Tài liệu Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học qua các truyện sinh hoạt trong sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học - Nông Thị Trang: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 16-19; 5
16
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC QUA CÁC TRUYỆN
SINH HOẠT TRONG SÁCH GIÁO KHOA TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC
Nông Thị Trang, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
Ngày nhận bài: 20/10/2018; ngày sửa chữa: 23/11/2018; ngày duyệt đăng: 11/12/2018.
Abstract: In Vietnamese primary textbooks, along with other types of children’s stories such as
modern ancient stories, celebrity stories, science stories... then the life story is a type of stories that
are put into teaching with a large number of works and excerpts. The life story is the one that
revolved around the children’s life, labor, study and children’s psychology. With simple, clear,
easy-to-understand language, rich content refers to many different issues in their daily life, work,
and study. The works and excerpts of the life story have played an important role in educating
primary students to become people with comprehensive development of perso...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 451 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học qua các truyện sinh hoạt trong sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học - Nông Thị Trang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 16-19; 5
16
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC QUA CÁC TRUYỆN
SINH HOẠT TRONG SÁCH GIÁO KHOA TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC
Nông Thị Trang, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
Ngày nhận bài: 20/10/2018; ngày sửa chữa: 23/11/2018; ngày duyệt đăng: 11/12/2018.
Abstract: In Vietnamese primary textbooks, along with other types of children’s stories such as
modern ancient stories, celebrity stories, science stories... then the life story is a type of stories that
are put into teaching with a large number of works and excerpts. The life story is the one that
revolved around the children’s life, labor, study and children’s psychology. With simple, clear,
easy-to-understand language, rich content refers to many different issues in their daily life, work,
and study. The works and excerpts of the life story have played an important role in educating
primary students to become people with comprehensive development of personality and morality.
Keywords: Moral education, life story, Vietnamese, primary school student, lesson.
1. Mở đầu
Trong sách giáo khoa Tiếng Việt (TV) tiểu học, hệ
thống truyện thiếu nhi được đưa vào giảng dạy rất phong
phú và đa dạng, trong đó tập trung chủ yếu vào 5 thể loại
truyện sau: truyện sinh hoạt, truyện đồng thoại, truyện
danh nhân, truyện cổ hiện đại, truyện khoa học. Mỗi thể
loại truyện đều có những tác phẩm, đoạn trích tiêu biểu
được tuyển chọn để giới thiệu cho học sinh tiểu học
(HSTH). Các tác phẩm, đoạn trích đó không chỉ có vai
trò quan trọng trong việc bồi dưỡng tâm hồn mà còn có
tác dụng định hướng cho các em.
Trong bài viết này, chúng tôi đề cập truyện sinh hoạt
- một thể loại truyện chiếm số lượng lớn trong sách giáo
khoa TV tiểu học và cũng là thể loại truyện có ý nghĩa
quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho các em.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm
“Truyện sinh hoạt trong chương trình TV tiểu học” là
thể loại truyện viết về những hoạt động trong cuộc sống
hàng ngày của các em như học tập, vui chơi, giao lưu kết
bạn..., qua đó hình thành, phát triển những phẩm chất tốt
đẹp, hoàn thiện nhân cách cho học sinh (HS), góp phần
quan trọng cùng với nhà trường, gia đình và xã hội trong
việc giáo dục HS cấp tiểu học.
2.2. Thống kê các tác phẩm, đoạn trích thuộc loại truyện
sinh hoạt trong chương trình Tiếng Việt tiểu học
Bảng thống kê các tác phẩm, đoạn trích thuộc loại truyện sinh hoạt trong chương trình TV tiểu học
Lớp STT Tên tác phẩm Tác giả (nguồn trích) Trang
2 (Tập 2) 1 Ai ngoan sẽ được thưởng Theo Tuý Phương và Thanh Tú 100
3 (Tập 1) 2 Ai có lỗi ? A-mi-xi 12
3 Chiếc áo len Từ Nguyên Thạch 20
4 Người lính dũng cảm Đặng Ái 38
5 Bài tập làm văn Pi-vô-na-rô-va 46
6 Trận bóng dưới lòng đường Nguyễn Minh 54
7 Các em nhỏ và cụ già Xu-khôm-lin-xki 62
8 Nắng phương Nam Trần Hoài Dương 94
9 Giọng quê hương Thanh Tịnh 76
10 Người liên lạc nhỏ Tô Hoài 112
3 (Tập 2) 11 Ở lại với chiến khu Phùng Quán 13
12 Cuốn sổ tay Nguyễn Hoàng 118
4 (Tập 1) 13 Người ăn xin Tuốc-ghê-nhép 30
14 Những hạt thóc giống Truyện dân gian Khmer 46
15 Chị em tôi Liên Hương 59
16 Thưa chuyện với mẹ Nam Cao 85
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 16-19; 5
17
17 Bàn chân kì diệu Theo Truyện đọc 3 (1995) 107
18 Vẽ trứng Xuân Yến 120
19 Văn hay chữ tốt Theo Truyện đọc 1 (1995) 129
5 (Tập 1) 20 Cái gì quý nhất ? Trịnh Mạnh 85
21 Người gác rừng tí hon Nguyễn Thị Cẩm Châu 124
22 Buôn Chư Lênh đón cô giáo Hà Đình Cẩn 144
5 (Tập 2) 23 Người công dân số Một Theo Hà Văn Cầu - Vũ Đình Phòng 4
24 Thái sư Trần Thủ Độ Trích “Đại Việt sử kí toàn thư” 15
25 Nghĩa thầy trò Hà Ân 79
2.3. Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học qua các
truyện sinh hoạt trong chương trình Tiếng Việt tiểu học
Đạo đức là những phẩm chất tốt bên trong con người,
được biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói và hành động
cụ thể. Đạo đức là gốc của hành vi, lời nói bên ngoài và
chi phối những hành vi và lời nói bên ngoài đó.
Con người để có đạo đức tốt thì phải có nhận thức tốt,
đúng đắn về thế giới sự vật, hiện tượng xung quanh.
Muốn có nhận thức đúng thì phải trải qua một quá trình
giáo dục. Như vậy, đạo đức con người không phải là thứ
có sẵn mà phải qua giáo dục mà thành. Sinh thời, Bác Hồ
kính yêu của chúng ta luôn quan tâm tới công tác giáo
dục. Cùng với việc nhấn mạnh đến vấn đề học tập của
thanh, thiếu niên, Người đặc biệt chú trọng đến việc giáo
dục đạo đức. Người đã khẳng định về tầm quan trọng của
việc giáo dục đạo đức cho mỗi người qua câu thơ:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên” [1]
(Nửa đêm - Nhật kí trong tù)
Bác cho rằng, để mỗi con người trở thành một người
thiện, một công dân tốt, có ích cho xã hội thì sự tác động
của xã hội, đặc biệt là quá trình giáo dục có một ý nghĩa
to lớn. Trong đó, giáo dục đạo đức là một bộ phận quan
trọng trong nhà trường phổ thông, có vị trị đặc biệt trong
sự nghiệp giáo dục con người.
Hệ thống truyện sinh hoạt trong chương trình TV tiểu
học thông qua những câu chuyện, những đoạn trích về
hoạt động sinh hoạt hàng ngày của con người đã giáo dục
những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, đã góp phần định hình
nhân cách cho các em. Đó là:
2.3.1. Lòng trung thực, dũng cảm, ngay thẳng
Tác phẩm Chị em tôi là câu chuyện kể về hai chị em
gái trong một gia đình. Người chị gái đã bao lần nói dối
ba, mỗi lần như vậy đều cảm thấy ân hận nhưng vẫn
không chịu sửa đổi. Trong một lần đi xem phim, tình cờ
gặp em gái mình trong rạp chiếu bóng, người chị vô cùng
tức giận và về mách tội với ba.
“Hai chị em về đến nhà, tôi mắng em gái dám nói dối
ba bỏ học đi chơi, không chịu khó học hành. Nhưng đáp
lại sự giận dữ của tôi, nó chỉ thủng thẳng:
- Em đi tập văn nghệ.
- Mày tập văn nghệ ở rạp chiếu bóng à?
Nó cười, giả bộ ngây thơ:
- Ủa, chị cũng ở đó sao? Hồi nãy chị bảo đi học nhóm
mà!
Tôi sững sờ, đứng im như phỗng. Ngước nhìn ba, tôi
đợi một trận cuồng phong. Nhưng ba tôi chỉ buồn rầu bảo:
- Các con ráng bảo ban nhau mà học cho nên người.
Từ đó, tôi không bao giờ dám nói dối ba đi chơi nữa.
Thỉnh thoảng, hai chị em lại cười phá lên khi nhắc lại
chuyện nó rủ bạn vào rạp chiếu bóng chọc tức tôi, làm
cho tôi tỉnh ngộ” [2].
Như vậy là nhờ mưu trí của cô em đã giúp cô chị tỉnh
ngộ và không bao giờ nói dối nữa. Các em nhỏ khi đọc
câu chuyện này chắc hẳn một phần cũng cảm thấy như
có mình trong đó bởi các em cũng đã từng nói dối bố mẹ?
Cũng đã từng bỏ học đi chơi? Câu chuyện mang đến cho
các em bài học về lòng trung thực. Đây là một đức tính
rất cần thiết trong cuộc sống của các em.
Câu chuyện Những hạt thóc giống cũng kể về một
cậu bé trung thực và dũng cảm. Nhà vua đã tìm người để
truyền ngôi bằng một phép thử khá thú vị. Vua cho luộc
kĩ thóc giống, xong ban phát cho mỗi người dân một
thúng thóc về gieo trồng, giao hẹn rằng: ai thu được nhiều
thóc nhất sẽ được truyền ngôi, ai không có thóc nộp sẽ bị
trừng phạt. Đến vụ thu hoạch mọi người ai ai cũng nô
nức chở thóc về kinh thành nộp cho nhà vua. Điều bất
ngờ của câu chuyện là về cậu bé mồ côi tên Chôm.
“Chôm lo lắng đến trước vua, quỳ tâu:
- Tâu Bệ hạ! Con không làm sao cho thóc nảy mầm được.
Mọi người đều sững sờ vì lời thú tội của Chôm.
Nhưng nhà vua đã đỡ chú bé đứng dậy. Ngài hỏi còn ai
để chết thóc giống không. Không ai trả lời. Lúc ấy, nhà
vua mới ôn tồn nói:
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 16-19; 5
18
- Trước khi phát thóc giống, ta đã cho luộc kĩ rồi. Lẽ
nào thóc ấy còn mọc được? Những xe thóc đầy ắp kia
đâu phải thu được từ thóc giống của ta!
Rồi vua dõng dạc nói tiếp:
- Trung thực là đức tính quý nhất của con người. Ta sẽ
truyền ngôi cho chú bé trung thực và dũng cảm này” [2].
Thật vậy, trung thực là đức tính quý báu nhất của một
con người và chú bé Chôm của chúng ta về sau đã trở
thành một ông vua hiền minh, mang lại ấm no, hạnh phúc
cho đất nước của mình nhờ có sự trung thực và lòng dũng
cảm. Từ câu chuyện của cậu bé Chôm, các em sẽ rút ra
cho mình bài học về tính thật thà, dũng cảm và các em sẽ
không bao giờ nói dối nữa. Đây là một sự tác động tự
nhiên, một con đường giáo dục hết sức nhẹ nhàng, thông
qua con đường cảm xúc, tình cảm chứ không phải bởi
con đường giáo huấn.
2.3.2. Ý chí, nghị lực vượt khó vươn lên trong học tập và
lao động
Giáo dục ý chí, nghị lực vượt qua khó khăn, vươn lên
trong học tập, trong cuộc sống cũng là một nội dung quan
trọng trong việc giáo dục đạo đức cho HS, đặc biệt là lứa
tuổi HSTH.
Câu chuyện về tài năng văn chương và viết chữ đẹp
của Cao Bá Quát đã gây ấn tượng mạnh cho các em bởi
sự kiên trì và cả quá trình khổ luyện viết chữ của ông.
Văn bản truyện Văn hay chữ tốt được giới thiệu trong
TV 4 (tập 1) đã giáo dục cho HS về sự kiên trì và ý chí
nỗ lực rèn luyện qua tấm gương Cao Bá Quát. Thuở còn
đi học, Cao Bá Quát tuy viết văn hay nhưng vẫn luôn bị
điểm kém chỉ vì chữ quá xấu. Một lần, Cao Bá Quát nhận
lời viết hộ bà cụ hàng xóm lá đơn để trình lên quan xét
nỗi oan cho bà. Lá đơn viết lí lẽ rõ ràng, những vì chữ
ông quá xấu, quan không đọc được nên đuổi bà cụ ra khỏi
huyện đường. Khi nghe câu chuyện, Cao Bá Quát vô
cùng ân hận. Ông nhận thức được rằng, văn hay đến đâu
nhưng chữ xấu thì cũng chẳng được ích gì. Từ đó, ông
dốc sức luyện viết chữ đẹp: “Sáng sáng, ông cầm que
vạch lên cột nhà luyện chữ cho cứng cáp. Mỗi buổi tối,
ông viết xong mười trang vở mới chịu đi ngủ. Chữ viết
đã tiến bộ, ông lại mượn những cuốn sách chữ viết đẹp
làm mẫu để luyện nhiều kiểu chữ khác nhau. Kiên trì
luyện tập suốt mấy năm, chữ ông mỗi ngày một đẹp. Ông
nổi danh khắp nước là người văn hay chữ tốt” [2].
Qua quá trình luyện chữ vất vả, khổ nhọc như thế,
Cao Bá Quát đã trở thành người văn hay chữ tốt. Đó là
một tấm gương sáng cho HS học tập, noi theo.
Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký là một tấm gương sáng
ngời về nghị lực vượt lên số phận. Dù bị liệt cả hai tay,
nhưng Ký vẫn có lòng ham học và bằng một sự cố gắng
tuyệt vời, sau này Ký đã trở thành một thầy giáo. Người
thầy giáo tật nguyền nhưng sáng ngời ý chí và nghị lực
ấy đã truyền lửa cho biết bao thế hệ HS. Câu chuyện về
người thầy giáo ưu tú Nguyễn Ngọc Ký được giới thiệu
cho HSTH qua bài kể chuyện Bàn chân kì diệu (TV 4,
tập 1). Qua câu chuyện trên, HS được giáo dục về lòng
ham học, ý chí, nghị lực vượt khó, vươn lên trong học
tập. Đó thực sự là điều cần thiết đối với mỗi HS không
chỉ trong những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường mà
còn cả quãng đời sau này của các em.
HSTH là lứa tuổi thích noi gương, chính vì vậy,
những câu chuyện sinh hoạt đã mang đến cho các em
những hình ảnh đẹp, cao thượng, những tấm lòng nhân
ái, những tấm gương nỗ lực vượt khó vươn lên trong học
tập và lao động... để các em ngưỡng mộ, từ đó biết học
hỏi những điều hay lẽ phải và trở thành người có ích
trong cuộc sống.
2.3.3. Đạo lí “Uống nước, nhớ nguồn” và truyền thống
tôn sư trọng đạo
Truyền thống tôn sư trọng đạo đã trở thành một nét
đẹp văn hóa từ bao đời nay của người Việt Nam. Ngay từ
những ngày đầu tiên cắp sách đến trường, các em đã được
các thầy, các cô chăm sóc, dạy bảo những điều hay, lẽ
phải. Thầy cô như những người cha, người mẹ thứ hai
luôn sát cánh bên các em trên con đường học tập gian khổ
và cả những quãng đường sau này. Tác phẩm Nghĩa thầy
trò là một thông điệp về tình nghĩa thầy trò mà tác giả Hà
Ân muốn gửi tới các em. Trong tác phẩm, có những chi
tiết chứng tỏ học trò rất tôn kính cụ giáo Chu như: mấy
học trò cũ từ xa về dâng biếu thầy những cuốn sách quý;
khi nghe cụ giáo Chu nói thì tất cả các môn sinh “đồng
thanh dạ ran”. Sau khi cảm ơn các môn sinh, cụ giáo Chu
mời họ tới thăm một người mà cụ “mang ơn rất nặng”.
Trên đường đi sang thôn Đoài thăm thầy đồ xưa, “cụ giáo
Chu đi trước, học trò theo sau”, “các anh có tuổi đi ngay
sau thầy, người ít tuổi hơn nhường bước, cuối cùng là
mấy chú tóc để trái đào”[3]. Vẫn nhớ nhà thầy giáo cũ,
cụ giáo Chu dẫn học trò đi về cuối làng, sang tận thôn
Đoài, đến một ngôi nhà tranh đơn sơ mà sáng sủa, ấm
cúng. Đến nơi cụ giáo Chu “chắp tay cung kính vái” thầy
cũ và dùng lời nói cung kính ân tình “Lạy thầy! Hôm nay
con đem tất cả môn sinh đến tạ ơn thầy” [3]. Tiếng “con”
cất lên nghe thật chân thành, cảm động.
Học trò của cụ giáo Chu rất tôn trọng thầy của mình
và cụ giáo Chu mặc dù đã trở thành một người thầy nổi
tiếng với rất nhiều môn sinh nhưng với người thầy đã dạy
ông, ông vẫn cung kính, lễ phép đúng đạo học trò. Câu
chuyện cho các em thấy tình nghĩa thầy trò là thứ tình
cảm thiêng liêng, nó được tiếp nối qua các thế hệ và đó
là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Bài học đạo lí
“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” là hành trang không thể
thiếu của mỗi con người khi bước vào đời.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 16-19; 5
19
Lòng biết ơn đối với công lao dạy dỗ của thầy cô
không chỉ biểu hiện ở lời nói mà phải được thể hiện ở
những việc làm, hành động cụ thể. Dễ thấy nhất chính là
kết quả, thành tích học tập của mỗi người.
Tấm gương Lê-ô-nác-đô đa Vin-xi trong truyện Vẽ
trứng là một ví dụ:
“Con đừng tưởng vẽ trứng là dễ! Trong một nghìn
quả trứng xưa nay không có lấy hai quả hoàn toàn giống
nhau đâu. Muốn thể hiện thật đúng hình dáng của từng
quả trứng, người họa sĩ phải rất khổ công mới được.
Thầy lại nói: Tập vẽ đi vẽ lại quả trứng thật nhiều lần,
con sẽ biết quan sát sự vật một cách tỉ mỉ và miêu tả nó
trên giấy vẽ một cách chính xác. Đến lúc ấy, con muốn
vẽ bất cứ cái gì cũng đều có thể vẽ như ý”.
Không phụ công ơn dạy dỗ của thầy giáo, “sau nhiều
năm khổ luyện Lê-ô-nác-đô đa Vin-xi đã trở thành nhà
danh họa kiệt xuất. Các tác phẩm của ông được trân
trọng trưng bày ở nhiều bảo tàng lớn trên thế giới, là
niềm tự hào của toàn nhân loại. Không những thế, Lê-ô-
nác-đô đa Vin-xi còn là nhà điêu khắc, kiến trúc sư, kĩ sư
và là nhà bác học lớn của thời đại Phục hưng” [2].
2.3.4. Lòng nhân ái, yêu thương con người
Từ nghìn xưa, lòng nhân ái, yêu thương con người đã
trở thành một truyền thống quý báu, cao cả, tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam. Giáo dục lòng nhân ái, yêu thương
con người là một nội dung quan trọng trong chương trình
giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục tiểu học nói
riêng. Cùng với những môn học như Đạo đức, Mĩ thuật,
Tự nhiên và Xã hội..., môn TV có vai trò quan trọng trong
việc giáo dục lòng nhân ái cho HSTH. Các tác phẩm,
đoạn trích thuộc thể loại truyện sinh hoạt như một bài ca
dịu ngọt, như một dòng suối mát lành tưới vào tâm hồn
trẻ thơ giúp các em biết yêu cái đẹp, yêu điều thiện và
yêu con người.
Tác phẩm Người ăn xin của nhà văn người Nga -
Tuốc-ghê-nhép đã mở ra khung cảnh một dãy phố với
hình ảnh một ông lão ăn xin đáng thương tội nghiệp:
“Đôi mắt ông lão đỏ dọc và giàn giụa nước mắt. Đôi môi
tái nhợt, áo quần tả tơi thảm hại... Ông già chìa trước
mặt tôi bàn tay sưng húp, bẩn thỉu. Ông rên rỉ cầu xin
cứu giúp”.
Thật không may, “tôi” cũng chẳng có gì cả, ngay cả
một đồng xu dính túi cũng không: “Tôi lục tìm hết túi nọ
túi kia, không có tiền, không có đồng hồ, không có cả một
chiếc khăn tay. Trên người tôi chẳng có tài sản gì”.
“Tôi nắm chặt lấy bàn tay run rẩy kia:
- Ông đừng giận cháu, cháu không có gì để cho ông cả.
Người ăn xin nhìn tôi chằm chằm bằng đôi mắt ướt
đẫm. Đôi môi tái nhợt nở nụ cười và tay ông cũng xiết
lấy tay tôi:
- Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão
rồi. Ông lão nói bằng giọng khản đặc.
Khi ấy, tôi chợt hiểu rằng: cả tôi nữa, tôi cũng vừa
nhận được chút gì của ông lão” [2].
Đọc đến đây, HS mới đầu sẽ còn phải suy luận, phán
đoán xem: Cậu bé đã “cho” ông lão cái gì? Và cậu bé đã
nhận được gì ở ông lão ăn xin? Rõ ràng là họ không cho
nhau được bất kì một thứ vật chất nào. Họ đều là những
con người nghèo khổ, bất hạnh, cần được giúp đỡ. Nhưng
thứ mà họ nhận được của nhau chính là tình người. Tình
người đã sưởi ấm tâm hồn họ trong đêm đông giá rét.
Ông lão nhận được ở “tôi” sự cảm thông, yêu thương và
tôn trọng. Còn “tôi” nhận được ở ông lão sự đồng cảm,
yêu thương. Quan trọng đối với người giáo viên ở đây là
giúp cho HS hiểu được cái “cho” và “nhận” giữa ông lão
ăn xin đáng thương với cậu bé. Chính tình yêu thương,
sự cảm thông và chia sẻ chính là món quà vô giá mà họ
nhận được của nhau và dành cho nhau.
Trong cuộc sống hàng ngày, đi qua một con phố hay
ở ngay một góc cổng trường, các em cũng có thể bắt gặp
những người ăn xin già cả, đau yếu tương tự như ông lão
trong truyện trên. Việc cho HS tìm hiểu câu chuyện trên
sẽ giáo dục, bồi dưỡng cho các em về lòng nhân ái, tình
yêu thương con người. Qua đó, các em sẽ có những nhận
thức và hành động đúng đắn, thể hiện tình yêu thương,
cảm thông, chia sẻ với những người bất hạnh. Đôi khi chỉ
cần một mẩu bánh mì lúc đói lòng, một ngụm nước khi
khát, hay thậm chí chỉ là một lời hỏi thăm, động viên,
quan tâm chân thật cũng làm cho người khác ấm lòng.
Đôi khi niềm hạnh phúc được bắt nguồn từ chính những
điều giản dị ấy.
Tình yêu thương con người làm cho mỗi người cảm
thấy vui vẻ, hạnh phúc, làm cho xã hội trở nên tốt đẹp
hơn. Vì vậy, giáo dục lòng nhân ái, tình yêu thương con
người cho HSTH là một nội dung không thể thiếu trong
việc giáo dục những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho HS.
3. Kết luận
HSTH là lứa tuổi mà ý thức đang hình thành, nhân
cách đang được định hình, tâm hồn đang trong sáng, tư
duy còn gắn liền với liên tưởng và tưởng tượng thì không
gì gây tác động mạnh mẽ tới các em bằng những vần thơ,
những áng văn giàu chất nhân văn và lấp lánh giá trị của
nghệ thuật ngôn từ. Thông qua những tác phẩm, đoạn
trích viết về cuộc sống sinh hoạt, lao động, học tập, tâm lí
lứa tuổi của thiếu nhi trong chương trình TV tiểu học, rất
nhiều bài học về đạo đức đã được chuyển tải tới các em.
Mỗi câu chuyện, mỗi đoạn trích thuộc loại truyện sinh
hoạt trong sách giáo khoa TV tiểu học đều được ví như
một “người thầy” không chỉ bồi dưỡng tâm hồn mà còn
có vai trò định hướng cho các em. Tình yêu thiên nhiên,
(Xem tiếp trang 5)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 1-5
5
chức bồi dưỡng GV và nhân viên kiến thức chăm sóc,
nuôi dưỡng; 5) Xây dựng môi trường chăm sóc, nuôi
dưỡng; 6) Kiểm tra hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng trẻ
trong trường MN.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD-ĐT (2017). Thông tư số 01/VBHN-BGDĐT
ngày 24/01/2017 Ban hành Chương trình giáo dục
mầm non.
[2] Trần Thị Ngọc Trâm - Lê Thị Thu Hương - Lê Thị
Ánh Tuyết (2011). Chương trình Tổ chức thực hiện
chương trình giáo dục mầm non. NXB Giáo dục
Việt Nam.
[3] Phạm Mai Chi - Vũ Yến Khanh - Nguyễn Thị Hồng
Thu (2012). Các hoạt động giáo dục dinh dưỡng -
sức khỏe cho trẻ mầm non theo Chương trình giáo
dục mầm non mới. NXB Giáo dục Việt Nam.
[4] Lê Mai Hoa (2009). Dinh dưỡng trẻ em. NXB Đại
học Sư phạm.
[5] Thu Hiền - Hồng Thu - Anh Sơn (2014). Cẩm nang
chăm sóc sức khỏe trẻ em trong trường mầm non.
NXB Giáo dục Việt Nam.
[6] Nguyễn Thị Kim Anh - Trần Thị Quốc Minh -
Huỳnh Văn Sơn - Bùi Thị Việt - Võ Thị Tường Vy
- Cao Văn Thống (2013). Bộ công cụ theo dõi, đánh
giá sự phát triển của trẻ 5 tuổi (Theo bộ chuẩn phát
triển trẻ em 5 tuổi). NXB Giáo dục Việt Nam.
[7] Hoàng Thị Phương (2009). Giáo trình Vệ sinh trẻ
em. NXB Đại học Sư phạm.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH...
(Tiếp theo trang 19)
yêu con người, yêu quê hương, làng xóm cũng từ đó mà
đâm chồi nảy lộc. Cảm nhận cuộc sống, thu thập kiến
thức qua văn học chính là con đường tích cực và nhẹ
nhàng để giáo dục HSTH trở thành những con người có
sự phát triển toàn diện về nhân cách và đạo đức.
Tài liệu tham khảo.
[1] Hồ Chí Minh (1990). Nhật kí trong tù. NXB Văn học.
[2] Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên, 2018). Tiếng Việt
lớp 4 (tập 1). NXB Giáo dục Việt Nam.
[3] Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên, 2018). Tiếng Việt
lớp 5 (tập 2). NXB Giáo dục Việt Nam.
[4] Cao Đức Tiến (chủ biên, 2005). Văn học. Dự án Phát
triển giáo viên tiểu học, Bộ GD-ĐT.
[5] Lã Thị Bắc Lý (2003). Giáo trình Văn học trẻ em.
NXB Đại học Sư phạm.
[6] Levitov A.D. (2004). Tâm lí học trẻ em và tâm lí học
sư phạm. NXB Giáo dục.
[7] Nguyễn Quang Ninh (2009). Giáo trình Phương
pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học. NXB Giáo dục
Việt Nam.
[8] Lê Phương Nga (chủ biên, 2012). Phương pháp dạy
học tiếng Việt 1. NXB Đại học Sư phạm.
[9] Lê Phương Nga (chủ biên, 2012). Phương pháp dạy
học tiếng Việt 2. NXB Đại học Sư phạm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 05nong_thi_trang_9767_2141260.pdf