Tài liệu Giáo dục trong thế giới hiện đại: Những vấn đề cần quan tâm: 118
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
GIÁO DỤC TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI: NHỮNG VẤN ĐỀ
CẦN QUAN TÂM
Phan Ngọc Vượng*
TÓM TẮT
Giáo dục là quá trình thế hệ trẻ nắm bắt các quy tắc ứng xử và hệ thống những giá trị xã
hội, một trong các lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất của con người. Hiện nay, nó thực sự xâm
chiếm toàn thể xã hội, chi phí cho nó thường xuyên tăng lên. Tại các nước phát triển, chi phí cho
lĩnh vực này chiếm khoảng 5-8% tổng sản phẩm quốc dân. Theo chỉ số đánh giá trình độ phát triển
của một quốc gia, bên cạnh tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người và mức tuổi thọ bình quân,
Liên hợp quốc còn ghi nhận tỷ lệ người biết chữ và số lượng năm học bình quân của công dân quốc
gia đó tại các trường học.
Từ khóa: giáo dục, thế giới hiện đại, những vấn đề cần quan tâm
EDUCATION IN THE MODERN WORLD: ISSUES TO CONSIDER
ABSTRACT
Education is the younger generation to grasp the rules of conduct and value system of the
society, one of the areas most important acti...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 467 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo dục trong thế giới hiện đại: Những vấn đề cần quan tâm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
118
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
GIÁO DỤC TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI: NHỮNG VẤN ĐỀ
CẦN QUAN TÂM
Phan Ngọc Vượng*
TÓM TẮT
Giáo dục là quá trình thế hệ trẻ nắm bắt các quy tắc ứng xử và hệ thống những giá trị xã
hội, một trong các lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất của con người. Hiện nay, nó thực sự xâm
chiếm toàn thể xã hội, chi phí cho nó thường xuyên tăng lên. Tại các nước phát triển, chi phí cho
lĩnh vực này chiếm khoảng 5-8% tổng sản phẩm quốc dân. Theo chỉ số đánh giá trình độ phát triển
của một quốc gia, bên cạnh tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người và mức tuổi thọ bình quân,
Liên hợp quốc còn ghi nhận tỷ lệ người biết chữ và số lượng năm học bình quân của công dân quốc
gia đó tại các trường học.
Từ khóa: giáo dục, thế giới hiện đại, những vấn đề cần quan tâm
EDUCATION IN THE MODERN WORLD: ISSUES TO CONSIDER
ABSTRACT
Education is the younger generation to grasp the rules of conduct and value system of the
society, one of the areas most important activities of man. Currently, it really invaded the whole of
society, it often costs increased. In developed countries, the cost for this area accounts for about 5-8%
of the total national product. According to the evaluation index development level of a country, besides
the total national product per capita and the average life expectancy, the United Nations also recorded
adult literacy rate and the average number of school years citizens of that country in schools.
Key word: education, the modern world, the issues of concern
* ThS. GV. Trường Cao đẳng Cảnh sát Nhân dân 2. ĐT: 0977 31 37 37; Email: phanvuongnghean@gmail.com
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thế kỷ XX, toàn bộ thế giới đã tấn
công mạnh mẽ vào “giặc dốt”. Những hoạt
động quan trọng nhất theo phương hướng này
được tiến hành sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai. Tất cả các nước phát triển đã áp dụng
chế độ giáo dục trung học phổ thông, phổ biến
giáo dục đại học. Hiện nay, hơn 20% học sinh
tại các nước phát triển tiếp tục học tập tại các
trường đại học. Trình độ của dân cư tăng lên
đáng kể. Vào cuối thế kỷ XX, lần đầu tiên
trong lịch sử loài người, số lượng người mù
chữ đã giảm. Hiện nay, số lượng này không
vượt quá 15%. Cần đặc biệt lưu ý hệ thống
giáo dục thường xuyên đối với đa số dân cư
có khả năng lao động tại các nước phát triển.
Xã hội nhận thức rõ rằng, chính giáo
dục đặt cơ sở cho chiến lược phát triển
không những của mỗi quốc gia mà còn của
toàn bộ loài người. Song, giáo dục hiện đại
đang trải qua khủng hoảng, nó thể hiện ở
chất lượng không cao, ở tính bất ổn của
tri thức và kỹ năng của học sinh, ở đạo
đức và trách nhiệm yếu kém của công dân,
ở nạn nghiệm ma tuý, tội phạm phổ biến
trong học sinh. Trên khắp thế giới, nhiều
học sinh bỏ học, thiếu giáo viên có trình
độ chuyên môn cao, thiếu sách giáo khoa
có chất lượng tốt, thiếu các phương pháp
giảng dạy có hiệu quả, mức công của giáo
viên thấp và kinh phí cấp cho hệ thống
giáo dục ít.
119
Giáo dục trong thế giới . . .
2. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM
TRONG GIÁO DỤC HIỆN ĐẠI
Thứ nhất, một vấn đề thực sự quan ngại là
khác biệt về trình độ giáo dục giữa các nước
phát triển và các nước đang phát triển bắt
nguồn từ khả năng cấp tài chính cho giáo dục
của mỗi nước. Các nước kém phát triển cấp
kinh phí bình quân đầu người cho giáo dục
thấp hơn 25 lần so với các nước phát triển.
Nạn chảy máu chất xám cũng là vấn đề thực
sự gay gắt, góp phần làm sâu sắc hơn sự phân
hóa giữa các nước.
Thứ hai, toàn cầu hóa càng làm cho những
vấn đề giáo dục trở nên gay gắt hơn, vì giáo
dục chính là một lĩnh vực của không gian văn
hóa xã hội đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của
các quá trình toàn cầu hóa. Một mặt, không
gian văn hóa xã hội toàn cầu đang làm cho các
nước phụ thuộc, ảnh hưởng, thâm nhập lẫn
nhau trong lĩnh vực này. Mặt khác, các nước
ngày càng tự ý thức, chú trọng tính độc đáo
văn hóa, khác biệt tôn giáo. Thực tế này dẫn
tới các quá trình tích hợp và phi tích hợp, nhất
thể hóa và phân hóa diễn ra đồng thời.
Với tư cách là một trong các đối tượng
quan trọng hàng đầu của giáo dục, khoa học
trải qua khủng hoảng nặng nề và kéo dài ở
thời hiện đại. Vốn được tích luỹ sau vài thế
kỷ, hệ thống tri thức, hệ chuẩn khoa học ổn
định, hài hòa đã tạo thành nền tảng vững chắc
để hình thành thế giới quan và hoạt động
thực tiễn của con người trong các lĩnh vực đa
dạng, đã cho phép tiên đoán tương lai cách tự
tin. Hệ thống này bỗng dưng bị lung lay do
những sự kiện bất ngờ, những bước ngoặt lớn
không tiên đoán được trong xã hội và của tự
nhiên. Thực tế này làm xuất hiện hiện tượng
A.Toffler gọi là “cú sốc tương lai” (nỗi sợ hãi
trước tương lai)1. Khoa học từng là biểu tượng
cho niềm tin của các thế hệ nối tiếp nhau do
đem lại máy móc có năng suất cao, các công
nghệ hữu hiệu, thay thế vật liệu tự nhiên bằng
vật liệu nhân tạo. Song, nó đồng thời cũng tích
luỹ các phương tiện tượng huỷ diệt ngày một
mạnh mẽ hơn. Thực tế cho thấy sức mạnh của
khoa học là phù du, còn các lĩnh vực rộng lớn
khoa học không hiểu, hiểu không đúng hay
không thể hiểu. Vốn đem lại lợi ích hữu hình
1 A.Toffler. Cú sốc tương lai. Nxb. Trí thức, HN, 1997.
cho con người, nhiều kết quả của khoa học
được vật chất hóa tiềm ẩn các hậu quả khôn
lường, nguy hiểm đối với con người. Tất cả
những điều đó bộc lộ ra trong khoảng 10 - 15
năm gần đây và làm suy giảm quyền uy của
khoa học, làm mất niềm tin vào các khả năng
của nó. Một bộ phận xã hội không nhỏ quay
về với niềm tin vào các lực lượng xa lạ. Đây
là xu hướng toàn cầu, vì khoa học đích thực
không khoác cái vỏ dân tộc, các thành tựu và
các thất bại của nó là tài sản chung nhân loại.
Tất nhiên, thực tế này sẽ không kéo dài.
Khoa học đang dần được giải phóng khỏi tính
phiến diện, kiêu ngạo nguy hiểm, đang bước
sang cái P.Sorokin gọi là hệ thống tri thức tích
hợp, trong đó nó giữa vị trí vốn có của nó trong
đời sống tinh thần của xã hội cùng với các yếu
tố khác2. Song, không phải tất cả các dân tộc
đều đồng thời đi đến khoa học tích hợp. Do
vậy, giáo dục tất yếu sẽ vấp phải những vấn đề
hội nhập do các quá trình du học tạo ra.
Thứ ba, cuộc cách mạng thông tin hiện đại
mở ra các khả năng mới để hình thành “trí tuệ
tập thể”3 đóng vai trò như là lý tính của con
người đóng trong cơ thể và hoạt động vì lợi
ích của toàn thể nhân loại. Lợi ích của toàn
cầu hóa thể hiện ở tốc độ phát triển của tri
thức tăng lên cùng với số lượng người tham
gia sáng tạo lớn hơn. Sự cô lập những lý tính
riêng biệt và các nhóm người riêng biệt có hệ
quả tất yếu là đánh mất tri thức và suy thoái
của nhân dân. Việc hình thành không gian
thông tin toàn cầu tạo ra điều kiện thuận lợi
cho trao đổi thông tin khoa học, mở ra các
khả năng mới cho trao đổi quốc tế trong lĩnh
vực văn hóa, giáo dục. Nhưng nó cũng sinh ra
những nguy cơ và những mâu thuẫn mới giữa
các dân tộc. Đó là chủ nghĩa thực địa mới về
thông tin, chiến tranh thông tin. Các nước
phát triển tích cực sử dụng chúng để thống
trị các nước kém phát triển về mặt tư tưởng,
để gán ghép cho thế giới một trật tự mới của
mình. Như vũ khí đặc biệt, toàn cầu hóa thông
tin trong tay những người khác nhau có thể
phục vụ các mục đích khác nhau. Giáo dục
đứng trước vấn đề bảo vệ lợi ích dân tộc cách
2 P.A.Sorokin. Các xu hướng chủ yếu của thời đại chúng ta.
Moscow, 1997, tr. 32.
3 N.N.Moiseev. Số phận của nền văn minh. Con đường của lý
tính. Moscow, 1998, tr. 86.
120
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
không phương hại đến lợi ích toàn cầu nhờ
hình thành ý thức toàn cầu.
Ý thức toàn cầu phải góp phần đẩy nhanh
quá trình xích lại gần nhau giữa các dân tộc
trong lĩnh vực tinh thần. Ý thức toàn cầu giả
định phải có tri thức và sự hiểu biết về các quá
trình toàn cầu hóa xâm chiếm thế giới, phải
có quyền ưu tiên cho lợi ích toàn cầu, chung
nhân loại đối với lợi ích dân tộc. Nó có nhiệm
vụ ngăn chặn xung đột giữa các dân tộc, thảm
hoạ sinh thái, toàn cầu hóa lợi ích tư, thống
trị thế giới của một siêu cường, các công ty
xuyên quốc gia bòn rút siêu lợi nhuận độc
quyền nhờ mạng lưới thông tin, ngân hàng
thương mại khống chế toàn bộ hành tinh, v.v.
Thứ tư, thời hiện đại cho thấy ý đồ dùng
bạo lực loại bỏ các tôn giáo đã bị phá sản, xu
hướng phục hồi tôn giáo vẫn tiếp diễn. Các
tôn giáo đã trở thành một trong các nhân tố để
tăng cường sự thống nhất tinh thần của các dân
tộc. Tôn giáo phục hồi và giữ lại vị trí vốn có
của nó trong không gian văn hóa xã hội. Song,
quá trình tích cực này đi liền với xu hướng
nguy hiểm: tăng cường chủ nghĩa khắc kỷ tôn
giáo, chủ nghĩa bè phái, thái độ không khoan
dung đối với người khác tôn giáo. Chiến tranh
tôn giáo, xung đột giữa các nước trên cơ sở
tôn giáo lại trở thành hiện thực. Chủ nghĩa bè
phái được phổ biến nhanh nhất, các giáo phái
tích cực sử dụng những công nghệ thông tin
hiện đại. Chủ nghĩa khắc kỷ và chủ nghĩa bè
phái tôn giáo tăng lên trong điều kiện khủng
hoảng tinh thần, thất vọng đối với khoa học,
khát vọng có được chỗ dựa nơi tôn giáo.
Văn hóa là tác phẩm cơ bản và là cái biểu
thị những đặc điểm của dân tộc. Trong thời
đại toàn cầu hóa, hai xu hướng không đối lập
đang hiện rõ là (1) phục hồi dân tộc tách biệt và
phân hóa các nền văn hóa, tăng cường những
đặc điểm của chúng, khắc phục áp lực mang
tính khuôn mẫu hóa, nhất thể hóa của nền văn
hóa công nghiệp, làn sóng vô nhân cách hóa
của văn hóa đại chúng; (2) hình thành văn hóa
tích hợp hoàn thành vai trò thống nhất tinh
thần nhân loại, giữ gìn di sản văn hóa toàn cầu
vô cùng đa dạng, nhưng có nội dung thống
nhất và ảnh hưởng tốt đẹp mà UNESCO là
người canh gác. Giáo dục hiện đại đồng thời
phải hoàn thành hai chức năng này.
Tại các nước có mức độ biết chữ và bảo
đảm thông tin hiện đại thấp, văn hóa truyền
thống chiếm ưu thế cùng với tính bảo thủ và
tính truyền thống cao, sẽ phải trải qua bước
chuyển nan giải sang văn hóa tích hợp nhờ
cung cấp phương tiện hiện đại để phổ biến
văn hóa, để những thành tựu văn hóa trở nên
tiếp cận được đối với mỗi người, mỗi gia
đình. Giáo dục bằng những phương tiện hiện
đại phải góp phần phổ biến tinh hoa văn hóa
dân tộc và chung nhân loại.
Hệ thống giáo dục ở thế kỷ XXI có nhiệm
vụ hình thành thế giới quan và chuyên môn
cho các thế hệ mới phải góp phần khắc phục
phân hóa và phân tán văn hóa quá mức. Song,
cả ở đây cũng có các xu hướng mâu thuẫn.
Thành phần giáo viên và giáo trình bảo thủ,
đại diện cho các giá trị đang đi vào quá khứ,
sẽ đưa tới ý định truyền đạt cho thế hệ mới
những tri thức và thói quen ngày càng xa rời
với thế giới đang biến đổi nhanh chóng, trong
đó họ sẽ phải sống và làm việc, việc tái sản
xuất những cái lỗi thời là một trong các dấu
hiệu về khủng hoảng của hệ thống giáo dục
hiện đại đang cố kéo dài thời gian tồn tại của
văn hóa cũ không tránh khỏi diệt vong cùng
với những biểu hiện thù địch, bạo lực, suy đồi
đạo đức vốn có của nó. Chứng tỏ cho điều đó
là thực tế về bạo lực và sát hại xuất hiện tại
các trường học phổ thông và các trường đại
học có điều kiện vật chất rất thuận lợi của Mỹ.
Mặt khác, các giáo viên tiến bộ nhất nắm
bắt những nguyên tắc và phương pháp giáo
dục họ sáng tạo, hình thành nên cá nhân sáng
tạo, sử dụng hệ thống giáo dục thường xuyên
và giáo dục từ xa để đổi mới dần dần tri thức
và thích nghi với môi trường điều kiện cuộc
sống đang biến đổi, viết giáo trình căn cứ trên
những tư tưởng mới, cố phục hồi ở học viên
nhu cầu về văn hóa cao cả, giáo dục các lý
tưởng đạo đức, chỉ ra tấm gương về chủ nghĩa
vị tha sáng tạo. Các cơ sở của văn hóa xã hội
mới sẽ hình thành và ổn định khi chúng nuôi
dưỡng toàn bộ hệ thống giáo dục - từ tiền phổ
thông cho đến người lớn tuổi.
Việc nâng cao mức độ bao phủ giáo dục
trung học và đại học, giáo dục hình thành thế
giới quan và đem lại thói quen nghề nghiệp
cho các thế hệ đang lớn, cần phải tồn tại trước
121
Giáo dục trong thế giới . . .
và góp phần thúc đẩy bước chuyển sang văn
hóa xã hội tích hợp ở các nước kém phát triển.
Đây sẽ là nhân tố quan trọng bậc nhất để hình
thành ý thức toàn cầu tích hợp.
Những chuyển biến triệt để diễn ra trong
lĩnh vực đạo đức. Ở đây cũng diễn ra cuộc đấu
tranh giữa hai xu hướng đối lập. Sự suy thoái
đạo đức thể hiện trong các nhà nước toàn trị đã
tiêu diệt hàng triệu công dân của mình, trong
các tội ác bất nhân của chiến tranh thế giới lần
thứ hai. Vào những năm 50-70 thế kỷ XX, làn
sóng này tưởng như bắt đầu tiêu tan. Song,
những năm 90 lại cho thấy một cơn bùng nổ
mới của sự vô luân, bạo lực, dã thú, đặc biệt
là trong thời gian xung đột giữa các dân tộc.
Nạn nghiện ma tuý có tính chất toàn cầu, làn
sóng bẩn thỉu của đạo đức đang suy thoái lan
tỏa từ phương Tây sang các nước thế giới thứ
ba. Song, xu hướng đối lập cũng xuất hiện và
tăng lên - xu hướng phục hồi và khẳng định
lại các giá trị và các chuẩn tắc đạo đức vĩnh
cửu, phổ biến và tuyệt đối bắt buộc, văn hóa
đạo đức tích hợp đang xuất hiện, nó thể hiện ở
sự phát triển chủ nghĩa anh hùng về đạo đức,
chủ nghĩa vị tha cao cả và lối ứng xử có đạo
đức hào hiệp trong số lượng cá nhân và nhóm
ngày một tăng, dưới hình thức nhiều phong
trào có tổ chức nhằm loại bỏ chiến tranh đẫm
máu, nghèo nàn, bệnh tật, nạn đói, bóc lột bất
công, các phong trào góp phần hoàn thiện lối
sống, tâm linh và đạo đức của con người.
Thực tế này đòi hỏi hoạt động rõ ràng
của các nhà giáo nhằm góp phần xây dựng
những giá trị đạo đức nhân văn chung nhân
loại và phổ biến chúng cho đông đảo quần
chúng. Toàn cầu hóa những chuẩn tắc đạo
đức cơ bản, những chuẩn tắc thể hiện các giá
trị chung nhân loại là điều kiện quan trọng
cho sự sống và bước chuyển sang một chất
lượng mới của nhân loại, để nhân loại tránh
khỏi những mối khiếm khuyết và những mối
nguy hiểm của xã hội công nghiệp đang suy
tàn. Giáo dục cần góp phần làm gia tăng tiềm
năng sáng tạo của cá nhân, làm thay đổi hoàn
toàn lập trường của cá nhân, cải thiện quan
hệ giữa người với người và thái độ đối với
những thành tựu của tập thể trong mọi lĩnh
vực sinh hoạt. Đa số các xã hội và các vền
văn hóa trong thế giới hiện đại đều căn cứ
trên một mức độ bóc lột và áp bức cao đối với
quần chúng. Do vậy, chiến lược giáo dục cần
phải thúc đẩy việc khước từ mọi hệ thống giá
trị của những kẻ bóc lột và tạo ra các hệ thống
giá trị mới, công bằng.
Mỗi người đều được ban tặng một số năng
lực sáng tạo cơ bản. Nhưng đa số mọi người
lại không thể phát triển hoàn toàn tiềm năng
của mình do những điều kiện bao quanh và
những nhân tố kinh tế - xã hội quyết định sự
phát triển của xã hội. Vì giáo dục là công cụ
cải biến tích cực đối với cá nhân và xã hội,
nên nếu con người không nhận được giáo dục,
thì sự phát triển của họ tất nhiên sẽ bị kìm
hãm. Tuy nhiên, cho dù con người có lớn lên
trong những điều kiện nào đi chăng nữa, thì
những điều kiện cụ thể này, kinh nghiệm sống
và làm việc mà con người nhận được trong
khuôn khổ những điều kiện ấy, cũng có một
tác động nhất định về mặt giáo dục đến sự phát
triển nhân cách. Điều này tất yếu có cả những
kết quả tích cực lẫn những hậu quả tiêu cực
đối với cuộc sống con người. Do vậy, trong
thế giới tương lai, cần phải xem bản thân kinh
nghiệm là thành tố giáo dục chủ yếu trong sự
phát triển chung của cá nhân. Các hệ thống
giáo dục truyền thống coi trọng phương diện
trí tuệ và tri thức uyên bác trong những thành
tựu của con người. Hiện nay cần phải đem lại
cho các phương diện kinh nghiệm và kỹ thuật
trong những thành tựu của cá nhân một giá
trị và tầm quan trọng như nhau ở mọi cấp độ.
Điều này sẽ đem lại một sự đóng góp lớn cho
sự hài hoà tương lai, cho nhận thức toàn diện
và sự chung sống của loài người. Khi đã nền
hoà bình toàn cầu có thể trở thành thực tại
phổ biến thông qua giáo dục toàn cầu. Quá
trình xây dựng công thức và cấu trúc rõ ràng
của giáo dục toàn cầu không thể và không nên
mang tính tuyệt đối bất biến. Những giá trị
nhân văn nội tại của mỗi xã hội và mỗi nền
văn hóa cần phải trở thành một bộ phận không
tách rời được của một loại hình giáo dục mới.
Cần phải tách biệt và đưa những thành tố tích
cực vào hệ thống mới. Cơ sở phải là sự bình
đẳng xã hội và sự công bằng kinh tế. Việc
nghiên cứu những nguyên nhân của xung đột
và việc tìm kiếm giải pháp cụ thể cần phải giữ
một vị trí quan trọng. Cũng cần phải phát triển
122
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
các công trình nghiên cứu đối chiếu về những
tình huống khác nhau và những giải pháp nhất
thời. Một bộ phận quan trọng của giáo dục
phải là việc làm sáng tỏ những vấn đề toàn
cầu cụ thể nhất, có ý nghĩa xuyên quốc gia và
liên văn hóa, có những hậu quả rộng rãi đối
với nền văn minh.
Tư tưởng về giáo dục toàn cầu có các
phương diện thực tiễn. Sau khi chúng ta đã ý
thức được và đã trải nghiệm tầm quan trọng
và tính tất yếu của tính cơ động thể chất trong
quản lý thương mại, ngoại giao và chính trị,
gần đây ranh giới giữa các thể chế và các quan
điểm giáo dục còn tự động bị phá hủy và thay
thế bằng những sự phân định mới, linh động
và phổ biến về nội dung và tầm bao quát còn
nhanh hơn nữa. Các hệ thống pháp luật cứng
nhắc và bản sắc dân tộc cũng nhường chỗ
nhanh như vậy cho các nguyên tắc mềm mỏng
hơn và các chuẩn tắc ít nghiêm ngặt hơn, phù
hợp với những thực tại và khát vọng mới.
Thứ năm, các quan điểm tâm lý học truyền
thống một thời gian dài cho rằng sự thay đổi
cần phải diễn ra trong quan hệ giữa thầy và
trò. Một ý thức mới về sự đối tác đang thống
trị trong quan hệ cá nhân cũng như trong quan
hệ thể chế. Đây là ý thức mới về sự cùng nhau
học tập, nghiên cứu, thể hiện, và nó trở thành
một bộ phận của các cơ chế sản xuất - phân
phối - tiêu thụ trong lĩnh vực kinh tế. Những
giá trị, những giáo lý và những cấm đoán vô
nhân đạo đang biến mất, thay thế cho chúng
là những giá trị mới, nhân đạo, hợp lý và hiện
thực. Việc chấp nhận những tư tưởng tích cực
và mang tính xây dựng, việc khước từ những
khái niệm thiển cận và vô bổ trở nên đơn
giản hơn. Chất lượng nghiên cứu về nguyên
nhân của các sự kiện cũng thay đổi vì các nhà
nghiên cứu được trang bị tri thức kinh nghiệm
quảng bác hơn, có liên quan tới các nền văn
hóa. Việc hiện thực hóa những nghiên cứu
này có ý nghĩa phổ biến vì kết quả của nó sẽ
đem lại lợi ích lớn hơn cho mọi thành viên
xã hội. Tình trạng căng thẳng và sự bất bình
đẳng về xã hội, kinh tế và văn hóa sẽ giảm
bớt. Khi đó những thành quả lao động sẽ đem
lại lợi ích cho toàn thể xã hội, mỗi người sẽ tự
hào về sự tham gia vào những nỗ lực chung,
mỗi phát hiện trong kinh nghiệm cũng sẽ có
đóng góp cho những thành tựu xã hội, khi đó
trí tuệ con người sẽ trở nên quảng bác hơn và
có được tính phổ biến của nhận thức lý luận
và của quan điểm thực tế. Tất nhiên là chúng
ta đặt hy vọng vào một nền văn hóa và văn
minh tốt đẹp hơn, đưa tới sự chung sống và
hợp tác của loài người.
3. KẾT LUẬN
Mặc dù mỗi quốc gia đều giải quyết những
vấn đề của mình, song nói chung có thể phân
biệt các hướng cải cách giáo dục cơ bản sau
đây: thực hiện phát triển nhanh chóng hệ
thống giáo dục thường xuyên cùng với việc
sử dụng rộng rãi các công nghệ thông tin hiện
đại; dân chủ hóa, cơ bản hóa, nhân văn hóa và
nhân đạo hóa giáo dục; đảm bảo trình độ học
vấn khoa học tự nhiên, toán học và vi tính cao
cho học sinh; áp dụng hệ thống chuẩn mực
nhà nước đối với mọi cấp giáo dục; thực hiện
mối liên hệ hữu cơ giữa hệ thống giáo dục với
các cơ cấu xã hội và các phương tiện thông
tin đại chúng; quốc tế hóa giáo dục. Giáo dục
cần phải trở thành một bộ phận không tách rời
được trong toàn bộ cuộc đời của mỗi người,
trở thành nhu cầu nội tâm của nó.
Việc giải quyết những vấn đề đó cần phải
đảm bảo cho đất nước hội nhập thành công
vào không gian kinh tế, chính trị và văn hóa
thế giới. Trong điều kiện thống hợp tất yếu và
ngày một tăng của loài người, giáo dục thể
hiện là cơ sở cần thiết cho thành công trong
cuộc đấu tranh vì một cuộc sống xứng đáng
của mỗi người và của mỗi quốc gia riêng biệt,
rốt cuộc là vì sự sống còn của loài người./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.Toffler. Cú sốc tương lai. Nxb. Trí thức, HN, 1997.
2. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Giáo dục đạo đức học. Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2000.
3. N.N.Moiseev. Số phận của nền văn minh. Con đường của lý tính. Moscow, 1998.
4. P.A.Sorokin. Các xu hướng chủ yếu của thời đại chúng ta. Moscow, 1997.
5. Richard Bergeron , Phản phát triển, cái giá của chủ nghĩa tự do. Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 1995.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 85_5311_2122335.pdf