Giáo dục đa văn hóa trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa

Tài liệu Giáo dục đa văn hóa trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0151 Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8, pp. 112-117 This paper is available online at GIÁO DỤC ĐA VĂN HÓA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP VÀ TOÀN CẦU HÓA Phan Thanh Long Phòng Tổ chức Cán bộ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt.Đa văn hóa là một hiện tượng tất yếu và phổ biến trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa. Để tránh các hiện tượng tiêu cực của toàn cầu hóa và hội nhập đối với văn hóa như: xung đột văn hóa, cưỡng bức văn hóa, xâm lăng văn hóa, đồng hóa văn hóa. . . thì cần phải tiến hành giáo dục đa văn hóa. Giáo dục đa văn hóa là quá trình làm cho mọi người, mọi dân tộc biết bảo vệ nền văn hóa của mình và tôn trọng văn hóa của các dân tộc khác, tạo ra sự thống nhất trong đa dạng, bảo đảm cho xã hội ổn định và phát triển. Từ khóa: Đa văn hóa, giáo dục đa văn hóa. 1. Mở đầu Đa văn hóa là một hiện tượng tất yếu của đời sống xã hội. Khi có các nền văn hóa tiếp xúc và tiếp biến với nhau thì sẽ xảy ra hiện tượn...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 522 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo dục đa văn hóa trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0151 Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8, pp. 112-117 This paper is available online at GIÁO DỤC ĐA VĂN HÓA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP VÀ TOÀN CẦU HÓA Phan Thanh Long Phòng Tổ chức Cán bộ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt.Đa văn hóa là một hiện tượng tất yếu và phổ biến trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa. Để tránh các hiện tượng tiêu cực của toàn cầu hóa và hội nhập đối với văn hóa như: xung đột văn hóa, cưỡng bức văn hóa, xâm lăng văn hóa, đồng hóa văn hóa. . . thì cần phải tiến hành giáo dục đa văn hóa. Giáo dục đa văn hóa là quá trình làm cho mọi người, mọi dân tộc biết bảo vệ nền văn hóa của mình và tôn trọng văn hóa của các dân tộc khác, tạo ra sự thống nhất trong đa dạng, bảo đảm cho xã hội ổn định và phát triển. Từ khóa: Đa văn hóa, giáo dục đa văn hóa. 1. Mở đầu Đa văn hóa là một hiện tượng tất yếu của đời sống xã hội. Khi có các nền văn hóa tiếp xúc và tiếp biến với nhau thì sẽ xảy ra hiện tượng đa văn hóa. Có thể nói, trong xã hội hiện nay, hiện tượng đa văn hóa diễn ra trong từng con người, từng gia đình, từng hoạt động. Chính vì vậy, cần phải tiến hành giáo dục đa văn hóa cho mọi người. Đó là quá trình làm cho từng cá nhân, cộng đồng và dân tộc biết tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận nền văn hóa của nhau. Giúp cho các nền văn hóa khác nhau biết tự trọng mà không mặc cảm để hòa nhập với nhau một cách bình đẳng trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau. Trên cơ sở đó tránh được sự xung đột văn hóa dẫn đến làm mất ổn định xã hội. Trên thế giới, việc nghiên cứu hiện tượng đa văn hóa nói chung và giáo dục đa văn hóa nói riêng đã được tiến hành nghiêm túc, trên nhiều góc độ từ lâu. Đặc biệt, trong giai đoạn cuối thể kỉ 20 đầu thế kỉ 21 có thể kể đến một số tác giả và công trình sau: Banks, James A. (1994), An introduction to multicultural education [2]; Banks, James A.; Banks, Cherry A. McGee (1995), Multicultural education: Issues and Perspectives [3]; Burnett, Gary (1998), Varieties of multicultural education: An Introduction [4]; Kitano, M. (1998), Multicultural curriculum transformation in higher education [10]; Paul C. Gorski (2001), Multicultural Education and the Internet: Intersections and Intergrations [12]; Banks, J. (2001), Multicultural education: Historical development, dimension and Practice [1]; Gloria M. Ameny-Dixon (2004), “Why Multicultural education is more important in Higher Education now than ever: a global perspective” [8]. . . Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về hiện tượng đa văn hóa, đặc biệt là giáo dục đa văn hóa chưa nhiều và chưa hệ thống. Có thể kể đến một số công trình đáng chú ý sau: Chương trình giáo dục đa văn hóa ở trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Duy Mộng Hà [9]; Xung quanh vấn đề toàn cầu hóa văn hóa của tác Ngày nhận bài: 15/7/2015. Ngày nhận đăng: 10/10/2015. Liên hệ: Phan Thanh Long, e-mail: phanthanhlongqb@gmail.com 112 Giáo dục đa văn hóa trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa giả Nguyễn Thị Tuyến [13]; Phạm Xuân Nam, Cam kết với tính đa dạng văn hóa trong bối cảnh toàn cầu [11]. Trần Lê Bảo, Đối thoại giữa các nền văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa [5]... Việt Nam có 54 tộc người anh em, mỗi tộc người đều có những nét văn hóa đặc trưng. Vì thế, vấn đề giáo dục đa văn hóa là vấn đề có tính bức thiết. Kinh nghiệm của những nước đa văn hóa như Mỹ, Úc, Canađa. . . cho thấy việc giáo dục đa văn hóa cho thanh thiếu niên là hết sức quan trọng để bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã hội có nhiều tộc người sinh sống. Để giáo dục đa văn hóa có hiệu quả, nhất là trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thì cần phải có những nghiên cứu sâu sắc về chúng. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Hiện tượng đa văn hóa “Đa dạng văn hoá hết sức cần thiết đối với nhân loại, tương tự như sự cần thiết của đa dạng sinh học đối với thiên nhiên”. “Bảo vệ đa dạng văn hoá là điều thiết yếu về mặt đạo đức và không thể tách rời sự tôn trọng phẩm giá con người”. “Các quyền về văn hoá được coi là bộ phận không tách rời của các quyền con người và là sự đảm bảo cho đa dạng văn hoá”. “Mọi người đều được quyền tiếp cận với đa dạng văn hoá”. “Di sản dưới mọi hình thức phải được bảo vệ, phát huy và chuyển giao cho các thế hệ tương lai như là một hồ sơ lưu giữ kinh nghiệm và khát vọng của con người, nhằm khuyến khích tính sáng tạo ở mọi hình thức đa dạng của nó và thúc đẩy sự đối thoại thực sự giữa các nền văn hoá”. Đó là những nội dung cơ bản trong Tuyên bố toàn cầu về Đa dạng văn hoá ngày 3/11/2002 của Đại hội đồng UNESCO với 188 nước tham dự. Ngày 9 tháng 12 năm 2005 Ủy ban UNESCO Liên hiệp quốc lại họp Đại hội lần thứ 33 kí Công ước bảo hộ và xúc tiến các hình thức biểu hiện văn hóa đa dạng, gọi tắt là Công ước về đa dạng văn hóa (Convention on the Protection and Promotion of the Diversity of Cultural Expressions). Các văn kiện ấy đều nói lên tầm quan trọng của đa dạng văn hóa xét từ nhiều góc độ. Đa văn hóa là một hiện tượng xã hội đã có từ rất lâu. Khi có các nền văn hóa tiếp xúc, hội nhập với nhau thì sẽ xảy ra hiện tượng đa văn hóa. Nhưng đa văn hóa trở thành một lí thuyết, thậm chí một cương lĩnh cho hành động thì phải đến xã hội hiện nay của chúng ta. Trước hết nó bắt nguồn từ xã hội đa văn hóa của Bắc Mỹ (Hoa Kỳ và Canada) giữa những năm 60 thế kỉ XX. Vào thời đó, nhằm đem lại một giải pháp cho các xung đột ngôn ngữ Pháp - Anh, các giới cầm quyền liên bang ở Ottawa công khai nói lên ý định thừa nhận bản chất đa văn hóa của xã hội Canada. Cùng lúc đó, ở Hoa Kỳ, cuộc đấu tranh của người da đen vì các quyền công dân của họ. Với ý tưởng cho rằng các thiểu số ngôn ngữ, tộc người, tôn giáo là nạn nhân của một sự bất công, chừng nào văn hóa của họ chưa đạt tới trình độ được thừa nhận ngang với văn hóa của người đa số (người da trắng, nói tiếng Anh và theo đạo Tin lành). Đấu tranh giành cho được sự thừa nhận ấy, điều chỉnh những bất công và định ra những phương tiện để cho những văn hóa khác nhau ấy cùng tồn tại, đó là những lí tưởng chính thức thúc đẩy lí thuyết đa văn hóa ra đời, hiểu theo nghĩa một học thuyết. Và những quan điểm này đã vượt khỏi trường hợp riêng của Bắc Mỹ để đến với những nơi khác trên thế giới. Trong thực tế cuộc sống của nhân loại, các xã hội đa văn hóa bao giờ cũng có nhiều hơn. Các xã hội được coi là thuần nhất về mặt văn hóa chiếm dưới 10% số nước trên thế giới. Ngay trong mỗi cá nhân, mỗi gia đình cũng tồn tại đa văn hóa. Bởi vậy, tư tưởng đa văn hóa luôn trở thành một sự quan tâm thích đáng, thậm chí trở thành một đường lối chính sách lớn của các quốc gia đa dân tộc. Vì thế, ngay từ thế kỉ XIX, những nhà nước đa dân tộc đã nỗ lực hướng vào việc giảm bớt những khác biệt văn hóa giữa các dân tộc, các cộng đồng người trong đất nước, tránh sự xung đột, nhằm tạo điều kiện cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Vào những năm 70 của thế kỉ XX, các vấn đề xung đột văn hóa chủng tộc, nảy sinh các yêu 113 Phan Thanh Long sách trong các chế độ dân chủ phương Tây cũng như trong khối Liên bang Xô viết, đã tạo ra những biến đổi mạnh mẽ. Khắp nơi trên thế giới, các dân cư bản địa, các thiểu số tôn giáo, các nhóm nhập cư, đã biểu hiện một cách nhiều hay ít những mong muốn thấy văn hóa của mình được thừa nhận. Mặt khác, sự tồn tại của các thiểu số đặt ra một vấn đề về công bằng xã hội: trong một nước dân chủ, sự thực hành một tôn giáo hay một ngôn ngữ về nguyên tắc là tự do. Thuyết đa văn hóa chỉ tập hợp các học thuyết chính trị và triết học chủ trương rằng, trong một tinh thần công bằng xã hội và khoan dung, các văn hóa riêng của một nhóm xã hội phải được thừa nhận công khai. Đây là những vấn đề cần được giáo dục rộng rãi cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Lí thuyết đa văn hóa, do đó, tự coi mình như một sự thay thế cho ý tưởng nói rằng, sự cố kết dân tộc chỉ có thể có được bằng sự tham gia của tất cả mọi người vào một văn hóa thống trị hay chính thức. Trào lưu suy nghĩ và thực hành chính trị này khẳng định rằng tính đa dạng văn hóa là một điều rất tốt, tất cả các văn hóa đều ngang nhau về phẩm giá, một thiểu số không bắt buộc phải từ bỏ ngôn ngữ, phong tục, văn hóa của mình, và cuối cùng, việc bảo tồn văn hóa của mình là một quyền con người, ngang với sự tự do ngôn luận của cá nhân đó. Theo M.Walzer, đa văn hóa thật ra là một sự thực hiện những lí tưởng dân chủ nhằm để sửa chữa sự đối xử bất bình đẳng dành cho các thiểu số. Phải dành chỗ cho họ và chấp nhận rằng các nhóm này đóng một vai trò trong cộng đồng dân tộc. Ở châu Âu, lí thuyết đa văn hóa thường bị buộc tội thực hiện sự tan rã của các nhà nước dân tộc. Đúng là sự khẳng định một sự khác biệt văn hóa có những nguy cơ chính trị: nó có thể là cơ sở cho một yêu sách về quyền tự chủ của một cộng đồng. Nó cũng có thể bị khai thác vì những mục đích tội phạm như những cuộc tàn sát xảy ra giữa các cộng đồng ở Ruanda (châu Phi). Vì vậy, lí thuyết đa văn hóa không phải được đồng thuận ngay khi nó ra đời. Từ những góc nhìn khác nhau người ta có những quan điểm khác nhau. Từ đó mà dấy lên các cuộc tranh luận. Vào đầu những năm 80 thế kỉ XX, việc tìm kiếm một giải pháp đa văn hóa trở thành đối tượng của rất nhiều suy nghĩ và tranh luận trong các nhà triết học, xã hội học và chính trị học. Vấn đề đa văn hóa được đón nhận rất rộng rãi. Những vấn đề trung tâm là về một xã hội đa văn hóa với những lí tưởng tự do cá nhân, bình đẳng và khoan dung, nền tảng của xã hội dân chủ. Dù còn có những ý kiến khác nhau, nhưng lí thuyết đa văn hóa đã có một tác động rất lớn đến văn hóa thế kỉ XX ở khắp các châu lục. Ở châu Âu lí thuyết đa văn hóa đã được đón nhận từ những năm 80 thế kỉ XX, gắn liền với cách cư trú của lục địa này cũng như với những xu hướng cộng đồng xã hội của nó. Trên thực tế, những chính sách phân biệt đối xử tích cực đối với các thiểu số, nhất là sự thừa nhận văn hóa, cũng mới mẻ so với các ý tưởng trước đây. Ảnh hưởng của thuyết đa văn hóa đối với thế giới ý tưởng chính trị hiện nay là không thể phủ nhận được. Nó được thể hiện ở nhiều nước có hiến pháp đa văn hóa như: Canada, Australia, Nam Phi, Colombia, Paraguay... Nó cũng trở nên nhạy cảm ở cấp quốc tế, nhất là qua ý tưởng cho rằng văn hóa có thể tạo thành một tài sản được luật pháp bảo vệ. Hiến chương về các quyền của trẻ em quy định rằng, mọi trẻ em có quyền được giáo dục theo văn hóa của mình. 2.2. Giáo dục đa văn hóa Vào những năm 70 của thế kỉ trước, UNESCO đã tổ chức xúc tiến giáo dục hiểu biết quốc tế. Cụ thể, vào năm 1974 đã đưa ra “Khuyến cáo về giáo dục hiểu biết, hợp tác quốc tế, giáo dục vì hòa bình và giáo dục nhân quyền, tự do cơ bản”. Trong bản khuyến cáo này, với tư cách là một “nguyên tắc chỉ đạo” vì hiểu biết quốc tế, UNESCO đã đưa ra “sự lí giải và tôn trọng đối với văn hóa, văn minh, giá trị cùng mô hình đời sống của tất cả các dân tộc bao gồm cả văn hóa của dân tộc trong nước và văn hóa của nước khác”. Bằng sự chỉ ra này, người ta thay vì nhấn mạnh giáo dục hiểu biết quốc tế với tư cách là giáo dục “hiểu biết về nước khác” mà UNESCO đã xúc tiến, 114 Giáo dục đa văn hóa trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa đã nhấn mạnh đến tính cần thiết của giáo dục hiểu biết quốc tế với tư cách là giáo dục “hiểu biết đa văn hóa”. Ngày nay, để mọi người với văn hóa khác nhau cùng chung sống và hợp tác thì cần phải nhận thức về những điểm chung và khác biệt giữa các nền văn hóa ở ý nghĩa như trên, tiếp nhận dung hòa và tôn trọng các giá trị quan và mô hình đời sống. Điều này được gọi chung là “hiểu biết đa văn hóa” và việc giáo dục các phẩm chất hướng tới điều đó được gọi là “giáo dục hiểu biết đa văn hóa”. Giáo dục đa văn hóa là một giải pháp chủ đạo cho sự bất ổn xã hội. Đây là vấn đề có tính tất yếu trong quá trình hội nhập quốc tế của mỗi dân tộc. Giáo dục đa văn hóa là sự tác động có mục đích, nội dung, chương trình, kế hoạch...của chủ thể giáo dục đến đối tượng giáo dục nhằm làm cho đối tượng giáo dục chấp nhận hiện tượng đa văn hóa trong mọi hoạt động của đời sống xã hội và có hành vi ứng xử phù hợp. Giáo dục đa văn hóa nhằm làm cho cá nhân, cộng đồng và xã hội đi đến khoan dung văn hóa, chấp nhận và tôn trọng văn hóa của nhau, tránh các hiện tượng xung đột, cưỡng bức văn hóa. . . dẫn đến làm mất ổn định xã hội. Dù ở thời đại nào, nguồn nhân lực cũng được xem là yếu tố quan trọng nhất quyết định sức mạnh của một quốc gia. Bởi vì mọi giá trị vật chất, tinh thần đều được làm ra từ bàn tay và trí óc con người. Quá trình toàn cầu hóa thúc đẩy sự xuất hiện khái niệm “công dân toàn cầu” và vấn đề giáo dục đa văn hóa đang được đề cao. Đây là vấn đề còn khá mới mẻ không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới, cần được nghiên cứu tiếp tục sâu sắc phục vụ sự phát triển xã hội toàn cầu và giữ gìn sự hòa bình, ổn định thân thiện giữa các dân tộc. Ở Việt Nam những nghiên cứu về giáo dục đa văn hóa chưa được thực hiện nhiều và có hệ thống. Mặc dù, nước ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nguồn nhân lực. Quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người. Từ Nghị quyết Hội nghị BCHTƯ Đảng lần thứ 2, khóa VIII đã có những cảnh báo về sự lệch lạc trong định hướng giá trị của thanh thiếu niên làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Vấn đề văn hóa đòi hỏi phải được xem xét một cách toàn diện, thấu đáo, nhằm củng cố lại hệ thống giá trị cho học sinh, sinh viên, giúp thế hệ trẻ có thể bước vào cuộc sống toàn cầu. Vì lẽ đó, định hướng “xây dựng văn hóa”, “xây dựng con người văn hóa”, “xây dựng nhân cách văn hóa” từ lâu đã được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà Nước, Bộ/Ngành. Yếu tố văn hóa bao giờ cũng được xem là một tiêu chí quan trọng để các tổ chức trong xã hội hướng đến trong quá trình thực hiện chức năng của mình. Đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo, Nghị quyết của Ban cán sự Đảng bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phát triển Ngành Sư phạm và các trường sư phạm từ năm 2007 đến 2015 cũng đề ra trong lộ trình thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm là “. . . đưa yếu tố văn hóa dân tộc, toàn cầu hóa vào giáo dục đào tạo. . . ”. Việt Nam, một quốc gia với 54 tộc người - đôi khi khá khác nhau về nhân chủng - có nhiều vấn đề riêng về chính sách văn hoá, song trên hết sẽ là những chính sách hoà hợp văn hoá dân tộc, tôn trọng sự khác biệt và khuyến khích các cộng đồng người chung sống trong sự đa dạng về văn hoá. Đó là vấn đề đặt ra cho công tác giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chưa bao giờ văn hóa Việt Nam có cơ hội tiếp thu những giá trị từ nhiều nền văn hóa, song cũng chứa đựng nhiều nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc của văn hóa như hiện nay. Để phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, ngoài việc củng cố những gì đã có, xây dựng, phát triển những cái mới cho phù hợp với thời đại thì việc giáo dục cũng hết sức quan trọng. Phải làm cho các thế hệ Việt Nam có ý thức bảo vệ nền văn hóa của mình và tôn trọng các nền văn hóa khác. 115 Phan Thanh Long Bản lĩnh của một nền văn hóa dựa trên sức đề kháng với những tác động từ bên ngoài trong quá trình phát triển và trong quan hệ giao lưu, hội nhập. Trong lịch sử, văn hóa Việt Nam luôn có sức đề kháng to lớn. Nhờ đó, văn hóa Việt Nam đã tạo dựng được bản lĩnh vững vàng trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Trước sức mạnh xâm nhập của các giá trị văn hóa bên ngoài, văn hóa Việt Nam đã không bị đồng hóa, không đánh mất bản sắc của mình. Sức đề kháng đó của văn hóa Việt Nam còn có cội nguồn từ tầng sâu của tâm hồn, trí tuệ, lòng tự tôn dân tộc, không chịu khuất phục trong mỗi con người Việt Nam. Cội nguồn sức đề kháng của văn hóa Việt Nam là như vậy, nên chính sách đồng hóa về văn hóa trong suốt thời gian đô hộ cả ngàn năm của phong kiến phương Bắc, thậm chí cả của chủ nghĩa thực dân cũ và mới hơn một trăm năm vẫn không làm phai nhạt bản sắc văn hóa dân tộc. Có được như vậy, công tác giáo dục đóng vai trò cực kì quan trọng. Bởi vì, giáo dục thực hiện được các chức năng bảo tồn và phát triển văn hóa. Hiện nay, sức đề kháng trong bản lĩnh văn hóa Việt Nam lại một lần nữa đứng trước thử thách của sự xâm nhập với quy mô lớn của các giá trị văn hóa bên ngoài. Sự xâm nhập đó không chỉ giới hạn ở quy luật giao lưu, hội nhập văn hóa, mà còn ở chính sách xâm lược về chính trị, quân sự của các thế lực thù địch. Do vậy, giờ đây, hơn lúc nào hết, chúng ta phải có chiến lược nâng cao sức đề kháng của văn hóa Việt Nam, làm cho cơ thể văn hóa Việt Nam được miễn dịch với mọi tác động của các phản giá trị đang làm băng hoại văn hóa. Sức đề kháng đó chỉ có thể có được khi các yếu tố bên trong cấu thành nền văn hóa Việt Nam cùng phát triển và tác động đồng thuận theo định hướng của Đảng ta. 3. Kết luận Đa văn hóa là một hiện tượng tất yếu của xã hội khi có các nền văn hóa tiếp xúc với nhau. Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập, hiện tượng đa văn hóa lại càng phổ biến. Chính vì vậy, giáo dục đa văn hóa cho mọi người đặc biệt là thế hệ trẻ là một yêu cầu bức thiết. Mục tiêu của giáo dục đa văn hóa là làm cho mọi người biết bảo vệ nền văn hóa của dân tộc mình và tôn trọng văn hóa của các dân tộc khác, thông qua đó tránh được sự xung đột văn hóa, bảo đảm sự ổn định xã hội. Giáo dục đa văn hóa giúp cho mỗi người, mỗi dân tộc biết cùng tồn tại, cùng phát triển trong sự đa dạng. Lời cảm ơn. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài: Giáo dục đa văn hóa cho sinh viên các trường đại học phục vụ quá trình hội nhập và toàn cầu hóa; Mã số VI2.3-2013.07; PGS.TS. Phan Thanh Long làm chủ nhiệm. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Banks, J., 2001. Multicultural education: Historical development, dimension and Practice. Handbook of research on multicultural education (pp.) San Francisco, CA Jossy Bass. [2] Banks, James A., 1994. An introduction to multicultural education. Boston: Allyn and Bacon. [3] Banks, James A.; Banks, Cherry A. McGee, 1995. Multicultural education: Issues and Perspectives. John Wiley & Sons Inc. [4] Burnett, Gary, 1998. Varieties of multicultural education: An Introduction. ERIC Clearinghouse on Urban Education New York NY. [5] Trần Lê Bảo, 2010. Đối thoại giữa các nền văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa. vns.hnue.edu.vn. [6] Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên đồng chủ biên, 2002. Giá trị truyền thống trước những thách thức. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [7] Dominique Wolton, 2006. Toàn cầu hóa văn hóa. Nxb Thế giới, Hà Nội, 2006. 116 Giáo dục đa văn hóa trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa [8] Gloria M. Ameny-Dixon, 2004. McNeese State University “Why Multicultural education is more important in Higher Education now than ever: a global perspective”. Conference on Multicultural Affairs in Higher Education (nguồn internet). [9] Nguyễn Duy Mộng Hà, 2013. Chương trình giáo dục đa văn hóa ở trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, Số 6/2013, tr. 30-37. [10] Kitano, M., 1998. Multicultural curriculum transformation in higher education. New York: Allen and Bacon. [11] Phạm Xuân Nam, 2007. Cam kết với tính đa dạng văn hóa trong bối cảnh toàn cầu. Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, Số 8, tr.1-10. [12] Paul C. Gorski, 2001. Multicultural Education and the Internet: Intersections and Intergrations. McGraw Hill. [13] Nguyễn Thị Tuyến, 2014. Xung quanh vấn đề toàn cầu hóa văn hóa. Tạp chí Văn hóa Nhệ thuật, Số 360, tr. 3 - 8. ABSTRACT Multi-cultural education in the context of integration and globalization Multiculturalism is an inevitable phenomenon that has become popular in the integration and globalization process. To avoid negative phenomena that inevitably result from globalization and cultural integration, we should offer multi-cultural education. Multicultural education can help protect individual cultures while respecting other culture. This encourages social stability and development. Keywords: Multi-culture, multi-cultural education. 117

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3856_ptlong_4958_2178511.pdf
Tài liệu liên quan