Giải quyết mối quan hệ dân tộc kinh nghiệm các nước và ý nghĩa đối với Việt Nam -Trương Minh Dục

Tài liệu Giải quyết mối quan hệ dân tộc kinh nghiệm các nước và ý nghĩa đối với Việt Nam -Trương Minh Dục: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN Ngày nhận bài: 14/5/2018; Ngày phản biện: 20/5/2018; Ngày duyệt đăng: 4/6/2018 (1) Học viện Chính trị Khu vực III; e-mail: minhduc1952@yahoo.com.vn Số 22 - Tháng 6 năm 2018 1. Kinh nghiệm xây dựng quan hệ dân tộc ở Liên bang Nga Liên bang Nga là một trong những quốc gia đa dạng nhất trên hành tinh về thành phần dân tộc. Theo kết quả Tổng điều tra dân số toàn quốc năm 2010, ở Liên bang Nga có 160 dân tộc lớn và nhỏ, có nguồn gốc, ngôn ngữ, văn hóa, đặc tính sinh hoạt khác nhau, nhưng lại gắn bó mật thiết bởi số phận chung. Các cư dân này nói bằng 120 thứ tiếng, 80 ngôn ngữ trong số đó được giảng dạy trong các trường phổ thông và đại học1. Ngoài ra, ở Nga còn có các cộng đồng người Serbia, Ba Lan, Triều Tiên, Đức, Phần Lan và nhiều dân tộc khác. Để giải quyết vấn đề dân tộc, Nhà nước Nga không chỉ chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, coi trọng văn hoá của các dân tộc, bảo đảm sự bình đẳng, đoàn...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 492 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải quyết mối quan hệ dân tộc kinh nghiệm các nước và ý nghĩa đối với Việt Nam -Trương Minh Dục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN Ngày nhận bài: 14/5/2018; Ngày phản biện: 20/5/2018; Ngày duyệt đăng: 4/6/2018 (1) Học viện Chính trị Khu vực III; e-mail: minhduc1952@yahoo.com.vn Số 22 - Tháng 6 năm 2018 1. Kinh nghiệm xây dựng quan hệ dân tộc ở Liên bang Nga Liên bang Nga là một trong những quốc gia đa dạng nhất trên hành tinh về thành phần dân tộc. Theo kết quả Tổng điều tra dân số toàn quốc năm 2010, ở Liên bang Nga có 160 dân tộc lớn và nhỏ, có nguồn gốc, ngôn ngữ, văn hóa, đặc tính sinh hoạt khác nhau, nhưng lại gắn bó mật thiết bởi số phận chung. Các cư dân này nói bằng 120 thứ tiếng, 80 ngôn ngữ trong số đó được giảng dạy trong các trường phổ thông và đại học1. Ngoài ra, ở Nga còn có các cộng đồng người Serbia, Ba Lan, Triều Tiên, Đức, Phần Lan và nhiều dân tộc khác. Để giải quyết vấn đề dân tộc, Nhà nước Nga không chỉ chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, coi trọng văn hoá của các dân tộc, bảo đảm sự bình đẳng, đoàn kết dân tộc nhằm làm cho mỗi cư dân Nga, bất kể thuộc dân tộc nào cũng đều cảm thấy mình là người tự do và coi nước Nga là ngôi nhà chung của mình. Văn hóa quốc gia có vai trò tự chủ trong việc bảo tồn và phát triển các di sản tinh thần của nước Nga, vì vậy, Chính phủ Nga chủ trương xây dựng một xã hội đa văn hóa, coi trọng việc bảo tồn truyền thống văn hoá các dân tộc, cho nên mỗi năm đều xuất hiện những vùng văn hóa dân tộc mới. Ở miền Bắc Kavkaz, nơi sinh sống hàng bao thế kỷ nay của hơn 100 dân tộc trên một địa bàn nhỏ hẹp, trở thành hình mẫu cho các khu vực khác của Nga về quan hệ dung hòa đa sắc tộc. Nhiều thế kỷ nay Kabardino - Balkarya đã xây dựng được nếp sống láng giềng thân thiện giữa những người dân 1. Http//Wikipedia, tiếng Việt, Vấn đề dân tộc ở Liên bang Nga, cập nhật 28.05.2010, 15:56 có nền văn hóa khác nhau và tín ngưỡng khác nhau. Nguyên tắc dung hòa có vai trò quan trọng và điều kiện cần thiết cho hòa bình và phát triển xã hội- kinh tế của đất nước. Bởi lẽ, văn hóa dân tộc có tác dụng bảo toàn và củng cố bản sắc của cộng đồng dân tộc; các dân tộc có cơ hội phát triển nền văn hóa riêng của mình đồng thời là một bộ phận của nền văn hóa quốc gia Nga. Hoạt động của các vùng văn hóa - tự trị bao hàm những nội dung đầy đủ và hiện thực, cho đến nay ở Nga đã có khoảng 800 vùng văn hóa dân tộc, được tạo lập bởi các tập thể đại diện của 59 dân tộc. Vì vậy, nhiều cộng đồng dân tộc đã nhận được thêm cơ hội tốt đẹp để bảo tồn ngôn ngữ, văn hoá, phong tục và truyền thống của họ. Chính sách của nhà nước Nga là phát huy tính tích cực của mỗi nền văn hóa dân tộc thông qua khai thác và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trên cơ sở luật pháp, cũng như nhờ sự hiệp lực của chính quyền địa phương. Về giáo dục, mọi nơi đều có trường phổ thông dân tộc, các khóa học bậc đại học giảng dạy tiếng dân tộc; các dân tộc đều có quyền xuất bản báo và tạp chí riêng của mình. Để tăng cường sự thống nhất của dân tộc Nga và phát triển bản sắc văn hóa của các dân tộc ở Nga giai đoạn 2014 - 2020, ngày 25/8/2014, Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev, đã phê chuẩn Chương trình Liên bang. Nội dung của chương trình là tăng cường đối thoại giữa chính quyền với các hiệp hội sắc tộc trong nước nhằm hài hòa quan hệ giữa các dân tộc và phát triển bản sắc văn hóa đa dạng tại Nga. Chương trình này sẽ giúp Chính phủ Nga dự báo được các xung đột sắc tộc và tôn giáo, từ đó giảm thiểu thiệt hại kinh tế do xung đột sắc tộc. Trong bối cảnh tình trạng bài sắc tộc, kém khoan dung sắc tộc và hạn chế quyền của các cộng đồng thiểu số hình thành tại Nga từ thập kỷ 1990 thì xây GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ DÂN TỘC KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM* Trương Minh Dục(1) Hầu hết các nước trên thế giới là những quốc gia đa dân tộc/tộc người. Giữa các dân tọc/tộc người trong một quốc gia hay xuyên quốc gia có mối quan hệ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Vấn đề dân tộc lại gắn với vấn đề tôn giáo, nên quan hệ dân tộc luôn là vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy, giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những nhân tố quyết định cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Từ thực tiễn, mỗi nước có chính sách cụ thể để giải quyết vấn đề dân tộc, có những thành công và thất bại. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm trong xây dựng quan hệ dân tộc ở một số quốc gia đa dân tộc trên thế giới, từ đó gợi mở cho việc xây dựng quan hệ dân tộc ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế hiện nay. Từ khóa: Quan hệ dân tộc; kinh nghiệm các nước; ý nghĩa đối với Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 99Số 22 - Tháng 6 năm 2018 dựng tính thống nhất, đoàn kết các dân tộc Nga và bảo tồn được các giá trị văn hóa đa dạng có ý nghĩa vô cùng quan trọng và thiết thực. Chương trình đề ra nhiệm vụ củng cố vai trò của các thể chế xã hội như các tổ chức tôn giáo và văn hóa dân tộc, phổ biến kiến thức về lịch sử và văn hóa của các dân tộc sinh sống tại nước Nga. Bên cạnh đó, văn kiện cũng nhấn mạnh việc tiến hành các chiến dịch thông tin trên toàn quốc nhằm tăng cường lòng yêu nước của người dân thông qua tổ chức trại Hè “Đối thoại giữa các nền văn hóa”, dự án toàn Nga “Chiến thắng chung của chúng ta,” cuộc thi ảnh “Nền văn minh Nga,” tổ chức các triển lãm về văn hóa các dân tộc ít người tại miền Bắc, Siberi, Viễn Đông. 2. Kinh nghiệm xây dựng quan hệ dân tộc ở Trung Quốc Trung Quốc là một quốc gia/dân tộc có 56 dân tộc/tộc người. Nhà nước Trung Quốc tôn trọng các yếu tố lịch sử như sợi chỉ đỏ gắn kết các tộc người và chủ trương tất cả các dân tộc đều cùng bình đẳng, tham gia vào tiến trình phát triển đất nước. Mối quan hệ giữa các tộc người chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố, trong đó quan hệ giữa các dân tộc với nhà nước có vai trò quan trọng bậc nhất. Chính sách của Chính phủ Trung Quốc là luôn luôn tôn trọng đặc trưng các dân tộc thiểu số trong sự phát triển ổn định của quốc gia. Những yếu tố làm cản trở quá trình ổn định của quốc gia từng bước bị xóa bỏ (điển hình là tôn giáo). Tuy nhiên, Trung Quốc cũng luôn song hành hỗ trợ các tập quán văn hóa truyền thống của từng tộc người vốn được coi là “phi chính trị” như: Nghi lễ truyền thống, múa, văn học Chính sách này giúp Trung Quốc đạt được hai mục đích: Thứ nhất, duy trì sự tồn tại của những đặc tính riêng không làm ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với các dân tộc thiểu số; thứ hai, xây dựng hình ảnh một nước xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc hòa đồng, đa văn hóa. Để bảo đảm địa vị của các dân tộc thiểu số, Trung Quốc chủ trương hạn chế sử dụng thuật ngữ “dân tộc thiểu số”, mà thay vào đó sử dụng tên gọi trực tiếp. Chủ trương này vừa giúp các tộc người thiểu số dần quên đi mặc cảm về địa vị, vừa làm phai nhạt sự phân biệt, kỳ thị trong cộng đồng người Hán. Chính sách dân tộc của Trung Quốc là ưu tiên đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng tự trị của các dân tộc thiểu số ở những vùng cao, vùng xa xôi, hẻo lánh như Nội Mông, Tây Tạng, Vân Nam; giúp đỡ các dân tộc thiểu số nâng cao vị thế qua việc phát triển kinh tế, thương mại, du lịch, giao bang hợp tác xuyên biên giới, hợp tác với các khu vực phát triển khác trong cả nước. Ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng, tăng cường đầu tư, vốn ưu đãi cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng: đường cao tốc, đường sắt, đường bộ, đường ống dẫn ga. Tăng cường hỗ trợ tài chính thành lập quỹ “bao cấp vùng dân tộc thiểu số”. Nâng cao ý thức xây dựng sinh thái, bảo vệ môi trường, chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả thành đất chăn nuôi và đất rừng, phát triển giáo dục cho các dân tộc thiểu số. Tăng cường xóa đói giảm nghèo, dân tộc thiểu số là đối tượng chính cần trợ giúp, thành lập quỹ quần áo, lương thực, quỹ phát triển, tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng, hỗ trợ lương thực, quần áo cho dân tộc thiểu số. Đầu tư các dịch vụ xã hội, cải thiện cơ sở y tế, phát thanh, truyền hình. Hỗ trợ hội nhập, khuyến khích vùng dân tộc thiểu số xuất khẩu sản phẩm địa phương, đẩy mạnh mậu dịch biên giới, liên kết kinh tế, hợp tác công nghệ, ban hành các chính sách đặc biệt hỗ trợ sản xuất, xây dựng mạng lưới thương mại, cải tiến công nghệ đáp ứng nhu cầu ở vùng dân tộc thiểu số. Quan tâm đến nhu cầu sản xuất và sinh sống, đặc biệt là phong tục tập quán, gắn bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tộc người với phát triển du lịch văn hóa; thực hiện chính sách “hưng biên, phú dân”. 3. Kinh nghiệm giải quyết quan hệ dân tộc ở Thái Lan Ở Thái Lan thành phần dân cư - dân tộc được phân thành 3 loại: “quốc gia dân tộc”, tộc người “dân tộc thiểu số”; “chạo khao” (cư dân ngụ cư, không có quyền công dân đầy đủ ở Thái Lan). Với quan niệm chủ đạo nước Thái là người Thái, do người Thái làm chủ và đóng vai trò trung tâm, các tộc người khác mặc dù cùng nói một ngữ hệ nhưng vẫn bị coi là người Thái ở ngoài Thái Lan (outsite Thai) và không thể ngang bằng vị thế xã hội của người Thái. Với chính sách đó, các cộng đồng tộc người thiểu số khác muốn trở thành công dân Thái thì phải chấp nhận đồng hóa vào cộng đồng Thái: Nói tiếng Thái, thờ Phật, mang họ tên Thái và sinh hoạt theo văn hóa Thái, Từ quan niệm “chạo khao” là các cư dân thiểu số, lạc hậu, cư trú ở vùng biên giới, thường gây ra nhiều vấn đề an ninh quốc gia và sự phát triển kinh tế xã hội nói chung của đất nước cũng như những xu hướng ly khai, Nhà nước Thái luôn muốn thống thuộc các tộc người vùng cao (chạo khao) với Nhà nước. Từ những năm 1970, Nhà nước Thái bắt đầu đẩy mạnh chính sách “hiện đại hóa và dân tộc hóa” đối với các tộc người thiểu số vùng cao. Để phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số, các chính sách vĩ mô hiện đại hóa và phát triển các tộc người thiểu số dựa trên quan điểm phát triển của các nước phương Tây theo hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới cùng với tham vọng trở thành một quốc gia công nghiệp hóa mới. Thái Lan đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, khuyến khích và trợ giúp các tộc người thiểu số để họ có thể chuyển từ sản xuất nương rẫy du canh, tự cấp tự túc sang sản xuất định canh và phát triển kinh tế hàng hóa, tăng cường hệ thống giáo dục quốc gia bằng Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 100 Số 22 - Tháng 6 năm 2018 tiếng Thái, nâng cao dịch vụ y tế, thực hiện chính sách Phật giáo hóa Chương trình hiện đại hóa và phát triển các tộc người thiểu số dựa vào viện trợ của các nước phát triển để xây dựng cơ sở hạ tầng, hiện đại hóa nền nông nghiệp, xóa đói giảm nghèo, cải thiện các dịch vụ y tế, giáo dục. Chương trình phát triển này đã làm biến đổi rệt đời sống kinh tế - xã hội của các dân tộc vùng cao, như các cơ hội tiếp cận phát triển kinh tế thị trường và thị trường tăng lên (sản lượng mùa vụ, giống và cây trồng mới); đường, điện, trường học, bệnh viện khiến cho đời sống của con người và cộng đồng được cải thiện hơn. Với các dự án phát triển mang tên “hiện đại hóa, dân tộc hóa”, Chính phủ Thái Lan đã thúc đẩy cư dân các tộc người thiểu số vùng cao biến đổi nhanh chóng theo người Thái và tạo ra trong cư dân các tộc người thiểu số vùng cao những đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa chung bản sắc dân tộc Thái, vì vậy, bản sắc riêng của từng tộc người thiểu số bị mai một dần. Về văn hóa, chính phủ Thái Lan sử dụng Phật giáo như là một trong những phương tiện có sức mạnh cuốn hút, nhanh chóng đồng hóa các tộc người thiểu số vào xã hội người Thái. Với quan niệm, công dân Thái phải là tín đồ của đạo Phật, từ những năm 1970, chính phủ Hoàng gia Thái Lan đã đẩy mạnh thực hiện dự án truyền bá Phật giáo hóa những cư dân theo tín ngưỡng đa thần; cấp kinh phí để xây dựng nhiều chùa chiền ở miền núi. Để khuyến khích các cư dân đi theo Phật giáo, dự án đã kết hợp các chương trình đào tạo chức sắc Phật giáo với học văn hóa đến tốt nghiệp cử nhân miễn phí cho học sinh vùng cao. Việc chấp nhận bị đồng hóa để có các quyền lợi về chính trị, kinh tế - xã hội đồng nghĩa với việc các tộc người thiểu số vùng cao dần dần nói tiếng Thái, ứng xử theo cách của người Thái và dần dần bị Thái hóa. Chính sách “đồng hóa” các tộc người thiểu số của Nhà nước Thái bị lên án mạnh mẽ, nhưng lực lượng dân tộc chủ nghĩa- lực lượng đóng vai trò chính trong việc điều hành đất nước hiện nay, vẫn chủ trương lấy tinh thần củng cố tính thống nhất quốc gia làm mục tiêu ưu tiên. Do vậy, tình trạng Thái hóa các cộng đồng các tộc người thiểu số vùng cao, các nền văn hóa khác vẫn đang tiếp diễn nhằm đảm bảo an ninh, quốc phòng; xóa bỏ cây thuốc phiện, phát triển du lịch, trên cơ sở đó nâng cao đời sống người dân. Tuy nhiên, chính sách phát triển nhấn mạnh đến hiện đại hóa, vấn đề “công dân Thái” của Chính phủ bộc lộ một số tồn tại, thách thức. Đó là tạo ra sự cách biệt thu nhập giữa các nhóm, các vùng; các tộc người thiểu số nhận được ít lợi ích; sự suy giảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, mâu thuẫn giữa cư dân vùng cao và vùng thấp có xu hướng gia tăng. 4. Kinh nghiệm giải quyết quan hệ dân tộc ở Malaysia Malaysia là quốc gia có thành phần dân tộc rất phức tạp, trong đó tộc người Melaye chiếm đa số khoảng 57% dân số cả nước; người Hoa đứng thứ hai, chiếm khoảng 25% dân số; người Ấn đứng thứ ba, chiếm khoảng 10% dân số. Ở Malaysia còn có nhóm người Orang Asli (“cư dân đầu tiên”), là các tộc người tại chỗ sống lâu đời trên bán đảo Malaysia, được phân thành 3 nhóm: Negrito thường sống ở phía Bắc; Senoi (còn gọi là Sakai) Senoi, sống ở miền Trung và nguyên Melayu sống ở miền Nam; mỗi nhóm có văn hóa và ngôn ngữ riêng. Vì vậy, Malaysia là một quốc gia da dạng các nền văn hóa, tôn giáo, phong tục tập quán, ngôn ngữ Sự đa dạng về văn hóa là yếu tố hết sức nhạy cảm, mỗi nhóm, thậm chí chi nhóm có lối sống riêng đã được định hình bởi hoàn cảnh địa lý, lịch sử, vì vậy, dễ dẫn đến các mâu thuẫn và xung đột. Chính sách phát triển kinh tế, hài hòa xã hội, nhằm giải quyết những mâu thuẫn xung đột nảy sinh từ tình trạng đói nghèo, khác biệt về mức sống, thu nhập, khu vực sinh sống và vị thế trong nền kinh tế của các cộng đồng dân tộc ở Malaysia. Từ đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, Chính phủ đã đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP) và từ năm 1991 thực hiện chính sách phát triển quốc gia đến năm 2000 (NDP), với 2 mục tiêu: Cải tổ kinh tế phù hợp với cơ cấu dân tộc, tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo cho mọi người dân, đặc biệt là ở nông thôn. Nhờ đó, tỷ lệ nghèo đói từ 52% năm 1970 giảm xuống 16,7% năm 19902. Phát triển kinh tế, đẩy nhanh quá trình “xây dựng lại xã hội Malaysia” nhằm giảm bớt sự phụ thuộc của người Melayu và các dân tộc tại chỗ khác vào hoạt động kinh tế truyền thống (sản xuất nông nghiệp, săn bắt, hái lượm) và chuyển các hoạt động này tới trao đổi trên thị trường - bán hàng hóa hoặc sức lao động và mua thực phẩm, các hàng nhu yếu phẩm khác. Đồng thời chính phủ cũng thi hành những biện pháp nâng cao vai trò của người Melayu trong các lĩnh vực hiện đại của nền kinh tế, khu vực công thương. Về chính sách ngôn ngữ, Malaysia coi ngôn ngữ là bản sắc quan trọng của mỗi dân tộc. Năm 1967, Chính phủ Malaysia quyết định lấy tiếng Melayu là ngôn ngữ chính thức duy nhất, là ngôn ngữ quốc gia, ngôn ngữ chính thức thứ nhất và tiếng Anh vẫn được dùng làm ngôn ngữ chính thức thứ hai ở các cơ quan Nhà nước, trong lĩnh vực pháp luật, tài chính, khoa học trong khi các thứ tiếng Trung Quốc, Tamil vẫn là tiếng mẹ đẻ của một tỷ lệ lớn dân số nhưng không phải là ngôn ngữ chính thức. Về chính sách văn hóa, Nhà nước Malaysia chủ trương văn học Malaysia phải viết bằng Melayu và về bối cảnh Malaysia. Chính sách giáo dục được coi là phần xương sống, được đặt ở vị trí hàng đầu trong chính sách đồng hóa các tộc người “bản xứ” và nâng cao mức sống cho họ bằng cách tạo ra nghề nghiệp mới. Từ năm 1957, sau khi giành được độc 2. Trương Minh Dục (2016), Quan hệ tộc người trong thời kỳ đổi mới, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 57. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 101Số 22 - Tháng 6 năm 2018 lập, hệ thống giáo dục Islam vẫn song song tồn tại cùng hệ thống giáo dục quốc gia; trong các trường Hồi giáo, các kiến thức Islam chiếm tới 60% thời gian và chương trình học tập. Chính sách ưu đãi người Melayu gốc được thực hiện nhất quán qua các thời kỳ. Các chủ trương, chính sách ưu đãi của Chính phủ đối với người dân tộc tại chỗ trong các lĩnh vực cuộc sống có gốc rễ từ trong lịch sử và thực sự đã mang đến nhiều thành tựu đáng kể trong việc thu hẹp sự chênh lệch giữa người Melayu trong nền kinh tế và trong xã hội. Song, mặt khác, đã bộc lộ những hạn chế, thậm chí dẫn đến những xung đột mới. Các vấn đề liên quan đến dân tộc giải quyết chưa được thỏa đáng, vẫn còn mang tính chất khiên cưỡng, áp đặt. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã đưa ra những bước điều chỉnh chính sách ưu đãi dân tộc, mở rộng cửa cho học sinh ngoài cộng đồng Melayu vào các trường phổ thông nội trú và các trường cao đẳng công lập đối với từng nhóm cộng đồng. Chính phủ đã có dự định tìm giải pháp tăng con số người ngoài cộng đồng Melayu trong các cơ quan công vụ. Chính sách ưu đãi được hình thành và thực hiện khi đa số người Melayu sống ở nông thôn và làm nông nghiệp, nghèo khổ, nhờ đó tình hình kinh tế và vị thế của người Malayu đã được cải thiện đáng kể. Có thể nói, các chính sách ưu đãi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và đã đến lúc cần một sự thay đổi. Từ khi giành được độc lập, Liên bang Malaysia đa dân tộc, đa tôn giáo luôn luôn theo phương châm “Đoàn kết là sức mạnh”. Nhờ đó, Chính phủ và nhân dân Malaysia đã làm được những điều phi thường trong phát triển kinh tế - xã hội: Trước năm 1970 một nửa dân số Malaysia sống trong đói nghèo, thì đến năm 2004, tỷ lệ người nghèo ở Malaysia chỉ còn 5% và thu nhập theo hộ gia đình là 2.996 Ringgit; năm 2005 ước tính GDP đạt 129 tỷ USD, bình quân GDP theo đầu người đạt 489 USD3. Về phương diện văn hóa, nhìn chung, mấy thế kỷ cùng chung sống đã dạy cho người Malaysia cách sống khoang dung, sự tế nhị trong ứng sử và sự thích ghi tài tình, đồng thời loại bỏ những phiền não như những định kiến, nỗi sợ hải và không hiểu nhau. Tuy vậy, chính sách ngôn ngữ và văn học vẫn chưa được toàn thể chấp nhận một cách tự nguyện. Một bộ phận tác giả Malaysia (chủ yếu không thuộc cộng đồng Melayu), cả thế hệ sau chiến tranh và hiện nay, đã chọn tiếng Anh cho các tác phẩm của mình và họ đã thể hiện quan điểm, rằng cho dù viết bằng ngôn ngữ nào họ cũng hết sức nỗ lực đóng góp vào sự hoà nhập của các dân tộc ở Malaysia, xây dựng một bản sắc Malaysia. 5. Kinh nghiệm xây dựng quan hệ dân tộc ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là một quốc 3. Trương Minh Dục (2016), Quan hệ tộc người trong thời kỳ đổi mới, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 60. gia thống nhất với 49 tộc người sinh sống. Sự đa dạng về tộc người đã tạo nên một bức tranh văn hóa đa dạng, nhưng đồng thời cũng đặt ra những vấn đề dân tộc hết sức cấp bách như vấn đề hòa hợp, đoàn kết dân tộc, vấn đề đói nghèo và bất bình đẳng v.v. Vì vậy, xây dựng quan hệ tộc người bình đẳng và chống phân biệt đối xử giữa các tộc người thiểu số để ổn định xã hội là vấn đề có tính chiến lược trong quá trình phát triển của đất nước Triệu Voi. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Lào là đảm bảo khối thống nhất bền chặt giữa người các nhóm dân tộc. Việc nâng cao tính thống nhất dân tộc là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài và là một nhân tố cơ bản trong phát triển quốc gia. Đây là phương hướng chủ đạo để các nhà hoạch định chính sách và toàn dân thực hiện chính sách dân tộc. Điều này được cụ thể hóa trong các Hiến pháp Lào năm 1991 và năm 2003: Lào là một quốc gia đa tộc người, với sự bình đẳng của tất cả các nhóm tộc người; tất cả người Lào đều có quyền và nghĩa vụ cơ bản trong phát triển đất nước. Chính sách dân tộc thiểu số của Đảng Nhân dân cách mạng Lào được thông qua năm 1992, đặt ra những nhiệm vụ thiết yếu cần giải quyết như: 1) Tăng cường cơ sở, nguyên tắc chính trị; 2) Khuyến khích sản xuất và mở rộng các nguồn thu nhập để chuyển từ nền kinh tế phụ thuộc sang nền kinh tế sản xuất, thúc đẩy chất lượng cuộc sống; 3) Tăng cường giáo dục, văn hóa, phúc lợi xã hội; 4) Củng cố an ninh, quốc phòng và gìn giữ hòa bình; và 5) Tăng cường khả năng lãnh đạo của Đảng đối với các vấn đề dân tộc thiểu số. Là một trong những nước nghèo, hơn 80% dân số sinh sống ở nông thôn và các vùng sâu, vùng xa, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho cư dân. Về kinh tế: Phát triển nông nghiệp trồng lúa nước, xây dựng cơ sở hạ tầng của sản xuất và đời sống. Về giáo dục: Nâng cao dân trí, phát triển giáo dục phổ thông. Về y tế: Phát triển y tế cộng đồng, đảm bảo an sinh xã hội. Các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng các tộc người được triển khai nhằm ổn định các cộng đồng, nâng cao năng suất, cải thiện môi trường kinh tế - xã hội và giảm thiểu sự suy thoái của tài nguyên thiên nhiên. Trong đó, Chính phủ Lào xác định: định canh, định cư cho những người du canh được ưu tiên để phát triển chủ yếu của Lào đối với vùng cao và tiến tới xóa bỏ tình trạng canh tác nương rẫy. Tuy nhiên, việc làm ăn sản xuất của người dân nông thôn vẫn theo kiểu cá thể, chủ yếu phụ thuộc vào tự nhiên, việc tiếp cận cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã hội còn bị hạn chế. Tỷ lệ hộ gia đình nghèo còn chiếm tới 28,7%, với thu nhập bình quân là khoảng 650 đôla/người/năm; riêng ở vùng nông thôn miền núi còn thấp hơn 200 đôla/người/năm. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 102 Số 22 - Tháng 6 năm 2018 Một số vùng nông thôn thiếu lương thực kéo dài từ 4 tháng đến 6 tháng, tỷ lệ biết chữ của người dân từ 15 tuổi trở lên chỉ khoảng 73%, tuổi thọ bình quân cả nước đạt 61 năm. Cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội của Lào còn nhiều hạn chế, các huyện có đường giao thông được sử dụng quanh năm chỉ có 125 huyện, số huyện chưa có điện sử dụng chiếm 51% và những hộ chưa có điện sử dụng chiếm 42% 4. Tóm lại, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Lào nhằm xây dựng quan hệ dân tộc/tộc người bình đẳng chính là cơ sở vững chắc cho hòa hợp và đại đoàn kết dân tộc ở Lào. Đảng và Nhà nước Lào đã đề ra và thực hiện thành công nhiều chính sách đối với các tộc người thiểu số. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn tồn tại sự chênh lệch khá lớn về nhiều mặt trong đời sống giữa các tộc người thiểu số và tộc người đa số, giữa miền núi và miền xuôi, giữa vùng cao và vùng đồng bằng, giữa các tộc người thiểu số với nhau bắt nguồn từ sự khác nhau về lịch sử, hậu quả của chính sách thực dân, phong kiến, cũng như điều kiện khí hậu, đất đai, giao thông ở các vùng khác nhau. Đây chính là thách thức lớn đối với Đảng và Nhà nước Lào hiện nay. 6. Kinh nghiệm giải quyết quan hệ tộc người của Inđônêsia Với trên 300 dân tộc và nhóm địa phương, hàng trăm nhóm ngôn ngữ và thổ ngữ, thành phần dân tộc ở Inđônêxia rất đa dạng, phức tạp5. Trong đó, những nhóm dân tộc “tại chỗ” chỉ có trên 1 triệu người và được xếp vào loại “các cộng đồng sống theo luật tục cách biệt về địa lý”, “thổ dân biệt lập”, “cộng đồng biệt lập”, “cộng đồng luật tục”. Những nhóm dân tộc này cũng được gán cho một loạt đặc điểm như: Thấp bé, bảo thủ và thuần nhất; các thể chế xã hội dựa trên cơ sở dòng họ; sống cách biệt về địa lý và rất khó tiếp cận; nguồn sống chủ yếu là kinh tế tự cung tự cấp (trồng trọt du canh du cư, chăn nuôi gia súc trong rừng); sử dụng công cụ và kỹ thuật giản đơn; sống phụ thuộc chủ yếu vào môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên ở địa phương; gặp nhiều trở ngại trong việc tiếp cận các dịch vụ kinh tế, xã hội. Nhằm thống nhất một xã hội đa dân tộc, đa tôn giáo, chính sách dân tộc của Inđonêxia là đẩy mạnh phát triển hệ thống quốc ngữ và giáo dục quốc gia, xây dựng biểu tượng và thể chế quốc gia, đặc biệt là xây dựng ý thức hệ Pancasila. Đây là một hệ thống chính sách, biện pháp, bao gồm nhiều lĩnh vực như: ngôn ngữ, giáo dục, tư tưởng, chính trị, thiết chế xã hội. Ý thức hệ Pancasila là một thứ triết lý nhằm thống nhất quốc gia của Inđônêxia, đối phó với nguy cơ bành trướng về chính trị của Islam. Pancasila 4. Phạm Thị Mùi (2013), Chính sách đối với các dân tộc thiểu số của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Tạp chí Đông Nam Á, số 9. 5. Phần này viết theo tư liệu của Phan Xuân Biên (Chủ nhiệm đề tài, 2010), Tác động của quan hệ tộc người đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta đến năm 2020, Đề tài cấp nhà nước, mã số KX.02.18/06-10. được các nhà lãnh đạo Inđônêsia sử dụng làm nền tảng tư tưởng. Năm 1975, Pancasila được đưa vào nhà trường. Từ năm 1978 trở đi, Pancasila trở thành kim chỉ nam cho toàn bộ xã hội, nhằm chống lại sự đối lập ngày càng lớn của phái Muslim6. Theo một số nhà nghiên cứu, thực chất Pancasila là một thuyết đa nguyên tôn giáo và đã được tất cả các dân tộc hưởng ứng, tham gia, vì dưới hình thức Pacansila, tự do tôn giáo được đảm bảo, không có một tôn giáo nào, dù là Hồi giáo, có quyền và vị trí độc tôn. Người bảo vệ hệ tư tưởng Pancasila là quân đội Inđônêsia. Ngôn ngữ quốc gia Inđônêxia sử dụng tiếng Melayu, một ngôn ngữ thiểu số, làm quốc ngữ, chứ không phải là ngôn ngữ của dân tộc chủ thể Java được xem là phức tạp và không được người phi Java sử dụng. Việc sử dụng ngôn ngữ Melayu như một ngôn ngữ quốc gia thể hiện tư tưởng khoan dung của dân tộc Java đối với các dân tộc khác, nhưng điều có ý nghĩa hơn, nó góp phần quan trọng cho việc tạo tính đồng nhất và nuôi dưỡng sự thống nhất trong một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo như Inđônêsia. Chính sách ngôn ngữ của Inđônêxia góp phần “quốc gia hóa”, “thống nhất hóa” một xã hội vốn đa dân tộc, đa tôn giáo. Chính sách phát triển của Indonesia thể hiện quan điểm thống nhất kinh tế để các dân tộc xích lại gần nhau. Để góp phần thúc đẩy quá trình xích lại gần nhau giữa các dân tộc bị tách biệt bởi biển đảo, Chính phủ Inđônêxia luôn quan tâm đến sự phát triển thống nhất của nền kinh tế. Tuy nhiên cho dù kinh tế có những bước chuyển mình, nhưng Inđônêxia vẫn là một nước tồn tại nhiều hình thái kinh tế, năng suất lao động thấp, hạn chế phát triển thị trường trong nước. Vào đầu những năm 90 thế kỷ XX, cư dân nông nghiệp chiếm trên 70% dân số cả nước. Nông nghiệp trồng lúa vẫn là ngành kinh tế chủ đạo, chiếm 23,4% tổng giá trị sản lượng quốc nội7. Vấn đề phát triển kinh tế trong nước ở Inđônêsia thực chất là vấn đề củng cố sự liên kết kinh tế, văn hóa giữa các vùng, giữa các dân tộc. Chỉ có giải quyết tốt mối liên hệ kinh tế giữa các vùng mới thúc đẩy quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa các dân tộc, làm tăng quá trình giao tiếp và tính cố kết quốc gia dân tộc. Thống nhất kinh tế để mở đường cho thống nhất văn hóa và dân tộc. Phát triển kinh tế trong nước ở Inđônêsia có tác dụng củng cố sự liên kết văn hóa giữa các vùng, giữa các dân tộc. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên đa dạng, lại bị chia cắt làm ảnh hưởng đến quá trình giao lưu kinh tế giữa các vùng; mặt khác, di hại của chính sách kinh tế thời thực dân kéo dài trong những năm sau khi giành được độc lập 6. Nguyễn Tấn Đắc (2003), Văn hóa Đông Nam Á. NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.248. 7. Pham Xuân Biên (Chủ nhiệm đề tài, 2010), Tác động của quan hệ tộc người đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta đến năm 2020, Tlđd. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 103Số 22 - Tháng 6 năm 2018 cũng là những nguyên nhân làm gián đoạn sự giao lưu kinh tế giữa các dân tộc, giữa các vùng ở quốc đảo này. Để khắc phục tình trạng này Nhà nước đã đề ra một loạt các biện pháp tích cực nhằm tạo nên động lực cho sự phát triển chung. Một trong những chính sách đó là hướng đến việc điều chỉnh dân cư, cụ thể Nhà nước chủ động phân bố lại cư dân và nguồn lực lao động trong phạm vi cả nước. Nhìn chung, chính sách của Nhà nước Inđônêxia đối với các vùng dân tộc là: Về chính trị, tập trung hóa quyền lực và tài chính vào tay chính quyền Trung ương do người Java cầm chịch, luôn sử dụng sức mạnh, nhất là sử dụng quân đội để đàn áp những cuộc nổi dậy của các dân tộc. Về kinh tế, Nhà nước trung ương độc quyền quản lý khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có ở các địa phương nhưng không đầu tư thích đáng để phát triển kinh tế địa phương, nhất là ở những cộng đồng thiểu số bản địa. Về văn hóa, thực hiện chính sách đồng hóa, kể cả tôn giáo. Về hành chính, bộ máy quản lý ở Inđônxia cồng kềnh, quan liêu và luôn được các tổ chức thế giới cho là tham nhũng. 7. Những kinh nghiệm về giải quyết vấn đề dân tộc có ý nghĩa đối với Việt Nam Các quốc gia/dân tộc Nga, Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia, Inđônêxia, Lào về cơ bản là một thực thể chính trị hiện đại, phổ biến trên thế giới; là quốc ga đa dân tộc/tộc người, được hình thành từ nhiều mối liên kết giữa nhiều tộc người/nhóm văn hóa, trên cơ sở của chủ nghĩa quốc gia dân tộc và với vai trò kiến tạo của Nhà nước. - Chính sách dân tộc của các nước luôn coi trọng tính thống nhất của dân tộc/quốc gia, xây dựng quan hệ dân tộc/tộc người bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa; tôn trọng phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc trong khuôn khổ luật pháp quốc gia. Khi xây dựng mối quan hệ dân tộc, các nước đều chú ý xây dựng mối quan hệ đồng thuận giữa dân tộc thiểu số với dân tộc đa số (chủ thể); giữa dân tộc/tộc người với quốc gia/dân tộc. Trong đó, thừa nhận và bảo vệ quyền của các dân tộc/tộc người sống trên lãnh thổ của quốc gia; không phân biệt dân tộc ít người hay dân tộc đa số, có quyền được sinh tồn như một cộng đồng có bản sắc riêng luôn có vị trí trung tâm. Về cơ bản, các nhà nước thường sử dụng ba phương thức cơ bản để quản lý tình trạng đa dạng, phức hợp về văn hóa trong phạm vi quốc gia, bao gồm: đồng hóa, tách biệt, duy trì sự hỗn hợp, đa dạng văn hóa. Tương ứng với các phương thức trên, các nhóm thiểu số trong một quốc gia thường ứng phó với Nhà nước theo ba cách chính gồm: ủng hộ và biểu hiện sự trung thành gắn bó với Nhà nước; lên tiếng đấu tranh để đòi quyền lợi của mình; hay tiến hành các hoạt động ly khai. Tuy vậy, trong thực tế, tùy vào từng giai đoạn, bối cảnh lịch sử và đặc thù của từng nước, trong chính sách của Nhà nước, các phương thức nêu trên có thể được áp dụng đơn lẻ hay kết hợp. Cách thức ứng phó của các nhóm thiểu số cũng tương tự như vậy. Chính sách dân tộc và việc thực hiện chính sách này của Nga, Trung Quốc, Thái Lan, Mã Lai, Inđônêxia và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là những ví dụ cụ thể và khá điển hình về các phương thức mà Nhà nước áp dụng trong chính sách đối với các tộc người thiểu số, hướng tới việc xây dựng cộng đồng quốc gia/ dân tộc. - Tôn trọng bản sắc văn hóa dân tộc/tộc người, có chính sách giữ gìn, phát huy văn hóa tộc người phù hợp. Có kế hoạch phát triển những giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc trong một quốc gia; phải tôn trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa của từng dân tộc cũng như việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các dân tộc để xây dựng một nền văn hóa chung của quốc gia dân tộc. Làm cho từng dân tộc/tộc người và các dân tộc trong một quốc gia cùng phát triển, cùng phát huy những truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc; tôn trọng quyền phát triển dân tộc trong khuôn khổ pháp luật quốc gia quy định, hướng tới xây dựng một một vườn hoa quốc gia đa sắc nhưng hài hòa, đoàn kết thống nhất. - Vấn đề dân tộc, tôn giáo gắn liền với nhau và luôn song tồn cùng với sự vận động, phát triển của đất nước. Giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo trên tinh thần hòa hợp dân tộc là con đường phù hợp với xu thế hòa bình của thế giới ngày nay. Xây dựng mối quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức tôn giáo trên cơ sở tự do tín ngưỡng trong khuôn khổ pháp luật, duy trì và phát triển xu hướng tôn giáo đồng hành với quốc gia/dân tộc. - Các quốc gia đều có chính sách ưu tiên phát triển kinh tế cân đối, hài hòa, hợp lý giữa các vùng, miền của đất nước theo hướng phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, tổ chức đời sống tiến bộ; phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng, của mỗi dân tộc, bảo đảm quyền được hưởng lợi của các dân tộc. Có chính sách ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo ở các vùng dân tộc; bảo vệ và khẳng định quyền ngôn ngữ dân tộc trong xã hội cũng như trong hệ thống giáo dục đào tạo quốc dân. - Giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc hài hòa, bình đẳng, chống lại tư tưởng dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Từng bước loại bỏ mầm mống của các mâu thuẫn, xung đột, ly khai dân tộc, đảm bảo ổn định chính trị, xã hội hướng tới đại đoàn kết trong các quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. - Mặc dù các nước có được những kết quả nhất định trong phát triển kinh tế- xã hội vùng DTTS, nhưng chưa có nước nào giải quyết tốt vấn đề quan hệ dân tộc của nước mình. Tình trạng kém phát triển, nguy cơ tụt hậu ngày càng lớn; phân hóa giàu nghèo; bị đồng hóa; mâu thuẫn dân tộc và tôn giáo, xung đột dân tộc là những bài toán đòi hỏi phải phải Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 104 Số 22 - Tháng 6 năm 2018 giải quyết trước mắt và cả lâu dài trong quá trình phát triển. Bên cạnh những kinh nghiệm tích cực cần học hỏi, nhiều vấn đề trong xử lý mối quan hệ dân tộc gây ra mưu thuẫn dân tộc cần rút kinh nghiệm như: chính sách chung chung mà không có trọng tâm trọng điểm, không tính đến các đặc thù riêng từng tộc người cụ thể; chính sách thiếu bình đẳng mang nặng tư tưởng “đồng hóa” như Thái Lan đã từng thực hiện trong những năm của thế kỷ XX. Trong giải quyết xung đột dân tộc, ly khai phải phân biệt mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân và mâu thuẫn do bên ngoài tạo ra để có giải pháp xử lý phù hợp, nhằm bảo đảm đoàn kết dân tộc trong quá trình phát triển đất nước./. * Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp quốc gia: “Xu hướng biến đổi quan hệ dân tộc: Những vấn đề đặt ra và định hướng chính sách”, mã số: KX.04.21/16-20. Tài liệu tham khảo [1] Pham Xuân Biên (Chủ nhiệm đề tài, 2010), Tác động của quan hệ tộc người đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta đến năm 2020, Đề tài cấp nhà nước, mã số KX.02.18/06-10; [2] Trương Minh Dục (2016), Quan hệ tộc người trong thời kỳ đổi mới, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; [3] Nguyễn Tấn Đắc (2003), Văn hóa Đông Nam Á. NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội; [4] Phạm Thị Mùi (2013), Chính sách đối với các dân tộc thiểu số của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, tạp chí Đông Nam Á, số 9; [5] Http//Wikipedia, tiếng Việt, Vấn đề dân tộc ở Liên bang Nga, cập nhật 28.05.2010, 15:56. RESOLVING ETHNIC MINORITIES RELATIONS EXPERIENCES OF COUNTRIES AND THEIR SIGNIFICANCE FOR VIETNAM Truong Minh Duc Abstract: Most countries in the world are the nations of multi ethnics /ethic groups. Between ethnics/ ethic groups in a nation or transnational has relationships in many areas of social life. Ethnic issues are linked to religion, so ethnic relations are always a sensitive issue. So solving the problem thereof is one of the decisive factors for the sustainable development of each nation. From the practical point of view, each country has a specific policy to solve the national problem, there are successes but also failures. It is necessary to study the experience in building ethnic relations in a number of multi-ethnic countries around the world, thus to suggest the building of the national relations in Vietnam in the period of accelerating the industrialization and modernization and international integration at present. Keywords: Ethnic relations; experiences of countries; significance for Vietnam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf135_598_1_pb_1495_2151958.pdf
Tài liệu liên quan