Tài liệu Giảng dạy về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Lý luận, thực tiễn và khuyến nghị: An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 77 – 83
77
GIẢNG DẠY VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Phan Văn Phúc1
1Trường Đại học Cần Thơ
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 19/04/2018
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
19/07/2018
Ngày chấp nhận đăng:
08/2018
Title:
The content of teaching about
Socialist Market-oriented
Economy in Viet Nam: theory,
reality, recommendations
Keywords:
Socialist market – oriented
economy, economic reform,
Vietnam economic model
Từ khóa:
Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đổi mới, mô
hình kinh tế Việt Nam
ABSTRACT
This paper discusses the lecture on the socialist-oriented market economy
which has been identified as the general economic model of Vietnam’s
transitional period by the Communist Party of Vietnam (CPV) since Doi moi
(Renovation) in 1986. Despite remarkable changes in the basic theoretical
percepti...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giảng dạy về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Lý luận, thực tiễn và khuyến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 77 – 83
77
GIẢNG DẠY VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Phan Văn Phúc1
1Trường Đại học Cần Thơ
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 19/04/2018
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
19/07/2018
Ngày chấp nhận đăng:
08/2018
Title:
The content of teaching about
Socialist Market-oriented
Economy in Viet Nam: theory,
reality, recommendations
Keywords:
Socialist market – oriented
economy, economic reform,
Vietnam economic model
Từ khóa:
Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đổi mới, mô
hình kinh tế Việt Nam
ABSTRACT
This paper discusses the lecture on the socialist-oriented market economy
which has been identified as the general economic model of Vietnam’s
transitional period by the Communist Party of Vietnam (CPV) since Doi moi
(Renovation) in 1986. Despite remarkable changes in the basic theoretical
perception, especially in the last ten years, it is still far from a consensus on
the theoretical framework and its compatible political institution. The extent
to which the model’s characteristics which enable to distinguish the socialist
orientation from the nature of the capitalist market economy is of interest in
the current paper. Four problematic issues are deliberated, namely model
purposes, developmental methods, distributional income policies, and
governance. Based on the discussion, I suggest several adjustments in the
textbook of CPV’s Revolutionary Direction in to increase the persuasiveness
of the lecture note of the Vietnamese current economic model.
TÓM TẮT
Bài viết bàn về nội dung được giảng dạy về mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang xây dựng trong
hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù đã có những bước
tiến về nhận thức, đặc biệt trong mười năm qua (2006 – 2016), lý luận về
kinh tế thị trường và thể chế kinh tế gắn liền với nó vẫn còn nhiều vấn đề
chưa rõ. Những hạn chế về lý luận chủ yếu xoay quanh vấn đề định hướng xã
hội chủ nghĩa như mục đích, phương thức phát triển kinh tế thị trường, chính
sách phân phối thu nhập và sự quản lý của Nhà nước. Từ việc phân tích
những tồn tại trong lý luận về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, bài viết đưa ra một số gợi ý để làm phong phú và thuyết phục hơn
nội dung của bài giảng về đường lối phát triển kinh tế thị trường của Đảng
ta hiện nay.
1. GIỚI THIỆU
Lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN) đã trải qua quá trình phát
triển 3 thập kỷ kể từ Đại hội Đảng lần thứ 6
(12/1986). Cùng với việc đổi mới tư duy về mô
hình kinh tế từ kế hoạch tập trung sang kinh tế
hàng hóa, mà trình độ phát triển cao của nó là
kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) đi đến thống nhất về nhận thức: mô
hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 77 – 83
78
chủ nghĩa xã hội (CNXH) là kinh tế thị trường
định hướng XHCN (ĐCSVN, 2001). Mô hình
này được hiểu là nền kinh tế vận hành dựa trên
các quy luật của thị trường, có sự điều tiết của
Nhà nước và kết hợp với định hướng XHCN.
Đảng cũng nhận định đây là mô hình mới, chưa
có trong lịch sử nên việc xây dựng và hoàn
thiện về mặt lý luận, nhận thức còn gặp nhiều
khó khăn, nhiều điểm cần phải tiếp tục làm rõ.
‘‘Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN còn hạn
chế’’(ĐCSVN, 2016). Nghị quyết Hội nghị
Trung ương V khóa XII về hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng
nhấn mạnh:
“Nhận thức về nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN chưa đủ rõ. Tư duy bao cấp
còn ảnh hưởng nặng nề. Năng lực xây dựng
và thực thi thể chế còn nhiều bất cập, chưa
theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước ở các cấp, các ngành,
nhất là người đứng đầu thiếu quyết liệt, hiệu
quả thấp và chưa nghiêm. Vai trò, chức
năng, phương thức hoạt động của các cơ
quan trong hệ thống chính trị chậm đổi mới
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường trong điều kiện hội nhập quốc tế”
(ĐCSVN, 2017).
Những tồn tại trong nhận thức về nền kinh tế thị
trường đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu thảo
luận nhằm hoàn thiện luận cứ khoa học để xây
dựng thể chế kinh tế thị trường, một trong ba
đột phá chiến lược hiện nay (hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển
nhanh nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng đồng bộ). Đồng thời, qua đó cũng góp
phần củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận của
các tầng lớp nhân dân, mà trước hết là đội ngũ
nhân lực được đào tạo từ bậc sau trung học phổ
thông.
Mục đích của bài viết nhằm góp phần làm rõ
nhận thức về kinh tế thị trường định hướng
XHCN, quan hệ giữa nhà nước với thị trường
và thể chế kinh tế thị trường; những thách thức
về mặt lý luận từ việc quan sát thực tiễn mô
hình kinh tế thị trường của Việt Nam và các
nước phát triển, từ đó hoàn thiện hơn những nội
dung được giảng dạy cho sinh viên trong các
trường đại học hiện nay, đặc biệt là sinh viên
thuộc các ngành khoa học chính trị.
Phần còn lại của bài viết được kết cấu như sau:
Mục 2 tóm lược các nội dung về đường lối phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
trong “Giáo trình Đường lối cách mạng của
ĐCSVN”. Mục 3 đánh giá sự phù hợp giữa lý
luận và thực tiễn về phát triển kinh tế thị trường
ở nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện
nay, những thách thức mà lý luận kinh tế thị
trường cần bổ sung, hoàn thiện. Mục 4 đưa ra
một số gợi ý nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy
về đường lối phát triển kinh tế thị trường ở
trong các trường đại học hiện nay.
2. TÓM TẮT VỀ NỘI DUNG GIẢNG
DẠY TỪ GIÁO TRÌNH
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN được trình bày trong Giáo trình
“Đường lối cách mạng của ĐCSVN” (Đinh
Xuân Lý & cs., 2016), có thể chia thành hai
phần: nhận thức về kinh tế thị trường định
hướng XHCN và xây dựng thể chế kinh tế
tương ứng.
Sự hình thành lý luận về kinh tế thị trường định
hướng XHCN được chia thành hai giai đoạn
(Đại hội VI – VIII và Đại hội IX – XII). Trong
giai đoạn đầu, Đảng ta khẳng định ba vấn đề:
(1) kinh tế thị trường không phải là đặc trưng
của chủ nghĩa tư bản (CNTB) mà là thành quả
chung của nhân loại; (2) kinh tế thị trường là
một tất yếu trong thời kỳ quá độ; (3) sự cần
thiết phải vận dụng mô hình kinh tế thị trường ở
nước ta. Từ Đại hội IX, nhận thức về kinh tế thị
trường đã được kế thừa và có bước phát triển
cao hơn, Đảng khẳng định kinh tế thị trường
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 77 – 83
79
định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kỳ quá độ. Báo cáo của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về
các văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ:
“Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và
hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền XHCN, do ĐCSVN lãnh
đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất; có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo” (ĐCSVN và Văn phòng
Trung ương Đảng, 2016).
Trong mô hình kinh tế này, nội dung cơ bản của
định hướng XHCN được thể hiện ở bốn điểm
sau:
• Thứ nhất là về mục đích phát triển: nhằm
thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
• Thứ hai là về phương hướng phát triển: nền
kinh tế có nhiều thành phần, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo bằng cách nắm
giữ các vị trí then chốt, trình độ khoa học
tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao,
tiến tới xóa bỏ bao cấp, cơ chế xin – cho,
độc quyền.
• Thứ ba là về định hướng xã hội và phân
phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển; thực hiện phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế.
• Thứ tư là về quản lý: phát huy vai trò làm
chủ xã hội của nhân dân, đảm bảo vai trò
quản lý, điều tiết của Nhà nước nhằm phát
huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường.
Trên cơ sở nhận thức về mô hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN, Đảng đã đề ra các
chủ trương để hoàn thiện thể chế kinh tế của
Việt Nam, trước hết bao gồm các “bộ quy tắc,
luật lệ và hệ thống các thực thể nhằm điều
chỉnh hoạt động, giao dịch, trao đổi trên thị
trường” nhằm “phát triển lực lượng sản xuất,
cải thiện đời sống nhân dân” (Đinh Xuân Lý &
cs., 2016). Cụ thể có bốn nhóm chủ trương:
• Xây dựng thể chế về sở hữu, các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp;
• Thúc đẩy việc hình thành các loại thị
trường;
• Nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế;
• Nâng cao năng lực lãnh đạo của hệ thống
chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
3. ĐÁNH GIÁ SỰ PHÙ HỢP GIỮA LÝ
LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRÊN
PHƯƠNG DIỆN SO SÁNH VỚI MÔ
HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA
CÁC NƯỚC TƯ BẢN
Việc chuyển đổi từ mô hình kinh tế tập trung
sang kinh tế thị trường có thể xem là một cuộc
cách mạng trong nhận thức kinh tế về con
đường đi lên CNXH ở nước ta. Bước chuyển
đổi kịp thời, đúng đắn đã tạo sức bật cho toàn
bộ nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng khá, đời
sống vật chất, tinh thần từng bước được nâng
lên. Từ chỗ là một trong 40 nước nghèo nhất
thế giới năm 1990 (thu nhập bình quân 130
USD/người), Việt Nam đã bước qua nhóm quốc
gia thu nhập trung bình - thấp vào năm 2009
(1120 USD/người), đến năm 2015 thu nhập
quốc dân (GNI) bình quân của Việt Nam là
1990 USD/người (World Bank, 2017).
Tuy nhiên, trong thực tế, việc định hình nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa rõ
ràng, các loại thị trường còn ở trình độ sơ khai,
việc quản lý điều tiết của Nhà nước có một số
vấn đề chưa hiệu quả (ví dụ: sự kém bền vững
của hệ thống ngân hàng (ngân hàng không
đồng), tình trạng phát triển tự phát trong sản
xuất nông nghiệp và của thị trường bất động
sản.). Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, lạc
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 77 – 83
80
hậu. Kinh tế thị trường mới chỉ ở giai đoạn đầu
nếu so sánh với lịch sử phát triển hàng trăm
năm ở các nước tư bản phát triển. Bên cạnh đó,
việc đổi mới hệ thống chính trị chưa đồng bộ so
với chuyển đổi mô hình kinh tế, năng lực quản
lý của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm
vụ (ĐCSVN, 2016). Những nguyên nhân trên
tác động đến việc hình thành, hoàn thiện thể
chế kinh tế còn chậm, không thúc đẩy sự phát
triển các yếu tố thị trường. Ví dụ điển hình là sự
trì trệ trong cải cách khu vực kinh tế nhà nước.
Từ đó dẫn đến những thách thức về mặt lý luận,
đó là việc xác định đặc trưng bản chất, hay so
sánh sự khác biệt về mô hình kinh tế Việt Nam
với kinh tế thị trường các nước tư bản còn lúng
túng, chưa rõ.
Việc giảng dạy về đặc trưng của mô hình kinh
tế thị trường định hướng XHCN trong các
trường đại học hiện nay đang vấp phải những
thách thức về mặt lý luận như sau:
Về mục đích: mục tiêu của kinh tế thị trường
định hướng XHCN là “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” và đối lập với
mô hình kinh tế các nước tư bản là vì lợi nhuận,
phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và
phát triển CNTB. Qua quan sát sự vận động của
CNTB hiện đại có thể thấy rằng CNTB mặc dù
đã có những bước tiến bộ trên tất cả các mặt
làm cho mâu thuẫn đối kháng giữa tư bản và lao
động không còn gay gắt như giai đoạn thế kỷ
mười chín và nửa đầu thế kỷ hai mươi. Đời
sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân
dân lao động đạt mức cao, tình trạng nghèo
tuyệt đối được xóa bỏ ở một số nước (đặc biệt
là các nước Bắc Âu). Quyền con người, đặc biệt
là người lao động được bảo vệ tốt hơn. Tuy
vậy, CNTB hiện đại vẫn dựa trên nền tảng sở
hữu tư nhân, tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Một trong những hệ quả của nó chính là
phân phối không đều thành quả lao động, sự
chênh lệch giàu nghèo giữa tầng lớp thu nhập
cao (đại diện cho giới chủ tư bản) và nhóm thu
nhập thấp (người lao động trình độ thấp) ngày
càng tăng; sự phân hóa giàu nghèo giữa các
nước tư bản phát triển và phần còn lại của thế
giới cũng tăng lên trong giai đoạn này. Vì vậy,
sự điều chỉnh của CNTB vẫn chưa làm thay đổi
bản chất của nó.
Đảng ta xác định mục đích của mô hình kinh tế
Việt Nam là nhằm phát triển lực lượng sản
xuất. Tuy nhiên, mô hình kinh tế thị trường tự
thân nó đã là kết quả của sự phát triển lực lượng
sản xuất và đồng thời cũng thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Đặc điểm này không khác
biệt với mô hình các nước tư bản nếu xét về
hình thức vì từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt từ sau
Thế chiến thứ II, các nước công nghiệp luôn coi
trọng sự phát triển của giáo dục và khoa học
công nghệ, coi trọng sự phát triển nguồn nhân
lực. Kết quả là các nước phát triển luôn dẫn đầu
thế giới về chất lượng giáo dục, chỉ số phát
triển con người và khoa học công nghệ. Trong
khi đó, thực trạng ở Việt Nam cho thấy, mặc dù
Đảng và Nhà nước xác định giáo dục, khoa học
công nghệ là quốc sách hàng đầu, nhưng ngoài
việc phát triển quy mô đào tạo, thì chất lượng
giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học và đào tạo
nghề luôn là một vấn đề nghiêm trọng. Hiện
nay, chúng ta chỉ mới loay hoay trong cải cách
tuyển sinh, thi cử mà chưa có những chuyển
biến rõ rệt trong chất lượng đào tạo. Cho đến
nay, Việt Nam vẫn chưa có một trường đại học
nào lọt vào nhóm 500 các trường đại học tốt
nhất thế giới (Theo xếp hạng của Tổ chức
Quacquarelli Symonds (QS), chỉ có Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học
Quốc gia Hà Nội được xếp vào nhóm 700 –
1000 trường đại học thế giới). Chậm đổi mới,
phát triển về giáo dục kéo theo sự tiến bộ chậm
chạp trong chỉ số phát triển con người trong
những năm gần đây (HDI năm 2010 và 2015
tương ứng là 0.655 và 0.683 (UNDP, 2016)).
Việt Nam cũng đang kêu gọi sự giúp đỡ từ các
nước để hình thành nên một số đại học kiểu
mẫu như Fulbright Việt Nam (Mỹ), Việt – Đức,
Việt – Pháp Điều đó cho thấy, chúng ta đang
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 77 – 83
81
và cần phải học hỏi các nước tư bản về việc
phát triển lực lượng sản xuất và nguồn nhân lực
như thế nào. Do đó, có thể cụ thể hóa việc phát
triển lực lượng sản xuất ở nước ta qua hai điểm
sau: Thứ nhất, vì khoa học công nghệ mang
tính giai cấp không rõ nét nên Việt Nam cần
tiếp thu, tận dụng mọi điều kiện để tiếp cận với
công nghệ tiên tiến của thế giới hiện nay. Thứ
hai, quá trình phát triển theo mô hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam cần
hướng tới việc định hình một lực lượng lao
động vừa có khả năng cạnh tranh trong môi
trường hội nhập, vừa được dẫn dắt bởi chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về phương hướng phát triển: Việt Nam xác
định nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tuy
nhiên, thực tiễn hoạt động của kinh tế nhà nước
còn rất nhiều hạn chế cần vượt qua để có thể
giữ được vai trò này. Chỉ có một số doanh
nghiệp nhà nước nhờ vào độc quyền, sự ưu ái
của Nhà nước về vốn, đất đai thì mới có lợi
nhuận, phần lớn còn lại chìm trong thua lỗ, nợ
nần, phá sản. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
kém hiệu quả (quản trị yếu kém, đầu tư tràn lan,
đầu tư ngoài ngành, tham nhũng.). Việc tìm
ra giải pháp lâu dài để doanh nghiệp nhà nước
làm ăn có lợi nhuận cao, từ đó làm cho kinh tế
nhà nước xứng đáng giữ vai trò chủ đạo vẫn
chưa có câu trả lời thỏa đáng sau hơn 30 năm
đổi mới. Việc bàn đến những giải pháp để phát
triển kinh tế nhà nước không nằm trong phạm
vi bài viết này. Trong quá trình giảng dạy, một
mặt cần khẳng định sự cố gắng của Đảng trong
việc xác lập vai trò của kinh tế nhà nước hiện
nay nhưng đồng thời cũng thấy được những khó
khăn trong việc cải cách kinh tế nhà nước,
những hạn chế cũng như đánh giá khả năng dẫn
dắt nền kinh tế trong thời gian qua.
Về định hướng xã hội và phân phối: định hướng
XHCN trong lĩnh vực phân phối chủ yếu dựa
vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Thực
chất của việc phân phối này là trên nguyên tắc
phân phối theo lao động nhưng có tính đến sự
tác động của thị trường bởi vì hiệu quả kinh tế
phải do thị trường chi phối. Tuy nhiên, phân
phối theo lao động chỉ có thể thực hiện trong
khu vực công, còn các khu vực kinh tế khác thì
dựa vào thị trường là chủ yếu. Nhưng do kinh tế
nhà nước hoạt động kém hiệu quả, năng suất
lao động thấp hơn các khu vực khác, việc phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
còn nhiều thách thức, một bộ phận doanh
nghiệp nhà nước không đảm bảo đời sống
người lao động, tác động tiêu cực đến việc tái
sản xuất sức lao động. Do phạm vi ảnh hưởng
của hình thức phân phối này còn hạn chế,
những hình thức phân phối khác thông qua
chính sách thuế và an sinh xã hội cần phải được
nhấn mạnh, nó không chỉ là công cụ hỗ trợ mà
phải là một quyết sách có tính chiến lược trong
việc xây dựng một xã hội thịnh vượng và công
bằng.
Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của
nhân dân, điều tiết kinh tế của Nhà nước
XHCN. Nội dung của việc phát huy vai trò làm
chủ xã hội của nhân dân cần phải làm rõ hơn
nữa (làm chủ về mặt nào và bằng cách nào).
Chẳng hạn, về mặt kinh tế, đó là việc kêu gọi
đồng thời tạo điều kiện phát huy tinh thần khởi
nghiệp của mọi người dân nhằm phát huy tất cả
mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, tạo việc
làm cho xã hội. Về việc điều tiết kinh tế của
Nhà nước thực chất là việc xây dựng thể chế
kinh tế thị trường hiệu quả. Đây có thể là điểm
khác biệt nhất, về lý thuyết, giữa mô hình kinh
tế của nước ta với các nước tư bản. Tuy nhiên,
việc quản lý nhà nước về kinh tế cũng đang tồn
tại nhiều hạn chế như buông lỏng quản lý, thủ
tục xin – cho, có quá nhiều giấy phép, nhiều
cấp ngành quản lý, tham nhũng... Những hạn
chế này đòi hỏi cần nhanh chóng vượt qua.
Chính vì vậy, một trong những trọng tâm công
việc trong nhiệm kỳ Đại hội XII là “xây dựng
tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 77 – 83
82
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu” (ĐCSVN, 2016).
4. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
Từ những nhận định trên, tác giả đưa ra một số
kiến nghị trong việc giảng dạy về chủ đề kinh tế
thị trường định hướng XHCN như sau:
Thứ nhất, khái quát nội dung có tính chất kế
thừa như đã trình bày trong giáo trình, nhấn
mạnh đến những điểm mới như phát triển kinh
tế trị trường hiện đại, hội nhập quốc tế. Việc
xây dựng mô hình kinh tế ở Việt Nam phải tuân
thủ những quy tắc chung của kinh tế thị trường
đang được vận hành trên thế giới. Đồng thời,
giảng viên cũng cần nhấn mạnh đến đặc điểm là
kinh tế thị trường với trình độ phát triển còn
thấp, chưa đồng bộ.
Thứ hai, nhấn mạnh đến vai trò của Nhà nước
như là một sự tác động của thể chế chính trị đến
kinh tế thị trường. Về mọi phương diện, Nhà
nước có vai trò rất lớn trong việc quyết định sự
thành bại của quốc gia, đặc biệt là về xây dựng
và hoàn thiện thể chế kinh tế. Thể chế kinh tế
tiến bộ mà trước hết là hệ thống pháp luật
nghiêm minh, ban hành các chính sách kinh tế
thúc đẩy sự phát triển sản xuất có thể xem là
động lực cần thiết nhất đối với nước ta hiện
nay. Từ đó, bản chất hay tính định hướng
XHCN cũng do Nhà nước quyết định. Cụ thể,
đến năm 2020, Việt Nam “phấn đấu hoàn thiện
một bước đồng bộ hơn hệ thống thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN theo các chuẩn
mực phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện
đại và hội nhập quốc tế” (ĐCSVN, 2017).
Thứ ba, giảng viên có thể cần phân tích sâu hơn
về định hướng XHCN gắn với việc xây dựng
thể chế kinh tế thị trường. Một mặt, Chính phủ
đẩy mạnh cải cách khu vực hành chính để trở
thành một chính phủ kiến tạo phát triển, khu
vực doanh nghiệp nhà nước cũng sẽ được cải
cách hướng tới những chuẩn mực quốc tế về
quản trị doanh nghiệp, hoạt động dựa trên các
quy luật của kinh tế thị trường. Nhà nước củng
cố, tăng cường quản lý để giảm thiểu thất thoát
vốn, tài sản công (ĐCSVN, 2017). Mặt khác,
Việt Nam đã và đang có nhiều cố gắng thực
hiện công bằng xã hội trong thời gian qua.
Chính phủ ban hành các chính sách nhằm tạo
cơ hội cho người nghèo có điều kiện để tiếp cận
và hưởng lợi từ kinh tế thị trường (ví dụ: những
chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo,
cho vay ưu đãi để sinh viên nghèo đi học, ưu
đãi cho nhân dân ở các vùng có điều kiện khó
khăn, vùng hải đảo). Trong tất cả các chính
sách nhằm tạo lập một xã hội công bằng và phát
triển thì việc đầu tư giáo dục cho người nghèo
được coi là chìa khóa để giảm đói nghèo và bất
bình đẳng trên thế giới hiện nay.
Thứ tư, riêng đối với chính sách phúc lợi và an
sinh xã hội, Nhà nước từng bước chăm lo đời
sống cho người già (trợ cấp thu nhập), trẻ em
(thẻ khám bệnh miễn phí) tốt hơn. Tuy nhiên,
tất cả các chính sách phúc lợi đều phải dựa trên
cơ sở thành tựu phát triển về mặt kinh tế. Một
mặt, cần phải ghi nhận những cố gắng của Nhà
nước trong việc thực thi các chính sách an sinh
xã hội, đồng thời cũng cần thấy rằng Việt Nam
không thể có ngay những chính sách xã hội như
các nước tư bản phát triển (chẳng hạn, chính
sách bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp sinh đẻ, trợ
cấp giáo dục đến bậc trung học phổ thông và
giáo dục đại học ở một số quốc gia). Từ đó,
không dẫn đến hai thái cực: phủ nhận những
chính sách xã hội của các nước tư bản hoặc là
so sánh một cách máy móc giữa Việt Nam với
họ, coi việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam là hoàn toàn ưu việt
hơn so với các nước tư bản. Hoặc ngược lại, coi
kinh tế thị trường của Việt Nam là rập khuôn
theo mô hình tư bản, không có gì ưu việt và
cũng không thể kết hợp giữa kinh tế thị trường
với định hướng XHCN như luận điệu xuyên
tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Kinh tế
thị trường định hướng XHCN có thể nói là mô
hình tối ưu nhất hiện nay mà Việt Nam cần xây
dựng và phát triển.
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 77 – 83
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Hà Nội:
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội:
Văn phòng Trung ương Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2017). Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Truy cập từ:
quyet-hoi-nghi-trung-uong-5-khoa-xii-ve-
hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-dinh-
huong-xa-hoi-chu-nghia-440462.html.
Đảng Cộng sản Việt Nam & Văn phòng Trung
ương Đảng. (2016). Báo cáo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn
kiện Đại hội XII của Đảng. Truy cập từ:
lieu-ve-dang/sach-ve-cong-tac-dang/books-
4331201610454246/index-
13312016103427462.html
Đinh Xuân Lý, Nguyễn Đăng Quang, Nguyễn
Viết Thông, Ngô Đăng Tri, Nguyễn Văn
Hảo, & Nguyễn Quang Định. (2016). Giáo
trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng
sản Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất bản Chính
trị Quốc gia.
United Nations Development Programs
[UNDP]. (2016). Human Development
Report 2016. Retrieved from
me/country-notes/VNM.pdf.
World Bank. (2017). World Development
Indicators. Retrieved from
spx?source=2&country=VNM.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1569814223_08_phan_van_phuc_xpdf_3477_2189589.pdf