Tài liệu Giảm thiểu sự cố y khoa trong các bệnh viện - Phạm Đức Mục: Giảm thiểu sự cố y khoa trong các bệnh viện
Thạc sĩ Phạm Đức Mục – Chủ tịch Hội Điều dưỡng Việt Nam
Bài đăng trên Bacsinoitru.vn
TÓM TẮT
Bài trình bày này nhằm mục đích:
(1) Cung cấp các thông tin về tần suất sự cố y khoa đã được đăng trong các Tạp chí y học quốc tế;
(2) Nhận định xu hướng sự cố y khoa;
(3) Nguyên nhân của các sự cố y khoa không mong muốn;
(4) Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu sự cố y khoa không mong muốn trong các bệnh viện.
Phương pháp: Tổng hợp các nghiên cứu và báo cáo được đăng tải trên các Tạp chí y học của Mỹ,
Canada, Úc, Anh quốc, Hà lan về an toàn người bệnh và một số Tạp chí y học trong nước.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: (1) Đã có nhiều công trình nghiên cứu y học của các nước đi tiên
phong như Mỹ, Úc, Anh quốc, Canada, New Zealand trong lĩnh vực an toàn người bệnh. Tuy nhiên
chưa có sự thống nhất cao về thuật ngữ cũng như tiêu chuẩn trong việc phân loại và xác định các
sai sót, sự cố y khoa; (2) Bệnh viện là nơi có nhiều sự...
12 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 28/06/2023 | Lượt xem: 418 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giảm thiểu sự cố y khoa trong các bệnh viện - Phạm Đức Mục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giảm thiểu sự cố y khoa trong các bệnh viện
Thạc sĩ Phạm Đức Mục – Chủ tịch Hội Điều dưỡng Việt Nam
Bài đăng trên Bacsinoitru.vn
TÓM TẮT
Bài trình bày này nhằm mục đích:
(1) Cung cấp các thông tin về tần suất sự cố y khoa đã được đăng trong các Tạp chí y học quốc tế;
(2) Nhận định xu hướng sự cố y khoa;
(3) Nguyên nhân của các sự cố y khoa không mong muốn;
(4) Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu sự cố y khoa không mong muốn trong các bệnh viện.
Phương pháp: Tổng hợp các nghiên cứu và báo cáo được đăng tải trên các Tạp chí y học của Mỹ,
Canada, Úc, Anh quốc, Hà lan về an toàn người bệnh và một số Tạp chí y học trong nước.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: (1) Đã có nhiều công trình nghiên cứu y học của các nước đi tiên
phong như Mỹ, Úc, Anh quốc, Canada, New Zealand trong lĩnh vực an toàn người bệnh. Tuy nhiên
chưa có sự thống nhất cao về thuật ngữ cũng như tiêu chuẩn trong việc phân loại và xác định các
sai sót, sự cố y khoa; (2) Bệnh viện là nơi có nhiều sự cố y khoa từ 3,8%-16,7% người bệnh nhập
viện 10-16; (3) Nguyên nhân của các sai sót sự cố y khoa chủ yếu do lỗi hệ thống (70%) và chỉ có
30% sai sót và sự cố y khoa liên quan tới cá nhân người hành nghề 10; (4) Chiều hướng sự cố y
khoa trong thập kỷ đầu Thế kỷ XXI hầu như chưa giảm 17-20; (5) Tổ chức y tế Thế giới và các nước
tiên phong đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp quan trọng như thành lập Hiệp hội an toàn người
bệnh toàn cầu, thành lập các Ủy ban an toàn người bệnh quốc gia, các Viện nghiên cứu an toàn
người bệnh và ban hành các hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật, cũng như thiết lập các hệ thống báo
cáo sự cố y khoa bắt buộc và tự nguyện để nâng cao nhận thức và đưa ra các giải pháp làm giảm
thiểu sai sót, sự cố y khoa trong các cơ sở khám chữa bệnh.
Trên cơ sở kinh nghiệm của các nước, tác giả khuyến nghị Việt Nam cần: (1) Tăng cường chính
sách An toàn người bệnh , đặt An toàn người bệnh trở thành vấn đề y tế công cộng để có sự đầu tư
tương ứng; (2) Thành lập các tổ chức có qui mô quốc gia để điều phối các nỗ lực về an toàn người
bệnh như Hội đồng quốc gia về chất lượng dịch vụ y tế và an toàn người bệnh, viện nghiên cứu an
toàn người bệnh để tư vấn cho Bộ Y tế ban hành các chính sách, các hướng dẫn và tiêu chí quốc
gia về an toàn người bệnh; (3) Xây dựng các quy định báo cáo bắt buộc các sai sót sự cố y khoa
nghiêm trọng; (4) Triển khai sớm hệ thống bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp theo Luật Khám chữa bệnh;
(5) Cải thiện môi trường làm việc của cán bộ y tế và đổi mới văn hóa an toàn người bệnh; (6) Tăng
cường sự tuân thủ của người hành nghề trong việc thực hiện các quy định chuyên môn kỹ thuật.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Y văn đã sử dụng các thuật ngữ khác nhau để mô tả những rủi ro trong thực hành y khoa như: bệnh
do thầy thuốc gây nên (Iatrogenics), sai sót y khoa (Medical Error), tai biến y khoa (Medical
Complication), an toàn người bệnh (Patient Safety-AEs) và hiện nay thuật ngữ sự cố y khoa không
mong muốn (Medical Adverse Events) được sử dụng ngày càng phổ biến.
Luật khám bệnh, chữa bệnh định nghĩa Tai biến trong khám bệnh, chữa bệnh là hậu quả gây tổn hại
đến sức khỏe, tính mạng của người bệnh do sai sót chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa
bệnh hoặc rủi ro xảy ra ngoài ý muốn trong khám bệnh.
Luật khám bệnh, chữa bệnh xác định sai sót chuyên môn khi người hành nghề vi phạm một trong
những nội dung sau: Vi phạm trách nhiệm trong chăm sóc và điều trị người bệnh, vi phạm các quy
định chuyên môn kỹ thuật và đạo đức nghề nghiệp và xâm phạm quyền của người bệnh.
Theo định nghĩa của WHO: Sự cố y khoa không mong muốn là tổn thương làm cho người bệnh mất
khả năng tạm thời hoặc vĩnh viễn, kéo dài ngày nằm viện hoặc chết. Nguyên nhân do công tác quản
lý khám chữa bệnh (health care management) hơn là do biến chứng bệnh của người bệnh. Sự cố y
khoa có thể phòng ngừa và không thể phòng ngừa[23][25].
Tiêu chí xác định sự cố y khoa được sử dụng trong các nghiên cứu của Mỹ và các nước gồm: (1)
Sự cố nằm trong danh mục các sự cố nghiêm trọng phải báo cáo theo quy định của Mỹ như mô tả
tại Phụ lục số 1; (2) Sự cố trong danh mục bị từ chối trả chi phí ở mức cao; (3) Sự cố dẫn đến 1
trong 4 mức độ nghiêm trọng là: Kéo dài ngày nằm viện, người bệnh bị tổn thương vĩnh viễn, phải
can thiệp cấp cứu hoặc chết.
Ở nước ta, sự cố y khoa xảy ra gần đây gây sự quan tâm theo dõi của toàn xã hội đối với ngành y
tế. Áp lực mà các bệnh viện và người hành nghề đang phải đối mặt là một số người nhà người bệnh
và nhóm người có toan tính lợi dụng sự cố y khoa để: (a) Gây rối loạn trật tự xã hội (BV Nam Căn); (
b) Lợi dụng gây áp lực bồi thường tài chính (BVĐK Thành phố Vinh, BV Thiệu Hóa); (c) Gây ảnh
hưởng tới uy tín, sức khỏe, tính mạng người hành nghề! Trong thực tế, khi có sự cố y khoa không
mong muốn xảy ra không chỉ có người bệnh, gia đình người bệnh trở thành nạn nhân mà các cán
bộ y tế liên quan trực tiếp tới sự cố y khoa cũng là nạn nhân và cũng cần được hỗ trợ về tâm lý.
2. TẦN SUẤT VÀ XU HƯỚNG SỰ CỐ Y KHOA
Các nghiên cứu sự cố y khoa không mong muốn của các quốc gia tiên phong được đăng tải trên
các Tạp chí y học của Mỹ, Canada, Úc, Anh quốc, Hà lan và Việt Nam được tổng hợp trong các
bảng dưới đây.
2.1. Tần suất sự cố y khoa
Bảng 1. Tổng hợp sự cố y khoa tại các nước phát triển
* Áp dụng phương pháp nghiên cứu của Úc; ** Áp dụng phương pháp nghiên cứu của Mỹ.
Các nghiên cứu về tần suất sự cố y khoa của các quốc gia tiên phong đã bắt đầu từ những năm
2000s, các nghiên cứu đều sử dụng phương pháp hồi cứu trên bệnh án và giống nhau về tiêu chí
đánh giá cho thấy tần suất sự cố y khoa từ 3,7% -16,6% người bệnh nhập
viện[11][12][13][14][15][16][17]. Các nghiên cứu so sánh áp dụng cùng phương pháp của Mỹ và của
Úc cho thấy tần suất sự cố y khoa trong khoảng từ 5,4% – 10,6%[11][12][22][23]. Viện nghiên cứu y
học Mỹ hồi cứu 30.195 bệnh án đã công bố tỷ lệ người bệnh nhập viện gặp sự cố y khoa là 3,7%
10. Các chuyên gia y tế Mỹ ước tính ít nhất có 44.000 – 98.000 người bệnh tử vong trong các bệnh
viện của Mỹ hàng năm do các sự cố y khoa. Số người chết vì sự cố y khoa trong các bệnh viện của
Mỹ cao hơn tử vong do tai nạn giao thông, Ung thư vú, tử vong do HIV/AIDS là ba vấn đề sức khỏe
mà người dân Mỹ quan tâm hiện nay[11][12][18][19][20][21][22][23].
Nghiên cứu về chất lượng chăm sóc y tế của Úc (1994) do Bộ Y tế và dịch vụ con người tiến hành
(1994) đã công bố tần suất sự cố y khoa đối với các bệnh nhân nhập viện tại các bệnh viện của Úc
là 16,6%[12].
Nghiên cứu sự cố y khoa trong các bệnh viện Anh Quốc ghi nhận tần suất người bệnh gặp sự cố y
khoa chiếm 10,8% người bệnh nhập viện và một nửa sự cố có thể phòng ngừa[13].
Nghiên cứu về tần suất sự cố y khoa tại các bệnh viện Canada báo cáo tần suất sự cố y khoa 7,5%
người bệnh nhập viện, 36,9% sự cố có thể phòng ngừa. Hàng năm Canada có 2,5 triệu người bệnh
nhập viện và ước tính có 185.000 người bệnh gặp sự cố y khoa[14].
Nghiên cứu về sự cố y khoa tại Đan Mạch (1998) báo cáo tần suất sự cố y khoa 9% đối với người
bệnh nhập viện, 40% sự cố có thể phòng ngừa[15].
Nghiên cứu tại 21/101 bệnh viện Hà Lan (2004) báo cáo tần suất sự cố y khoa 5,7% người bệnh
nhập viện, >50% sự cố không mong muốn liên quan tới người bệnh có phẫu thuật[16].
Nghiên cứu tại New Zealand (1998) trên tổng số 6.579 bệnh án của 13 bệnh viện đại diện công bố
tần suất sự cố y khoa 6,3%. Trong đó, >50% liên quan tới người bệnh có phẫu thuật và gần 50% sự
cố có thể phòng ngừa, sự cố y khoa do lỗi hệ thống có thể phòng ngừa chiếm 50%[17].
Bảng 2. Nhiễm trùng bệnh viện tại một số bệnh viện Việt Nam
Nguồn: Nhiễm trùng bệnh viện tại các bệnh viện Việt Nam
Nhiễm khuẩn bệnh viện trong các bệnh viện của Việt Nam qua các báo cáo đã được đăng trên các
tạp chí y học ghi nhận NKBV hiện mắc từ 5,4% – 8% người bệnh nội trú, NKVM trên những người
bệnh có phẫu thuật chiếm từ 2,5% – 8,45% và viêm phổi bệnh viện trên các người bệnh có thở máy
từ 40% – 50%[3][10].
2.2. Xu hướng sự cố y khoa
Báo cáo của Tổng thanh tra y tế Mỹ, nghiên cứu 780 bệnh án ngẫu nhiên của các người bệnh trong
tháng 10 năm 2008 công bố 13,5% người bệnh nhập viện gặp sự cố y khoa (cứ 7 người bênh ra
viện thì có 1 người gặp sự cố y khoa thỏa mãn ít nhất 1 tiêu chuẩn xác định sự cố y khoa); 51%
không thể phòng ngừa, 44% sự cố y khoa hầu như có thể phòng ngừa và 5% không xác định[18].
Nghiên cứu tổng quan của John T Jame đăng trên Tạp chí Lippincott William & Wilkin sử dụng Bộ
công cụ đánh giá sự cố y khoa của Viện cải thiện chăm sóc y tế – Mỹ “Global Trigger Tool of the
Institute for Healthcare Improvement” ước tính thấp nhất 210.000 tử vong hàng năm liên quan tới sự
cố y khoa so với nghiên cứu của Viện y học Mỹ (Institute of Medicine) năm 1999 ước tính hàng năm
có tới 98.000 người tử vong liên quan tới sự cố y khoa[19].
Một nghiên cứu hồi cứu trên 11.883 bệnh án của Hà Lan tại 20 bệnh viện, trong đó có 7.787 bệnh
án (2004) và 3.966 bệnh án (2008) công bố tỷ lệ sự cố y khoa tăng từ 4,1% (2004) lên 6,2% (2008),
sự cố y khoa đối với người bệnh ngoại khoa tăng lên và chiếm tỷ lệ > 50% các sự cố. Các tác giả
đều nhận định sự cố y khoa mang tính bền vững, sự cố y khoa là vấn đề rất khó để tạo tác động
thay đổi và cần thiết vận động người bệnh tham gia vào quá trình làm giảm sự cố y khoa
[18][19][20].
Báo cáo y tế lần thứ 9 của Bang Minisota – Mỹ (1.2013) ghi nhận năm 2012 có nhiều sự cố y khoa
hơn các năm trước, bình quân mỗi tháng có 26,1 sự cố, 28% các sự cố y khoa gây hậu quả cho
người bệnh và 4% sự cố y khoa dẫn đến chết người; Các sự cố liên quan tới phẫu thuật sai phương
pháp, sai vị trí vẫn có xu hướng tăng nhẹ [21].
Ngoài ra, xu hướng tranh chấp trong khám chữa bệnh giữa một bên là người sử dụng dịch vụ y tế
và người cung cấp hoặc cơ sở cung cấp dịch vụ y tế ngày càng gia tăng.
3. PHÂN LOẠI SỰ CỐ Y KHOA
3.1. Phân loại theo tính chất chuyên môn
Hiệp hội an toàn người bệnh Thế giới phân loại sự cố y khoa theo 6 nhóm gồm:
– Sự cố y khoa liên do nhầm tên người bệnh
– Sự cố y khoa do thông tin bàn giao của CBYT không đầy đủ
– Sự cố y khoa do sai sót dùng thuốc: xảy ra trong tất cả các công đoạn từ khi kê đơn thuốc, cấp
phát thuốc, pha chế thuốc, sử dụng thuốc và theo dõi sau dùng thuốc. Viện Nghiên cứu Y học Mỹ
ước tính tại Mỹ có khoảng 1,5 triệu sai sót, sự cố do dùng thuốc xảy ra hàng năm và có tới 7.000
người chết do sai sót dùng thuốc hàng năm[22].
– Sự cố y khoa do nhầm lẫn liên quan tới phẫu thuật (nhầm vị trí, nhầm phương pháp, nhầm người
bệnh). Sự cố y khoa do phẫu thuật theo ước tính của WHO: Cứ 25 người có một người có phẫu
thuật, hàng năm có khoảng 230 triệu phẫu thuật, tử vong liên quan tới phẫu thuật từ 0,4% – 0,8% và
biến chứng do phẫu thuật từ 3% – 16%23. Sự cố y khoa không mong muốn có tần suất cao trên
những người bệnh có phẫu thuật (50%)[22][23][24].
– Sự cố y khoa do nhiễm khuẩn bệnh viện
– Sự cố y khoa do người bệnh bị té ngã trong khi đang điều trị tại các cơ sở y tế.
Chú ý: Thông tư số 19 /2013/TT-BYT Hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh tại bệnh viện bổ sung thêm nội dung an toàn người bệnh trong việc sử dụng trang thiết
bị y tế.
3.2. Phân loại theo lỗi cá nhân và hệ thống
Sơ đồ 1. Mô tả các lớp hàng rào bảo vệ của hệ thống phòng ngừa sự cố y khoa Nguồn: Reason J.
Carthey, Diagnosing vulnerable system sysdrome
Trong y tế, các quy trình chuyên môn, các hoạt động của thầy thuốc như khám bệnh, chẩn đóan, kê
đơn, can thiệp thủ thuật, kể cả các hoạt động hành chính gián tiếp cũng đều có thể gây rủi ro trực
tiếp hoặc gián tiếp trên người bệnh. Vì vậy, thường quy làm việc của các bệnh viện, mọi quy trình
công việc cần được thiết kế sao cho toàn bộ hệ thống có khả năng phát hiện và phòng ngừa sự cố
xảy ra với người bệnh.
Các lỗi do cá nhân người hành nghề hay còn gọi là lỗi hoạt động (active errors). Người hành nghề ở
lớp hàng rào phòng ngự cuối cùng trực tiếp với người bệnh nên khi sự cố xảy ra họ dễ bị gán lỗi.
Trên thực tế có nhiều lỗi cá nhân do hệ thống gây ra. Theo các nhà nghiên cứu y khoa, 70% các sự
cố y khoa không mong muốn có nguồn gốc từ các yếu tố của hệ thống và chỉ có 30% là do cá nhân
người hành nghề 6,12. Quy chụp trách nhiệm cho cá nhân sẽ dẫn đến văn hóa giấu diếm sự thật sẽ
ít hiệu quả trong việc mang lại những kết quả dài hạn.
Các lỗi do hệ thống (latent factors) liên quan tới các sai sót, sự cố y khoa có thể là: Các chính sách
không phù hợp, các quy định chuyên môn chưa lấy người bệnh làm trung tâm, thiếu nhân lực, ca
kíp kéo dài, thiếu phương tiện phục vụ người bệnh, cơ chế tự chủ v.v. Những yếu tố này thường ít
được chú ý xem xét liên quan khi phân tích nguyên nhân sự cố y khoa. Do vậy nếu chỉ tập trung vào
lỗi cá nhân thì nguyên nhân gốc gây ra sự cố vẫn chưa được giải quyết và lỗi tương tự sẽ tiếp tục
xảy ra.
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra Hội chứng hệ thống suy yếu của tổ chức (Vulnerable System
Syndrome). Hội chứng này có ba nhóm triệu chứng chính là: (1) Đổ lỗi cho cá nhân trực tiếp (bác sĩ,
điều dưỡng, hộ sinh); (2) Phủ nhận sự tồn tại các điểm yếu của lỗi hệ thống; (3) Theo đuổi lợi
nhuận dẫn đến lạm dụng các chỉ định chuyên môn, xa rời mục tiêu lấy người bệnh làm trung tâm.
3.3. Phân loại theo các yếu tố liên quan
a. Yếu tố người hành nghề
Sai sót không chủ định: (1) Do thói quen công việc như một người pha thuốc và một người tiêm; sao
y lệnh thuốc; (2) Do dựa vào trí nhớ như bác sĩ khám bệnh cho tất cả bệnh nhân sau đó mới ghi
bệnh án, điều dưỡng cuối ngày mới ghi nhận xét vào hồ sơ bệnh nhân; (3) Do quên như quên
không lấy bệnh phẩm xét nghiệm, quên không bàn giao cho ca trực sau, quên không cho người
bệnh dùng thuốc đúng giờ, ra y lệnh miệng sau đó quên không ghi bệnh án..; (4) Do tình cảnh của
người hành nghề như mệt mỏi, ốm đau, tâm lý; (5) Do kiến thức, kinh nghiệm của người hành
nghề. Một số trường hợp sự cố y khoa không mong muốn xảy ra ngay đối với các thầy thuốc có
kinh nghiệm nhất và đang trong lúc thực hiện công việc chuyên môn có trách nhiệm.
Sai sót do cố ý: (1) Cắt xén hoặc làm tắt các quy trình chuyên môn (chưa tuân thủ vệ sinh tay, mang
găng tay..); (2) Vi phạm đạo đức nghề nghiệp, lợi ích của người bệnh không được đặt lên hàng đầu
dẫn đến lạm dụng thuốc, lạm dụng kỹ thuật cao và các thiết bị y tế can thiệp trên người bệnh không
bảo đảm chất lượng.
b. Yếu tố chuyên môn
Y học mang tính xác suất và bất định cao. Người bệnh trong các cơ sở y tế phải trải qua nhiều can
thiệp thủ thuật, phẫu thuật, đưa thuốc, hóa chất vào cơ thể dễ gây phản ứng dẫn đến rủi ro bất khả
kháng. Vì vậy, cần nhận thức không phải sự cố y khoa nào cũng do thầy thuốc thiếu trách nhiệm và
thiếu y đức.
Hạn chế của y học. Những thành tựu y học trong y tế đã giúp phát hiện sớm bệnh tật và nhiều
người mắc bệnh nan y đã được điều trị thành công mang lại hạnh phúc cho hàng triệu người bệnh.
Tuy nhiên, những hạn chế của y học trong một số trường hợp tạo nên sự cố y khoa nghiêm trọng.
Ví dụ, tại Đài Loan (2012) đã dùng tạng của người bệnh HIV (+) để ghép tạng cho 5 người bệnh
khác.
Dây chuyền khám chữa bệnh phức tạp. Nhiều đầu mối, ngắt quãng, nhiều cá nhân tham gia trong
khi hợp tác chưa tốt, thông tin chưa đầy đủ và chưa kịp thời.
c. Yếu tố môi trường chăm sóc y tế
Môi trường chăm sóc y tế có nhiều áp lực do quá tải, ca kíp trái với sinh lý bình thường (trong khi
mọi người ngủ thì cán bộ y tế phải trực). Nơi làm việc chật chội nhiều tiếng ồn, cán bộ y tế nhiều
khoa/bệnh viện phải làm việc với cường độ rất cao và áp lực tâm lý luôn căng thẳng.
d. Yếu tố chính sách, quản lý và điều hành
Một số chính sách, những quy định cần nghiên cứu điều chỉnh để khắc phục những mặt trái tác
động tới sự an toàn người bệnh như: Quy định cho thuốc 2-3 ngày; đăng ký nơi khám chữa bệnh
ban đầu dẫn đến giữ người bệnh ở tuyến dưới; thu viện phí theo dịch vụ dẫn đến lạm dụng xét
nghiệm, thuốc, kỹ thuật cao v.v.
Cơ chế bệnh viện tự chủ cũng mang theo những rủi ro tiềm ẩn cần kiểm soát như: Giảm chi phí đầu
vào đặc biệt là giảm nhân lực điều dưỡng chăm sóc người bệnh, giảm sử dụng vật tư, hàng tiêu
hao y tế, thầy thuốc trước khi chỉ định thuốc, xét nghiệm cho người bệnh phải xem xét khả năng chi
trả của người bệnh, v.v.
Tổ chức cung cấp dịch vụ chưa thực sự hợp lý như: Hoạt động bệnh viện tập trung nhiều vào buổi
sáng; ca-kíp kéo dài (24 giờ/ngày); nhân lực trực đêm và ngày nghỉ, ngày lễ chưa thực hiện được
nguyên tắc “Bệnh viện hoạt động 24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần”. Nhiều bệnh viện tuyến huyện, bố trí
1 bác sĩ trực theo khối (nội nhi lây và ngoại sản) dẫn đến bác sĩ không đáp ứng tốt được yêu cầu
chuyên môn chuyên khoa (ví dụ, bác sĩ chuyên khoa mắt trực khối ngoại khám sản v.v.). Các yếu tố
liên quan tới sự cố y khoa được mô tả tóm tắt trong sơ đồ 2 dưới đây:
Các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa
Sơ đồ 2. Các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa
3.4. Phân loại theo mức độ nghiêm trọng đối với người bệnh ( tham khảo)
Nguồn: NCC MERP Index, Medication Errors Council Revises and Expended Index for categorizing
Errors, June 12,2001.
3.5. Sự cố y khoa nghiêm trọng cơ sở y tế phải báo cáo (tham khảo)
Bảng 3. Danh mục các sự cố y khoa nghiêm trọng phải báo cáo[28]
Nguồn: NQF, Serious Reportable Event in Health Care 2006 update.
4. ĐỀ XUẤT
1. Tăng cường hệ thống chính sách, văn bản pháp quy về ATNB
Sự cố y khoa cần được xem xét như một vấn đề y tế công cộng (public health issue) vì những lý do
sau đây: (1) Sự cố y khoa mang tính toàn cầu, vượt ra tầm điều chỉnh các sai sót mang tính cá nhân
người hành nghề, xảy ra mọi lúc, mọi nơi, tại mọi cơ sở y tế, có quy mô rộng (cá nhân, tổ chức,
quốc gia và quốc tế); (2) Sự cố y khoa có tần suất cao (3,7% – 10,6% người bệnh nhập viện, hậu
quả sự cố y khoa rất nghiêm trọng trực tiếp ảnh hưởng tới kết quả điều trị, tính mạng người bệnh,
uy tín, sự an toàn và an ninh của mọi cơ sở y tế; (3) Việc khắc phục và làm giảm sự cố y khoa là
một công việc khó khăn, lâu dài và đòi hỏi sự tham gia của toàn bộ hệ thống, kể cả sự tham gia của
người bệnh và cộng đồng. Mọi nỗ lực của hệ thống y tế chỉ có thể làm giảm nhẹ sự cố y khoa mà
không có thể phòng ngừa được mọi sự cố y khoa; (4) Cần có sự phối hợp giữa các ngành nghề
trong lĩnh vực y tế và ngoài y tế, đặc biệt là các cơ quan báo chí, truyền thông trong việc cung cấp
thông tin để tăng cường nhận thức của cộng đồng và người hành nghề về an toàn người bệnh. Tổ
chức Y tế Thế giới đã có Nghị quyết số WHA55.18 kêu gọi các quốc gia thành viên giành sự quan
tâm cao nhất có thể để cải thiện sự an toàn người bệnh. Đồng thời, yêu cầu Giám đốc của Tổ chức
Y tế thế giới đưa ra các hướng dẫn, các chuẩn toàn cầu về an toàn người bệnh, hỗ trợ thiết lập các
hệ thống đo lường, báo cáo sự cố y khoa và thực hiện những giải pháp để làm giảm rui ro cho
người bệnh[24].
2. Xem xét thành lập các tổ chức ATNB
Các quốc gia tiên phong như Mỹ, Úc, Anh, Canada, New Zealand từ thập kỷ đầu của thế kỷ XXI đã
thành lập các tổ chức chuyên trách để tư vấn, giám sát, đánh giá ATNB như: Ủy ban quốc gia về
chất lượng y tế và an toàn người bệnh (Mỹ, Úc, Malaysia ); Viện nghiên cứu quốc gia an toàn người
bệnh (Mỹ, Canada); Hiệp hội an toàn người bệnh (Úc); Cơ quan an toàn người bệnh quốc gia (Anh
quốc, Mỹ); Liên minh an toàn người bệnh Đức (German Coalition for Patient Safety) v.v. Các tổ
chức trên đóng vai trò rất quan trọng trong việc tham mưu, tư vấn, điều phối các nỗ lực về ATNB.
3. Triển khai hệ thống báo cáo sự cố y khoa bắt buộc
Hiện nay, những sự cố y khoa đã biết chỉ là phần nổi của tảng băng do đó việc thiết lập hệ thống
báo cáo sự cố y khoa là cấp thiết để đánh giá hiện trạng và theo dõi xu hướng. Hệ thống báo cáo
sự cố y khoa bao gồm các thành tố sau: (1) Văn bản hướng dẫn báo cáo sự cố y khoa và quy định
sử dụng thông tin về sự cố y khoa; (2) Ban hành danh mục các sự cố y khoa phải báo cáo bắt buộc
bất cứ khi nào về Bộ Y tế; (3) Chuẩn hóa khung Báo cáo sự cố y khoa và báo cáo đánh giá định kỳ
về các sự cố y khoa, phân tích nguyên nhân gốc và các giải pháp khắc phục. Từng bước minh bạch
thông tin về sự cố y khoa thể hiện sự tôn trọng của các hệ thống y tế đối với người bệnh và thể hiện
trách nhiệm của các cấp của hệ thống y tế khi sự cố xảy ra. Kinh nghiệm một số nước tiên phong,
việc công khai minh bạch thông tin về sự cố y khoa làm giảm áp lực của cộng đồng đối với ngành y
tế và ngành y tế nhận được sự thông cảm, chia sẻ của người bệnh và cộng đồng về tính chất phức
tạp và đa dạng của sự cố y khoa.
4. Triển khai bảo hiểm nghề nghiệp
Việc triển khai bảo hiểm nghề nghiệp sẽ giúp bảo vệ người hành nghề, bảo vệ cơ sở y tế. Khi sự cố
y khoa xảy ra, cơ quan bảo hiểm có trách nhiệm giải quyết bồi thường cho người bệnh và sẽ có tác
động làm tăng niềm tin của người bệnh và gia đình người bệnh về khả năng đền bù khi có sự cố
xảy ra và từ đó sẽ giảm bớt gây căng thẳng cho thầy thuốc và cơ sở y tế.
5. Cải thiện môi trường làm việc và văn hóa an toàn người bệnh
Bảo đảm nhân lực đáp ứng yêu cầu bệnh viện hoạt động liên tục 24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần. Rà
soát lại các thường quy làm việc (khám bệnh, kê đơn, phát thuốc, bàn giao ca kíp) phát hiện các
khoảng trống có nguy cơ tiềm tàng tới sự ATNB để chủ động khắc phục, rà soát và cập nhật các
hướng dẫn chuyên môn, khắc phục lỗi hệ thống và tăng cường giáo dục, kiểm tra sự tuân thủ của
người hành nghề, tăng cường chuyên nghiệp và luôn đặt lợi ích của người bệnh lên trên các lợi ích
của cá nhân trong khi hành nghề.
6. Tăng cường kiểm tra, giám sát sự tuân thủ của người hành nghề.
Giảm thiểu các sai sót sự cố y khoa liên quan tới việc xác định sai tên người bệnh; thông tin không
đầy đủ giữa các cán bộ y tế; sai sót trong dùng thuốc; sai sót trong phẫu thuật, thủ thuật; tăng
cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn; sử dụng trang thiết bị y tế./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Khám bệnh, chữa bệnh
2. Bộ Y tế. Thông tư Số 19 /2013/TT-BYT Hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại
bệnh viện.
3. Nguyễn Thanh Hà (2005), “Giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện tại 6 tỉnh phía Nam”.
4. Nguyễn Việt Hùng (2005). “Tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện tại các bệnh viện khu vực phía Bắc”.
5. Trần Hữu Luyện. “Nhiễm khuẩn bệnh viện trên NB có phẫu thuật”.
6. Phạm Đức Mục và cộng sự (2005). “Nhiễm khuẩn bệnh viện tại các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế năm 2005”.
7. Lê Anh Thư. “Nhiễm khuẩn bệnh viện trên các bệnh nhân có thở máy”.
8. Nguyễn Văn Xáng. Nhiễm khuẩn bệnh viện tại bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh hòa, 2013. Tạp Chí y học thực hành
(2014), số 904: 65-69.
9. Trịnh Hồ Tình và cộng sự. Giám sát NKVM của 622 NB có phẫu thuật tại BVĐK Bình Định. Tạp Chí y học thực
hành (2014), số 904: 57-64.
10. Mai Thị Tiết. Giám sát NKVM của 810 người bệnh có phẫu thuật tại bệnh viện đa khoa Đồng Nai. Tạp Chí y học
thực hành (2014), số 904: 53-56.
11. Results of Harvard Medical Practice Study II. New England Journal of Medicine, 1991,323:377.384.
12. Wilson, R.M., Runciman W.B., Gibberd R.w., Newby,L., & Hamilton, J.D. (1995). The quality in Austrailia health
care Study. The medical Journal of Australia,163 (9), 458-471.
13. Vincent, C., Neale, G., & Woloshynowych,M. (2001). An adverse events in British hyospitals: Preliminary
retrospective record review. British Medical Journal, 322 (7285), 517-519.
14. Baker, G.R., Norton P.G., Flintoft, W., Blais, R., Cox,J., et al. (2004). The Canadian adverse event study: The
incident of adverse events among hospital patient in Canada, CMẠ,170 (11), 1678-1686
15. Mette Lundgaard, Louise Raboel, Elizabeth Broegger Jensen. Danish Society for patient Safety. The Danish
patient experience: the Act on patient safety in the Danish health care system.
16. M Zegers, M C de Bruijne, C Wagner. Adverse events and potentially preventable deaths in Dutch hospitals.
Results of retrospective patient record review study.
17. Davis P, Lay-Yee R, Briant R, Ali W, Scott A, Schug S. Adverse events in New Zealand public hospitals II:
preventability and clinical context.
18. Daniel R. Levinson. Advrese events in hospitals: National incident among medical beneficiaries. Offic of
Investigator General.
19. Rebecca J Baines, maaike Langelaan. Change in adverse event rates in hospital over time: a longitudinal
retrospective record review study.
20. Trends in adverse events events over time: why are we not improving
21. Adverse health events in Minnesota. Ninth Annual Report/Jannuaryy 2013
22. WHO (2011). Patient Safety curriculum guide. Multi-professional Edition,2011, 96-97.
23. Vincent C et al. “Systems approaches to surgical quality and safety: from concept to measurement”. Annuals of
Surgery , 2004, 239:475–482.
24. R. Monina Klevens, Jonathan R. Edwards, Chesley L. Richards (2002). “Estimating Health Care-Associated
Infections and Deaths in U.S. Hospitals”
25. WHO (2002). Fifty fifth World health Assembly WHA55.
26. WHO (2011). Guidelines for Adverse Event Reporting and Learning System
27. Bates DW, Spell N et al (1997), “The costs of adverse drug events in hospitalized patients”, JAMA 1997; 277:301-
34.
28. Serious Reportable Events in health care-2011 Update: A consensus report. National Quality forum. Washington,
DC: NQF,2011.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giam_thieu_su_co_y_khoa_trong_cac_benh_vien_pham_duc_muc.pdf