Tài liệu Giáo dục biến đổi khí hậu trong trường phổ thông qua kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc và Singapore - Nguyễn Thị Hiển: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221
216
Email: bichhien85@gmail.com
GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG
QUA KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN, TRUNG QUỐC VÀ SINGAPORE
Nguyễn Thị Hiển, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Ngày nhận bài: 07/01/2019; ngày chỉnh sửa: 15/01/2019; ngày duyệt đăng: 26/3/2019.
Abstract: Global climate change, which threatens the humankind’s objective of sustainable
development and their future, is considered an urgent issue in the contemporary world. Asia,
including Vietnam, is one of the most vulnerable and severely impacted areas by climate change.
Therefore, climate change education in schools, along with other solutions of the economy,
infrastructure, politics, would be a strategic solution that many countries around the world have
paid attention to. The methods and forms of climate change education in schools of some Asian
developed nations such as Japan, China, and Singapore will be precise exper...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 478 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo dục biến đổi khí hậu trong trường phổ thông qua kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc và Singapore - Nguyễn Thị Hiển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221
216
Email: bichhien85@gmail.com
GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG
QUA KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN, TRUNG QUỐC VÀ SINGAPORE
Nguyễn Thị Hiển, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Ngày nhận bài: 07/01/2019; ngày chỉnh sửa: 15/01/2019; ngày duyệt đăng: 26/3/2019.
Abstract: Global climate change, which threatens the humankind’s objective of sustainable
development and their future, is considered an urgent issue in the contemporary world. Asia,
including Vietnam, is one of the most vulnerable and severely impacted areas by climate change.
Therefore, climate change education in schools, along with other solutions of the economy,
infrastructure, politics, would be a strategic solution that many countries around the world have
paid attention to. The methods and forms of climate change education in schools of some Asian
developed nations such as Japan, China, and Singapore will be precise experiences for Vietnam to
strengthen the effectiveness of education to respond to climate change for school students.
Keywords: Climate change, education, schools, Asia, Vietnam.
1. Mở đầu
“Biến đổi khí hậu” (BĐKH) là khái niệm được dùng
để chỉ những thay đổi của khí hậu vượt ra khỏi trạng thái
trung bình đã được duy trì trong một khoảng thời gian
dài, thường là một vài thập kỉ hoặc dài hơn [1]. Chương
trình môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) nhận định,
BĐKH được xếp vào dạng vấn đề an ninh “phi truyền
thống” và được xem là một trong những thách thức lớn
nhất đối với “an ninh môi trường - phát triển toàn cầu”.
Châu Á - Thái Bình Dương là một khu vực rộng lớn
bao gồm nhiều quốc gia châu Á và các quốc gia nằm ven
bờ Tây Thái Bình Dương, chiếm đến hơn 60% dân số
toàn thế giới. Đây là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
các thảm họa thiên nhiên do BĐKH gây ra cao gấp 5 lần
các khu vực khác trên thế giới. Theo số liệu của Liên
Hiệp Quốc, năm 2016 tại khu vực này, bão, lũ lụt và nhiệt
độ cao đã làm chết 4.987 người, ảnh hưởng tới 34,5 triệu
người. Năm 2015, trong tổng số 90 cơn bão toàn cầu, 344
thảm họa thiên tai thì có đến gần 50% số đó xuất hiện ở
các quốc gia và vũng lãnh thổ trong khu vực châu Á -
Thái Bình Dương. Nhiều thành phố của các quốc gia
châu Á đang đứng trước nguy cơ bị nước biển nhấn chìm
do mực nước biển dâng - hậu quả trực tiếp của sự tan
băng ở Bắc và Nam cực [2]. Hậu quả do biến đổi khí hậu
còn thể hiện ở sự xâm nhập mặn của nước biển sâu trong
nội địa làm nhiễm mặn nước ngầm, giảm chất lượng
nguồn nước ngọt và số lượng các loài sinh vật trong hệ
sinh thái nước ngọt, làm gia tăng bệnh tật nhất là các bệnh
mùa hè, sản xuất nông nghiệp khó khăn làm gia tăng tình
trạng thiếu lương thực và trẻ em suy dinh dưỡng ở nhiều
quốc gia...
Chính sách ứng phó với BĐKH gồm hai phần chính
là giảm nhẹ BĐKH và thích ứng với BĐKH [3]. Giảm
nhẹ là chiến lược hành động nhằm giảm đến mức tối đa
mức độ và cường độ phát thải khí nhà kính, đồng thời
tăng bể hấp thụ khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu. Thích
ứng là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên và con người đối
với môi trường nhằm làm giảm khả năng bị tổn thương
và tận dụng các cơ hội mà BĐKH mang lại. Giáo dục
nằm trong nhóm giải pháp thích ứng. Giáo dục biến đổi
khí hậu (GDBĐKH) là “quá trình giáo dục sử dụng các
tiếp cận sư phạm định hướng hành động, giáo dục giúp
cho người dân và thế hệ trẻ nâng cao kiến thức, kĩ năng,
giá trị và thái độ đối với việc giảm thiểu và thích ứng có
hiệu quả với biến đổi khí hậu nhằm mục tiêu phát triển
bền vững” [4]. Đây được xem là một trong những biện
pháp chiến lược hữu hiệu, lâu dài và quan trọng đối với
cuộc chiến chống BĐKH ở bất cứ một cấp độ nào.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Giáo dục biến đổi khí hậu ở Nhật Bản, Trung Quốc
và Singapore
2.1.1. Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia quần đảo ở khu vực Đông
Á, nằm trên vành đai núi lửa Thái Bình Dương với hơn
80 núi lửa đang hoạt động trên lãnh thổ, mỗi năm trung
bình người dân Nhật Bản phải gánh chịu 1.500 trận động
đất lớn nhỏ. Trong đó có nhiều trận động đất lớn kèm
theo sóng thần đã gây nên những thiệt hại vô cùng
nghiêm trọng về người và tài sản: Động đất Kanto năm
1923, động đất Kobe năm 1995, động đất sóng thần
Fukushima năm 2011... Diễn biến ngày càng phức tạp
của BĐKH sẽ tác động trực tiếp, nghiêm trọng đến lãnh
thổ Nhật Bản và đe dọa sự phát triển bền vững của quốc
gia này trong tương lai. Do đó, ngay từ sớm Nhật Bản đã
chú trọng đến các biện pháp để giảm nhẹ thiên tai và
BĐKH. Bên cạnh các giải pháp về hạ tầng, kinh tế, chính
trị thì giáo dục được xem là giải pháp hàng đầu, cốt lõi
trong việc đào tạo ra những con người có tài, có kỉ luật
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221
217
và có khả năng đấu tranh sinh tồn với sự khắc nghiệt của
tự nhiên ở quốc gia này.
Giáo dục thiên tai và ứng phó với BĐKH ở Nhật Bản
được phổ biến ở mọi tầng lớp xã hội, từ các cơ quan chính
phủ, doanh nghiệp tư nhân đến trường học. Trong đó,
trường học đóng một vai trò quan trọng trong chiến dịch
giảm nhẹ thiên tai, chuẩn bị và ứng phó với những tác
động của thiên tai. Giáo dục cũng là yếu tố quan trọng
trong việc tăng cường khả năng phục hồi sau thảm họa.
Hình thức GDBĐKH chủ yếu ở các trường phổ thông
Nhật Bản là thông qua việc tổ chức các bài giảng liên
quan đến nội dung BĐKH và phòng chống thiên tai trên
lớp cùng với việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa rèn
luyện kĩ năng cho học sinh (HS). Giáo dục Nhật Bản
không chú trọng đến thành tích mà chú trọng đến hiệu
quả thực tế. Một trong những bài học đầu tiên người Nhật
dạy cho trẻ em chính là kĩ năng sinh tồn. Từ lúc còn học
mẫu giáo, trẻ em Nhật Bản đã được tham gia vào các hoạt
động ngoại khóa vừa chơi vừa học, lồng ghép giáo dục
các kĩ năng ứng phó với thảm họa thiên nhiên.
Từ năm 1997, Bộ Giáo dục Nhật Bản đã phối hợp với
các bộ ban ngành để xây dựng 600 trường học sinh thái
khắp cả nước. Các trường học sinh thái được thiết kế và
xây dựng thân thiện với môi trường, tiện lợi trong sử dụng,
tiết kiệm năng lượng, vừa tạo ra một môi trường học tập
an toàn, lành mạnh vừa góp phần nâng cao ý thức của giáo
viên và HS trong việc giáo dục môi trường và BĐKH.
Bộ Giáo dục - Văn hóa - Thể thao và Công nghệ Nhật
Bản đã đưa giáo dục ứng phó sớm với thiên tai vào giảng
dạy từ cấp 1 đến cấp 3 ở các trường phổ thông trên khắp
cả nước. Lên các cấp học cao hơn, các trường sẽ tổ chức
đào tạo kĩ năng sống cho HS một cách chặt chẽ và quy củ.
Phương pháp giáo dục chủ yếu được sử dụng là các
phương pháp dạy học tích cực hướng đến người học, kích
thích được quá trình tư duy, động não và hướng HS đưa ra
các giải pháp khắc phục hạn chế. Các chương trình đào tạo
thường hướng đến dạy HS kĩ năng xoay sở khi có thiên tai
xảy ra. Sau các buổi đào tạo kĩ năng ứng phó với BĐKH,
HS sẽ được kiểm tra, đánh giá nhằm bảo đảm các kiến thức
kĩ năng đã được tiếp nhận và ghi nhớ. Tất cả đều vì một
mục đích chung là sự sống còn của dân tộc.
2.1.2. Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những quốc gia dễ bị tổn
thương và phải chịu những hậu quả nặng nề do BĐKH gây
ra, điển hình là tình trạng hạn hán ở các tỉnh phía Bắc và
lũ lụt ở các tỉnh phía Nam đã gây ra những thiệt hại lớn về
người và tài sản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, nhất
là nông nghiệp. Chỉ tính riêng trong năm 2011, thảm họa
thiên nhiên đã ảnh hưởng đến 430 triệu người và gây ra
thiệt hại 309,6 tỉ nhân dân tệ về kinh tế. Nhiệt độ ở Trung
Quốc thực sự tăng nhanh hơn so với nhiệt độ trung bình
toàn cầu và dự đoán sẽ tăng thêm 2,5oC-4,5oC vào cuối thế
kỉ này [6]. Do đó, trong những năm gần đây Trung Quốc
cũng đang tích cực phối hợp với nhiều quốc gia và khu
vực trên thế giới để đề ra nhiều biện pháp nhằm hạn chế
và khắc phục những ảnh hưởng của BĐKH. Bên cạnh các
giải pháp về cắt giảm khí thải, chú trọng công nghệ sản
xuất, sử dụng năng lượng mặt trời, xây dựng các thành phố
bọt biển thì giải pháp về GDBĐKH cũng đang được
chính phủ Trung Quốc chú trọng.
Năm 1973, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chương
trình giáo dục môi trường ở các trường học. Có thể coi
đây là thời điểm đặt cơ sở cho việc giáo dục môi trường
trong trường học ở Trung Quốc. Bộ Giáo dục Trung
Quốc trong đợt cải cách chương trình giáo dục cơ bản lần
thứ tám (năm 2003), đã xếp giáo dục môi trường vào hệ
thống giáo trình giảng dạy hàng ngày ở các trường tiểu
học và trung học nhằm giáo dục môi trường một cách có
hệ thống và đảm bảo [3]. Năm 2003, Bộ Giáo dục nước
này hợp tác với Quỹ Thiên nhiên Thế giới (WWF) đã ban
hành tài liệu “Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo
dục môi trường ở các trường tiểu học và trung học cơ
sở”, trong đó đề xuất thực hiện các loại hình và kênh đào
tạo giáo dục môi trường, hướng dẫn mô tả chiến lược
giảng dạy, cách sử dụng một loạt các phương pháp giảng
dạy linh hoạt (như giảng dạy ngoài trời, tổ chức cuộc thi,
dịch vụ cộng đồng, thực địa, nghiên cứu trường hợp, sáng
kiến học tập, nhấn mạnh sự chủ động của HS và sự tương
tác hòa hợp trong giao tiếp với giáo viên) để cung cấp
cho HS cơ hội chia sẻ kinh nghiệm và thành tích của họ,
hướng dẫn HS từ vấn đề quen thuộc phát hiện ra tình
huống có vấn đề ở môi trường xung quanh.
Tháng 3 năm 2010, Bộ Văn hóa Giáo dục Anh và Đại
sứ quán Anh hợp tác với Viện Giáo dục Trung Quốc thực
hiện dự án “Lớp học khí hậu” với mục đích giúp giáo
viên Trung Quốc và Anh tiếp cận với sự phát triển và tiến
bộ của các nghiên cứu về GDBĐKH, đào tạo những giáo
viên trẻ xuất sắc trong lĩnh vực này, hướng dẫn thanh
thiếu niên chủ động tham gia vào các hoạt động liên quan
đến BĐKH. Năm 2007, Trung Quốc ban hành chính sách
quốc gia về tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải khí
nhà kính bao gồm 9 chính sách với sự tham gia của toàn
thể cộng đồng, cơ quan đoàn thể trong đó nhấn mạnh đến
vai trò và sự tham gia của tầng lớp thanh niên và trường
học trong cuộc chiến chống BĐKH. Năm 2009, Trung
Quốc phát hành “Chính sách và hành động của Trung
Quốc về biến đổi khí hậu”, nhấn mạnh việc sử dụng các
phương tiện truyền thông đại chúng như sách báo, video
và các hoạt động ngoại khóa về GDBĐKH cho HS sẽ
góp phần hình thành và phát triển cách ứng xử văn minh
với môi trường. Đồng thời, Bộ Giáo dục Trung Quốc
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221
218
cũng thực hiện các khóa đào tạo chuyên ngành và các
chuyên đề đặc biệt liên quan đến BĐKH [6]. Ngày
30/5/2011, “Dự án giáo dục biến đổi khí hậu ở các tiểu
học và trung học của Trung Quốc” (CCE) ở Vân Nam
bắt đầu triển khai. Trong giai đoạn đầu, CCE đã tổ chức
các buổi để nâng cao sự quan tâm và hiểu biết của HS
tiểu học và trung học cơ sở về vấn đề BĐKH toàn cầu,
thông qua việc thiết kế các nội dung và hoạt động giáo
dục nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng của HS thậm
chí cả cộng đồng để đối phó và giải quyết các vấn đề liên
quan đến BĐKH. GDBĐKH được lồng ghép trong các
môn học liên quan từ cấp tiểu học đến cao đẳng, đại học.
Riêng trung học phổ thông, có một chuyên đề bắt buộc
và hai chuyên đề tự chọn về Địa lí có nhiều nội dung
chuyên sâu GDBĐKH như: chuyên đề Bảo vệ môi
trường, chuyên đề Thảm họa tự nhiên và cách phòng
tránh, chuyên đề Tài nguyên - Môi trường và an toàn
quốc gia. Các chuyên đề này được giáo viên Địa lí đảm
nhận và có sách giáo khoa riêng, thời lượng mỗi chuyên
đề là 30 tiết [7].
Hiện nay, Trung Quốc đã có một hệ thống giáo dục
tương đối đa dạng, đa cấp, đa kênh về giáo dục môi
trường và BĐKH, phù hợp với những với đặc điểm của
Trung Quốc.
2.1.3. Singapore
Singapore - quốc đảo nằm ở Đông Nam Á với diện
tích chỉ 719 km2 và dân số khoảng 5,7 triệu người (2017)
- là một trong những quốc gia chịu tác động mạnh mẽ
của BĐKH. Từ năm 1972 đến năm 2014, nhiệt độ trung
bình hàng năm ở quốc đảo này đã tăng từ 26,6°C đến
27,7°C. Mực nước biển ở eo biển Singapore cũng tăng
lên với tốc độ từ 1,2-1,7 mm mỗi năm trong giai đoạn từ
11975 - 2009. Lượng mưa trung bình tăng nhanh hơn
trong những năm gần đây, từ 2.192 mm (1980) lên 2.727
mm (2014). Là một hòn đảo thấp, mực nước biển dâng
cao đặt ra mối đe dọa trực tiếp nhất đến Singapore. Các
nhà khoa học dự đoán đến năm 2020, mực nước biển sẽ
tăng lên 1,8 m với nhiều cơn bão dữ tác động vào lãnh
thổ nước này. Tác động của BĐKH ở Singapore còn thể
hiện ở sự gia tăng các hiện tượng thời tiết bất thường như
lũ lụt, lũ quét, hạn hán; làm thay đổi quá trình tự nhiên
của hệ sinh thái, ảnh hường đến sức khỏe cộng đồng với
việc gia tăng các loại bệnh truyền nhiễm, gia tăng sự căng
thẳng khó chịu ở những người cao tuổi và vấn đề an toàn
thực phẩm.
Chính phủ Singapore nhận thấy rằng chiến lược dài
hạn để giảm thiểu BĐKH và các vấn đề môi trường khác
chính là giáo dục thế hệ trẻ và rèn luyện cho HS những
thói quen thân thiện với môi trường. Để đạt được điều
này, GDBĐKH đã được đưa vào chương trình giảng dạy
và học tập môn Địa lí [8] [9]. Các học giả cho rằng việc
giảng dạy Địa lí trong các trường học đã cung cấp một
nền tảng quan trọng để giải quyết các vấn đề bền vững
về môi trường. Môn Địa lí đã được đưa vào hệ thống giáo
dục ngay cả trước khi Singapore giành được độc lập vào
năm 1965 và đến năm 2004 sau hơn sáu thập kỉ, môn Địa
lí đã trải qua các đợt đánh giá cấp quốc gia và có một
chương trình giảng dạy đầy đủ, đa dạng. Hiện nay các
nội dung GDBĐKH được tích hợp trong môn học xã hội
ở các trường tiểu học, còn ở các trường trung học thì
GDBĐKH được giảng dạy như một chuyên đề độc lập
trong môn Địa lí. Đây là môn học bắt buộc đối với HS
trung học cơ sở nhưng là môn học tự chọn đối với HS
trung học phổ thông, trung cấp nghề và sinh viên đại học.
Chương trình giảng dạy bao gồm: thông tin về BĐKH
như sự nóng lên toàn cầu, nguyên nhân và tác động của
BĐKH và các chiến lược thích ứng, giảm nhẹ. Ngoài ra,
nội dung GDBĐKH còn được tích hợp và lồng ghép vào
các môn học khác như nghiên cứu xã hội, nhân văn.
Ngày 24/4/2013, Quỹ thiên nhiên Thế giới Singapore
đã đưa vào thực nghiệm chương trình giáo dục môi
trường quốc tế Eco-Schools ở các trường tiểu học và
trung học, sau đó mở rộng ra các trường mẫu giáo và các
cơ sở giáo dục đại học. Các chủ đề chính của Eco-
Schools bao gồm: BĐKH, thiên nhiên và đa dạng sinh
học, chất thải, năng lượng và nước. Yêu cầu của chương
trình giáo dục Eco-Schools là kết nối cộng đồng cùng
thực hiện, bao gồm cả giáo viên và HS, phụ huynh và các
tổ chức liên quan. Mỗi trường sau khi thực hiện mục tiêu
đặt ra của Eco-Schools sẽ được kiểm tra, đánh giá và
công nhận trên toàn cầu là trường HS thái chất lượng cao.
Ngoài ra, Singapore còn tiến hành giáo dục cho HS
các kĩ năng để giải quyết các vấn đề môi trường thông
qua một chương trình mang tên Kế hoạch xanh Shuqun
(2012). Chương trình này tập trung vào sáu lĩnh vực
chính của bảo tồn thiên nhiên và môi trường. HS sẽ được
tham gia thảo luận tích cực về những thách thức môi
trường và BĐKH, từ đó đề xuất ra những giải pháp giảm
nhẹ và bảo tồn các giá trị môi trường. Thông qua phương
pháp học tập tích cực, chủ động và sáng tạo, HS sẽ được
đào tạo những kĩ năng để có thể chuyển những kiến thức
đã học thành những hành động tích cực bảo vệ môi
trường. Sáu lĩnh vực chính của Chương trình giáo dục
môi trường bao gồm: bảo vệ nguồn nước (lớp 1), bảo vệ
và tiết kiệm nguồn điện (lớp 2), bảo tồn động vật (lớp 3),
quản lí rác thải (lớp 4), những thách thức về Môi trường
ở Singapore (lớp 5), những thách thức môi trường toàn
cầu (lớp 6).
Nhìn chung GDBĐKH trong các trường học ở
Singapore được thực hiện tương đối đồng bộ, hiện đại và
mang lại hiệu quả cao, là một tấm gương đáng để các
nước học tập.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221
219
2.2. Thực trạng và giải pháp giáo dục biến đổi khí hậu
ở Việt Nam
2.2.1. Thực trạng giáo dục biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Theo thống kê rủi ro lâu dài do BĐKH, Việt Nam
đứng thứ năm trên toàn thế giới về mức độ ảnh hưởng
nghiêm trọng do BĐKH gây ra với số người chết trung
bình hàng năm khoảng 400 người và thiệt hại hơn 1%
GDP. Trong vòng 50 năm qua ở Việt Nam nhiệt độ trung
bình đã tăng khoảng 0,5-0,7oC, mực nước biển đã dâng
khoảng 20 cm, hiện tượng El Nino và La Nina ngày càng
tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Hàng năm, Việt Nam
phải đối mặt với nhiều loại hình thiên tai thường xuyên
xảy ra như: áp thấp nhiệt đới, bão, lũ, lũ quét, ngập lụt,
lốc xoáy, mưa đá, động đất, sạt lở đất, hạn hán, cháy
rừng, xâm nhập mặn [10].
Khái niệm BĐKH bắt đầu “du nhập” vào Việt Nam
khoảng 20 năm nay và thực sự trở thành một vấn đề thời
sự nóng từ khoảng 10 năm nay. Thông tư phê duyệt
Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu được Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng kí ngày 05/12/2011 đã nêu rõ: Cần
nâng cao nhận thức cho các thành phần xã hội về vấn đề
BĐKH; Xây dựng các phương pháp phù hợp nhằm tiếp
cận và sử dụng thông tin về BĐKH cho các thành phần
xã hội; Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến
về tác động, nguy cơ và cơ hội từ BĐKH; Đưa kiến thức
cơ bản về BĐKH vào trong các chương trình ở các bậc
học; Tăng cường ý thức, trách nhiệm cá nhân và trách
nhiệm cộng đồng trong phòng, tránh và khắc phục hậu
quả thiên tai [11]... Thế hệ trẻ Việt Nam bao gồm sinh
viên và HS các cấp (chiếm 25% dân số) có thể coi là một
nhân tố và lực lượng quan trọng trong việc ứng phó với
BĐKH, giúp cho các nhà quản lí đất nước trong tương
lai có được nhận thức đầy đủ, tầm nhìn bao quát trong
công cuộc ứng phó lâu dài với BĐKH.
Thời gian qua, ngành Giáo dục đã triển khai thực
hiện, cụ thể hóa Chiến lược quốc gia phòng, chống và
giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 và một số đề án, chương
trình mục tiêu ứng phó BĐKH của Chính phủ. Bộ GD-
ĐT cũng đã ban hành “Kế hoạch hành động thực hiện
Chiến lược Quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai
của ngành Giáo dục giai đoạn 2011-2020” và “Kế hoạch
Hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của ngành Giáo
dục giai đoạn 2011-2015”, đồng thời Bộ GD-ĐT cũng
tăng cường quan hệ hợp tác với các bộ, ngành, các tổ
chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh
vực quản lí rủi ro thiên tai tại Việt Nam. Trong năm 2014
và năm 2015, Bộ GD-ĐT đã tổ chức thực hiện các đề án
đã được phê duyệt; tập huấn đội ngũ giáo viên về tích
hợp giáo dục phòng, chống thiên tai và ứng phó với
BĐKH trong các cơ sở giáo dục cũng như xây dựng bài
giảng điện tử E-learning về phòng, chống thiên tai và ứng
phó với BĐKH cho các cấp học. Bộ GD-ĐT đã định
hướng đưa vấn đề GDBĐKH thành một nội dung giảng
dạy quan trọng trong các trường phổ thông và được giảng
dạy linh hoạt, phù hợp đối với từng cấp học. Cụ thể, bậc
mầm non sẽ được GDBĐKH thông qua tuyển tập các bài
thơ, bài hát, trò chơi...; cấp tiểu học, THCS, THPT, các
trung tâm GDTX chủ yếu biên soạn tài liệu tích hợp lồng
ghép nội dung GDBĐKH vào các môn học như Tự nhiên
và Xã hội, Địa lí, Sinh học, Kĩ thuật nông nghiệp, Giáo
dục công dân; ở các trường đại học, cao đẳng khối sư
phạm, nội dung này đã được đưa thành một chương riêng
trong học phần “Con người và Môi trường”, “Khoa học
môi trường”, “Môi trường và phát triển bền vững” [12].
Ngày 21/2/2013 tại Hà Nội, Cơ quan Hợp tác Phát
triển Quốc Thụy Điển và Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ
trợ Giáo dục vì phát triển bền vững đã tổ chức hội thảo
“Giáo dục về biến đổi khí hậu”, nhằm phát triển năng lực
giảng dạy và nghiên cứu GDBĐKH tại các trường phổ
thông bằng phương pháp hiện đại, thu hút sự tìm tòi, yêu
thích của HS. 06 trường được thí điểm đầu tiên đó là 02
trường tại Hải Phòng, 01 trường tại Hà Nội, 01 trường tại
Đồng Tháp và 02 trường tại Thừa Thiên Huế.
Tuy nhiên trên thực tế, BĐKH chưa được xây dựng
thành một môn học riêng ở trường phổ thông, chưa có sách
giáo khoa, giáo trình giảng dạy riêng, do đó chưa được chú
trọng và đầu tư một cách đầy đủ về nội dung chương trình,
cơ sở vật chất, đào tạo giáo viên chuyên sâu. Hiện nay nội
dung GDBĐKH chỉ mới được tích hợp, lồng ghép vào một
số môn học trong trường phổ thông như Địa Lí, Sinh học,
Vật lí, Hóa học, Giáo dục công dân, Công nghệ và thông
qua một số dự án, một số hoạt động ngoại khóa tổ chức
trong trường học để GDBĐKH. Điều này đã gây nên hạn
chế rất lớn cho vấn đề GDBĐKH: Bản thân nội dung các
môn học ở phổ thông bao gồm nhiều vấn đề đặc trưng của
môn học, thậm chí nhiều môn học còn bị tình trạng chương
trình quá tải, thời lượng giảng dạy hạn hẹp, do đó tích hợp,
lồng ghép GDBĐKH chỉ có thể chiếm một nội dung và thời
lượng nhỏ trong chương trình, rất khó để giáo viên có thể
GDBĐKH cho HS một cách hiệu quả và có hệ thống.
Hiện nay, một số địa phương ở Việt Nam, đặc biệt là
những nơi bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các thiên tai do
BĐKH gây ra, đã xuất hiện những dự án do Bộ GD-ĐT
phối hợp với địa phương hoặc do các tổ chức giáo dục, môi
trường nước ngoài phối hợp với địa phương tổ chức tập
huấn cho giáo viên về nội dung, phương pháp và phương
thức GDBĐKH cho HS phổ thông. Tuy nhiên do giới hạn
về kinh phí, cơ sở vật chất và nhiều yếu tố khác nên các hoạt
động này chỉ có thể thực hiện thí điểm được ở một số trường
tại một số tỉnh thành của Việt Nam, trong những khoảng
thời gian nhất định, chứ chưa có điều kiện phổ biến rộng rãi
đến giáo viên và HS trung học phổ thông trong cả nước.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221
220
Bên cạnh đó, GDBĐKH ở Việt Nam hiện nay vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế như: bản thân nhiều giáo viên
chưa ý thức được tầm quan trọng của GDBĐKH; lương
thấp khiến nhiều giáo viên phải dành thời gian bươn chải,
chưa toàn tâm toàn ý cho giáo dục; nhiều giáo viên nữ bị
ảnh hưởng bởi công việc gia đình và chăm sóc con cái;
nhiều giáo viên lớn tuổi không tiếp xúc nhiều với công
nghệ, truyền thông để có thể hỗ trợ tốt cho GDBĐKH;
một số địa phương kinh tế kém phát triển và thiếu cơ sở
vật chất kĩ thuật cũng ảnh hướng đến việc thiết kế và tổ
chức các hoạt động GDBĐKH
2.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục biến đổi khí
hậu ở Việt Nam
Từ thực tiễn, kinh nghiệm GDBĐKH ở các nước
châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore cùng
những tồn tại trong công tác GDBĐKH ở các trường phổ
thông Việt Nam hiện nay, chúng tôi đề xuất một số giải
pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục BĐKH trong trường
phổ thông như sau:
- Tăng cường xây dựng các nguồn lực về cơ sở vật
chất hạ tầng phục vụ GDBĐKH. Huy động các nguồn
đầu tư từ Bộ GD-ĐT, các cơ quan ban ngành, địa
phương, từ các cá nhân và cộng đồng để xây dựng cho
HS môi trường học tập xanh - sạch - đẹp, thân thiện môi
trường. Cần tổ chức nghiên cứu, thiết kế mô hình và xây
dựng thí điểm mẫu trường, lớp học phòng, chống thiên
tai tại những khu vực đặc thù.
- Tăng cường công tác quản lí, chỉ đạo về GDBĐKH.
Lãnh đạo nhà trường cần quán triệt nhiệm vụ GDBĐKH
đến từng cán bộ và giáo viên trong toàn trường; tổ chức
các hoạt động thân thiện với môi trường, cải thiện môi
trường trường học. Các trường học cần phối hợp chặt chẽ
với địa phương và cộng đồng dân cư tại khu vực trường
đóng để tổ chức hiệu quả các hoạt động GDBĐKH, kết
hợp với giáo dục môi trường.
- Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các nguồn tài
liệu, sách giáo khoa phục vụ cho công tác GDBĐKH
như: (1) Xây dựng chương trình GDBĐKH thành một
môn học hoặc chuyên đề dạy học riêng ở trường phổ
thông, có sách giáo khoa riêng và có giáo viên chuyên
môn về GDBĐKH; (2) Tiếp tục lồng ghép tích hợp nội
dung GDBĐKH vào các môn học có liên quan như Địa
lí, Sinh học, Kĩ thuật nông nghiệp, Giáo dục công dân,
Hóa học, Công nghệ; (3) Biên soạn và phát hành rộng
rãi các tài liệu phục vụ GDBĐKH đến tận từng giáo viên
và HS trong các trường học; (4) Xây dựng website
GDBĐKH nhằm tận dụng lợi thế của cách mạng công
nghiệp 4.0 vào GDBĐKH; (5) Xây dựng bài giảng điện
tử e-learning về phòng, chống thiên tai và ứng phó với
BĐKH cho các cấp học, bậc học.
- Đổi mới hình thức và phương pháp giáo dục để kích
thích sự hứng thú quan tâm của HS phổ thông đến vấn đề
BĐKH. Đối với hình thức giảng dạy nội khóa trên lớp,
giáo viên cần chú trọng đến các phương pháp giảng dạy
“lấy người học làm trung tâm”, kích thích tính tích cực chủ
động sáng tạo của người học, giúp HS quan tâm đến các
vấn đề môi trường, BĐKH, đồng thời khuyến khích các
em tư duy tìm giải pháp để giải quyết các vấn đề đó. Giáo
viên cần chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong
giảng dạy bằng cách cung cấp cho HS hình ảnh, video, dữ
liệu, thông tin về BĐKH để kích thích hứng thú học tập,
giúp HS quan tâm hơn đến những vấn đề BĐKH. Đối với
các hoạt động ngoại khóa, giáo viên cần đa dạng hóa và
thu hút HS tham gia thông qua các hoạt động trải nghiệm
sáng tạo, vừa chơi vừa học như: thành lập và hoạt động
câu lạc bộ ứng phó với BĐKH, tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu về nhận thức và kĩ năng BĐKH, tổ chức các lớp tập
huấn kĩ năng ứng phó với BĐKH (sơ cứu vết thương,
chằng chống nhà cửa, bơi và thở dưới nước), tổ chức
các hoạt động bảo vệ môi trường ở trường học và địa
phương, tuyên truyền bảo vệ môi trường, tổ chức chiến
dịch Giờ Trái đất, tổ chức tham quan, thực địa đến các
điểm nóng về môi trường Các hoạt động ngoại khóa cần
có sự phối hợp với các tổ chức Đoàn, Đội, Hội HS... trong
nhà trường, kêu gọi sự hợp tác của Hội phụ huynh, các tổ
chức cộng đồng ở địa phương.
- Đào tạo đội ngũ giáo viên có trình độ và kĩ năng cần
thiết để thực hiện GDBĐKH cho HS. Các trường đại học
sư phạm cần có chuyên ngành đào tạo giáo viên BĐKH
để tạo ra đội ngũ giáo viên chuyên sâu có kiến thức và kĩ
năng trong công tác này. Giáo viên của những môn học
có thể lồng ghép, tích hợp nội dung GDBĐKH cần được
tham gia thường xuyên các lớp tập huấn để nâng cao
nhận thức, trình độ và phương pháp giáo dục nhằm hỗ
trợ cho giảng dạy.
- Cần điều chỉnh chế độ lương, thưởng hợp lí để nâng
cao chất lượng cuộc sống cho giáo viên, giúp họ có thể
chuyên tâm tập trung cho công tác giảng dạy chuyên
môn. Xây dựng và ban hành các quy chế, chế độ khen
thưởng và đãi ngộ thoả đáng cho các cán bộ quản lí, giáo
viên có thành tích về GDBĐKH.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
GDBĐKH thông qua các dự án hợp tác với nước ngoài
để học hỏi những kinh nghiệm, tài liệu, phương pháp hay
của các quốc gia trên thế giới và tìm kiếm những sự hỗ
trợ, đầu tư nhằm phát triển và nâng cao chất lượng
GDBĐKH ở Việt Nam.
3. Kết luận
BĐKH toàn cầu đã, đang và sẽ tác động nghiêm trọng
đến sự phát triển KT-XH của các quốc gia trên thế giới,
đe dọa đến sự phát triển bền vững của toàn nhân loại, đặc
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221
221
biệt là những khu vực dễ bị tổn thương như châu Á - Thái
Bình Dương, trong đó có Việt Nam. Đối phó với BĐKH,
ngăn ngừa những tác động có hại của nó là một cuộc
chiến đấu chung, lâu dài đòi hỏi mọi người, mọi quốc gia
phải chung tay góp sức. Đồng thời, mỗi quốc gia cần dựa
trên những đặc điểm đặc thù về tự nhiên, dân cư, KT-XH
của mình để đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm ứng
phó với thiên tai và những diễn biến ngày càng phức tạp
của BĐKH. Trong đó, không riêng Việt Nam mà bất cứ
quốc gia nào cũng cần chú trọng đến giáo dục như một
giải pháp lâu dài và bền vững nhằm nâng cao nhận thức
về BĐKH, rèn luyện kĩ năng ứng phó với thiên tai và
thay đổi thái độ để có những hành động bảo vệ môi
trường cho thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của nhân loại.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012). Kịch bản biến
đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam. NXB
Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam.
[2] ADB (2017). A Region at Risk - The Human
Dimensions of Climate Change in Asia and the
Pacific. Publication Stock No. TCS178839-2.
[3] Han, Q. (2015). Education for Sustainable Development
and Climate Change Education in China: A Status
Report. SAGE Publications, Vol. 9 (1), pp. 62-67.
[4] UNESCO (2010). “Climate Change Education for
Sustainable Development”, Decade of Education
for Sustainable Development. Published by
UNESCO France.
[5] UNESCO (2012). Education Sector Responses to
Climate Change. Published by UNESCO Bangkok.
[6] Li Yan ( 2014). Luận bàn cách thức giáo dục biến
đổi khí hậu cho thanh thiếu niên. Tạp chí Kinh tế
thương mại và Xã hội Trung Quốc, số 23, tr 34-35.
[7] Bộ Giáo dục nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2017).
Chương trình giáo dục Địa lí trung học phổ thông chuẩn.
[8] Chang, C. H. (2012). The Changing Climate of
Teaching and Learning School Geography: The Case of
Singapore. International Research in Geographical and
Environmental Education, Vol. 21 (4), pp. 283-285.
[9] Chang, C. H. (2014). Is Singapore's School Geography
Becoming Too Responsive to the Changing Needs of
Society? International Research in Geographical and
Environmental Education, Vol. 23 (1), pp. 25-39.
[10] Nguyễn Trọng Hiệu - Trọng Thục - Trần Văn Thắng
(2010). Biến đổi khí hậu và tác động ở Việt Nam.
NXB Giáo dục Việt Nam.
[11] Đặng Duy Lợi - Đào Ngọc Hùng (2016). Giáo trình
Biến đổi khí hậu. NXB Đại học Sư phạm.
[12] Lê Văn Khoa (chủ biên, 2012). Giáo dục ứng phó
với biến đổi khí hậu. NXB Giáo dục Việt Nam.
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP
(Tiếp theo trang 183)
Bước 3. Tổ chức các hoạt động học tập cho HS.
Bước 4. Tổng kết kiến thức và giao các nhiệm vụ về
nhà cho HS: nhằm tổng kết các hoạt động HS đã thực
hiện. Những kiến thức cơ bản được nhắc lại dưới dạng
cô đọng, súc tích, nhất là ở các sơ đồ, mô hình, tài liệu
trực quan, liên hệ kiến thức đã học với thực tiễn. GV
hướng dẫn HS thực hiện các nhiệm vụ học tập ở nhà,
cách đọc tài liệu tham khảo để bổ sung kiến thức; từ đó,
giúp các em yêu thích và say mê học tập môn Toán.
3. Kết luận
Đối với HS tiểu học thì tư duy trực quan và hình
tượng chiếm ưu thế, nhận thức của các em chủ yếu là
nhận thức trực quan cảm tính; khả năng phân tích, tổng
hợp, làm rõ mối liên hệ giữa các kiến thức trong quá trình
lĩnh hội tri thức mới cũng như trong thực hành chưa sâu
sắc. Do vậy, để giúp HS lớp 5 học tốt môn Toán về Tỉ số
phần trăm, GV cần tập luyện cho HS có thói quen phân
tích, nhận diện các dạng toán trước khi đưa ra cách giải;
có sự gợi ý, hướng dẫn để HS hiểu ý nghĩa của tỉ số phần
trăm trong từng tình huống cụ thể, thiết kế một số bài
toán tích hợp về Tỉ số phần trăm nhằm giúp các em phát
huy tính sáng tạo, khả năng suy luận, tạo không khí lớp
học sôi nổi, hào hứng,; qua đó góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ
thông - Chương trình tổng thể.
[2] Đỗ Đình Hoan (chủ biên, 2006). Toán 5. NXB Giáo
dục.
[3] Trần Diên Hiển (chủ biên, 2018). Bài tập phát triển
năng lực. NXB Giáo dục Việt Nam.
[4] Đỗ Đình Hoan (chủ biên) - Nguyễn Áng - Đỗ Tiến
Đạt (2007). Hỏi - Đáp về dạy học Toán 5. NXB Giáo
dục.
[5] Đỗ Trung Hiệu - Đỗ Đình Hoan - Vũ Dương Thụy
- Vũ Quốc Chung (1995). Phương pháp dạy học
môn Toán ở tiểu học. NXB Đại học Sư phạm.
[6] Nguyễn Bá Kim (2005). Phương pháp dạy học môn
Toán. NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
[7] Kiều Đức Thành (chủ biên, 2001). Một số vấn đề về
nội dung và phương pháp dạy học môn Toán ở tiểu
học. NXB Giáo dục.
[8] Phan Trọng Ngọ - Nguyễn Đức Hướng (2001). Các
lí thuyết phát triển tâm lí. NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 44nguyen_thi_hien_2583_2164609.pdf