Giáo dục bậc cao trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tài liệu Giáo dục bậc cao trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư 48 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0005 Educational Sciences, 2018, Vol. 63, Iss. 2, pp. 48-60 This paper is available online at GIÁO DỤC BẬC CAO TRONG THỜI ĐẠI CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ Lê Thị Minh Đức Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin Hữu nghị Việt - Hàn Tóm tắt. Giáo dục bậc cao đứng trước cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi phải đổi mới căn bản và toàn diện vì giáo dục bậc cao là yếu tố trọng yếu của các chương trình phát triển quốc gia, là một hình thức quan trọng trong đầu tư vốn nhân lực, có thể mang lại những chuyển biến và thay đổi tích cực cho một quốc gia, một nền kinh tế. Có thể nói giáo dục bậc cao trong bối cảnh Công nghiệp 4.0 là một vấn đề phức tạp, cần được quan tâm thích đáng. Mục tiêu của nghiên cứu này là đề xuất các giải pháp cho giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Căn cứ trên phương pháp nghiên cứu định...

pdf13 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 421 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo dục bậc cao trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư 48 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0005 Educational Sciences, 2018, Vol. 63, Iss. 2, pp. 48-60 This paper is available online at GIÁO DỤC BẬC CAO TRONG THỜI ĐẠI CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ Lê Thị Minh Đức Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin Hữu nghị Việt - Hàn Tóm tắt. Giáo dục bậc cao đứng trước cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi phải đổi mới căn bản và toàn diện vì giáo dục bậc cao là yếu tố trọng yếu của các chương trình phát triển quốc gia, là một hình thức quan trọng trong đầu tư vốn nhân lực, có thể mang lại những chuyển biến và thay đổi tích cực cho một quốc gia, một nền kinh tế. Có thể nói giáo dục bậc cao trong bối cảnh Công nghiệp 4.0 là một vấn đề phức tạp, cần được quan tâm thích đáng. Mục tiêu của nghiên cứu này là đề xuất các giải pháp cho giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Căn cứ trên phương pháp nghiên cứu định tính, tác giả đã quan sát, phân tích và tổng hợp các tài liệu liên quan về giáo dục bậc cao và cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Bài báo trình bày khái quát về giáo dục bậc cao và các đặc điểm cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tiếp theo, tác giả nhấn mạnh trọng tâm chính là các giải pháp cho giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cụ thể là phân chia thành ba nhóm giải pháp: Giảng dạy 4.0, nghiên cứu 4.0 và dịch vụ đào tạo 4.0. Từ khóa: Giáo dục bậc cao; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Giảng dạy 4.0; Nghiên cứu 4.0; Dịch vụ đào tạo 4.0. 1. Mở đầu Giáo dục bậc cao đứng trước cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là một vấn đề phức tạp, cần được quan tâm thích đáng vì giáo dục bậc cao là yếu tố trọng yếu của các chương trình phát triển quốc gia, là một hình thức quan trọng trong đầu tư vốn nhân lực, có thể mang lại những chuyển biến và thay đổi tích cực cho một quốc gia, một nền kinh tế. Các trường Đại học, Cao đẳng không chỉ đóng vai trò chủ chốt trong đào tạo nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao mà thực sự đã và đang trở thành các trung tâm nghiên cứu lớn về sản xuất tri thức và chuyển giao công nghệ hiện đại. Sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi giáo dục bậc cao phải đem lại cho người học những kĩ năng và kiến thức cơ bản lẫn tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với các yêu cầu công việc thay đổi liên tục để tránh nguy cơ bị đào thải [3, 20]. Các nghiên cứu trên thế giới về tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư lên giáo dục phát triển nhanh chóng, các ý tưởng mới không ngừng được đề xuất. Nghiên cứu “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” của tác giả Thái Hữu Thịnh (2017) khẳng định cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực giáo dục [28]. Nghiên cứu kết luận công nghệ “Thực tế ảo” sẽ thay đổi cách dạy và học và số lượng giáo viên ảo trong tương lai có thể nhiều hơn giáo viên thực rất nhiều [28]. Ngày nhận bài: 21/6/2017. Ngày chỉnh sửa: 22/10/2017. Ngày nhận đăng: 27/10/2017. Tác giả liên hệ: Lê Thị Minh Đức, e-mail: ducltm@viethanit.edu.vn Lê Thị Minh Đức 49 Tác giả Phạm Hồng Quất và Lương Văn Thường (2017) nhấn mạnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra với vai trò trung tâm của công nghệ số trên cơ sở tiếp nối thành quả của cuộc Cách mạng số hóa diễn ra mấy thập kỉ qua từ khi có máy tính. Các tác giả này đã đề xuất mô hình trung tâm đổi mới sáng tạo trong các trường đại học. Đầu vào của trung tâm là kết quả nghiên cứu hình thành từ các đề tài, dự án của trường được đầu tư trên cơ sở hợp tác với các doanh nghiệp và ý tưởng công nghệ của sinh viên, thạc sĩ, nghiên cứu sinh, giảng viên trong trường đại học [22]. Tại Hội thảo quốc tế với chủ đề “Mô hình đại học 4.0 - Nền tảng giáo dục thế kỉ XXI”, Giáo sư Vossen (Đại học Munster, Đức) đã đề xuất mô hình đại học 4.0: Dạy học 4.0 - Nghiên cứu 4.0 - Quản lí 4.0. Các trường Đại học, Cao đẳng cần có những hoạch định về mục tiêu, chiến lược đào tạo, hình thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin [31]. Cùng chung quan điểm này, tác giả đã đề xuất một số giải pháp cho giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cụ thể là phân chia thành ba nhóm giải pháp - giảng dạy 4.0, nghiên cứu 4.0 và dịch vụ đào tạo 4.0. Đây cũng là mục đích chính của nghiên cứu “Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư”. Trên cơ sở tìm hiểu các nghiên cứu về giáo dục bậc cao và đặc điểm của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sử dụng phương pháp quan sát, phân tích và tổng hợp các vấn đề liên quan, các nhóm giải pháp đã được đề xuất cho giáo dục bậc cao nhằm cung cấp nhân lực cho cuộc cạnh tranh kinh tế trong nền công nghiệp 4.0. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư 2.1.1. Tổng quan về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Cụm từ “Cách mạng công nghiệp” hàm chứa sự thay đổi lớn, không chỉ biến đổi kinh tế mà cả văn hóa, xã hội một cách toàn diện. Lịch sử đã ghi nhận ba cuộc cách mạng khoa học kỉ thuật chính thức, làm thay đổi toàn bộ nền sản xuất và các điều kiện kinh tế - xã hội của thế giới. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra từ những năm 2000 là sự kết hợp giữa thành quả của 3 cuộc Cách mạng công nghiệp trước đó với thế giới kĩ thuật số. Nó mở ra một kỉ nguyên công nghiệp lớn gồm các công nghệ mới kết hợp thế giới thực và kĩ thuật số, ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực và các ngành kinh tế [6]. Một từ khóa mới là “Công nghiệp 4.0” lần đầu được phát biểu tại Hội chợ Hannover vào năm 2011, giới thiệu các chiến lược công nghệ cao của Chính phủ Đức. Thuật ngữ này nhằm chỉ các công nghệ tự động hóa hiện đại, xu hướng trao đổi dữ liệu, sản xuất thông minh, điện toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người. Hiện nay, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi khuôn khổ dự án của Đức với sự tham gia của nhiều nước, trở thành một phần quan trọng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trung tâm của cuộc cách mạng này là những đột phá công nghệ trong các lĩnh vực như công nghệ nano, công nghệ in 3D, ô tô tự lái, trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật [28]. Sự liên kết giữa các lĩnh vực vật lí-sinh học hoặc cơ -điện tử-sinh học phát triển hình thành những ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến tương tác giữa con người và máy móc (ví dụ: nghề trợ lí ảo, phục vụ ảo, thư ký ảo). Với những bước đột phá trong các lĩnh vực khác nhau, chúng ta dần dần nhận ra mình đang ở giữa cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cuộc cách mạng được thúc đẩy bởi trí tuệ nhân tạo Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư 50 (Artificial Intelligence) và các hệ thống thực ảo (Cyber-Physical System) [6]. Có thể hình dung, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tiến tới loại bỏ những công việc phổ thông hoặc mang tính chất lặp đi lặp lại, thay thế toàn bộ bằng máy móc và sẽ cách mạng hóa các ngành công nghiệp một cách triệt để đến nỗi hầu hết công việc tồn tại ngày nay sẽ không tồn tại trong vòng 50 năm nữa. 2.1.2. Dấu hiệu đặc trưng Các dấu hiệu đặc trưng cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được mô tả sau đây: Số hóa và Tích hợp chuỗi giá trị dọc và ngang: Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư số hóa và tích hợp theo chiều dọc các quy trình trong toàn bộ tổ chức. Nó cũng tích hợp theo chiều ngang tất cả các quy trình nội bộ từ các nhà cung cấp cho đến khách hàng. Một cách đơn giản, nó mô tả sự chuyển đổi mô hình từ sản xuất tập trung (gom các địa điểm sản xuất vào một địa điểm, khu vực) sang sản xuất phân tán (các cơ sở sản xuất được đặt ở nhiều địa điểm cách xa nhau, thậm chí tại mỗi quốc gia nơi công ti tiêu thụ sản phẩm sẽ có một cơ sở sản xuất), nhờ đó mà các thiết bị, máy móc được tích hợp chặt chẽ vào mạng thông tin, các đối tác kinh doanh và khách hàng. Nói cách khác, kỉ nguyên Công nghiệp 4.0 nhấn mạnh đến ý tưởng thống nhất số hóa và sự liên kết tất cả các đơn vị sản xuất trong một nền kinh tế. Số hóa các sản phẩm, dịch vụ: Số hóa các sản phẩm, dịch vụ bao gồm việc mở rộng các sản phẩm, dịch vụ hiện tại và sản xuất các sản phẩm số hóa mới. Cho đến nay, lợi ích chính mang lại cho các công ti công nghiệp là sự cải thiện mức độ tự động hóa nhưng trong thời đại Công nghiệp 4.0, việc tự động hóa này sẽ thông minh và tự thích nghi hơn khi các cải tiến được thực hiện trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Các xưởng sản xuất đang tiến tới sản xuất tự điều chỉnh (có thể thích ứng với nhu cầu của từng khách hàng) và có khả năng tự học. Mô hình kinh doanh số và sự tiếp cận của khách hàng: Các công ti công nghiệp nổi bật đã cung cấp các giải pháp số hóa đột phá cho mục đích mở rộng các dịch vụ của họ. Trong kỉ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, có thể kết hợp một cách linh hoạt các mô hình kinh doanh khác nhau với sự tiếp cận của khách hàng (ví dụ như sản xuất theo yêu cầu, sản xuất tại chỗ và kĩ thuật tiêu dùng) và từ đó tạo ra các phương pháp sản xuất mới. Các mô hình kinh doanh số đột phá sẽ tập trung vào việc tạo thêm doanh thu số và tối ưu hóa trải nghiệm của khách hàng về tương tác và cách tiếp cận. 2.2. Giáo dục bậc cao 2.2.1. Khái niệm Giáo dục bậc cao Giáo dục bậc cao là hình thức giáo dục, đào tạo diễn ra ở các cơ sở học tập bậc sau trung học như cao đẳng, đại học và sau đại học, cuối khóa học thường được trao văn bằng học thuật hoặc cấp chứng chỉ. Giáo dục bậc cao giúp cho người học đạt được các chuẩn kiến thức nhất định, hoặc trở thành nhà nghiên cứu và giảng dạy, giúp họ trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao và có những đóng góp lớn hơn cho xã hội. Các cơ sở giáo dục bậc cao không chỉ bao gồm các trường đại học và viện đại học, mà còn có các trường cao đẳng, trường đào tạo chuyên nghiệp, trường đào tạo nghề, các trường đào tạo từ xa về giáo dục bậc cao và các viện kĩ thuật, công nghệ. 2.2.2. Lịch sử phát triển của giáo dục bậc cao Chúng ta có thể thấy rằng sự phát triển của hệ thống giáo dục bậc cao đã trải qua các giai đoạn: Đào tạo tinh hoa; Đào tạo đại chúng; Đào tạo thời kì hậu đại chúng. Lê Thị Minh Đức 51 Đào tạo tinh hoa: Giáo dục bậc cao có nguồn gốc sâu xa bắt đầu từ các trường học tu viện ở thế kỉ thứ 6 và sau đó phát triển thành Đại học Châu Âu thời trung cổ. Nhiệm vụ chủ yếu của các trường đại học là đào tạo tinh hoa ở các lĩnh vực hành chính, luật, y... phục vụ nhu cầu cho Nhà nước và nhà thờ. Nói cách khác, trong giai đoạn đầu của nó, giáo dục bậc cao được phát triển để hình thànhvà chi phối tư duy của giai cấp cầm quyền [29]. Đào tạo đại chúng: Vào những năm cuối thế kỉ 20, căng thẳng giữa giáo dục với tư cách là một quyền tư nhân hoặc là một lợi ích công đã thúc đẩy xu hướng “đại chúng hóa”, nghĩa là cung cấp nền giáo dục bậc cao cho nhiều người. Giáo dục bậc cao đã tạo ra những thay đổi theo nhiều khía cạnh như quy mô và hình dạng của hệ thống, chương trình giảng dạy, cơ cấu tổ chức, phương thức chuyển giao, mô hình nghiên cứu và mối quan hệ giữa các viện nghiên cứu và cộng đồng khác bên ngoài. Mục tiêu chính của giáo dục đại chúng là nhằm chuyển giao kĩ năng và chuẩn bị cho nhiều vai trò kĩ thuật và kinh tế khác nhau [29]. Đào tạo thời kì hậu đại chúng và kinh tế trí thức: Cùng với quá trình phát triển của khoa học, công nghệ và nền sản xuất hiện đại, những tiến bộ trong quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, giáo dục bậc cao tiếp tục phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, chất lượng lẫn hiệu quả đào tạo. Đại học nghiên cứu và mạng lưới cao đẳng cộng đồng được đa dạng hóa và phát triển mạnh ở các địa phương để đáp ứng nhu cầu phổ cập giáo dục bậc cao. Trường Đại học trở thành trung tâm sản xuất, phát triển và ứng dụng các dịch vụ tri thức, công nghệ cao, phát triển các giá trị văn hóa, xã hội và cộng đồng. 2.2.3. Các chức năng cơ bản của một cơ sở giáo dục bậc cao Nhiệm vụ cốt lõi của giáo dục bậc cao vẫn không thay đổi dù ở bất kể thời đại nào. Mục tiêu của giáo dục bậc cao là đảm bảo chất lượng học tập thông qua công tác giảng dạy, giúp sinh viên có được những kiến thức mới nhất thông qua nghiên cứu khám phá, và để duy trì sự phát triển của xã hội thông qua dịch vụ đào tạo cung cấp. Giảng dạy: Một trong những nhiệm vụ chính của mỗi trường đại học là giáo dục giới trẻ. Do đó, cần phải triển khai các chiến lược giảng dạy phù hợp và tổ chức công việc theo cách thúc đẩy học tập. Điều này liên quan đến các chương trình học tập thích nghi, kinh nghiệm học tập và thái độ học tập suốt đời. Nghiên cứu: Hành trình hướng tới cạnh tranh toàn cầu trong giáo dục bậc cao đòi hỏi các cơ sở giáo dục phải nỗ lực rất nhiều vào nghiên cứu và phát triển (R&D). Các chuyên gia tin rằng việc này bao gồm một phạm vi lớn từ việc triển khai công nghệ mới cho đến hợp tác và cộng tác toàn cầu. Cung cấp dịch vụ đào tạo: Muốn duy trì vị thế cạnh tranh giữa các hệ thống giáo dục bậc cao trên thế giới, chúng ta cần phải cải tiến triệt để các dịch vụ giáo dục. Đặc biệt, chúng ta cần thúc đẩy mạnh hơn việc đổi mới và cạnh tranh trong giáo dục. 2.3. Giải pháp cho giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ảnh hưởng rất lớn đến giáo dục bậc cao trên hai phương diện lớn: Nội dung giảng dạy và Mô hình đào tạo và nghiên cứu. Các trường đại học cần cải cách theo hướng Đại học 4.0 vì nhu cầu và tính cạnh tranh cao và gia tăng nhanh chóng theo thời gian. Mô hình đào tạo cho Đại học 4.0 tuy hiện tại chưa được xác định cụ thể nhưng tổng quát mà nói nó gồm có ba yếu tố: kết nối Internet (IoT), thông minh (công cụ tính toán thông minh với phần Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư 52 cứng và phầm mềm hỗ trợ đào tạo và học tập, quản lý trường học và sinh viên) và có yếu tố con người tham gia trong chu trình. Dựa theo mô hình Công nghiệp 4.0, việc đào tạo, nghiên cứu và cung cấp dịch vụ của giáo dục bậc cao sẽ khác nhiều so với mô hình truyền thống vì sẽ có nhiều yếu tố mới [7]. Từ những vấn đề nêu trên, để có thể vượt qua thách thức và tận dụng cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, tác giả đề xuất ba nhóm giải pháp thực hiện đối với giáo dục bậc cao. 2.3.1. Giảng dạy trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Giảng dạy 4.0) 2.3.1.1. Giảng dạy, học tập và đào tạo có sự hỗ trợ của các thiết bị đeo thông minh Thiết bị đeo thông minh (wearable device) hay còn gọi là thiết bị đeo được là những sản phẩm công nghệ có thể đeo được trên người mà tích hợp các công nghệ hỗ trợ cho người đeo [1]. Các thiết bị đeo phổ biến hiện nay là vòng tay thông minh, đồng hồ thông minh và kính thông minh. Sự đa dạng của các thiết bị đeo thông minh được sản xuất cho thấy sự hình thành một trào lưu công nghệ mới. Công nghệ đeo được (wearable technology) đang ngày một phát triển, làm tăng tính tiện lợi và tính khả thi trong mọi lĩnh vực và cho mọi người. Ngay từ bây giờ, các cơ sở giáo dục phải nhận ra tiềm năng rất lớn của các thiết bị đeo thông minh để có thể thay đổi cách mà chúng ta giảng dạy, đào tạo và giao tiếp với sinh viên cũng như cách mà sinh viên học và tiếp thu [13, 33]. Có thể khái quát năm cách sử dụng thiết bị đeo thông minh để có thể mở ra những cơ hội trong giáo dục bậc cao: Ứng dụng (Application): Phát triển ứng dụng là yếu tố quyết định cho sự thành công của thiết bị đeo được trong cả giáo dục lẫn bên ngoài [19]. Các ứng dụng cho phép giảng viên đưa bài học vào thế giới thực và làm cho nó trở nên phù hợp hơn với thế hệ công nghệ. Ví dụ như ứng dụng Streetmuseum dành cho iOS giúp người dùng hình dung các đường phố Luân Đôn trong suốt lịch sử. Nhờ đó, sinh viên có thể tiếp thu bài học dễ dàng hơn, trực quan hơn. Chuyến đi thực địa ảo (Virtual Field Trip): Thông qua các thiết bị kính thông minh, có thể cho phép sinh viên đi thực địa ảo trên khắp thế giới để tăng cường khả năng học tập và nhìn thấy những địa điểm mà họ chưa bao giờ có cơ hội xem trước [27]. Ví dụ, một giảng viên vật lí có thể đưa sinh viên của mình vào một chuyến thực tế ảo tới lò phản ứng hạt nhân ở Thụy Sĩ hoặc một giảng viên xã hội học đi qua Quảng trường Thời đại ở New York và mô tả các khái niệm xã hội học mà ông thấy ở đó thay vì chỉ giảng về chúng. Học tập qua trải nghiệm (Experiential Learning): Giáo dục đang chuyển sang một “kỉ nguyên mới” của việc học tập trải nghiệm, ở đó sinh viên có thể “sống” trong bài học thay vì chỉ đọc về nó [8, 21]. Các thiết bị đeo được, ví dụ thiết bị thực tế ảo đội đầu Oculus Rift, cho phép sinh viên trải nghiệm việc học theo một cách hoàn toàn mới, từ đó mang lại cảm giác thích thú hơn với các bài học. Công nghệ thực tế tăng cường (Augmented Realiti - AR): Ngược lại với thực tế ảo (Virtual Realiti), công nghệ AR cho phép chúng ta nhìn thấy những hình ảnh xung quanh trong khi đang tương tác với thế giới thật. Với sự tiến bộ của các công nghệ đeo được, có thể nói rằng công nghệ AR đang phát triển và từ đó tạo ra các phòng thí nghiệm ảo. AR có thể bổ sung thực tế thông qua việc tạo ra các thông tin máy tính theo thời gian thực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm và giải thích kết quả [4, 23]. Ngoài ra còn có các công nghệ biến sách điện tử thành các thực nghiệm học tập 3 chiều, đưa ra các minh họa để giúp sinh viên dễ hiểu và nắm bắt hơn [2]. Lê Thị Minh Đức 53 Kết nối với các chuyên gia bên ngoài (Outside Expert): Công nghệ đeo được và công nghệ di động giúp mọi người dễ dàng kết nối với nhau. Đối với thị trường giáo dục, điều đó có nghĩa là giảng viên có thể kết nối sinh viên của họ với các giảng viên và chuyên gia khác bên ngoài. Công nghệ như vậy giúp xóa bỏ ranh giới giữa cộng đồng và lớp học. 2.3.1.2. Khóa học đại trà trực tuyến mở - Massive Open Online Course (MOOC) Giảng dạy từ lâu đã bị hạn chế bởi các kịch bản sau: Sinh viên tập trung tại một giảng đường để nghe giáo sư giảng hoặc ngồi quanh một bàn làm việc để thảo luận với các sinh viên khác. Tuy nhiên, đổi mới công nghệ đang giảm dần những khó khăn đó và mang lại những thay đổi triệt để cho giáo dục bậc cao. Các khóa học đại trà trực tuyến mở là một hình thức giáo dục cung cấp các hướng dẫn độc lập trực tuyến [30, 32]. Hai yếu tố chính là cơ sở cho chi phí của một trường đại học là yêu cầu về khoảng cách vật lí và giới hạn năng suất. Do yêu cầu về khoảng cách vật lí nên đòi hỏi có sự gia tăng về nhà ở cho sinh viên và giảng viên. Do giới hạn năng suất, số học viên tối đa có thể được phân bố vào các địa điểm giảng dạy bị hạn chế. MOOCs có thể loại bỏ những trở ngại này bằng một cách làm việc hoàn toàn khác: ngoài khuôn viên trường học và mô hình trực tuyến [14]. MOOC là một khóa học trực tuyến (online) nhắm tới số lượng lớn người tham gia trên phạm vi lớn (massive) và được truy cập miễn phí qua mạng Internet (tính mở - open) [12, 15]. Mỗi khóa học không chỉ gồm tài liệu, hướng dẫn và các video bài giảng chất lượng cao mà còn đan xen các bài tập bay bài kiểm tra giúp tăng cường việc hiểu và nhớ bài. Ngoài ra, tính mở của khóa học còn thể hiện ở khả năng tương tác giữa giảng viên và học viên (người dùng) thông qua hình thức diễn đàn trao đổi, tạo nên cộng đồng người dùng [11]. Để có thể phát huy hết các lợi ích của MOOC, việc truyền tải các khóa học phải lưu ý đến sự truy cập đồng bộ đến bài giảng, bài thi và các diễn đàn trao đổi và phải sử dụng các công nghệ tân tiến bao gồm cả điện toán đám mây. 2.3.1.3. Mô hình học kết hợp (Blended Learning) Hiện nay, sự bùng nổ của Công nghiệp 4.0 kéo theo sự phát triển về các mô hình dạy học tích hợp công nghệ. Các công cụ, khóa học trực tuyến đã đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ dạy và học. Mô hình Blended Learning được áp dụng nhằm hướng đến mục tiêu phát huy tốt nhất các thế mạnh của các lớp học truyền thống (face to face class) với các giải pháp dạy học trực tuyến (e-learning), qua đó thúc đẩy hiệu quả giảng dạy của giảng viên và việc học tập của học viên [9] [10]. Blended Learning tạo điều kiện cho người học tích cực, chủ động hơn thông qua việc tương tác giữa học viên và học viên để học hỏi lẫn nhau, giữa học viên và giảng viên qua việc hướng dẫn trực tiếp của giảng viên ở cả trên lớp và qua mạng và giữa học viên và tương tác với các chuyên gia ở bất kì nơi nào trên thế giới. Khi triển khai Blended Learning, môi trường ảo mang lại giá trị giáo dục tuyệt vời trong quá trình truyền thông tin và quá trình tham gia tương tác, ngay cả theo thời gian thực (ví dụ: hội thảo video) hoặc khi sự tham gia không đồng thời (ví dụ: diễn đàn). Trong quá trình đó, việc giảng dạy truyền thống và đánh giá có thể được sử dụng để phát triển các biểu hiện phân tích và khả năng giải quyết vấn đề. Giảng viên ở giai đoạn này có thể nhận được phản hồi về hiệu quả của việc truyền đạt kiến thức cho sinh viên. Sau đó, sự hiểu biết về một số khái niệm cụ thể được tiếp tục đánh giá và củng cố thông qua các hình mẫu đồ họa trực tuyến và các câu hỏi kiểm tra trắc nghiệm; điều này cho phép sinh viên có lợi thế khi xem lại kết quả ngay. Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư 54 2.3.1.4. Bồi dưỡng tài năng sáng tạo (Innovative Talent) Hầu hết các quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển thiếu tài năng sáng tạo, đặc biệt là ở cấp cao. Để nắm bắt cơ hội của một làn sóng công nghiệp hóa, hệ thống giáo dục bậc cao của một quốc gia không chỉ tập trung vào đào tạo những người có tay nghề, mà còn có một cái nhìn mới về việc phát triển tài năng sáng tạo, đặc biệt là các nhà khoa học và nhà công nghệ cấp cao. Các nhà khoa học này phải được đào tạo trong một môi trường liên ngành, nơi các nhà công nghệ nên hiểu về nhân văn, khoa học xã hội và ngược lại. 2.3.2. Nghiên cứu trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Nghiên cứu 4.0) 2.3.2.1. Đổi mới mở (Open Innovation) Đổi mới mở đề cập đến phương thức sáng tạo dựa trên chia sẻ, hợp tác giữa các tổ chức. Open Innovation là một khái niệm mới, liên quan đến sự kết hợp của con người và máy tính để tạo thành các hệ thống phân phối nhằm mục đích hoàn thành các nhiệm vụ đổi mới không thể thực hiện được một mình. Nó cho phép tự do chia sẻ kiến thức và kĩ năng, hiện đại hay truyền thống, bao gồm cả việc sử dụng các giấy phép tự do theo tinh thần của dữ liệu mở, nguồn mở, chuẩn mở. Đổi mới mở đang là một xu hướng tất yếu của Kinh tế tri thức, ngày càng được đề cập nhiều trong bối cảnh Công nghiệp 4.0 [16]. Open Innovation là một mô thức thành công của đổi mới sáng tạo tại các nước công nghiệp phát triển. Tốc độ thay đổi công nghệ nhanh, thách thức của nguồn đầu tư vào công nghệ buộc doanh nghiệp phải tiếp cận những mô hình kinh doanh mới, không thể bảo thủ tư duy truyền thống: đóng cửa để tạo thế độc tôn trên thị trường. Một điều thú vị là so với các thực thể thương mại khác, các trường đại học đã rất hăng hái với “những nhà đổi mới” trong một thời gian dài. Phương tiện khai thác công nghệ truyền thống được các trường đại học sử dụng là các công ti spin-out (công ti con phái sinh để công ti mẹ bán đi). Một công ti spin-out nói chung là một thực thể pháp lí riêng biệt được tạo ra để sở hữu và khai thác tài nguyên sở hữu trí tuệ [26]. Các trường đại học thành lập ra spin-out sẽ giữ được một mức độ kiểm soát nhất định các công ti và cổ phần trong sở hữu của nó. Tuy nhiên, bản sắc riêng của spin-out giúp tăng vốn đầu tư dễ dàng hơn và cho phép trường đại học tránh khỏi những nguy cơ về hành động pháp lí và phá sản. Công ti này được lập ra nhằm mục đích (1) chuyển giao một bản quyền sáng chế, (2) tài trợ nghiên cứu phát triển tiếp một công nghệ hoặc sáng chế mà công ti sẽ chuyển giao, hoặc (3) cung cấp một dịch vụ sử dụng kiến thức và kinh nghiệm của Đại học tạo ra [17]. Vì các trường đại học có xu hướng thành lập các thực thể pháp lí riêng biệt để khai thác những đổi mới công nghệ, chủ yếu là vì khai thác công nghệ không phải là chuyên môn chính của họ, các trường đại học có thể được coi là những người tiên phong trong lãnh vực đổi mới mở. Ngược lại, khi các tổ chức thương mại trở nên cởi mở hơn đối với sự đổi mới phát triển bên ngoài, thị trường cho sự đổi mới sinh ra ở trường đại học trở nên rộng hơn. 2.3.2.2. Đổi mới tiến hóa và đổi mới mang tính cách mạng Đối với giáo dục bậc cao trong thời đại công nghiệp lần thứ tư, hệ thống giáo dục bậc cao của một quốc gia nên đặt sự đổi mới, cả đổi mới tiến hóa và đổi mới cách mạng, ở vị trí quan trọng trong chương trình hành động. Nhìn chung, đổi mới dựa trên các công nghệ hiện có được gọi là đổi mới tiến hóa (Evolutionary Innovation) trong khi đổi mới mang tính cách mạng (Revolutionary Innovation) tập trung vào những phát minh khoa học hoặc những sáng chế của công nghệ mới [24]. Lê Thị Minh Đức 55 Trong kỉ nguyên của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, giáo dục bậc cao cần phải đẩy mạnh cải cách hệ thống công nghệ bằng cách phá vỡ mọi rào cản đối với sự đổi mới. Với những đổi mới công nghệ quan trọng đối với công nghiệp hóa, tái công nghiệp hóa và công nghiệp hóa mới nhưng không thể có được lợi nhuận trên thị trường trong thời gian tới, cần phải có sẵn sự hỗ trợ tài chính từ các tổ chức và các cấp chính phủ [16]. Tuy nhiên, đối với các công nghệ ứng dụng khi có thể thương mại hóa, vốn xã hội có thể đóng một vai trò tích cực. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải giải quyết một số các trở ngại khác. Thứ nhất, với chiến lược đổi mới hỗn hợp, các nhà thực hành giáo dục đại học cần phải có một quan điểm toàn cầu. Xu hướng phát triển công nghệ thế giới cần được đánh giá cao và do đó cần có các kế hoạch phù hợp. Mỗi dòng nguồn lực đổi mới (innovation resource), nội bộ, địa phương, khu vực và trên toàn cầu, nên được sử dụng đúng cách. Thứ hai, bằng cách thực hiện các chiến lược phát triển khác nhau và các chính sách khuyến khích qua các bộ phận khác nhau, sự kết nối giữa chúng cần được tối ưu hóa để tránh chồng chéo tiềm ẩn. Thứ ba, tốc độ chuyển giao công nghệ cần được nâng cao để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. 2.3.2.3. Nghiên cứu và phát triển tiến bộ công nghệ mới Tiến bộ công nghệ mới (New Technological Advancement) được xếp hạng là động lực quan trọng nhất cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Công nghệ định hướng R&D có nhiều hình thức khác nhau và nó có thể mang nghĩa là sử dụng các khả năng di động để cải thiện độ chính xác của việc thu thập dữ liệu; sử dụng kĩ thuật phân tích dữ liệu lớn tiên tiến để phát hiện các mẫu thống kê ẩn; khai thác các kĩ thuật trí tuệ nhân tạo để tìm kiếm lại thông tin, thu thập, tổ chức và khám phá kiến thức. Trong bối cảnh công nghiệp 4.0, các tiến bộ công nghệ mới có thể mang lại lợi ích cho giáo dục bậc cao ở ít nhất là 4 lĩnh vực: Giảm chi phí và thời gian, Chuyển đổi hoạt động, Nâng cao quá trình R&D và quan trọng nhất là đổi mới hướng nghiên cứu thông qua việc tạo ra những ý tưởng và lí thuyết mới. Trong thời đại Công nghiệp 4.0, các quy trình R&D với sự trợ giúp của công nghệ tiên tiến sẽ thực hiện xử lí các chức năng như phân tích “trung tâm của giá trị” hơn là của dịch vụ hoặc chi phí, mở rộng quan hệ đối tác và định hình một phong cách R&D riêng biệt. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất là chuyển đổi văn hóa R&D ở giáo dục bậc cao từ cách tiếp cận thác nước đã lỗi thời sang phát triển ý tưởng. Các cơ sở giáo dục bậc cao thực hiện các thay đổi này sẽ hoạt động tốt và thu hút ý tưởng nhiều hơn từ tất cả các loại nguồn lực. 2.3.3. Dịch vụ trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Dịch vụ 4.0) 2.3.3.1. Đại học như là một nền tảng - Universiti-as-a-Platform (U-a-a-P) Trong Dịch vụ 4.0, sự chuyển đổi liên tục sang cạnh tranh dựa trên nền tảng được chi phối bởi nhiều yếu tố: các hoạt động giáo dục; sự phổ biến của máy tính và IoT bên trong và bên ngoài khuôn viên trường học; yêu cầu sinh viên liên quan đến học tập tùy biến (customized learning). Quản lí việc kinh doanh giáo dục bậc cao dựa trên nền tảng đòi hỏi một bộ tư duy chiến lược hoàn toàn khác biệt. Các mô hình kinh doanh này nhấn mạnh đến phong cách tư duy mang tính sinh học hơn là một logic tổ chức đơn thuần. Theo quan điểm rộng hơn, các cơ sở giáo dục bậc cao cần phải khôi phục lại các hệ thống kinh doanh của họ, xác định lại năng cạnh tranh, cải tổ lại lượng khách hàng và xây dựng lại kiến trúc dịch vụ. U-a-a-P cung cấp cho hệ thống giáo dục bậc cao cơ hội chi phối việc kinh doanh của họ hướng đến kinh doanh dựa trên nền tảng nhằm mang lại hiệu suất dịch vụ tốt hơn. Đại học thông minh (Smart Universiti) là tầm nhìn của U-a-a-P, nó thu thập và cung cấp dữ liệu cơ bản để thúc Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư 56 đẩy việc phân tích và cải tiến môi trường giảng dạy và học tập [5]. Dữ liệu cảm biến, dữ liệu liên kết (mở) và kiến thức giảng dạy chính quy là ba nguồn mà Smart Universiti đang khai thác. Động lực chính cho U-a-a-P thành công gồm: (i) cung cấp các mức độ liên ngành (Interdisciplinariti), xuyên ngành (Crossdisciplinariti), đa ngành (Multidisciplinariti) và pha ngành (Transdisciplinariti); (ii) các mô hình dịch vụ hỗn hợp (ví dụ, Blended learning, MOOC); (iii) sự phát triển của IoT; (iv) tích hợp các hoạt động giáo dục thông thường vào phần mềm thông qua một hệ thống tổ chức; (v) cơ sở hạ tầng kĩ thuật số được cập nhật; (vi) tăng cường kết nối giữa tất cả các bên đang tồn tại trong chuỗi giá trị giáo dục bậc cao. 2.3.3.2. Giáo dục như là một dịch vụ - Education-as-a-Service (E-a-a-S) Trong kỉ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, một vài thập kỉ một lần, có một công nghệ đột phá (disruptive technology) phát sinh sẽ làm thay đổi kiến trúc của nhiều ngành. Liên quan đến giáo dục bậc cao, việc phổ biến rộng rãi các công nghệ này, bao gồm thiết bị di động với giá cả phải chăng, kết nối Internet băng thông rộng và nội dung giáo dục phong phú, bắt đầu cho một xu hướng chuyển đổi cải cách giáo dục. Với sự hỗ trợ của đám mây giáo dục (education cloud), các nhà kinh doanh và các nhà hoạch định chính sách của chính phủ có thể trả lời một số câu hỏi chiến lược quan trọng một cách toàn diện: Cung cấp dịch vụ giáo dục nhanh nhất, hiệu quả nhất và khả năng chi trả tốt nhất; Phát triển kĩ năng của sinh viên thế kỉ 21 và chuẩn bị cho sinh viên tìm kiếm việc làm một cách thích hợp nhất; Khuyến khích đổi mới với những phát minh, sáng chế quan trọng; Chia sẻ nguồn lực một cách thống nhất giữa các tổ chức, các huyện, khu vực, hoặc cả nước. Mô hình giáo dục trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Giáo dục 4.0) là mô hình giáo dục thông minh, liên kết nhà trường - nhà quản lí - doanh nghiệp với nhau, đưa tiến bộ công nghệ thông tin vào trường học để nâng cao hiệu quả đào tạo, giúp việc dạy và học diễn ra mọi lúc mọi nơi. Môi trường giáo dục 4.0 không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong sinh viên, nâng cao năng suất lao động trí thức nhằm mang lại giá trị xã hội và đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiêp lần thứ tư. Khi các trường đại học nghĩ đến E-a-a-S, họ thường nghĩ về các chiến dịch quảng cáo cụ thể, ngân sách khuyến mại lớn và một khoản đầu tư khổng lồ cho cơ sở hạ tầng. E-a-a-S xem giáo dục như một dịch vụ thuần túy, trong đó học viên đóng vai trò là khách hàng trung tâm đối với dịch vụ giáo dục đại học [18, 25]. Trung tâm của E-a-a-S là niềm tin rằng nhu cầu của người học cần được đáp ứng hiệu quả. Do đó, khi một cơ sở giáo dục bậc cao thành lập để thu hút một sinh viên tiềm năng như một khách hàng, nó cần phải tạo ra một trải nghiệm giáo dục toàn diện thực sự có khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. E-a-a-S không phải là tạo ra sự khác biệt hình thức thông qua việc thay đổi logo, vị trí, hoặc hứa hẹn mơ hồ với những thuật ngữ sáo rỗng. Hơn nữa, các cơ sở giáo dục bậc cao có trách nhiệm với một loạt các bên liên quan như chính phủ, các quỹ hỗ trợ công và tư nhân, các viện nghiên cứu, quản lí, nhân viên hỗ trợ và sinh viên. Tuy nhiên, có nhiều tổ chức sử dụng chiến lược E-a-a-S một cách kém hiệu quả do cách cung cấp dịch vụ cho các bên liên quan khác nhau. Trong Dịch vụ 4.0, E-a-a-S phải phát hiện ra các chiến lược mới và tiên tiến hơn để đối phó với sự phức tạp xã hội ngày càng tăng. 2.3.3.3. Các chương trình liên kết quốc tế Với tốc độ phát triển nhanh chóng của Công nghiệp 4.0, việc tạo ra nhiều chương trình liên kết giữa các cơ sở đào tạo cả trong nước và quốc tế để cung cấp các chương trình đào tạo linh Lê Thị Minh Đức 57 hoạt và chuyên nghiệp hơn trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Trong số các đề án này, các chương trình sau đây là nổi bật và đáng được xem xét. Chương trình phối hợp đào tạo (twinning programme) với sự hợp tác của một đơn vị đào tạo trong nước và một trường cao đẳng/đại học ở nước ngoài để phát triển một hệ thống kết nối cho phép tín chỉ học được thực hiện ở các địa điểm khác nhau. Các chương trình này có đặc điểm là một nửa chương trình được chuyển giao đào tạo trong nước và nửa còn lại được đào tạo tại nước ngoài. Sau khi hoàn thành chương trình, nhà cung cấp dịch vụ giáo dục nước ngoài sẽ cấp bằng. Lợi ích của chương trình này là tiết kiệm chi phí trong nửa đầu của khóa học, cuối cùng học viên vẫn có được nền tảng ngoại ngữ vượt trội so với học trong nước và những kinh nghiệm sống và làm việc tại nước ngoài. Chương trình nhượng quyền (franchise programme): Nhà cung cấp dịch vụ giáo dục nước ngoài cho phép nhà cung cấp dịch vụ giáo dục trong nước cung cấp khóa học và chương trình đào tạo của họ. Trình độ học viên được đánh giá bởi nhà cung cấp giáo dục nước ngoài. 3. Kết luận Như bất kì một cuộc cách mạng nào khác, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với trung tâm là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, công nghệ nano mang lại những cơ hội khổng lồ đối với giáo dục bậc cao nếu biết tận dụng và đồng thời là thách thức bị tụt hậu và loại bỏ. Nghiên cứu này trình bày những nét tổng quan về giáo dục bậc cao và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ đó nhấn mạnh các giải pháp đề xuất để phát triển giáo dục bậc cao trong thời đại Công nghiệp 4.0. Cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và dịch vụ đào tạo từ các cơ sở giáo dục bậc cao phải đối mặt với các yêu cầu cải cách và cạnh tranh mới. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, một hình thức mới đang nổi lên đối với một cơ sở giáo dục bậc cao là giảng dạy, nghiên cứu và cung cấp dịch vụ đào tạo bằng một cách riêng. Trường học này là liên ngành, có phòng học ảo, giảng viên ảo, thiết bị ảo, phòng thí nghiệm ảo, thư viện ảo dưới sự hỗ trợ của các thiết bị thông minh. Công cuộc “số hóa” thế giới thực thành thế giới ảo không làm suy giảm kinh nghiệm giáo dục mà củng cố, gia tăng nó. Các cơ sở đào tạo nên liên kết với doanh nghiệp để hình thành mô hình trường học mới, hoặc thành lập ra các công ty spin-out, chuyển hướng dần sang tự chủ trong tổ chức và hoạt động, chủ động tìm kiếm các nguồn lực đầu tư bên ngoài, mở rộng các hoạt động đầu tư liên danh, liên kết trong và ngoài nước về giảng dạy, nghiên cứu khoa học và cung cấp dịch vụ đào tạo. Các cơ sở giáo dục bậc cao theo chuẩn giáo dục 4.0 không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo trong sinh viên, nâng cao năng suất lao động nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Apurva Adapa, 2016. Factors influencing the adoption of smart wearable devices. Master Thesis, Missouri University of Science and Technology, United States. [2] Bacca, J., Baldiris, S., Fabregat, R., and Graf, S., 2014. Augmented reality trends in education: A systematic review of research and applications. Journal of Educational Technology and Society, Vol. 17, No. 4, 133-149. Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư 58 [3] Baygin, M., Yetis, H., Karakose, M. and Akin, E., 2016. An effect analysis of industry 4.0 to higher education. Proceeding of the 15th International Conference on Information Technology Based Higher Education and Training, Istanbul, Turkey. [4] Carbonell Carrera, C., and Bermejo Asensio, L. A., 2016. Augmented reality as a digital teaching environment to develop spatial thinking. Cartography and Geographic Information Science, pp. 1-12. [5] Coccoli, M., Guercio, A., Maresca, P., and Stanganelli, L., 2014. Smarter Universities: A Vision for the Fast Changing Digital Era. Proceeding of The 20th International Conference on Distributed Multimedia Systems, Wyndham Pittsburgh University Center, Pittsburgh, USA, pp. 375-382. [6] Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, 2016. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Tổng luận Khoa học Công nghệ Kinh tế, Hà Nội. [7] Đỗ Văn Hùng, 2017. Chia sẻ tài nguyên thông tin giữa các thư viện đại học: Nhận diện các yếu tố tác động và đề xuất mô hình hợp tác. Tạp chí thông tin và tư liệu, Số 1/2017, trang 4-14. [8] Gabriel, G. and Santi, E. A., 2016. Applications of Experiential Learning in Science Education Non-Formal Contexts. Proceeding of International Conference on Education and Educational Psychology, pp. 320-326. [9] Gagnon, D. A., 2014. Perceptions of Blended Learning: A Case Study on Student Experiences in an Advanced Placement Macroeconomics Course. Doctor Disseration, Kennesaw State University, United States. [10] Jachin, N., and Usagawa, T., 2017. Potential Impact of Blended Learning on Teacher Education in Mongolia. Creative Education, Vol. 8, pp. 1481-1494. [11] Knight, P., Tait, J. and Yorke, M., 2006. The professional learning of teachers in higher education. Studies in Higher Education, Vol. 31, No. 3, pp. 319-339. [12] Kop, R., 2011. The challenges to Connectivist learning on open online networks: Learning experience during a Massive Open Online Course. International Review of Research in Open and Distance learning, Vol. 12, No. 3, pp. 19-37. [13] Labus, A., Milutinović, M., Stepanić, D., Stevanović, M., and Milinović, S., 2015. Wearable computing in e-education. Journal of Universal Excellence, No. 1, pp. 39-51. [14] Laurillard, D., 2016. The educational problem that MOOCs could solve: Professional development for teachers of disadvantaged students. Research in Learning Technology, 24, pp. 1-17. [15] Liyanagunawardena, T., Adams, A. and Williams, S., 2013. MOOCs: A systematic study of the published literature 2008-2012. The International Review of Research in Open and Distance Learning, vol. 14, no. 3, pp. 203-227. [16] Michelino, F., Caputo, M., Cammarano, A., and Lamberti, E., 2014. Inbound and Outbound Open Innovation: Organization and Performances. Journal of Technology Management and Innovation, Vol. 9, No. 3, pp. 65-82. [17] Murdock, K. A., Johnsen, L. E., Ølund, M., Kramer Overgaard, M., Broeng, J., Hvidt, O., and Jarnel, N., 2015. Spinning-out university technologies: A role for students in the commercialization process. Proceedings of the American Society for Engineering Management 2015 International Annual Conference, Indianapolis, USA, pp. 1-9. Lê Thị Minh Đức 59 [18] Ng, I., and Forbes, J., 2009. Education as service: The understanding of university experience through service logic. Journal of Marketing for Higher Education, Vol. 19 No. 1, pp. 38-64. [19] Ngai, G., Chan, S. C. F., Cheung, J. C. Y., and Lau, W. W. Y., 2010. Deploying a Wearable Computing Platform for Computing Education. IEEE Transactions on Learning Technologies, Vol. 3, No. 1, pp. 45-55. [20] Ngô Thị Như, 2017. Phát triển năng lực thông tin của sinh viên trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kỷ yếu Hội thảo Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư với quản trị Nhà nước, Hà Nội, trang 203-209. [21] Parahakaran, S., 2017. An Analysis of Theories Related to Experiential Learning for Practical Ethics in Science and Technology. Universal Journal of Educational Research, Vol. 5 No. 6, pp. 1014-1020. [22] Phạm Hồng Quất và Lương Văn Thường, 2017. Mô hình trung tâm đổi mới sáng tạo tại các trường đại học khối ngành kỹ thuật trong hệ sinh thái khởi nghiệp. Tạp chí Công nghệ thông tin và truyền thông, Số 544(734), trang 32-36. [23] Saltan, F. and Arslan, O., 2016. The Use of Augmented Reality in Formal Education: A Scoping Review. EURASIA Journal of Mathematics Science and Technology Education, Vol. 13 No. 2, pp. 503-520. [24] Serdyukov, P., 2017. Innovation in education: what works, what doesn’t, and what to do about it?. Journal of Research in Innovative Teaching and Learning, Vol. 10 Issue: 1, pp. 4-33. [25] Shobha. A. Menon, 2015. Enhancing Service Quality in Higher Education. Journal of Research and Method in Education, Vol. 5 No. 5, pp. 55-60. [26] Smilor, R. W., Gibson, D. V. and Dietrich, G. B., 1990. University spin-out companies: Technology start-ups from UT-Austin. Journal of Business Venturing, Vol. 5 No. 1, pp. 63-76. [27] Stoddard, J., 2009. Toward a virtual field trip model for the social studies. Contemporary Issues in Technology and Teacher Education, Vol. 9 No. 4, pp. 412-438. [28] Thái Hữu Thịnh, 2017. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư – CMCN 4.0. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nghệ An, Số 6/2017, Nghệ An, trang 13-17. [29] Trần Khánh Đức, 2010. Giáo trình Giáo dục đại học Việt Nam và Thế giới. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. [30] Ulrich, C. and Nedelcu, A., 2015. MOOCs in Our University: Hopes and Worries. Procedia - Social and Behavioral Sciences, No. 180, pp. 1541-1547. [31] Vossen, G., 2017. University 4.0: Concepts, challenges, and preliminary (Ercis) experiences. Proceeding of the International Conference on A framework for the 21st century higher education, Ho Chi Minh City, Vietnam. [32] Xing, B., 2015. Massive online open course assisted mechatronics learning: A hybrid approach in Furthering Higher Education Possibilities through Massive Open Online Courses, Chapter 12, pp. 245-268, A. Mesquita and P. Peres, Eds., 701 E. Chocolate Avenue, Hershey PA, USA 17033: IGI Global. [33] Zhou, Y., Xu, T., David, B., and Chalon, R., 2013. Innovative wearable interfaces: An exploratory analysis of paper-based interfaces with camera-glasses device unit. Personal and Ubiquitous Computing, Vol. 18 No. 4, pp. 835-849. Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư 60 ABSTRACT Higher Education in the Fourth Industrial Revolution Era Le Thi Minh Duc Korea- Vietnam Friendship Information Technology College Higher education in the 4th Industrial Revolution era requires a basic and comprehensive innovation because the higher education is considered as a key driver of National Development Programmes; an essential form of human capital investment; a critical input for developing economics. Higher education can help society getting better. That is to say, higher education in the context of Industry 4.0 is a complex field that needs to be paid more attention. This study aims to propose solutions for Higher education in the 4th Industrial Revolution age. Based on the qualitative research method, the author studied innovative teaching pedagogies, used the observation method, and looked-up the related documents on fundamental features of higher education and the 4th Industrial Revolution. As a result of the research, a variety of solutions in terms of Teaching 4.0, Research 4.0 and Service 4.0 in a higher education institution were suggested for Higher education in the 4th Industrial Revolution. Keywords: Higher Education; 4th Industrial Revolution; Teaching 4.0; Research 4.0; Service 4.0.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5079_05_4782_le_thi_minh_duc_8572_2123627.pdf
Tài liệu liên quan