
tiến vào cửa Bắc Thần phóng lửa đốt. Khi
thấy lửa cháy, Vua ngờ là có giặc kéo đến,
bèn lẻn ra cửa Bảo Khánh để trốn... Tới tờ
mờ sáng, lúc băng qua cửa Thái Học để đến
hồ Chu Tước ở phường Bích Câu (nay là
khu vực đường Bích Câu, Hà Nội) thì gặp
Duy Sản. Nhà vua hỏi là giặc ở đâu, Duy
Sản không trả lời mà quay mặt đi nơi khác
rồi cười ầm lên. Vua quay ngựa chạy về
phía tây, Duy Sản sai võ sĩ tên là Hạnh đâm
Vua ngã ngựa rồi giết đi" [23].
Việc xây dựng Cửu trùng đài cũng vốn
có cốt lõi lịch sử, được ghi trong Việt sử
thông giám cương mục của Quốc sử quán
triều Nguyễn thế kỉ XIX:
“Khởi công xây dựng đại điện và Cửu
trùng đài. Trước đây, Vũ Như Tô, một
người thợ ở Cẩm Giàng, xếp cây mía làm
thành kiểu mẫu cung điện lớn trăm nóc,
dâng lên nhà vua, nhà vua bằng lòng
phong cho Vũ Như Tô làm đô đốc đứng
trông nom việc dựng hơn trăm nóc cung
điện lớn có gác, lại khởi công làm Cửu
Trùng đài... nhà vua bất thần ngự thuyền
Thiên quang đi chơi xem suốt ngày đêm...,
thấy người nào làm vừa ý thì thưởng cho
thẻ bài vàng hoặc bạc. Duy Sản vì thường
can ngăn, làm trái ý vua, nhà vua tức giận,
sai đánh bằng trượng” [23].
Như vậy, qua tư liệu lịch sử, các nhà
sử học có cái nhìn khá thống nhất: Trịnh
Duy Sản là kẻ cứng đầu, chống vua, phản
nghịch, thậm chí sách Đại Việt thông sử
liệt Trịnh Duy Sản vào "Nghịch thần
truyện", có thể coi là người khởi đầu cho
mối đại loạn thời Lê sơ. Trước khi Duy
Sản giết vua Tương Dực, triều đình chỉ
phải đối phó với các cuộc khởi nghĩa bên
ngoài, việc thí nghịch chỉ diễn ra giữa
những người trong hoàng tộc. Sau hành
động giết vua của Duy Sản, từ thời Lê
Chiêu Tông, thiên hạ thực sự đại loạn, các
đại thần mỗi người một bụng, chia bè cánh
đánh giết lẫn nhau và các hoàng đế trở
thành những con rối trong tay họ. Hành
động của Duy Sản đã mở đầu cho những
việc "lấn vua", "khinh vua" không bị ngăn
chặn dưới thời Lê sơ - vốn ít xảy ra và
không kéo dài như dưới thời các vua anh
minh của trước đây - của các quan văn võ
sau đó.
2.2. Trịnh Duy Sản – nhân vật trong
kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng
Trong kịch Vũ Như Tô, Trịnh Duy Sản
là Quận công 60 tuổi, là bậc đại thần được
vua Lê Tương Dực tin tưởng giao phó việc
quốc quân, cũng là một quan cầm quyền có
uy tín, có tiếng nói trong triều đình. Sau
khi can gián việc xây dựng Cửu trùng đài
không thành công đã giết vua Lê Tương
Dực, bắt Vũ Như Tô và cho đốt phá đài
Cửu trùng. Điều đáng nói ở đây là từ quan
điểm của lịch sử như đã nói ở phần trên, đã
chi phối mạnh mẽ đến cách đánh giá, tiếp
nhận của độc giả, các nhà nghiên cứu về
nhân vật Trịnh Duy Sản.
Trong bài viết Kịch Nguyễn Huy
Tưởng, G.S Phan Cự Đệ cho rằng những kẻ
giết vua, giết Vũ Như Tô và Đan Thiềm là
“nông nổi, mù quáng” [3]; Tác giả Đỗ Đức
Hiểu đã gọi hành động của Trịnh Duy Sản
là “gian thần” [8]; tác giả Đặng Hiền trên
Nghiên cứu văn học số 5-2004 chỉ rõ cũng
cho rằng, Trịnh Duy Sản là “phản loạn” [7].
Hầu hết các bài viết đều đánh giá nhân vật
NGUYỄN THỊ HỒNG
177
Trịnh Duy Sản qua kết cục giết vua, tạo nên
sự tan vỡ và bi kịch cho tác phẩm. Duy chỉ
có nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư đưa quan
điểm khá toàn diện: “Trịnh Duy Sản trong
kịch bản là một quan võ thô bạo và hủ nho,
nhưng can đảm, chính trực, lo lắng cho lợi
ích của nước của dân” [2]. Trong quá trình
khảo sát lại văn bản kịch, chúng tôi đã cố
gắng tìm tòi hướng tiếp cận mới và có
những nhận định riêng về nhân vật Trịnh
Duy Sản nhằm làm rõ chức năng của nhân
vật này với ý đồ nghệ thuật của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng.
Mặc dù là nhân vật phụ, xuất hiện
không nhiều trong các lớp kịch, song mỗi
lần có lời thoại của Trịnh Duy Sản thì
dường như vở kịch rung động, người đọc
như bừng tỉnh trước những lập cứ sắc sảo,
quyết liệt mà quận công Sản đưa ra. Có thể
nói, nếu cả tấn bi kịch Vũ Như Tô là bi kịch
của những kẻ “say” thì Trịnh Duy Sản là
người ngay từ đầu đến khi kết thúc kịch
luôn luôn “tỉnh”, một chuỗi hành động kịch
được Nguyễn Huy Tưởng đầu tư cho nhân
vật này theo cấp độ tăng tiến để khắc họa
sợi chỉ đỏ lập trường của Quận công,
chúng ta có thể sơ đồ hóa chuỗi hành động
kịch này như sau:
Chuỗi hành động kịch ngày càng tàn
bạo và quyết liệt, trong suốt mỗi lớp xuất
hiện Trịnh Duy Sản không một lần nào
được Nguyễn Huy Tưởng khắc họa nội
tâm, lời thoại không hề thể hiện sự hoài
nghi hay dằn vặt. Có thể thấy rõ tính “kích
động xung đột” và “gỡ nút, hạ màn” của
nhân vật này. Đánh giá nhân vật này, vì thế
cần đặt trong logic chuỗi hành động kịch.
Chính suy nghĩ tỉnh táo, những hành
động nhất quán cho nên chúng ta có thể
xem vai trò của Trịnh Duy Sản trong vở
kịch là vai trò “dự báo”, cảnh tỉnh các nhân
vật khác. Tính chất “dự báo” này được nhà
nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu chỉ ra trong bài
Bi kịch Vũ Như Tô , ông viết “mộng lớn tan
tành, Đan Thiềm chết, Cửu trùng đài sụp
đổ, tất cả đã được báo hiệu từ hồi hai – lớp
3, khi xuất hiện Trịnh Duy Sản”. Tuy
nhiên, gắn tính chất “dự báo” này người
phát ngôn “dự báo” là Trịnh Duy Sản, để
từ đó nhìn nhận vai trò và tính cách nhân
BÀN THÊM VỀ NHÂN VẬT TRỊNH DUY SẢN TRONG KỊCH VŨ NHƯ TÔ CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG
178
vật này một cách độc lập thì chưa có nhà
phê bình nào đề cập đến.
Kiểu nhân vật “dự báo” là nhân vật
phụ. Trong văn học dân gian tiếng nói “dự
báo” thường gắn với một yếu tố kì ảo (một
giấc mơ, ông Bụt, rùa Vàng...), “dự báo”
trước số phận của nhân vật chính, thậm chí
là người thực thi nhân – quả, tạo ra kết thúc
cho tác phẩm. Ở phương Tây, chi tiết “dự
báo” còn gọi là tiên tri. Lời tiên tri thường
được sử dụng làm phương tiện xây dựng
cốt truyện, sự việc trong tác phẩm được dự
đoán sẽ xảy ra và thường dược ngăn chặn
bởi một nhà tiên tri (ví dụ trong thần thoại
Hy Lạp: Oedipus được cảnh báo sẽ có ngày
con trai giết ông ta, hoặc trong kịch của
Shakespeare: ba mụ phù thủy tiên tri
Macbeth sẽ trở thành vua...).
Trong kịch Vũ Như Tô, theo chuỗi
hành động cắt ngang chúng ta có thể thấy
rõ nhân vật Trịnh Duy Sản thể hiện vai trò
“dự báo” ở ba sự việc chính.
1.2.1. Trịnh Duy Sản “dự báo” trước
số phận nhà Lê và vua Lê Tương Dực
Việc “dự báo” sự sụp đổ của một
vương triều qua lời thoại của Trịnh Duy
Sản rất cụ thể, chi tiết, tỉ mỉ và thuyết phục.
Hai lần xuất hiện trực tiếp là hai lần Quận
công Sản phân tích tình thế nguy ngập của
nhà Lê. Ban đầu, trong cuộc đối thoại với
Đông các đại học sĩ Nguyễn Vũ ở hồi thứ
hai- lớp 3, Trịnh Duy Sản chỉ ra thực trạng
dân chúng từ khi Lê Tương Dực lên ngôi:
- Chứ lại không ư? Cụ lớn thử nghĩ
xem từ ngày Hoàng thượng lên ngôi, không
nghĩ gì đến quốc chính, chỉ ăn tiêu xa xỉ,
ngân khố hao mòn. Nay lại vẽ ra việc xây
Cửu trùng đài, tiền tiêu tính ra tốn hơn là
đánh Chiêm Thành. Tiền lấy đâu ra? Lấy ở
dân mà dân thì cụ lớn đã biết đấy. Mười
năm nay, không mấy năm không mất mùa,
đói kém quá thể, có nơi cả làng phải đi ăn
mày, đường cái đầy xác chết. Tình cảnh
như thế mà lại tăng sưu thuế, họ đóng góp
làm sao?.
- Lại còn việc lấy phu nữa, bắt lính
cũng không nghiệt bằng [21].
Nguyễn Vũ mặc dù nghe xong rất thờ
ơ và gian mãnh giả lả, do vậy Sớ tâu bày
đã bị hắn xé nát, nhưng những dẫn chứng
cụ thể về đời sống lầm than của dân chúng
đã thực sự cảnh tỉnh về một tương lai tăm
tối của vương triều Lê.
Ngay từ đầu vở kịch, khi vua còn hào
hứng xây đài Cửu trùng, khi Vũ Như Tô
đang ở đỉnh cao của sự trọng dụng, khi thợ
thuyền còn hăm hở đi theo thầy Tô, khi
mọi việc xây đài mới chớm, tại sao Nguyễn
Huy Tưởng lại sắp xếp nhân vật Trịnh Duy
Sản gặp Nguyễn Vũ phân tích tình thế
nước nhà? Phải chăng những lời tường tận
của Quận công Sản chính là một tiếng
chuông cảnh tỉnh, “dự báo” kết thúc đen tối
của triều Lê. Những câu hỏi đặt ra: chứ lại
không ư? Tiền lấy đâu ra? Đóng góp làm
sao?giúp người đọc linh cảm kết thúc của
kịch. Lúc này, tiếng nói của Quận công là
tiếng nói của nhân dân, đứng trên quyền lợi
của nhân dân mà lên tiếng. Vì vậy, nếu
không có lời thoại của Sản lúc này, chắc
hẳn cả hệ thống nhân vật và cả người đọc
kịch cũng đang “say” trong mơ tưởng về
một Đài cửu trùng cho nghìn thu.
Tại hồi thứ ba – lớp 8, Trịnh Duy Sản
một mực trực tiếp xin bệ kiến vua Lê
Tương Dực, ban đầu lời lẽ ôn hòa, kiên
nhẫn khuyên bảo nhà vua, song vẫn khẳng
định “thiên hạ sắp loạn”: Hoàng thượng
làm vua một nước phải để ý đến mọi việc,
phó thác làm sao cho triều đình được.
Hoàng thượng không nên quá tin ở các
quan. Họ nói rằng thiên hạ thái bình, thực
ra phải nói: thiên hạ sắp loạn [21].
Vua của một nước mà thiên hạ tắc loạn
nghĩa là việc lớn đáng lo. Vậy nhưng Lê
Tương Dực vẫn điềm nhiên như không,
NGUYỄN THỊ HỒNG
179
buông lời thờ ơ: “hà cớ gì?”. Chi tiết này
làm chúng ta liên tưởng đến không gian
truyền thuyết đời An Dương Vương, khi An
Dương Vương mải mê đánh cờ, giặc đến
trước chân thành vẫn ỷ lại có nỏ thần, để rồi
sau đó quân Triệu Đà dễ dàng chiến thắng.
Bi kịch mất nước của An Dương Vương chỉ
thật sự “vỡ” ra khi Rùa vàng chỉ rõ: “giặc
sau lưng ngươi đó”. Rùa Vàng cũng được
xem là nhân vật “dự báo”, nói tiếng nói của
nhân dân, xuất hiện ngay khi kịch tính lên
đến cao trào, gỡ mối mê muội cho nhân vật
chính. Thì ở đây, khi Trịnh Duy Sản nhấn
mạnh tình thế cấp bách của triều đình, cũng
đã thẳng thắn chỉ ra “dâm dật là mầm bại
vong, xa xỉ là nguồn loạn lạc”, bị nhà vua
xua đuổi, Quận công tiếp tục:
- Nói to: hạ thần chỉ lo cho cơ nghiệp
nhà Lê, cho Hoàng thượng, nên mới nói
thật: Loạn đến nơi rồi! [21].
Sự nhẫn nại của Sản có thể đánh giá là
“tận trung”, là rất giàu thiện cảm cho người
đọc, lúc này bản chất nhân vật kịch bộc lộ
rõ: kiên quyết, cương trực thẳng thắn.
Ba lần dùng từ “loạn” để thức tỉnh
vua, Quận công Sản phân tích tình hình nội
thù và ngoại xâm:
- Hoàng thượng không biết rõ. Giặc
giã nổi lên khắp nơi. Đó là một điềm bất
thường. Kinh Bắc thì có Thôn Duy Nhạc,
Ngô Văn Tổng. Đất Sơn Tây thì có Trần
Tuân; Tam Đảo thì có Phùng Chương.
Chúng dấy binh làm loạn, giết cả quan lại
triều đình, hãm hiếp dân đen, đốt phá làng
mạc. Dân gian không được an cư lạc
nghiệp, ruộng nương bỏ hoang, cửu canh
xao nhãng, cực khổ không biết thế nào mà
kể cho hết. Tiếng oán thán nổi lên đầy trời...
- Dẹp bọn này, bọn khác lại nổi như
đầu Phạm Nhan, bệnh nặng phải trừ từ rễ.
Giặc giã nổi lên vì dân gian oán triều đình
chính sự đổ nát [21].
Trong năm hồi kịch, chỉ có những lời
thoại của Trịnh Duy Sản mới chi tiết tình
hình đất nước đến như thế. Đọc lời thoại
của Sản xong, cả một không gian binh biến
mở ra, tâm địa giặc giã rõ mồn một. Phải
một đại thần tận trung, quyết tâm giữ triều
đình cỡ nào mới nói ra những lời tỉ mẩn
vậy. Chính Sản cũng tỏ cái thành ý của
mình không giấu giếm:
- Hoàng thượng nên xét cho lòng
thành thực của hạ thần. Chính sự đổ nát
lắm rồi... [21].
Hai lần dùng từ “loạn”, hai lần nhấn
mạnh “chính sự đổ nát”, Sản không sợ
phạm húy bay đầu hay sao? Thực chất, tâm
thế quyết liệt “dự báo” của Sản được đẩy
lên đến cao trào. Lúc này Trịnh Duy Sản
bất chấp cả tính mạng để vì nước, giữ
vương triều.
Thậm chí trước sự mê muội của vua,
Trịnh Duy Sản thân chinh hạ xin:
- Xin Hoàng thượng mau mau tỉnh
ngộ, tu tỉnh thân mình, xa gái đẹp, đuổi Vũ
Như Tô, học thói thánh hiền, thương dân
như con kẻo họa đến thân.
- Hạ thần xin chết về tay Hoàng
thượng còn hơn là trông thấy ngày nhà Lê
mất nghiệp (quỳ xuống vươn cổ) [21].
Hai nhân vật trong kịch Vũ Như Tô
dám khảng khái xin chết trước mặt vua Lê
Tương Dực, một là Vũ Như Tô khi chàng
chưa đươc Đan Thiềm khuyên bảo để nung
nấu xây đài Cửu trùng, hai là Trịnh Duy
sản lúc này. Hành động của Sản là thành
thực, kiên quyết và đầy chính kiến. Nếu
không có sự van xin của Kim Phượng thì
có lẽ tính mạng Trịnh Duy Sản đã không
giữ được. Kết thúc kịch tính hồi thứ ba –
lớp 8 là lời thở dài xót xa đầy tính “dự báo:
- Thương thay cơ nghiệp nhà Lê
Đúng như vậy, sau này Sản tạo phản.
Nhưng nếu Sản không tạo phản thì cơ
nghiệp nhà Lê tan tành cũng là tất yếu.
Tiếp tục với hành động quyết liệt, tại
BÀN THÊM VỀ NHÂN VẬT TRỊNH DUY SẢN TRONG KỊCH VŨ NHƯ TÔ CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG
180
hồi thứ tư – lớp 5, Trịnh Duy Sản tuyên bố:
- Ta đã quyết hưng binh trừ bạo
chúa, trừ quyền thần, trừ đứa xây đài...
- Bảo Ngô Hạch: hãy dẫn 3000 quan
Kim Ngô ra cửa Bắc. Hễ có hiệu lửa thì
xông vào. Vua thế nào cũng ở đấy chạy ra,
mày đuổi theo cho kì được, giết ngay cho
ta, không sợ nghe chưa? [21].
Chính những chi tiết này làm cho Sản
trở nên tàn bạo, thậm chí là tiểu nhân tạo
phản. Song, nếu xét diễn biến hành động
của Sản từ đầu đến kết thúc kịch thì việc
“hưng binh trừ bạo chúa” là phù hợp và có
tính nhân – quả, giúp vở kịch “mở nút”,
giải quyết xung đột.
Nhân vật Trịnh Duy Sản không chỉ
được Nguyễn Huy Tưởng miêu tả trực tiếp
qua ngôn ngữ, hành động mà ở hồi thứ
năm – lớp 3 và hồi thứ năm – lớp 4 còn
hiện lên gián tiếp qua lời kể của những
nhân vật khác.
Hồi thứ năm – lớp 3:
Trung Mại: - bẩm cụ lớn. Trịnh Duy
Sản mưu với lũ Lê Quảng Đô, Trịnh Tri
Sâm lập vua khác...
Trung Mại: - Trịnh Duy Sản sắm sửa
thuyền bè khí giới, họp ở bến đò Thái Cực,
nó reo lên là đi đánh Trần Cao, rồi đương
đêm đem 3000 quân Kim ngô hộ vệ vào
cửa Bắc thần đốt lửa cho sáng... Hoàng
thượng trông thấy lửa sáng hốt hoảng
tưởng là giặc ập đến vội lên ngựa lẻn ra
cửa Bảo Khánh, trời thì tối mà cứ lao mình
đi không đèn đuốc gì cả. Khi ngài qua cửa
Thái học đến ao Chu tước ở phường Bích
Câu thì vừa gặp Duy Sản...
- ngài hỏi nó: Giặc ở đâu? Nó không
đáp, ngoảnh mặt đi cười nhạt. Ngài quất
ngựa về phía Tây, nó sai võ sĩ tên là Hạch
đuổi theo, đâm vua ngã ngựa rồi giết chết
[21].
Hồi thứ năm – lớp 4:
Tên nội giám: - Trịnh Duy Sản giết
Thiên tử, hội triều đình lập con Mục Y
vương là Quang Trí lên ngôi [21].
Duy Sản đến hồi cuối không trực tiếp
xuất hiện nữa, vai trò “dự báo” của nhân
vật đã hết, dường như kết thúc đổ nát của
vương triều, bi kịch của vua không chỉ bởi
Duy Sản. Mà nếu bởi Duy Sản thì chỉ là sự
tiếp nối chuỗi hành động “dự báo” ban đầu,
con văng vẳng lời cay đắng của Duy Sản:
“thương thay cơ nghiệp nhà Lê”. Nhờ câu
độc thoại ấy, mà thấy đó là kết thúc phải
có, không hề bất ngờ cho người đọc.
1.2.2. Trịnh Duy Sản “dự báo” trước
số phận của Vũ Như Tô
Với Vũ Như Tô, Trịnh Duy Sản khinh
miệt ra mặt. Nếu nhà vua lợi dụng Vũ Như
Tô để xây dựng Cửu trùng đài, thợ thuyền
ban đầu khuất phục Tô, Đan Thiềm say mê
cái tài của Tô, thì ngay từ đầu trong mắt
của Quận công Sản, Vũ Như Tô đã không
có một tí giá trị nào, thậm chí qua lời trình
bày Quận công đã thấy rõ bi kịch mà Tô sẽ
gây ra cho dân cho nước và cả bi kịch của
chính bản thân Vũ Như Tô.
Tại hồi thứ hai – lớp 3, trong cuộc nói
chuyện với Nguyễn Vũ, vừa nghe tiếng Vũ
Như Tô, Trịnh Duy Sản đã mắng:
- Câm mồm tên kia. Mi là một tên thợ
quèn, một đứa bạch đinh, bước ngay không
được nói leo vào chuyện các quan đại
thần. Ai cho mi vào đây?
Hàng loạt danh từ, đại từ xưng hô miệt
thị được Trịnh Duy Sản sử dụng để gọi Vũ
Như Tô: tên kia, mi, cùng đinh vô lại, bạch
đinh, thợ quèn, tiểu nhân đắc chí, lũ, thằng
này... hoặc các hành động quát, tuốt kiếm
định chém Vũ Như Tô...
- Im ngay! Đời thuở bao giờ nơi tôn
nghiêm, thềm son gác tía mà lại để làm nơi
tụ tập cho một lũ cùng đinh vô lại kia chứ.
- à, thằng này giỏi. Những quân tiểu
nhân đắc chí không trị không xong. Ta đã
làm ngơ co mi mà mi không biết phận?
NGUYỄN THỊ HỒNG
181
Giết mi thì Cửu trùng đài cũng hết.
- Hừ! Tôn một tên thợ lên đến bậc thầy
thì còn gì là thể thống nữa.
- Nhưng cụ lớn là quan, nó chỉ là thợ,
mà thợ thì bao giờ cũng phải coi là hèn [21].
Vũ Như Tô một thợ tài – điều này đã
được dân chúng đồn đại từ lâu, được tiến
cử, được vua nhún nhường cậy việc, được
Đan Thiềm ngưỡng mộ. Vậy cớ gì Quận
công lại không biết? Cớ gì Quận công lại
khinh khi hằn học. Là cũng bởi Quận công
Sản thấy trước tai họa mà Tô sẽ gây ra cho
dân chúng, gắn với việc xây dựng Cửu
trùng đài, Vũ Như Tô trong mắt Sản lúc
này lại càng là giặc, bằng mọi giá phải giết
chết. Thái độ cứng rắn đó của Trịnh Duy
Sản có thể xem là một lời “dự báo” cho trở
ngại của cuộc đời Vũ Như Tô. Trong vở
kịch, Nguyễn Huy Tưởng hoàn toàn không
xây dựng thế lực đố kỵ với cái tài của Vũ
Như Tô, kể cả Hai Quát, Phó Bảo, Phó
Cõi, Phó Toét, Phó Độ... ai ai cũng một
lòng tôn thờ và công nhận tài năng của Vũ
Như Tô, chịu sự chỉ đạo và sắp đặt của Tô
(ở những hồi đầu tiên). Tác giả chỉ xây
dựng mâu thuẫn giữa khát vọng nghệ thuật
của Vũ Như Tô với lợi ích thiết thực của
nhân dân lầm than. Lúc này, sự tức giận
của Trịnh Duy Sản cũng là sự tức giận của
nhân dân. Và lại một lần nữa, người đọc
linh tính về một kết thúc số phận bi thảm
của Vũ Như Tô ngay trong lời thoại của
Quận công Sản.
- Cụ lớn lưu tâm cho. Đuổi Vũ Như Tô,
bãi Cửu trùng đài, thải thợ... Đó là lời
khẩn khoản của Trịnh Duy Sản gửi đến
Đông các đại học sĩ Nguyễn Vũ, trong
những lời ấy hàm chứa sự kiên quyết trừ
khử Vũ Như Tô – coi Tô là một trong
những nguyên nhân của loạn lạc, đổ nát.
Tại hồi thứ ba - lớp 8, trong cuộc gặp
trực tiếp nhà vua, một lần nữa Trịnh Duy
Sản khẳng định lập trường chính kiến
của mình:
- Dân bây giờ ai cũng oán Vũ Như Tô.
- Còn như Vũ Như Tô, nó đã bày vẽ ra
Cửu trùng đài, hao tiền tốn của vì nó, sưu
cao thuế nặn vì nó, triều đình đổ nát, giặc
giã như ong là vì nó... xin Hoàng thượng
đuổi Vũ Như Tô...
- Xin Hoàng thượng nghe lời hạ thần
đuổi cung nữ, chém Vũ Như Tô... (nắm lấy
áo vua). [21].
Liên tục lời thoại khẩn cầu của Trịnh
Duy Sản hướng đến số phận Vũ Như Tô:
đuổi Vũ Như Tô, chém Vũ Như Tô. Điệp
khúc lặp lại ấy làm người đọc rùng mình,
câu hỏi: số phận một thợ tài với khát khao
nghệ thuật cao siêu rồi sẽ đi về đâu không
thể không day dứt trong lòng người đọc khi
nghe Trịnh Duy Sản kiên quyết như vậy.
Quả thế, tại hồi thứ tư – lớp 5 chính
Trịnh Duy sản khảng khái quyết liệt: ta đã
quyết hưng binh trừ bạo chúa, trừ quyền
thần, trừ đứa xây đài...
Và sau đó là lôi kéo thợ thuyền, dấy
binh tạo phản, thực thi cái bi kịch “dự báo”
ban đầu.
Số phận của Vũ Như Tô ở hồi thứ năm –
lớp 4, 5 qua lời các nhân vật quần chúng ráo
riết y như lời khẩn cầu của Trịnh Duy Sản.
“Bạo chúa đã chết. Còn thằng Vũ Như
Tô, đem phanh thây trăm mảnh”
Tiếng quân reo dữ dội: Giết chết Vũ
Như Tô, giết chết lũ cung nữ [21].
Cuối cùng tại hồi thứ năm – lớp 7, Ngô
Hạch đã chốt lại
Ngô Hạch: ta vâng tướng lệnh vào bắt
các ngươi [21]. Vũ Như Tô kết thúc số
mệnh của mình đầy bi đát.
1.2.3. Trịnh Duy Sản “dự báo” số
phận của Cửu Trùng Đài
Cửu trùng đài là một công trình kiến
trúc chưa thành hình. Tuy mới chỉ là ý
tưởng và đang được triển khai xây dựng,
nhưng tất cả các nhân vật trong vở kịch đều
BÀN THÊM VỀ NHÂN VẬT TRỊNH DUY SẢN TRONG KỊCH VŨ NHƯ TÔ CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG
182
kì vọng về một kì quan “dân ta nghìn thu
được hãnh diện, không phải thẹn với những
cung điện đẹp ở nước ngoài... làm cho đất
Thăng Long này thành nơi kinh kỳ lộng lẫy
nhất trần gian”. Mỗi tuyến nhân vật mơ
mộng về Cửu trùng đài theo một cách riêng
phục vụ cho ý hướng cá nhân của họ. Với
vua Lê Tương Dực và thứ phi Kim Phượng
– đài Cửu trùng sẽ là nơi ăn chơi hưởng
lạc, mãn nhãn thụ dâm. Với Vũ Như Tô và
Đan Thiềm – Cửu trùng đài sẽ là công trình
nghệ thuật để lại cho hậu thế, tô điểm non
sông. Với Trịnh Duy Sản và nhân dân –
Cửu trùng đài là mối hiểm họa, là nguyên
cớ trực tiếp tạo ra lầm than, loạn lạc. Các
cột hành động kịch cũng theo đó mà diễn
tiến. Nhân vật nào cũng mải miết đuổi theo
đài Cửu Trùng như một cái bóng. Trong
suy nghĩ, trăn trở và ngôn ngữ nhân vật,
mỗi chi tiết nhỏ đều là vì đài Cửu trùng,
đều nhắc tới đài Cửu trùng. Như đã nhận
định ở trên, đây vở bi kịch, các nhân vật
đến kết thúc vẫn còn “say” trong ảo mộng
về bức tranh ngày hoàn thiện Cửu trùng
đài. Chỉ có Trịnh Duy Sản, từ những bước
xuất hiện ban đầu đã khẳng định Cửu trùng
đài không thể tồn tại, và nó hoàn toàn trái
ngược với lợi ích của nhân dân, tạo ra nỗi
thống khổ cho nhân dân.
Tại hồi thứ hai – lớp 2,3 gặp Nguyễn
Vũ, nhiều lần Trịnh Duy Sản khẳng định
mối họa khi xây Cửu trùng đài:
- Xây Cửu trùng đài thì là một cái
họa cho dân chúng.
- Xin cụ lớn xét lại cho. Xây Cửu
trùng đài thì loạn mất.
- Cụ lớn nói đến Cửu trùng đài, tôi
lại càng nóng ruột. Cụ lớn ạ, xây Cửu
trùng đài thì thế nào cũng loạn.
- Cụ lớn lưu tâm cho. Đuổi Vũ Như
Tô, bãi Cửu trùng đài, thải thợ... [21].
Dường như, xây Cửu trùng đài đồng
nghĩa với tắc loạn. Lời lẽ quyết liệt ấy là
một “dự báo” đanh thép, đập tan ảo vọng
về tương lai “làm vinh dự cho non sông”
(thoại của Vũ Như Tô).
Khi xây dựng thành nhân vật kịch
Trịnh Duy Sản, Nguyễn Huy tưởng dường
như cố để cho Quận công hiện lên cụ thể
hơn, sinh động hơn, đầy vị thế hơn. Mỗi lời
thoại của Quận công về Cửu trùng đài đều
chí lí và tỉnh táo, không vì mục đích cá
nhân mà đứng trên quyền lợi của nhân dân
để phân tích cái họa Cửu trùng đài.
Tại hồi thứ ba– lớp 8, một lần nữa,
trước mặt vua, câu chuyện lịch sử trở nên
sống động, tính cách và vai trò nhân vật
Quận công Sản lộ rõ mồn một. Như đường
thẳng không thay đổi, không qua nội tâm
phức tạp, lơi Trịnh Duy sản rõ ràng, mạch
lạc và đầy lí trí, nhấn mạnh, khuyên can:
- Hoàng thượng nên bãi ngay việc
xây Cửu trùng đài.
- Chính vì muốn làm đẹp lòng họ mà
Hoàng thượng cho xây Cửu trùng đài [21].
Một quận công 60 tuổi, quyền lực, trải
nghiệm và kiên định với những lời cảnh
tỉnh về kết cục của một công trình kiến
trúc. Đó là phần “tỉnh” nhất mà Nguyễn
Huy tưởng muốn gửi gắm, tuy rằng ông
chưa thật sự đầu tư khắc họa đậm nét nhân
vật này.
Kết luận
Nhân vật văn học là một hiện tượng
hết sức đa dạng. Mỗi nhân vật đều được
tạo ra từ ý đồ nghệ thuật và sự sáng tạo của
nhà văn. Do đặc thù riêng, nhân vật kịch
không thể được khắc họa với nhiều khía
cạnh tỉ mỉ, phức tạp như trong tiểu thuyết,
truyện ngắn. Bởi vậy, xem xét nhân vật
kịch cần chú trọng lời thoại kịch và hành
động kịch của nhân vật. Với Trịnh Duy
Sản, hành động kịch đi đôi với lời thoại, cả
hai đều quyết liệt, rõ ràng, không hàm ẩn
hay hoài nghi. Nếu một nhân vật “trần trụi”
đến như thế thì thường không đem lại sự
NGUYỄN THỊ HỒNG
183
hấp dẫn. Song, ấn tượng về tính “dự báo”
của nhân vật này có tính chất điều hướng
cảm xúc người đọc. Nếu lấy hệ quy chiếu
từ nhân vật Trịnh Duy Sản thì: Lê Tương
Dực là một bạo chúa hôn quân sẽ bị trừng
trị; Vũ Như Tô là một thợ quèn, vô lại cần
phả loại bỏ, không xứng được trọng dụng;
Cửu trùng đài là một công trình phù phiếm,
vô nghĩa, có hại cho nhân dân cần phải đập
phá, đốt cháy; Đan Thiềm và cung nữ đều
góp phần làm cho nhà Lê suy kiệt cũng nên
xử tử. Chính vì tính chất “truy quét triệt
để” trong suy nghĩ và hành động ấy mà
Trịnh Duy sản đôi khi được hiểu như nhân
vật tạo phản ác độc, tàn bạo. Đây là một
nhân vật chức năng, nhân vật hiểu rõ bản
chất sự việc, thức tỉnh lay động hành động
sai trái của nhân vật chính, đứng ra trừng
phát, “gỡ nút”, hạ màn cho kịch. Tuy
nhiên, có thể thái độ ngập ngừng, hoài nghi
của chính tác giả Nguyễn Huy Tưởng đã
làm cho nhân vật không đi đến tận cùng vai
trò của mình và thật sự chưa thuyết phục
độc giả chức năng của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Vĩnh Cư (2000), “Bàn thêm về bi kịch
Vũ Như Tô”, Tạp chí Văn học, số 7, tr.39.
2. Nguyễn Hoàng Chương (2006), “Vấn đề tính
dân tộc trong kịch nói Việt Nam”, Văn hóa
Nghệ thuật, số 4, tr.70-72.
3. Phan Cự Đệ (1964), “Kịch Nguyễn Huy
Tưởng”, Tạp chí Văn học số 3, tr.23-30.
4. Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, tập 3, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội 1978.
5. Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ (1966), Nguyễn
Huy Tưởng (1912-1960), Nxb Văn học, HN.
6. Hà Minh Đức (1997), Nguyễn Huy Tưởng,
khảo luận văn chương, Nxb Khoa học Xã hội.
7. Đặng Hiển (2004), “Mâu thuẫn giữa khát
vọng nghệ thuật và thực tế xã hội Vũ Như Tô
của Nguyễn Huy Tưởng”, Nghiên cứu văn
học, số 5, tr.120-125.
8. Đỗ Đức Hiểu (1997), “Bi kịch Vũ Như Tô”,
Tạp chí Văn học số 10, tr.10-19.
9. Đỗ Đức Hiểu (1998), “Mấy điều về kịch và
thi pháp kịch”, Tạp chí Văn học số 2,3-10.
10. Phong Lê (1992), Nguyễn Huy Tưởng những
vấn đề còn bỏ ngỏ, Nguyễn Huy Tưởng một
sự nghiệp chưa kết thúc, Viện văn học.
11. Phong Lê (1997), “Vũ Như Tô thời gian và
thẩm định”, Giáo dục thời đại 4/5/1997.
12. Nguyễn Huy Thắng, Phong Lê (2010), Tuyển tập
Nguyễn Huy Tưởng - tập II, Nxb Hội nhà văn.
13. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 2000.
14. Tôn Thảo Miên (2003), “Về một giai đoạn
văn học kịch”, Tạp chí Văn học số 9.
15. Tôn Thảo Miên (2006), “Kịch Nguyễn Huy
Tưởng”, Văn hóa nghệ thuật, số 3, tr.73-78.
16. Bích Thu, Tôn Thảo Miên tuyển chọn và giới
thiệu, Nguyễn Huy Tưởng - Về tác gia và tác
phẩm - Tái bản lần thứ 3.
17. Nguyễn Văn Trung (1965), “Ngôn ngữ Kịch”,
Nghệ thuật, số 2, trang 4-5.
18. Nguyễn Văn Thành (1961), “Tìm hiểu kịch
Nguyễn Huy Tưởng”, Văn học.
19. Nguyễn Huy Thắng (2006), Cha tôi nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng, Nxb Thanh niên.
20. Nguyễn Huy Thắng (2012), Nguyễn Huy
Tưởng người viết sử, Số 401. - Tr.12-14.
21. Nguyễn Huy Thắng, Phong Lê (2010), Tuyển tập
Nguyễn Huy Tưởng - tập II, Nxb Hội nhà văn.
22. Phan Trọng Thưởng (1997), “Nguyễn Huy
Tưởng - nghệ sỹ và công dân”, Báo nhân dân
(17/4).
23. Viện Sử học Việt Nam (dịch), Khâm định Việt
sử Thông giám cương mục, Nxb Giáo dục,
Hà Nội 1989.
Ngày nhận bài: 11/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
184
Qui trình xây dựng tài liệu thuyết minh du lịch –
Một cách tiếp cận mới
The process of constructing tourist annotation document – A new approach
Huỳnh Thiệu Phong
Hướng dẫn viên du lịch
Huynh Thieu Phong
Frelance Tour Guide
Tóm tắt
Thuyết minh du lịch tồn tại với tư cách là một bộ phận cấu thành nên tổng thể hoạt động du lịch. Bên
cạnh đó, nó còn là một nghiệp vụ quan trọng của bất kì hướng dẫn viên. Khách du lịch ngoài việc có
nhu cầu được thưởng lãm các giá trị về cảnh quan, được nghỉ dưỡng, được mua sắm, được trải nghiệm,
họ còn có nhu cầu được mở rộng tri thức tại các địa phương mà họ đi qua. Tính hiệu quả trong việc tiếp
cận các tri thức ấy của khách du lịch phụ thuộc rất nhiều vào khả năng thuyết minh của hướng dẫn viên.
Bài viết này sẽ hệ thống và phân tích qui trình biên soạn tài liệu thuyết minh truyền thống để trên cơ sở
đó, chỉ ra các điểm mạnh, điểm yếu của phương pháp này và đề xuất một phương pháp xây dựng tài liệu
thuyết minh du lịch mới, phù hợp với thực tiễn và khả dĩ ứng dụng cho mọi hướng dẫn viên.
Từ khóa: tài liệu, thuyết minh du lịch, hướng dẫn viên, xây dựng.
Abstract
Tourist annotation exists as an integral part of the overall tourism operation. Besides, it is an important
professional skill of any tour guide. Tourists not only expect to enjoy the landscape, to relax, to go
shopping, to experience, but they also have a demand to be shared the localities’ knowledge. The
efficiency of approaching information depends on tour guide’s annotating skill. This paper systematises
and analyses the process of compiling tourist annotation document traditionally in order to point out the
strengths and weaknesses of this method. Ultimately, this paper will suggest a new method of
constructing tourist annotation document which could be suitable and applicable to all tour guides.
Keywords: document, tourist annotation, tour guide, to construct.
1. Đặt vấn đề
Hướng dẫn viên du lịch (tour guide) là
một nghề khá đặc biệt, bởi bằng kiến thức
và kĩ năng nghiệp vụ của mình, ngoài việc
là đại diện trực tiếp cho các tổ chức kinh
doanh du lịch với nhiệm vụ tổ chức thực
hiện chương trình du lịch đã kí kết trên
thực tế nhằm đảm bảo đúng kế hoạch và
đáp ứng các nhu cầu được thỏa thuận của
du khách, giải quyết những vấn đề phát
sinh trong quá trình thực hiện chương trình
du lịch trong phạm vi quyền hạn, khả năng
của mình thì người làm nghề này còn được
xem là sứ giả văn hóa, mang sứ mạng lớn
lao khi chỉ dẫn và cung cấp lời thuyết minh
về các điểm du lịch thông qua bài thuyết
minh của mình, với sự khơi dậy, đánh thức
những thông điệp của các thế hệ cha ông
HUỲNH THI U PHONG
185
gửi gắm trong những di sản vật thể và phi
vật thể từ quá khứ đến hiện tại để truyền
chuyển cho du khách, qua đó giới thiệu,
quảng bá văn hóa của một đất nước, một
dân tộc, tạo ra những ấn tượng tốt, tích cực
cho khách du lịch sau những chuyến hành
trình. Do vậy, trang bị tài liệu thuyết minh
để triển khai công tác thuyết minh khi thực
hiện chương trình tour là việc làm rất quan
trọng đối với mỗi hướng dẫn viên.
Vậy, cần hiểu thuyết minh du lịch là
gì? Công tác chuẩn bị tư liệu và tiến hành
triển khai nghiệp vụ thuyết minh của
hướng dẫn viên hiện nay có những ưu,
nhược điểm gì? Những vấn đề ấy sẽ được
giải quyết trong bài viết này. Trên cơ sở
đó, chúng tôi đề xuất một qui trình biên
soạn tài liệu thuyết minh mới để góp phần
nâng cao nghiệp vụ thuyết minh cho hướng
dẫn viên một cách có hiệu quả.
2. Thuyết minh du lịch là gì?
Theo nhóm tác giả Bùi Quang Tịnh và
Bùi Thị Tuyết Khanh trong Từ điển Tiếng
Việt thì “thuyết minh” có 2 nghĩa: (1) Giải
thích bằng lời những sự việc diễn ra trên
màn ảnh; (2) Giải thích cách dùng [5,
tr.981].
Bên cạnh đó, Từ điển tiếng Việt của
Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ
biên định nghĩa “thuyết minh” là: “Nói
hoặc chú thích cho người ta hiểu rõ hơn về
những sự vật, sự việc hoặc hình ảnh đã
đưa ra” [2, tr.969].
Theo đó, “Thuyết minh du lịch là hình
thức diễn đạt bằng lời nói lẫn cảm xúc của
một hướng dẫn viên để diễn tả điểm tham
quan, tuyến điểm du lịch, tới những lãnh
vực gần gũi hay có liên quan tới các đối
tượng tham quan, tới địa phương trên
tuyến tham quan của đoàn khách” [6].
Lời thuyết minh là những thông tin
chọn lọc được xây dựng trên cơ sở đối
tượng tham quan và được hướng dẫn viên
phân tích, giải thích và chuyển tải tới
khách du lịch để họ có thể hiểu và cảm
nhận được đầy đủ những giá trị của đối
tượng tham quan.
Lời thuyết minh được thể hiện dưới
nhiều dạng thức khác nhau và được kết hợp
một cách uyển chuyển để tạo sự hấp dẫn,
cuốn hút, dễ hiểu đối với người nghe
nhưng vẫn đảm bảo tính hiệu quả, đáp ứng
được mục đích của việc trình bày. Có khi
nó được thể hiện dưới dạng những phân
tích thông tin khoa học chính xác, có lúc
lại là những sự kiện lịch sử hay những câu
chuyện truyền thuyết, bài thơ, câu ca dao,
bài hát...
Như vậy, thuyết minh du lịch là sử
dụng lời nói để giới thiệu những thông tin
có hàm lượng khoa học mà đoàn khách
sẽ nhìn thấy, tham quan trong một
chuyến hành trình.
Do đặc tính sử dụng lời nói nên trong
thực tế, mỗi hướng dẫn viên có những
phương pháp và phong cách thuyết minh
khác nhau. Nếu những phương pháp thuyết
minh đều được qui về những nguyên tắc
nhất định trong nghiệp vụ chuyên môn thì
trái lại, phong cách lại là một dấu ấn mang
tính cá nhân vì mỗi người đều lựa chọn để
sở hữu cho mình những cách tiếp cận, ngôn
ngữ hình thể, giọng nói, âm lượng riêng.
Cùng một chuyên đề nhưng hướng dẫn
viên (A) sẽ có cách giới thiệu khác, hướng
dẫn viên (B) sẽ có cách giới thiệu khác.
Trong thực tế, hướng dẫn viên thường
khó khăn trong việc cung cấp thông tin đến
cho du khách: (i) Khó khăn trong việc chắt
lọc thông tin để cung cấp cho du khách, (ii)
Khó khăn trong diễn giải chuyên đề.
Tại các cơ sở đào tạo du lịch, trong
chương trình đào tạo đều có học phần
“Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch”. Người
QUI TRÌNH XÂY DỰNG TÀI LI U THUYẾT MINH DU LỊCH – M T CÁCH TIẾP CẬN MỚI
186
học được cung cấp và giới thiệu rất nhiều
phương pháp thuyết minh du lịch (ví dụ
như các phương pháp “tức cảnh sinh tình”,
“lấp lửng”, “hỏi đáp”, “so sánh”, “phân
đoạn”,). Tuy nhiên, các phương pháp đó
chỉ được triển khai một cách có hiệu quả
khi việc xây dựng tài liệu thuyết minh đảm
bảo được tính khoa học, hợp lí.
Thực tiễn trong quá trình tác nghiệp
của chúng tôi cho thấy, có những thông tin
khách du lịch được cung cấp từ hướng dẫn
viên nhưng không thể xem chúng là tài liệu
thuyết minh du lịch vì những thông tin ấy
không mang hàm lượng khoa học. Chẳng
hạn như những câu chuyện cười, những lời
động viên hay hỏi thăm khách nhằm thắt
chặt tình cảm giữa các thành viên, những
dặn dò trước khi tham quan, hay tiến hành
thủ tục nhận/trả phòng đều không phải
tài liệu thuyết minh du lịch. Nhằm khắc
phục những khó khăn đó, hướng dẫn viên
nhất thiết phải xây dựng tài liệu thuyết
minh khoa học và phù hợp.
3. Cách thức và qui trình biên soạn
tài liệu thuyết minh du lịch
3.1. Biên soạn tài liệu thuyết minh
theo phương pháp truyền thống – ưu và
nhược điểm
Lâu nay, các hướng dẫn viên khi biên
soạn tài liệu thuyết minh thường sử dụng
hai phương pháp truyền thống, đó là căn cứ
vào đặc điểm địa lí (biên soạn theo tỉnh,
thành) và căn cứ vào tuyến giao thông (biên
soạn theo tuyến điểm/ cung đường). Hai
phương pháp này đều có những điểm mạnh,
điểm yếu khác nhau theo bảng bên dưới:
Bảng 1. Những ưu – nhược điểm của hai phương pháp biên soạn
tài liệu thuyết minh truyền thống
Biên soạn tài liệu theo tỉnh,
thành
Biên soạn tài liệu theo tuyến
(cung đường)
Ưu điểm
Bao quát được thông tin chi tiết
của các tỉnh, thành mà đoàn đi
qua.
Phù hợp với hướng dẫn viên mới
vào nghề vì lựa chọn chuyên đề
thuyết minh không nhất thiết phải
căn cứ vào thực tế cung đường di
chuyển.
Hướng dẫn viên sẽ thuyết minh thực
tế những chuyên đề vì căn cứ vào
những gì du khách quan sát được trên
đường đi, từ đó tạo tâm lí hứng thu
cho du khách khi nghe vì “nói có sách,
mách có chứng”.
Kiến thức mang tính tĩnh, ổn định.
Nhược điểm
Yêu cầu khối lượng kiến thức
rộng đối với hướng dẫn viên.
Khả năng thuyết minh thu hút du
khách không cao.
Đòi hỏi sự linh động trong việc
chắt lọc thông tin để cung cấp cho
du khách.
Đòi hỏi hướng dẫn viên phải nắm chắc
cung đường di chuyển để lựa chọn
chuyên đề thuyết minh phù hợp.
Khối lượng kiến thức chỉ tập trung
vào tuyến du lịch mà đoàn di chuyển,
khả năng mở rộng chuyên đề không
cao.
(Nguồn: Tác giả)
HUỲNH THI U PHONG
187
Trước tình hình đó, chúng tôi đề xuất
một phương pháp xây dựng tài liệu thuyết
minh từ một góc độ tiếp cận mới để, một
mặt, có thể kết hợp những ưu điểm của hai
phương pháp này, và mặt khác, vừa phù hợp
với hướng dẫn viên trong quá trình biên
soạn tài liệu để nghiệp vụ thuyết minh được
triển khai một cách hiệu quả và thu hút
người nghe hơn, dựa trên đặc điểm bản chất
của thông tin muốn truyền tải đến cho du
khách, đó là phương pháp thuyết minh kết
hợp các dạng chuyên đề. Trong đó, ở mỗi
tuyến điểm, hướng dẫn viên cần phân nhóm
hai dạng chuyên đề; thứ nhất là chuyên đề
thuyết minh tĩnh (đóng), thứ hai là chuyên
đề thuyết minh động (mở). Thao tác này sẽ
tạo nên nguồn tư liệu được phân chia rõ
ràng và hỗ trợ tích cực cho hướng dẫn viên
khi phân đoạn chuyên đề thuyết minh.
Về chuyên đề thuyết minh tĩnh
(đóng), đây là những chuyên đề mang tính
cố định cao, mang nhiều đặc điểm giống
với dạng chuyên đề tuyến (theo cách phân
chia truyền thống). Khi biên soạn những
chuyên đề này, hướng dẫn viên chỉ có thể
vận dụng trong một số cung đường cố
định, không thể áp dụng với những cung
đường khác. Việc xây dựng khung chuyên
đề dạng này là tương đối giống nhau, nếu
ta chắt lọc những thông tin theo một số tiêu
chí xác định. Tuy nhiên, ưu điểm mà
phương pháp biên soạn dạng chuyên đề
này mà chúng tôi đề xuất chính là việc hạn
chế được một số thông tin cơ bản (có nghĩa
là những thông tin trên mạng mà ai cũng có
thể tìm). Chẳng hạn, đối với tuyến Sài Gòn
– Đà Lạt thì chuyên đề “Vua Bảo Đại” là
một dạng chuyên đề thuyết minh tĩnh. Bởi
vì đây là vùng đất gắn liền với cuộc đời
của vị vua này. Hiển nhiên, hướng dẫn viên
biên soạn chuyên đề này không nằm ngoài
mục đích phục vụ tuyến du lịch này. Song,
trong quá trình biên soạn, ta cần khéo léo
lựa chọn những thông tin mang tính “ngoài
lề” để bài thuyết minh được sinh động hơn.
Ở vị trí là một du khách, ta vẫn luôn có
hứng thú với những câu chuyện ngoài lề về
vị vua này hơn là thuyết minh những thông
tin mang tính lịch sử (năm sinh, năm mất,
một số cột mốc quan trọng trong cuộc
đời). Đôi khi, chính sự phi chính thống
này lại tạo cảm giác hứng thú cho người
nghe. Song, đây cũng có thể được xem như
con dao hai lưỡi, hướng dẫn viên cần cẩn
trọng với những thông tin mà mình cung
cấp; bởi vì tính phi chính thống đôi lúc sẽ
phản tác dụng và gây khó khăn cho chính
hướng dẫn viên.
Về chuyên đề thuyết minh động (mở),
trái với nhóm chuyên đề tĩnh, đây là dạng
chuyên đề mang tính “phòng bị”. Trong
quá trình tác nghiệp, tâm lí, lứa tuổi và
nhiều yếu tố bên ngoài tác động sẽ làm cho
du khách có xu hướng lắng nghe những
vấn đề khác nhau mà họ quan tâm. Hướng
dẫn viên sẽ không thể đảm bảo việc tất cả
các đoàn khách đều hứng khởi với những
chuyên đề tĩnh mà mình đã chuẩn bị (mặc
dù chúng rất phù hợp với thực tế của
chuyến hành trình). Với tình trạng khi đó
thì những nhóm chuyên đề động sẽ góp
phần giải quyết khúc mắt đó của du khách.
Một chuyên để thuộc dạng này có thể lấy
ví dụ chính là chuyên đề “trái cây”. Với
trường hợp vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, đây được xem như vựa lúa và vựa
trái cây lớn của cả nước. Như vậy, khi đi
những cung đường tại vùng Đồng bằng
sông Cửu Long, việc giới thiệu chuyên đề
này là rất hợp lí. Và điều quan trọng hơn là
với một chuyên đề nhưng ta có thể áp dụng
ở nhiều tuyến du lịch khác nhau.
Phân chia tài liệu thành chuyên đề
động và tĩnh là phân cấp ở cấp độ một,
QUI TRÌNH XÂY DỰNG TÀI LI U THUYẾT MINH DU LỊCH – M T CÁCH TIẾP CẬN MỚI
188
mang ý nghĩa cơ bản và khái quát nhất. Để
việc phân nhóm tài liệu được cụ thể hơn,
chúng tôi tiếp tục thao tác phân nhóm ở cấp
độ hai, đó là đi sâu vào việc phân chia
nhóm kiến thức chuyên đề. Nhất quán trên
cơ sở đó, chúng tôi tạm chia ra làm 5 nhóm
kiến thức chuyên đề, bao gồm: nhóm kiến
thức văn hóa – nhóm kiến thức lịch sử -
nhóm kiến thức địa lí – nhóm kiến thức kinh
tế và xã hội – nhóm kiến thức du lịch. Mối
liên hệ giữa việc phân cấp chuyên đề được
chúng tôi mô hình hóa theo sơ đồ bên dưới.
Nhóm kiến thức
văn hóa
Nhóm kiến
thức lịch sử
Nhóm kiến thức
địa lí
Nhóm kiến thức kinh
tế và xã hội
Nhóm kiến
thức du lịch
Sơ đồ 1. Hệ thống cấu trúc tài liệu thuyết minh du lịch
(Nguồn: Tác giả)
Theo sơ đồ 1, những chuyên đề thuyết
minh tĩnh/ động có thể thuộc một trong 5
nhóm chuyên đề kiến thức đã được liệt kê.
Cũng theo sơ đồ trên, ranh giới giữa tài liệu
theo tỉnh, thành và tài liệu theo cung đường
về cơ bản đã được xóa bỏ; thay vào đó là sự
phân chia tài liệu theo tiêu chí khối kiến
thức (5 khối) và cấp độ chuyên đề thuyết
minh (tĩnh hoặc động). Khởi điểm của việc
phân chia này rõ ràng sẽ tạo nên sự phức tạp
trong việc phân loại tài liệu, song khi đã
nắm chắc phương pháp phân loại tài liệu
theo cách này thì tư liệu thuyết minh sẽ có
cơ sở phân chia hợp lí hơn, tạo điều kiện
thuận lợi trong việc chọn lọc tài liệu phù
hợp cho từng cung đường khác nhau.
3.2. Nguyên tắc và qui trình biên soạn
tài liệu thuyết minh theo phương pháp
kết hợp các dạng chuyên đề
3.2.1. Nguyên tắc biên soạn
a) Đảm bảo tính mục đích: Tài liệu
thuyết minh phải hướng vào mục đích, chủ
đề của chương trình du lịch. Nguyên tắc
này nhằm đảm bảo tính hiệu quả trọng tâm
của bài thuyết minh. Nó quyết định tới việc
lựa chọn tư liệu và sắp xếp nội dung của
bài thuyết minh.
b) Đảm bảo tính nội dung: Tài liệu
thuyết minh phải cung cấp đầy đủ các
thông tin cần thiết, chuẩn mực và khoa học
để du khách có thể hiểu được giá trị của
tuyến du lịch, điểm du lịch và các đối
tượng tham quan khác nhau.
c) Đảm bảo tính thực tiễn và tính
thẩm mĩ: Tài liệu thuyết minh phải gắn với
tình hình thực tiễn của điểm, tuyến, khách
du lịch và mang giá trị của cái đẹp, tôn
vinh được giá trị tài nguyên và để lại ấn
tượng sâu sắc đối với khách tham quan.
3.2.2. Qui trình biên soạn
Vận dụng các nguyên tắc trên vào việc
biên soạn tài liệu thuyết minh là yêu cầu
đòi hỏi các thao tác khoa học trong một qui
trình cụ thể. Qui trình đó gồm năm bước:
Chuyên đề thuyết minh tĩnh/
Chuyên đề thuyết minh động
HUỲNH THI U PHONG
189
Hình 1. Qui trình biên soạn tài liệu thuyết minh du lịch
Bước 1: Phân cấp tài liệu, chúng tôi
đã làm rõ tính cấp thiết cũng như phương
pháp phân cấp tài liệu trong phần trên. Mục
đích là để xác định vị trí của từng chuyên
đề trong hệ thống cấu trúc tài liệu thuyết
minh.
Bước 2: Lựa chọn các chuyên đề/
nhóm chuyên đề phù hợp cho từng tuyến,
đây là bước không kém phần quan trọng
trong việc quyết định tính phù hợp trong
phân bổ chuyên đề thuyết minh của hướng
dẫn viên trong suốt hành trình. Để thực
hiện bước này, cá nhân mỗi hướng dẫn
viên cần cơ bản hình dung được cung
đường của chương trình du lịch để có thể
xác định được những chuyên đề nào cần
được đề cập để giới thiệu cho du khách. Về
cơ bản, yêu cầu hoàn thành bước này cũng
tương tự như cách biên soạn tài liệu theo
tuyến điểm mà hiện nay nhiều hướng dẫn
viên đang áp dụng đã đề cập ở trên. Tuy
nhiên, một điểm tích cực trong bước này, ít
gây khó khăn hơn cho hướng dẫn viên so
với phương pháp biên soạn cũ chính là việc
hướng dẫn viên không nhất thiết phải
“thuộc lòng” cung đường, vì đã có những
nhóm chuyên đề động bổ sung vào. Trong
quá trình di chuyển, những cung đường mà
hướng dẫn viên chưa nắm rõ (đặc biệt là
những hướng dẫn viên còn ít kinh nghiệm),
không thể triển khai những chuyên đề tĩnh
thì có thể bồi lắp bằng những chuyên đề
động. Do vậy, để hoàn thành bước này,
hướng dẫn viên cần cơ bản nắm bắt cung
đường mà mình sẽ di chuyển chứ không
cần phải nắm rõ cung đường. Đây là một
ưu điểm trong việc biên soạn tài liệu theo
cách tiếp cận mới.
Bước 3: Xây dựng bố cục cho từng
chuyên đề/ nhóm chuyên đề, nếu việc lựa
chọn chuyên đề sẽ quyết định tính phù hợp,
thì việc xây dựng bố cục cho từng chuyên
đề sẽ quyết định tính thu hút người nghe
(du khách). Nghiệp vụ xây dựng cấu trúc
bài thuyết minh đã được nêu rõ trong
chương trình giảng dạy học phần “Nghiệp
vụ hướng dẫn du lịch”, thế nhưng thực tế
lại cho thấy, tuân thủ nguyên tắc trong việc
xây dựng bài thuyết minh không thu hút du
khách vì chúng tôi đã kiếm chứng vấn đề
này dưới vai trò hướng dẫn viên lẫn du
khách. Do vậy, căn cứ vào năm nhóm kiến
thức chuyên đề đã được phân nhóm ở trên,
chúng tôi kiến nghị một số yêu cầu chung
đối với việc xây dựng khung bố cục bài
thuyết minh như sau:
QUI TRÌNH XÂY DỰNG TÀI LI U THUYẾT MINH DU LỊCH – M T CÁCH TIẾP CẬN MỚI
190
Bảng 2. Yêu cầu chung trong xây dựng khung bố cục tài liệu chuyên đề thuyết minh
Khối kiến
thức
Văn hóa Lịch sử Địa lý Kinh tế,
xã hội
Du lịch
Yêu cầu
chung
Khi xây dựng
bài thuyết
minh, cần
nhập thân vào
đời sống văn
hóa tại địa
phương để
giúp du khách
hiểu rõ hơn về
đời sống của
cư dân sở tại.
Do đặc thù
khái niệm
“văn hóa” là
rất rộng, do
vậy mà linh
hoạt xây dựng
khung bố cục
cho từng
mảng chuyên
đề (ẩm thực,
tôn giáo, kiến
trúc).
Đảm bảo tôn
trọng lịch sử.
Chú trọng vào
giới thiệu những
giai thoại của
những danh
nhân, người nổi
tiếng tại địa
phương để tạo
hứng thú cho du
khách.
Hạn chế xây
dựng bài thuyết
minh quá phụ
thuộc vào các
mốc thời gian.
Không thể hiện
thái độ cá nhân
trong bài thuyết
minh.
Sử dụng
kiến thức về
khoa học
Địa lý để lý
giải những
hiện tượng
mang tính tự
nhiên trên
cung đường
mà du khách
bắt gặp.
Cân nhắc
trong sử
dụng ngôn
ngữ trong tài
liệu thuyết
minh (hạn
chế lý giải
theo ngôn
ngữ khoa
học)
Cập nhật và
cung cấp
những thông
tin mang
tính thực
tiễn cao về
tình hình
kinh tế, xã
hội của địa
phương.
HDV cần
cân nhắc lựa
chọn những
thông tin ít
mang tính
tiêu cực để
tránh tạo ác
cảm của du
khách với
địa phương.
Không đưa
những thông
tin về chính
trị vào bài
thuyết minh.
Bài thuyết
minh cần
ngắn gọn,
súc tích,
đảm bảo độ
chuẩn xác
về thông
tin.
Bài thuyết
minh cần
thể hiện
đầy đủ 3
phần: Mở
bài – Thân
bài – Kết
luận.
Bước 4: Tổng hợp tư liệu, đây là bước
cần được đầu tư về mặt thời gian. Lựa chọn
tài liệu từ đâu là câu hỏi lớn nhất trong
bước này? Tùy thuộc vào từng khối kiến
thức chuyên đề mà khi biên soạn, hướng
dẫn viên cần tìm kiếm nguồn tài liệu thích
hợp. Với khối kiến thức chuyên đề về văn
hóa, lịch sử, địa lí, cần lưu ý việc hạn chế
tổng hợp tư liệu trực tuyến do đây là nguồn
tư liệu không đảm bảo tính xác thực; trái
lại, với khối kiến thức kinh tế và xã hội lại
cần mang tính cập nhật, do đó, tư liệu trực
tuyến lại phù hợp để biên soạn khối kiến
thức chuyên đề này.
Tóm lại, hướng dẫn viên có thể áp
dụng cả hai phương pháp là tham khảo tài
liệu sách lẫn tài liệu trực tuyến, tùy vào
từng khối kiến thức chuyên đề.
Bước 5: Biên tập, lựa chọn thông tin,
đây là thao tác cuối để hoàn thành bộ tài
liệu. Xử lí thông tin từ những tài liệu đã
được tổng hợp và đưa chúng vào trong
khung bố cục các chuyên đề là việc làm
cần tính khéo léo và linh hoạt. Cố nhiên ở
từng mảng kiến thức của các khối kiến
thức, bố cục sẽ có những điểm khác biệt
HUỲNH THI U PHONG
191
nhất định. Song, tất cả tài liệu cần thể hiện
tính logic trong diễn giải vấn đề, sử dụng
văn phong trong sáng để tránh gây nhầm
lẫn cho du khách; bởi vì có những vấn đề
nếu hướng dẩn viên trình bày tối nghĩa sẽ
dẫn đến nhận thức sai lệch, tạo ra cách hiểu
tiêu cực của du khách về đối tượng được
thuyết minh.
4. Kết luận
Tích lũy kiến thức luôn là một nhu cầu
thiết thực và mang tính tự giác của con
người và là động lực để người hướng dẫn
viên hoàn thiện chuyên môn và nghiệp vụ
của mình. Tài liệu thuyết minh du lịch của
hướng dẫn viên luôn có vai trò quan trọng
hướng du khách đến với những kiến thức và
những trải nghiệm mới trong một hành trình
du lịch. Để làm được điều đó, tự trang bị tài
liệu thuyết minh du lịch là một nhiệm vụ
cấp thiết của hướng dẫn viên; trong đó, biên
soạn tài liệu là tiền đề để nghiệp vụ thuyết
minh được đảm bảo, góp phần nâng cao
chất lượng và hình ảnh đội ngũ hướng dẫn
viên du lịch chuyên nghiệp, đáp ứng sự phát
triển của ngành Du lịch Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập của đất nước hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Trung Kiên (2008), Nghiệp vụ hướng
dẫn du lịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Hoàng Phê (Cb) (2003), Từ điển Tiếng Việt,
Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.
3. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005),
Luật Du lịch, Hà Nội.
4. Trần Đức Thanh (2008), Nhập môn khoa học
du lịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Bùi Quang Tịnh, Bùi Thị Tuyết Khanh
(2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa-
Thông tin.
6. https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BA
%BFt_minh_du_l%E1%BB%8Bch
Ngày nhận bài: 09/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017
192
HỘP THƯ BẠN ĐỌC
Kính gửi Quý bạn đọc,
Trong thời gian qua, chúng tôi nhận được rất nhiều bài viết của các nhà khoa học
trong cả nước. Ban Biên tập Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn chân thành cảm ơn sự
cộng tác của Quý vị.
Trong số Tạp chí này, chúng tôi xin giới thiệu đến Quý bạn đọc và các nhà khoa học
những bài nghiên cứu thuộc lĩnh vực Khoa học Tự nhiên, Khoa học Xã hội và Khoa học
Giáo dục.
Ban Biên tập Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn cũng xin trân trọng thông báo đã
nhận được bài viết của rất nhiều nhà khoa học trong cả nước. Vì điều kiện giới hạn về
số lượng bài mỗi số, chúng tôi xin được chọn đăng ở các số Tạp chí tiếp theo.
Với những bài viết đã chọn đăng trong số Tạp chí này, chắc chắn vẫn còn những
thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý bạn đọc để có thể ngày
một nâng cao chất lượng Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn.
Một lần nữa, Ban Biên tập Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn chân thành cảm ơn
Quý bạn đọc, các nhà khoa học trong cả nước và mong muốn được đón nhận sự tín nhiệm
lâu dài của Quý vị trong tương lai.
Trân trọng.
BAN BIÊN TẬP
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31_8334_2215083.pdf