Tài liệu Giảng dạy phiên dịch theo phương pháp tiếp cận năng lực và một số kiến nghị - Nguyễn Quang Nhật: 62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phiên dịch ngày nay đã trở thành một lĩnh
vực không thể thiếu trong bối cảnh đất nước phát
triển và hội nhập quốc tế. Trong điều kiện uy tín
Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường
quốc tế, công tác quan hệ ngoại giao và tiếp thị,
tìm kiếm các cơ hội làm ăn ngày càng nhiều,
càng làm tăng vai trò của công tác phiên dịch.
Tại Việt Nam, tuy đã được chú trọng cho việc
đầu tư, phát triển nhưng phiên dịch vẫn chưa
thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu xã hội. Có thể
nói, công tác phiên dịch ở nước ta cho đến nay
vẫn chưa trở thành một nghề mang tính chuyên
nghiệp. Việc phiên dịch chủ yếu do sinh viên
ngoại ngữ mới ra trường hoặc những người biết
NGUYỄN QUANG NHẬT*; NGUYỄN NGỌC PHƯƠNG DUNG**
*Đại học Ngân Hàng TP. Hồ Chí Minh, ✉ nhatnq@buh.edu.vn
**Đại học Ngân Hàng TP. Hồ Chí Minh, ✉ dungnnp@buh.edu.vn
GIẢNG DẠY PHIÊN DỊCH
THEO PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN NĂNG LỰC
VÀ MỘT SỐ KIẾN NG...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 566 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giảng dạy phiên dịch theo phương pháp tiếp cận năng lực và một số kiến nghị - Nguyễn Quang Nhật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phiên dịch ngày nay đã trở thành một lĩnh
vực không thể thiếu trong bối cảnh đất nước phát
triển và hội nhập quốc tế. Trong điều kiện uy tín
Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường
quốc tế, công tác quan hệ ngoại giao và tiếp thị,
tìm kiếm các cơ hội làm ăn ngày càng nhiều,
càng làm tăng vai trò của công tác phiên dịch.
Tại Việt Nam, tuy đã được chú trọng cho việc
đầu tư, phát triển nhưng phiên dịch vẫn chưa
thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu xã hội. Có thể
nói, công tác phiên dịch ở nước ta cho đến nay
vẫn chưa trở thành một nghề mang tính chuyên
nghiệp. Việc phiên dịch chủ yếu do sinh viên
ngoại ngữ mới ra trường hoặc những người biết
NGUYỄN QUANG NHẬT*; NGUYỄN NGỌC PHƯƠNG DUNG**
*Đại học Ngân Hàng TP. Hồ Chí Minh, ✉ nhatnq@buh.edu.vn
**Đại học Ngân Hàng TP. Hồ Chí Minh, ✉ dungnnp@buh.edu.vn
GIẢNG DẠY PHIÊN DỊCH
THEO PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN NĂNG LỰC
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
TÓM TẮT
Hiện nay việc tăng cường đào tạo đội ngũ phiên dịch chất lượng cao với các kỹ năng cần thiết đáp
ứng nhu cầu xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan. Bài viết phân tích
thực trạng giảng dạy môn phiên dịch ở một số chương trình đào tạo cử nhân ngoại ngữ tại thành
phố Hồ Chí Minh. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất xây dựng chương trình đào tạo theo hướng tiếp
cận năng lực, đồng thời đưa ra một số kiến nghị để quá trình đào tạo đạt được hiệu quả cao, sinh
viên có thể nắm bắt những kỹ thuật cơ bản của nghề phiên dịch, cách thức tự học và trau dồi các
kỹ năng đó nếu muốn chọn phiên dịch là sự nghiệp theo đuổi lâu dài.
Từ khóa: chuẩn đầu ra, kỹ thuật phiên dịch, phiên dịch, tiếp cận năng lực.
ngoại ngữ thực hiện. Việc thiếu chuyên nghiệp
đã dẫn tới nhiều hậu quả đáng buồn, thậm chí
nghiêm trọng. Điều này cho thấy, tầm quan
trọng của phiên dịch viên và tính cấp thiết cần
có đội ngũ phiên dịch lành nghề trong bối cảnh
hội nhập quốc tế.
Từ thực tế giảng dạy và khảo sát nhu cầu
tuyển dụng phiên dịch viên ở Khoa Ngoại ngữ,
Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí
Minh, nhóm tác giả xin đề xuất áp dụng phương
pháp dạy-học phiên dịch theo cách tiếp cận năng
lực với chương trình chi tiết nhằm có thể nâng
cao năng lực phiên dịch cho sinh viên sau khi
tốt nghiệp. Bài viết bắt đầu bằng việc mô tả thực
trạng giảng dạy phiên dịch chủ yếu hiện nay ở
63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
một số chương trình đào tạo cử nhân ngoại ngữ
tại thành phố Hồ Chí Minh, tiếp đến là nền tảng
lý luận cho việc đề xuất dạy phiên dịch theo
hướng tiếp cận năng lực, sau đó, phân tích chi
tiết năng lực chuẩn đầu ra cần có của một phiên
dịch viên, một số kiến nghị về ứng dụng giảng
dạy phiên dịch theo hướng tiếp cận năng lực, và
kết luận bằng một số quan điểm cần nắm vững
để quá trình dạy phiên dịch đạt kết quả cao.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết được thực hiện trên cơ sở quan sát
thực tiễn, nghiên cứu các tài liệu liên quan,
đồng thời kết hợp một số phương pháp khác
nhằm phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn
để chứng minh rằng, dạy học phiên dịch theo
hướng tiếp cận năng lực có thể đem lại những
hiệu quả nhất định. Cụ thể, dựa vào bảng khảo
sát về chuẩn đầu ra năng lực cần có của sinh viên
ngành ngôn ngữ Anh tại trường Đại học Ngân
hàng thành phố Hồ Chí Minh đối với yêu cầu
tuyển dụng của 8 công ty về dịch thuật ở thành
phố Hồ Chí Minh. Đồng thời kết hợp nghiên cứu
báo cáo thực tập của 3 khóa sinh viên gần nhất
tại 8 công ty dịch thuật trên, cũng như phỏng vấn
7 giảng viên hiện đang giảng dạy các môn phiên
dịch tại 4 trường đại học: Đại học Sư phạm, Đại
học Ngoại ngữ Tin học, Đại học Luật, và Đại
học Ngân hàng. Hình thức phỏng vấn là bán cấu
trúc, trong đó các câu hỏi được chuẩn bị trước và
có thể điều chỉnh cho phù hợp với những thông
tin mới xuất hiện trong quá trình thu thập. Các
câu hỏi này liên quan đến 5 vấn đề chính sẽ được
đề cập trong phần nội dung. Thời lượng trung
bình cho một cuộc phỏng vấn là 30 phút.
3. NỘI DUNG
3.1. Thực trạng giảng dạy phiên dịch tại một
số trường đào tạo chuyên ngành biên, phiên dịch
Thứ nhất, phương pháp giảng dạy phiên
dịch không phân bố đều các kỹ năng. Nghe hiểu
chiếm gần 80% thời lượng đào tạo trên lớp, trong
khi các kỹ năng khác được giới thiệu sơ lược và
không chú trọng nhiều (Trịnh Thị Anh Tú, 2009,
tr.18). Tuy nghe hiểu là một kỹ năng cần thiết
giúp sinh viên nắm bắt ý tưởng và phiên dịch
một cách hiệu quả ở giai đoạn đầu, nhưng lại bất
lợi đối với việc bồi dưỡng kỹ năng phiên dịch
trình độ cao. Theo Phạm Ngọc Thạch (2010), ở
các chương trình đào tạo phiên dịch châu Âu gần
20% thời lượng là dành cho rèn luyện trí nhớ và
xử lí tình huống. Do đó, 6/7 giảng viên cho rằng,
cần dành thêm thời gian cho các kỹ năng khác,
hướng dẫn sinh viên kỹ thuật dịch và cách tự rèn
luyện ở nhà.
Thứ hai, 7/7 giảng viên đều cho biết, hiện
nay giáo trình đào tạo phiên dịch chuyên nghiệp
rất hạn chế, chủ yếu cung cấp ngữ liệu thực hành
nhưng không hướng dẫn kỹ thuật phiên dịch chi
tiết. Đa phần là các CD chương trình VOA, BBC
thiên về dịch hội thoại, dịch câu ngắn, dịch bản
tin, tập trung vào các chủ đề: ngoại giao, thời tiết,
du lịch, kinh tế, ngoại thương, công nghiệp,.
Các tài liệu đó không chỉ rõ làm cách nào chia
nhỏ những câu dài, phức tạp thành những câu
ngắn hơn và đơn giản hơn cho phù hợp văn
phong tiếng Việt, hay là làm cách nào dịch sang
tiếng Anh để đạt tính tự nhiên nhất. Trên mạng
có 1 bộ 7 bài về kỹ năng phiên dịch gồm: vai trò
của người phiên dịch; kỹ năng nói trước công
chúng; tập trung và ghi nhớ; ghi nhanh, xử lý
tình huống; nhận thức về văn hóa và tính chuyên
nghiệp. Tuy nhiên, tất cả đều thiếu phần ứng
dụng với các bước từ thấp lên cao.
Thứ ba, các kiến thức về xã hội – chuyên
ngành và kỹ năng mềm cần thiết đối với nghề
phiên dịch chưa được quan tâm đúng mức, trong
khi các giảng viên dạy dịch ít kinh nghiệm thực
tế. Kết quả là giảng viên cũng tránh đi sâu vào
những vấn đề kiến thức phức tạp, tập trung sửa
chữa bài tập, chủ yếu là cách dùng từ, ngữ pháp
cho sinh viên (Trịnh Thị Anh Tú, 2009, tr. 26-27).
Ngoài ra, việc giới thiệu kỹ năng mềm cũng ít
được nhắc đến. Trong quá trình phiên dịch có
nhiều tình huống xảy ra bất ngờ, chẳng hạn, khi
dịch trước hội trường diễn giả đề cập đến một
vấn đề cấm kị. Khi đó, đôi khi người phiên dịch
phải đóng vai trò là người gánh thay (scapegoat).
Hoặc khi diễn giả yêu cầu mình thực hiện công
việc nào đó không có trong hợp đồng thì người
phiên dịch phải tùy tình huống mà cân nhắc đưa
64 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
ra quyết định đúng. Nếu kỹ năng mềm không tốt
thì có thể mắc sai lầm lớn khó cứu vãn.
Tóm lại, 7/7 giảng viên đều cho rằng, cần
phải thay đổi phương pháp dạy phiên dịch sao
cho phù hợp với thực tế hiện tại.
3.2. Nền tảng lý luận cho việc đề xuất dạy
phiên dịch theo hướng tiếp cận năng lực
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), năng
lực được quan niệm “là sự kết hợp một cách linh
hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ,
tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân, nhằm đáp
ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt
động trong bối cảnh nhất định”. Dạy học định
hướng phát triển năng lực tập trung vào việc
mô tả chất lượng đầu ra, coi năng lực là “sản
phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Phương
pháp này giúp người học có thể nhanh chóng
hoà nhập vào thực tế lao động, có năng lực đáp
ứng với các tiêu chuẩn của doanh nghiệp và xã
hội cũng như bắt nhịp được với những thay đổi
nhanh chóng của thực tiễn đời sống.
Việc giảng dạy phiên dịch theo hướng tiếp
cận năng lực sẽ đem lại các lợi ích sau:
Thứ nhất, phương pháp này xem xét và gắn
với nhu cầu người tuyển dụng. Để đáp ứng nhu
cầu đó, sinh viên cần phải được giảng viên giúp
xác định những kỹ năng nào cần thiết cho ngành
phiên dịch, kỹ năng nào được quan tâm hàng đầu
bởi nhà tuyển dụng, cấp độ hiện tại của họ đã
thỏa mãn chuẩn đầu ra chưa, kỹ năng nào cần
rèn luyện, rèn luyện thế nào và tại sao lại làm
cách đó.
Thứ hai, phương pháp này giúp người học
phát triển toàn diện với các “kỹ năng cứng” và
“kỹ năng mềm”, nhanh chóng thích ứng với môi
trường làm việc. Sinh viên có thể phát hiện ra
những thủ thuật cần thiết được sử dụng trong
quá trình phiên dịch, xây dựng nhận thức về
chiến lược dịch, nâng cao sự tự tin, đảm bảo sự
thành công, chất lượng, và tốc độ phiên dịch.
Thứ ba, phương pháp này giúp chương trình
đào tạo được xây dựng và thiết kế theo một quy
trình chuẩn. Các công đoạn của quá trình đào tạo
sẽ có tính liên thông và chặt chẽ.
Cuối cùng, phương pháp này tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho việc xem xét, đánh giá và tự
đánh giá quá trình dạy học. Sinh viên cũng có
phương hướng và tầm nhìn rõ hơn nếu như muốn
đi sâu nghiên cứu, tự học hoặc bồi dưỡng để theo
con đường dịch thuật chuyên nghiệp sau này.
3.3. Năng lực chuẩn đầu ra cần có của một
phiên dịch viên
Tiêu chí về chuẩn năng lực cần có của một
phiên dịch viên đã là đề tài nghiên cứu của khá
nhiều bài viết khoa học cũng như mối quan tâm
của các nhà tuyển dụng (Lâm Quang Đông,
2007; Đỗ Thị Quý Thu, 2015; Nguyễn Thị Thu
Ngân, 2016). Đồng thời, theo kết quả khảo sát
về chuẩn đầu ra năng lực cần có của sinh viên
ngành ngôn ngữ Anh tại trường Đại học Ngân
hàng, thành phố Hồ Chí Minh đối với yêu cầu
tuyển dụng của 8 công ty về dịch thuật ở thành
phố Hồ Chí Minh, một phiên dịch viên chuyên
nghiệp cần có những năng lực sau:
Năng lực ngôn ngữ, cần đạt trình độ trung
cao để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Khả năng nghe và nắm bắt thật nhanh, tiếp thụ
thật nhanh nội dung kiến thức mới, có thể diễn
đạt lại ý tưởng một cách ngắn gọn, dễ hiểu là
những yếu tố cốt lõi mà một phiên dịch viên phải
có. Cụ thể hơn, sinh viên phải nghe được ít nhất
80% nội dung/1 lần nghe với nhiều giọng nói và
tốc độ khác nhau. Về diễn đạt, giọng nói phải to
rõ, lưu loát, dễ nghe, các tiêu chí về phát âm, ngữ
điệu, diễn cảm phải đạt trình độ cao để chuyển
tải thông điệp giữa các ngôn ngữ một cách trong
sáng, ngắn gọn, đúng tinh thần bản gốc.
Năng lực về kiến thức, phải đa ngành phong
phú. Phiên dịch không chỉ yêu cầu người dịch
có kiến thức ngôn ngữ tốt mà còn phải có kiến
thức khoa học, kiến thức phổ thông và kiến thức
chuyên môn. Sinh viên không chỉ phải có vốn từ
vựng phong phú, hiểu biết thấu đáo những vấn
đề ngôn ngữ học (cú pháp, phân tích diễn ngôn,
ngữ nghĩa học) mà còn cần hiểu biết những
tương đồng và khác biệt giữa các ngôn ngữ
(ngôn ngữ học so sánh đối chiếu). Đồng thời,
mỗi một lĩnh vực có những thuật ngữ, cách diễn
đạt riêng, phong cách riêng, đòi hỏi sinh viên
65KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
phải hiểu được ý nghĩa, nội hàm của chúng, dẫu
rằng không thể sâu như một nhà chuyên môn.
Năng lực ứng xử và kỹ năng mềm. Nghề phiên
dịch phải chịu sức ép và độ căng thẳng nhiều,
khi phải vừa nghe vừa dịch, sức ép của những
kiến thức và thông tin mới, lớn nhất đó chính là
tính chính xác khi dịch, ngay cả khi người nói
không rõ ràng thì người phiên dịch cũng phải
chuyển tải thành một bản dịch hay sao cho người
nhận dễ tiếp nhận nhất. Vì thế, sinh viên cần trau
dồi bản thân trở nên quyết đoán, bản lĩnh, có sự
nhạy bén, và nắm bắt được tâm lý. Kỹ năng này
cần có kinh nghiệm sống dày dạn, tiếp xúc nhiều
và sự từng trải nên cần được học kinh nghiệm từ
những người đã làm qua phiên dịch.
Quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp.
Chuẩn đạo đức này chú trọng tới thái độ không
thiên vị đối với các bên, nhất là không được
thêm thắt, bình luận, nhận xét hay thể hiện thái
độ cá nhân vào lời dịch. Đồng thời, nó còn là yêu
cầu về tính kỷ luật cao, làm việc đúng giờ, có kế
hoạch với các phương án dự phòng cụ thể cũng
như không ngừng học hỏi để tránh lạc hậu, rèn
luyện năng lực ngôn ngữ và tri thức ngày một
phong phú hơn. Thực tế, yêu cầu cực kỳ quan
trọng này thường bị xem nhẹ trong quá trình
giáo dục song lại ảnh hưởng rất lớn đến sự thành
công của sinh viên sau này.
Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu thuộc
Dự án nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc
gia (Nguyễn Thị Như Ngọc, Nguyễn Thị Quý
Thu, Lê Thị Ngọc Ánh, 2015, tr.18-19), thực tế
ở các trường đại học hiện nay nội dung đào tạo
tập trung nhiều vào nghe hiểu, chưa có chương
trình cụ thể đào tạo từng chuẩn kỹ năng cũng
như chưa có phương thức đánh giá phù hợp. Kết
quả là điều này làm ảnh hưởng đến “chất lượng
chuẩn đầu ra cũng như phải đào tạo lại sinh viên
khi tham gia thị trường lao động”.
3.4. Một số kiến nghị về ứng dụng giảng
dạy phiên dịch theo hướng tiếp cận năng lực
Herbert Cushing Tolman (1901) đã khái quát
những tiêu chuẩn dịch thuật thành: (1) Trung
thực, (2) Mạch lạc, (3) Phong cách, tức là dịch
thuật phải đảm bảo tính chính xác toàn diện
trong việc truyền đạt cả về mặt ngữ nghĩa lẫn ý
đồ tu từ và tư tưởng của nguyên tác.
Trước tiên, để đảm bảo tính chính xác và trung
thực, cần phải đào tạo kỹ năng Nghe và Ghi chú
đạt mức độ thành thục cao. Cần xác định rõ các
loại hình nghe nào cần thiết được đào tạo để học
môn phiên dịch (nghe lấy ý chính, nghe để ghi
chú, kỹ năng Dictogloss, nghe hiểu toàn bộ nội
dung văn bản) từ đó có kế hoạch dạy và rèn
luyện thích hợp. Các dạng bài tập cần được xây
dựng từ thấp lên cao nhằm giúp sinh viên có thể
nhận diện các dạng bài tập phiên dịch dựa theo
yêu cầu và cấu trúc bài nghe, dự đoán nội dung,
áp dụng hiệu quả các thủ thuật nghe khác nhau,
lựa chọn thông tin phù hợp, xác định nhu cầu và
lập kế hoạch tự rèn luyện kỹ năng trong khóa
học và sau khóa học. Thậm chí, trong bối cảnh
hội nhập hiện nay, sinh viên cần được đào tạo
cả khả năng nghe hiểu tiếng Anh không chuẩn
(non-standard English, World Englishes). Đối
với kỹ năng ghi chú, cần hình thành và rèn luyện
thói quen ghi chú ở sinh viên, yêu cầu sinh viên
phải vận dụng thành thạo các dạng viết tốc kí,
các kí hiệu, cũng như luyện tập để có thể ghi chú
hiệu quả nội dung khi phải nghe chỉ có một lần.
Để đảm bảo tính mạch lạc, phải đảm bảo bồi
dưỡng kỹ năng Nói và nói chuyện trước công
chúng hiệu quả. Khác với kỹ năng nói thông
thường, nghề phiên dịch cần kỹ năng Nói ở trình
độ cao bởi lẽ trong nhiều trường hợp như dịch
đuổi trước hội trường, dịch phim ảnh, dịch các
event quốc tế, người phiên dịch đóng vai trò như
một diễn giả thứ hai phải nói chuyện trước công
chúng rất lâu có khi mất vài tiếng đồng hồ. Do
đó, rèn luyện kỹ năng nói bao gồm kỹ năng ghi
nhớ, kỹ năng luyện thanh và kỹ năng nói diễn
cảm để đảm bảo duy trì sự chú ý và hứng thú
của khán giả trong suốt thời gian dịch, kỹ năng
giữ giọng và đa dạng giọng nói, kỹ năng biểu thị
cảm xúc qua ngôn từ, và kỹ năng phối hợp nhịp
nhàng với diễn giả. Đồng thời, giảng viên cần
giúp sinh viên có thể vận dụng đúng và thành
thạo các cấu trúc ngôn ngữ trong các tình huống
66 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
thực tế, trong thuyết trình, đàm phán, thảo luận,
nói trước đám đông; thực hiện các bài phiên dịch
với độ khó cao về giọng nói, có khả năng phản
biện, đánh giá bài nói của người khác. Đồng thời,
cũng phải hướng dẫn rèn luyện kỹ năng phản xạ
ứng biến, xử lí các tình huống phát sinh trong
quá trình phiên dịch như phần giao lưu hỏi đáp
khán giả. Tóm lại, tính mạch lạc không chỉ
là làm sao để buổi phiên dịch diễn ra trôi chảy
mà còn đảm bảo mục đích chính của buổi phiên
dịch phải đạt được như mong muốn ý đồ người
tổ chức (giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm sự đồng
tình từ khán giả,). Do đó, giảng viên phải dạy
sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của kỹ
năng Nói trong nghề phiên dịch, biết được các
yêu cầu và tiêu chuẩn trong nhóm kỹ năng này,
cách thức rèn luyện và thực tập chúng trong thời
gian dài để có thể về nhà tự trau dồi khi muốn
chọn con đường phiên dịch chuyên nghiệp.
Để đảm bảo tính phong cách, cần đào tạo
kỹ năng Chuyển tải ý tưởng, bao gồm: chọn lọc
ngôn từ, các thủ thuật dịch thuật và đảm bảo tính
nhất quán về văn phong, văn hóa cũng như bối
cảnh phiên dịch. Trước hết về chọn lọc ngôn
ngữ, cần có hệ thống bài tập phát triển vốn từ
vựng phong phú của các ngôn ngữ, hệ thống
từ đồng nghĩa, trái nghĩa, cụm thành ngữ và tổ
hợp từ, sắc thái từ,. Thứ hai, giảng viên cần
hướng dẫn các thủ thuật phiên dịch như: diễn
giải, dịch tương đương, dịch thoát, khi nào cần
đơn giản hóa, khi nào cần giải thích nội dung
nội hàm trong bài nói để người nghe hiểu rõ hơn
nhằm đáp ứng tốt nhất mục đích buổi phiên dịch.
Ngoài ra, nếu như không có kiến thức so sánh về
văn hoá vững vàng thì khó có thể diễn đạt hay lí
giải một cách chính xác ngôn ngữ nguồn. Vì vậy,
giảng viên cần tiến hành đối chiếu đa ngữ, giúp
sinh viên sau khóa học có thể nhận dạng và xác
định vấn đề về ngôn ngữ và xã hội, hiểu rõ bản
chất của các khái niệm, thuật ngữ trong trong
nhiều lĩnh vực ngành nghề và ngôn ngữ, đánh
giá, phân tích tính chất vấn đề trên bình diện văn
hóa và dân tộc. Sinh viên học xong phải nắm
vững một số kiến thức cơ bản trong các lĩnh vực:
khoa học, kinh tế, nghệ thuật, văn học, y dược,
luật pháp; hiểu được các vấn đề trong nước và
quốc tế, vận dụng và đánh giá các kiến thức kỹ
năng tiếng Anh và tiếng Việt trong giao tiếp và
học thuật hiệu quả, mở rộng và sử dụng đúng
các thuật ngữ, cụm từ, cấu trúc câu trong các bài
nói có độ dài và độ khó ở trình độ cao cấp hay ở
các bài thuyết trình, hội họp. Từ đó phát huy tinh
thần ham học hỏi cái mới và học tập suốt đời.
Đồng thời, với đặc thù nghề nghiệp, giảng
viên cũng cần đào tạo và hướng dẫn sinh viên
cách thức phân tích những điểm mạnh và yếu
của bản thân khi thực hành phiên dịch (giọng
nói, ngoại hình, cách ăn mặc, kiểu tóc, xây dựng
hình tượng bản thân,), giúp sinh viên bước đầu
tự tìm tòi và theo đuổi một phương cách phiên
dịch riêng phù hợp với mình, xây dựng nhóm
để mô phỏng một môi trường dịch thuật chuyên
nghiệp trên lớp, cùng nhau giải quyết các khó
khăn nảy sinh trong quá trình thực hành kỹ năng
phiên dịch, xác định được những yêu cầu xã hội
đặt ra về chuẩn mực và đạo đức cho nghề dịch;
nhận diện được tầm quan trọng của công tác dịch
thuật trong thời đại hội nhập, từ đó không ngừng
tìm hiểu và luyện tập để trau dồi kiến thức cũng
như kĩ năng phiên dịch của bản thân.
Nhóm tác giả đề xuất một chương trình đào
tạo giảng dạy phiên dịch cơ bản 90 tiết với từng
buổi học tập trung riêng từng chuẩn kỹ năng như
đính kèm trong phần phụ lục.
3.5. Một số quan điểm cần nắm vững để
dạy phiên dịch đạt kết quả cao
5/7 giảng viên tham gia phỏng vấn đưa ra
một số lưu ý cần thiết để quá trình giảng dạy
phiên dịch đạt kết quả tốt hơn như sau:
Chương trình dạy cần đảm bảo tính minh
bạch và khoa học, để sinh viên có cái nhìn toàn
diện về môn học. Giảng viên cần chú trọng buổi
giảng đầu tiên, phổ biến rõ ràng nội dung môn
học, ghi rõ mục tiêu môn học, lịch giảng các nội
dung, phương pháp giảng dạy, cách thức kiểm
tra, tỷ lệ điểm, cách tính điểm, nguồn học liệu
và phổ biến đề cương bài giảng đến từng sinh
viên. Sinh viên cũng phải biết mình sẽ được học
gì, học và tự học như thế nào, kết quả học tập sẽ
67KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
được đánh giá theo tiêu chí nào. Đồng thời có
thể ứng dụng công nghệ thông tin tạo sự kết nối
giao lưu trao đổi kinh nghiệm giữa giảng viên
với sinh viên, với các cựu sinh viên đã hay đang
làm trong lĩnh vực dịch thuật, cũng như giao lưu
gặp gỡ học kinh nghiệm giữa các lớp phiên dịch
trong và ngoài trường sẽ giúp phát triển đáng kể
năng lực phiên dịch của sinh viên.
Giảng viên nên là người đã từng hoặc đang
là phiên dịch viên, vì kinh nghiệm của họ rất
phong phú. Ví dụ, khi dịch ở hải quan Trung
Quốc không bao giờ được nói đến những vấn
đề như “Tây Tạng (Tibet), Dalai Lama, Falun
Cong” vì đó là những từ bị nghiêm cấm ở Trung
Quốc, nếu đề cập đến sẽ gặp rắc rối với chính
quyền. Khi đó phải áp dụng những thủ thuật
phiên dịch đối với những vấn đề văn hóa. Những
kiến thức đó sẽ làm sinh viên thấy thực tế, có ích
hơn, cũng như có thể làm nền tảng cho công tác
nghiên cứu sau này. Đồng thời, họ là người hiểu
rõ nên tập trung đào tạo phiên dịch quanh trục kỹ
năng cũng như cách thức lĩnh hội trau dồi các kĩ
năng đó thay vì đưa ra lý thuyết và giao cho rất
nhiều bài tập nghe như những giảng viên thông
thường khác. Nói tóm lại, giảng viên là phiên
dịch viên có cả hai kỹ năng: dịch và dạy dịch.
Tài liệu dạy dịch phải là tài liệu gắn liền với
các dạng bài tập nâng cao khả năng sử dụng
ngôn ngữ (các cuộc họp, phỏng vấn, bài giảng,
bài phát biểu, tranh luận, họp báo...), nâng cao
kỹ năng dịch (luyện một mình, luyện đôi, luyện
nhóm) thay vì chỉ là những bài tập nghe cùng
với danh sách từ vựng. Theo nhận định của Võ
Hồng Hạnh, Trưởng phòng Quản lý tài liệu và
biên, phiên dịch của Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Phiên dịch chuyên nghiệp quốc tế, nhiều
chương trình dạy phiên dịch thương mại chỉ tập
trung cho sinh viên nghe các bản tin thời sự kinh
tế trên BBC, VOA, trong khi một số kiến thức
như kỹ năng phối hợp khi dịch cabin, dịch Panel
talk, dịch qua điện thoại, lại không hề đề cập
(Lê Thị Diu, 2013). Thực tế, sinh viên cần học
cách để dịch chứ không cần tài liệu, vì hiện nay
việc tiếp cận các nguồn thông tin rất thuận tiện
và dễ dàng.
Cuối cùng, cần có phương pháp đánh giá
toàn diện và đáng tin cậy hơn phương thức mà
nhiều trường đại học đang chọn là cho sinh viên
nghe băng rồi dịch ra giấy. Phương pháp truyền
thống này chỉ tập trung một hai kỹ năng nên
không đánh giá đúng thực lực của người học.
Sinh viên sau khóa học cần được kiểm tra các kỹ
năng được dạy xem có đạt chuẩn đầu ra không.
Các khả năng này có thể mới chỉ dừng lại ở mức
vừa phải vì thời lượng đào tạo hạn chế, nhưng
giảng viên sẽ phát hiện ra bằng kinh nghiệm của
mình và sau đó có những nhận xét cụ thể để giúp
cho sinh viên có được kỹ năng phiên dịch và kỹ
năng nghề nghiệp cần thiết.
Thực tế, giảng dạy phiên dịch đại học còn
nhiều khó khăn không thể đáp ứng hết những
đề xuất kể trên khi so với một trung tâm đào tạo
biên, phiên dịch ngoài xã hội. Một số những vấn
đề có thể kể đến như áp lực của cơ chế đánh giá
và thi cử, sĩ số lớp đông, giảng viên còn nhiều
công tác chuyên môn khác phải thực hiện, giảng
dạy đại học cần bằng thạc sĩ, tiến sĩ trong khi
nhiều phiên dịch viên nổi tiếng và thành công
thì không đáp ứng được yêu cầu về bằng cấp,.
Tuy nhiên, theo Nguyễn Quý Tâm (2007), nếu
muốn một trường đại học về ngoại ngữ đào tạo
phiên dịch chất lượng với đúng nghĩa của nó thì
không thể không thay đổi. Chỉ như thế mới có
thể đào tạo được lực lượng phiên dịch viên có
năng lực thực sự, đáp ứng nhu cầu của xã hội
trong thời kì hội nhập.
4. KẾT LUẬN
Với thời lượng có hạn trong chương trình
học, rất khó có thể đưa tất cả nội dung vào dạy
một cách nhuần nhuyễn. Tuy nhiên, với phương
pháp giảng dạy tiếp cận năng lực, chúng ta đưa
ra một hệ thống nội dung bài giảng có phương
pháp kết hợp cùng bài tập bổ trợ từ thấp lên cao
để sinh viên nhận thức một cách khái quát và hệ
thống yêu cầu ngành nghề, các năng lực cần đáp
ứng khi ra trường như thế nào mới có thể thỏa
mãn nhu cầu nhà tuyển dụng. Từ đó, việc giảng
dạy sẽ có lộ trình cụ thể hơn, tập trung hơn, cũng
như sinh viên sẽ biết được nếu muốn theo đuổi
con đường dịch thuật chuyên nghiệp, họ còn yếu
68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
mảng kỹ năng nào và có thể làm gì để trau dồi
kỹ năng đó, từ đó phát huy tinh thần tự đánh giá
và học hỏi suốt đời của sinh viên và của cả người
thầy trong bối cảnh hội nhập./.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Thị Diu (2013), Quality management
process of a translation, Luận văn tốt nghiệp,
Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh.
2. Lâm Quang Đông (2007), Đề xuất tiêu chí
tuyển chọn và đào tạo sinh viên phiên dịch, Hội
thảo “Công tác biên/phiên dịch và đào tạo cử
nhân phiên/biên dịch” lần thứ nhất, Đại học Huế.
3. Nguyễn Thị Thu Ngân (2016), Chương trình
đào tạo cử nhân ngành Biên/Phiên dịch từ góc nhìn
quản lý, NXB Đại học Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Thị Như Ngọc, Nguyễn Thị Quý
Thu, Lê Thị Ngọc Ánh (2015), Khảo sát thực
trạng hoạt động đào tạo biên phiên dịch tiếng
Anh tại một số trường đại học tại Việt Nam hiện
nay, NXB Đại học Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Quý Tâm (2007), “Triển khai
chương trình dạy dịch có định hướng nghề
nghiệp tại khoa Anh - Trường Đại học Hà Nội”,
Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ, số 12 - Trường
Đại học Hà Nội.
6. Phạm Ngọc Thạch (2010), Nhớ như thế
nào, truy cập ngày 12/02/2017, <
hanu.vn/dec/mod/forum/discuss.php?d=384>.
7. Đỗ Thị Quý Thu (2015), Cơ hội việc
làm cho sinh viên ngành dịch thuật: hướng tới
phương pháp đào tạo dịch thuật phù hợp, NXB
Đại học Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh.
8. Trịnh Thị Anh Tú (2009), Khảo sát về
phương pháp dạy phiên dịch ở một số trường
đại học, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học
Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh.
9. Tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra,
đánh giá theo theo định hướng phát triển năng
lực của học sinh do Bộ Giáo dục và Đào tạo
phát hành năm 2014.
10. Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí
Minh (2015), Chuẩn đầu ra cử nhân ngành
Ngôn ngữ Anh.
11. Khảo sát Blackbox về năng lực đầu ra
sinh viên ngành ngôn ngữ Anh (2015), Trường
Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh.
12. Tolman, Herbert Cushing (1901), The Art
of Translating. Boston: B.H. Sanborn & Co.
ADOPTING COMPETENCY-BASED APPROACH IN INTERPRETER TRAINING:
SOME RECOMMENDATIONS
NGUYEN QUANG NHAT
NGUYEN NGỌC PHUONG DUNG
Abstract: Quality improvement in interpreter training programs to meet social needs in the context
of international integration is an objective necessity. This paper aims to examine the current status
of interpretation training in some tertiary programs of HCMC, then suggest a competency-based
approach with some fundamentals as well as recommendations in implementation so that this
method can bring fruitful results. Hopefully, students can grasp basic techniques of interpretation;
they can decide how to study and how to master these skills if they want to pursue this job as their
long-term career.
Keywords: learning outcomes, interpreting techniques, interpreters, competency-based approach.
Received: 23/3/2017; Revised: 13/6/2017; Accepted for publication: 28/6/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 71_4904_2137256.pdf