Tài liệu Giải phẫu học động mạch khối ta tụy: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
GIẢI PHẪU HỌC ĐỘNG MẠCH KHỐI TÁ TỤY
Nguyễn Hoàng Vũ*, Dương Văn Hải*, Bùi Văn Ninh*
TÓM TẮT
Chúng tôi tiến hành phẫu tích cấu trúc của khối tá tụy dựa trên 40 xác (gồm 27 nam, 13 nữ) người Việt
Nam trưởng thành được ướp, ngâm formol tại Bộ Môn Giải Phẫu học Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Tụy và tá tràng được cấp máu bởi hai nguồn chính là động mạch thân tạng và động mạch mạc
treo tràng trên. Đầu tụy và tá tràng có cùng nguồn cung cấp máu là hai cung động mạch trước và sau đầu tụy.
Vì vậy khó giữ được tá tràng trong phẫu thuật cắt đầu tụy. Thân và đuôi tụy được cấp máu bởi các nhánh xuất
phát từ động mạch lách (nhánh của động mạch thân tạng) và động mạch mạc treo tràng trên. Các nhánh này
độc lập với các nhánh cung cấp cho đầu tụy ...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 374 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải phẫu học động mạch khối ta tụy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
GIẢI PHẪU HỌC ĐỘNG MẠCH KHỐI TÁ TỤY
Nguyễn Hoàng Vũ*, Dương Văn Hải*, Bùi Văn Ninh*
TÓM TẮT
Chúng tôi tiến hành phẫu tích cấu trúc của khối tá tụy dựa trên 40 xác (gồm 27 nam, 13 nữ) người Việt
Nam trưởng thành được ướp, ngâm formol tại Bộ Môn Giải Phẫu học Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Tụy và tá tràng được cấp máu bởi hai nguồn chính là động mạch thân tạng và động mạch mạc
treo tràng trên. Đầu tụy và tá tràng có cùng nguồn cung cấp máu là hai cung động mạch trước và sau đầu tụy.
Vì vậy khó giữ được tá tràng trong phẫu thuật cắt đầu tụy. Thân và đuôi tụy được cấp máu bởi các nhánh xuất
phát từ động mạch lách (nhánh của động mạch thân tạng) và động mạch mạc treo tràng trên. Các nhánh này
độc lập với các nhánh cung cấp cho đầu tụy và tá tràng. Trong đó, động mạch tụy dưới có thể có nguyên ủy rất
đa dạng, chủ yếu từ động mạch mạc treo tràng trên.
SUMMARY
ANATOMY OF THE VASCULAR SUPPLY OF PANCREATODUODENAL BLOCK
Nguyen Hoang Vu, Duong Van Hai, Bui Van Ninh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8
* Supplement of No 3 * 2004: 41 – 48
We have performed dissection of the pancreatoduodenal block of the 40 murtured Vietnamese mummies
which have been formolly treated at the Department of Anatomy, University of Medicine and Pharmacy, Ho
Chi Minh City.
Result: The pancreas and duodenum are supplied mainly by celiac and superior mesenteric arteries. The
head oof pancreas and duodenum have the same source of blood supply that is the anterior and posterior
arterial arcades of the head of pancreas. Therefore, it might be difficult to preserve the duodenum when
performing cephalic pancreatectomy. The body and tail of pacreas are supplied by the branches derived from
splenic artery and superior mesenteric artery. These branches are dependent from those of the head of
pancreas and duodenum. The inferior pancreatic artery might have a variety of origin which mainly from the
superior mesenteric artery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tụy tạng là một tuyến vừa nội tiết, vừa ngoại tiết,
nằm trong ổ bụng nhưng sát thành bụng sau. Tá
tràng là đoạn đầu tiên của ruột non, ôm chặt lấy đầu
tụy và được cung máu bởi cùng nguồn với đầu tụy.
Giải phẫu học tụy đã được các tác giả nước ngoài
nghiên cứu rất nhiều, nhưng hầu như chưa có tác giả
trong nước nào đề cập. Bài này chúng tôi giới hạn mô
tả kết quả nghiên cứu của chúng tôi về hệ thống
động mạch của tụy.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
40 xác đã được ngâm tại Bộ môn Giải phẫu học,
Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh.
KẾT QUẢ
Tá tràng và tụy nói chung được cung cấp máu từ
hai nguồn chính là động mạch thân tạng và động
mạch mạc treo tràng trên. Nghiên cứu này, chúng tôi
khảo sát nguyên ủy, đường kính, sự phân nhánh của
các động mạch chính của tụy và tá tràng.
* Đại học Y Dược TP.HCM
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 41
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
Động mạch cho đầu tụy và tá tràng
Các động mạch tá tụy trước
Mặt trước đầu tụy có hai động mạch nối nhau tạo
nên cung động mạch cung cấp máu cho mặt trước
đầu tụy và tá tràng. Hai động mạch này có tên là
động mạch tá tụy trên trước, thường xuất phát từ
động mạch vị tá tràng và động mạch tá tụy dưới
trước, thường xuất phát từ động mạch mạc treo tràng
trên. Tuy nhiên, chúng tôi cũng gặp 3/40 trường hợp
(7,5%) cung động mạch mặt trước đầu tụy chỉ hình
thành từ động mạch tá tụy trên trước (không có động
mạch tá tụy dưới trước).
Động mạch tá tụy trên trước
Động mạch tá tụy trên trước thường xuất phát từ
động mạch vị tá tràng(97,5%), ngay trên cổ tụy, đi
theo hướng xuống dưới và sang phải mặt trước đầu
tụy và cho các nhánh đến phần trên và mặt trước của
2/3 trên phần xuống tá tràng, phía trên mặt trước đầu
tụy. Động mạch này thường cho 6 đến 10 nhánh, các
nhánh này đến tá tràng nhiều hơn đến tụy.
Đường kính trung bình của động mạch tá tụy
trên trước là 2,31 ± 0,47 mm; nhỏ nhất là 1,27 mm;
lớn nhất là 3,18 mm.
Động mạch tá tụy dưới trước
Thông thường, nơi xuất phát của động mạch tá
tụy dưới trước ở sau đầu tụy. Sau đó, động mạch này
hướng sang phải, chạy giữa phần ngang tá tràng và
đầu tụy. Tại đây, động mạch thường bị che bởi tụy ở
trước. Khi đến gần góc dưới tá tràng, động mạch mới
ra trước tụy và lúc này ta mới dễ dàng nhìn thấy động
mạch từ phía trước. Động mạch tá tụy dưới trước nói
chung thường nhỏ hơn và cho nhánh ít hơn động
mạch tá tụy trên trước, thường 5 đến 7 nhánh, chủ
yếu đến phần ngang và một phần ba dưới của phần
xuống tá tràng. Các nhánh đến tụy cũng ít hơn đến tá
tràng.
Đường kính trung bình của động mạch tá tụy
trước dưới là 1,83 ± 0,38 mm; nhỏ nhất là 1,15 mm;
lớn nhất là 2,93 mm.
Các động mạch tá tụy trước. (ĐM: động mạch; ĐKTB:
đường kính trung bình)
Động mạch Nguyên ủy ĐK TB (mm)
ĐM tá tụy trên
trước
ĐM vị tá tràng (97,5%)
ĐM thân tạng (2,5%) 2,31± 0,47
ĐM tá tụy dưới
trước
ĐM tá tụy dưới chung (75%)
ĐM mạc treo tràng trên (15%)
ĐM thân tạng (2,5%)
Không có (7,5%)
1,83 ± 0,38
ĐM tá tụy
dưới trước
Cung động
mạch trước
đầu tụy chỉ
có động
mạch tá tụy
trên trước
ĐM tá tụy
trên trước
Hình 1:
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 42
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
Các động mạch tá tụy sau
Tương tự như mặt trước, mặt sau đầu tụy và tá
tràng cũng có hai động mạch tạo nên cung động
mạch phía sau. Đó là động mạch tá tụy trên sau và
động mạch tá tụy dưới sau. Tuy nhiên cũng có
trường hợp cung động mạch này thiếu một trong hai
động mạch kể trên. Theo nghiên cứu của chúng tôi,
có 4/40 (10%) trường hợp thuộc dạng này. Trong đó,
1/40 (2,5%) trường hợp cung này chỉ có động mạch
tá tụy dưới sau và có 3/40 (7,5%) trường hợp chỉ có
động mạch tá tụy trên sau.
Động mạch tá tụy trên sau
Từ nơi xuất phát, ngay phía sau và dưới phần trên
tá tràng, động mạch ở bên phải ống mật chủ. Sau đó,
động mạch bắt chéo sau ống mật chủ tại khoảng giữa
phần xuống tá tràng rồi sang bên trái ống mật chủ.
Lúc này, ống mật chủ nằm hơi trước động mạch.
Động mạch tá tụy trên sau tiếp tục chạy theo hình
vòng cung, hướng xuống dưới, sang trái rồi vòng lên
trên và nối với động mạch tá tụy dưới sau. Động
mạch tá tụy trên sau cho khoảng 8 đến 10 nhánh cho
phần trên, phần xuống tá tràng và mặt sau nửa trên
đầu tụy. Tuy nhiên, các nhánh cho tá tràng phong
phú hơn là cho tụy.
Đường kính trung bình của động mạch tá tụy
trên sau là 2,04 ± 0,51 mm; nhỏ nhất là 1,08 mm;
lớn nhất là 3,12 mm.
Động mạch tá tụy dưới sau
Động mạch tá tụy dưới sau xuất phát trực tiếp từ
động mạch mạc treo tràng trên hoặc từ động mạch tá
tụy dưới chung ở sau đầu tụy và phần lên tá tràng.
Động mạch chạy sau đầu tụy, ôm theo phần lên rồi
phần ngang tá tràng rồi nối với động mạch tá tụy
trên sau. Động mạch tá tụy dưới sau cho khoảng 7
đến 10 nhánh nhỏ cho phần lên, phần ngang tá tràng
và mặt sau phần dưới của đầu tụy. Và, các nhánh cho
tá tràng vẫn nhiều hơn cho tụy.
Đường kính trung bình của động mạch tá tụy
dưới sau là 1,89 ± 0,39 mm; nhỏ nhất là 1,34 mm;
lớn nhất là 2,68 mm.
ĐM tá tụy trên
sau
ĐM tá tụy
dưới sau
ĐM vị tá tràng
ĐM mạc treo
tràng trên
Ống mật chủ
(được kéo sang bên)
Các động mạch tá tụy sau
Hình 2: Cung động mạch (ĐM) mặt sau đầu tụy
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 43
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
Động mạch Nguyên ủy ĐK TB (mm)
ĐM tá tụy
trên sau
ĐM vị tá tràng (92,5%)
ĐM thân tạng (2,5%)
ĐM gan riêng (2,5%)
Không có (2,5%)
2,04 ± 0,51
ĐM tá tụy
dưới sau
ĐM tá tụy dưới chung (75%)
ĐM mạc treo tràng trên (17,5%)
Không có (7,5%)
1,89 ± 0,39
Nhận xét: Đầu tụy và tá tràng được cung cấp máu
bởi hai cung động mạch, cung trước và cung sau.
Cung trước tạo bởi động mạch tá tụy trên trước
nối với động mạch tá tụy dưới trước. Động mạch tá
tụy trên trước chiếm ưu thế hơn (lớn hơn và cho
nhiều nhánh hơn) động mạch tá tụy dưới trước. Mặt
khác, động mạch tá tụy trên trước ban đầu cách tá
tràng khoảng 1,5cm, sau đó mới chạy chếch sang
phải càng ngày càng gần tá tràng. Trái lại, động
mạch tá tụy dưới trước thì chạy rất sát tá tràng, giữa
tá tràng và đầu tụy, ban đầu nó còn ở hơi sau đầu tụy,
sau đó mới dần chạy ra trước.
Cung sau tạo bởi động mạch tá tụy trên sau nối
với động mạch tá tụy dưới sau. Hai động mạch này
tương đương nhau về kích thước và đều cách tá tràng
khoảng 1cm.
30/40 (75%) trường hợp động mạch tá tụy dưới
trước và động mạch tá tụy dưới sau xuất phát chung
thân với nhau, từ động mạch tá tụy dưới chung,
nhánh của động mạch mạc treo tràng trên. Số còn lại
xuất phát riêng biệt.
Ngoài hai cung động mạch trên, tá tràng còn
được cung cấp máu bởi:
+ Các động mạch trên tá tràng, xuất phát từ
động mạch vị tá tràng, tại phía trên của phần trên tá
tràng rồi cho các nhánh đi ở mặt trước và mặt sau
phần trên tá tràng.
+ Động mạch quặt ngược tá tràng, có từ 2 đến 3
nhánh xuất phát từ động mạch vị tá tràng (gần nơi
xuất phát của động mach tá tụy trên trước) hoặc từ
động mạch tá tụy trên trước, rồi quặt ngược lên trên
cho những nhánh nhỏ vào mặt trước hành tá tràng.
Các nhánh này có đường kính trung bình là 2,57 ±
0,53mm.
Hình 3: Các nhánh động mạch cho phần trên tá tràng
Các nhánh
quặt ngược
Các nhánh
trên tá tràng
Đầu tụy
ĐM tá tụy
trên trước
Các động mạch cho thân và đuôi tụy
Động mạch tụy lưng
Động mạch tụy lưng xuất phát từ động mạch
lách và gần nguyên ủy của động mạch lách, chạy
thẳng xuống dưới trong mô tụy hoặc sau tụy rồi cho
các nhánh nuôi mô tụy. Động mạch này có thể ngắn,
chỉ đến gần bờ dưới tụy rồi cho hai nhánh phải và
trái. Đôi khi nhánh trái trở thành động mạch tụy dưới
(động mạch tụy ngang) chạy đến đuôi tụy.
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 44
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
Đường kính trung bình của động mạch tụy lưng
đo tại nguyên ủy là 1,58±0,52 mm; nhỏ nhất là 0,64
mm; lớn nhất là 3,25 mm.
Nguyên ủy của động mạch tụy lưng
Nguyên ủy Tần suất Tỷ lệ
ĐM lách 38/40 95%
ĐM gan chung 1/40 2,5%
Không có 1/40 2,5%
Động mạch tụy lớn
Tất cả các mẫu nghiên cứu của chúng tôi đều có
động mạch tụy lớn và tất cả đều xuất phát từ động
mạch lách tại khoảng giữa thân tụy. Sau khi xuất
phát, động mạch tụy lớn đi xuống vào mô tụy cho các
nhánh nhỏ vào mô tụy rồi tận hết bằng cách chia hai
nhánh: nhánh phải nối với động mạch tụy lưng và
nhánh trái chạy về phía đuôi tụy.
Đường kính của động mạch tụy lớn trung bình là
1,83 ± 0,51 mm; nhỏ nhất là 0,7 mm; lớn nhất là 2,8
mm.
Động mạch tụy dưới
Động mạch tụy dưới còn có tên là động mạch tụy
ngang, vì nó chạy theo trục ngang so với cơ thể, tức
là dọc chiều dài tụy, theo bờ dưới.
Nguyên ủy: Rất đa dạng, có thể xuất phát từ
động mạch tụy lưng, động mạch lách, động mạch
thân tạng,... Nhưng thông thường nhất là từ động
mạch mạc treo tràng trên.
Động mạch tụy dưới bắt đầu từ bờ dưới cổ tụy,
cho hai nhánh: nhánh phải và nhánh trái. Nhánh
phải hường về phía đầu tụy, có thể nối với động mạch
tá tụy trên trước. Nhánh trái chạy dọc theo bờ dưới
tụy, hướng về phía đuôi tụy. Trên đường đi, nó cho
các nhánh nhỏ vào mô tụy.
Đường kính trung bình của động mạch tụy dưới
là 2,02 ± 0,48 mm; nhỏ nhất là 1,15 mm; lớn nhất là
3,31 mm.
Nguyên ủy của động mạch tụy dưới
Nguyên ủy Tần suất Tỷ lệ
ĐM mạc treo tràng trên 17/40 42,5%
ĐM tụy lưng 12/40 30%
ĐM thân tạng 4/40 10%
ĐM vị tá tràng 2/40 5%
ĐM tá tụy dưới chung 1/40 2,5%
ĐM gan chung 1/40 2,5%
ĐM kết tràng giữa 1/40 2,5%
ĐM tá tụy dưới sau 1/40 2,5%
Không có 1/40 2,5%
ĐM mạc treo
tràng trên
(ĐMMTTT)
Góc tá -
hỗng tràng
Hình 4: Động mạch tụy dưới xuất phát từ ĐMMTTT;
Nhánh (T)
Nhánh (P) của
ĐM tụy dưới
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 45
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
Động mạch đuôi tụy:
Về số lượng:
32/40 (80%) mẫu có 1 động mạch đuôi tụy;
6/40 (15%) mẫu có 2 động mạch đuôi tụy;
2/40 (5%) mẫu có 3 động mạch đuôi tụy.
Nguyên ủy: Động mạch đuôi tụy có thể xuất phát
từ động mạch lách, động mạch vị mạc nối trái hay
động mạch tụy lớn. Cụ thể kết quả chúng tôi thống
kê được, có 3/40 (7,5%) trường hợp động mạch đuôi
tụy xuất phát từ động mạch tụy lớn; 5/40 (12,5%)
trường hợp xuất phát từ động mạch vị mạc nối trái.
Số còn lại, thì động mạch đuôi tụy xuất phát từ động
mạch lách. Đặc biệt, có một mẫu có ba động mạch
thì trong đó có một từ động mạch lách, hai động
mạch còn lại xuất phát từ động mạch vì mạc nối trái.
Về đường kính động mạch: Rất thay đổi, trung
bình là 1,26 ± 0,41 mm; nhỏ nhất là 0,64 mm; lớn
nhất là 2,5 mm.
ĐM lách
ĐM đuôi tụy
Hình 5:
BÀN LUẬN
Các động mạch cho tá tràng và đầu
tụy
Kết quả của chúng tôi cũng có hai cung động
mạch và thành phần tạo nên hai cung động mạch đó
như đa số các tài liệu nước ngoài. Tuy nhiên có vài
điểm khác nhau về nguyên ủy của các động mạch.
Động mạch tá tụy trên trước
Nguyên ủy của động mạch tá tụy trên trước theo
nghiên cứu này, 100% xuất phát từ động mạch vị tá
tràng. Theo Petrén, động mạch này có thể xuất phát
từ động mạch mạc treo tràng trên nhưng hiếm (1/28
trường hợp, 3,6%)(2,3). Shapiro và cộng sự có gặp 1
trường hợp (trong 62 mẫu) xuất phát từ động mạch
tụy dưới(2).
Động mạch tá tụy trên sau
Nguyên ủy của động mạch tá tụy trên sau đa số
xuất phát từ động mạch vị tá tràng. Tuy nhiên, động
mạch này ở sau đầu tụy, ngay trên cổ tụy, rất gần với
các mạch máu lớn khác như động mạch lách, động
mạch gan chung, động mạch gan riêng,... Vì vậy nó
cũng có thể xuất phát từ những động mạch này. Kết
quả của chúng tôi gặp trường hợp động mạch tá tụy
trên sau là nhánh của động mạch lách, động mạch
gan riêng với tỷ lệ là 1/40 (2,5%) cho mỗi trường hợp.
Nghiên cứu của Woodburne và Olsen cho thấy động
mạch này còn xuất phát từ động mạch gan chung
(2,7%), nhánh động mạch gan phải (3,4%), và động
mạch tụy lưng (1,3%)(18). Petrén gặp hai trường hợp
(trong 28 mẫu) xuất phát từ động mạch lách(2).
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 46
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
Nguyên ủy bất thường của động mạch tá tụy trên sau
Woodburne và Olsen Petren Chúng tôi
ĐM gan chung (2,7%)
ĐM gan phải (3,4%)
ĐM tụy lưng (1,3%)
ĐM lách (7,14%) ĐM lách (2,5%)
ĐM gan riêng
(2,5%)
Đỗ Xuân Hợp(1) mô tả hệ thống động mạch cho tá
tràng và đầu tụy cơ bản cũng giống như các tác giả
khác nhưng cách gọi tên có khác. Hai nhánh xuất
phát từ động mạch vị tá tràng, ông gọi lần lượt là
động mạch tá tụy phải trên (giống động mạch tá tụy
trên sau) và động mạch tá tụy phải dưới (giống động
mạch tá tụy trên trước như chúng tôi đã nêu).
Động mạch tá tụy dưới trước và động
mạch tá tụy dưới sau
Nguyên ủy của động mạch tá tụy dưới trước và
dưới sau đều được nêu là xuất phát từ động mạch tá
tụy dưới (chung), nhánh của động mạch mạc treo
tràng trên. Nhưng theo kết quả của chúng tôi, chỉ có
75% trường hợp hai động mạch này xuất phát từ
cùng động mạch tá tụy dưới (chung) như thế, 25%
trường hợp còn lại thì xuất phát riêng biệt (nhưng
đều từ động mạch mạc treo tràng trên).
Đỗ Xuân Hợp gọi động mạch xuất phát từ động
mạch mạc treo tràng trên là động mạch tá tụy trái,
tương ứng với động mạch tá tụy dưới chung. Sau đó,
động mạch tá tụy trái chia hai nhánh: nhánh trên và
nhánh dưới, hai nhánh này tương ứng với động mạch
tá tụy dưới sau và và động mạch tá tụy dưới trước.
Như vậy, theo Đỗ Xuân Hợp, 100% trường hợp động
mạch tá tụy dưới trước và động mạch tá tụy dưới sau
xuất phát từ chung một thân là động mạch tá tụy trái
(tức là động mạch tá tụy dưới chung).
Sau khi hình thành, hai cung động mạch trước
và sau đầu tụy sẽ cho những nhánh nhỏ vào mô tụy
và tá tràng, mà theo nhận xét của chúng tôi lúc phẫu
tích, các nhánh đến tá tràng thường nhiều hơn và lớn
hơn các nhánh đến tụy. Đây có lẽ là một trong những
yếu tố bắt buộc phẫu thuật viên phải lấy cả tá tràng
trong phẫu thuật cắt đầu tụy.
Tóm lại, kết quả của chúng tôi về mô tả nguyên
ủy, đường đi của các động mạch cho tá tràng và đầu
tụy không có gì khác với các tác giả khác.
Về đường kính cũng như số nhánh con của các
động mạch này thì chúng tôi không có tài liệu để so
sánh.
Như phần kết quả, chúng tôi có mô tả động
mạch trên tá tràng và động mạch quặt ngược tá tràng
vào mặt trước phần trên tá tràng.
Các động mạch cho thân và đuôi tụy
Cũng như các tài liệu chúng tôi tham khảo được,
động mạch tụy lưng, động mạch tụy lớn và động
mạch đuôi tụy của chúng tôi không có gì khác biệt.
Nghĩa là chúng xuất phát từ động mạch lách. Riêng
động mạch đuôi tụy có thể xuất phát từ động mạch vị
mạc nối trái. Kết quả của chúng tôi cũng gặp trường
hợp này với tỷ lệ là 12,5%. Ngoài ra chúng tôi còn gặp
7,5% trường hợp động mạch đuôi tụy là nhánh của
động mạch tụy lớn. Điều này chúng tôi không thấy
tài liệu nào nêu lên.
Sự khác biệt nhiều nhất về động mạch của thân
và đuôi tụy giữa kết quả của chúng tôi và các tài liệu
trước đây xảy ra ở động mạch tụy dưới (động mạch
tụy ngang).
Các tác giả trước đây hầu như cho rằng động
mạch tụy dưới xuất phát trực tiếp từ động mạch lách
hoặc do động mạch tụy lưng khi đi xuống đến bờ dưới
tụy rồi chạy ngang mà đổi tên thành. Woodburne và
Olsen thống kê thấy 84% trường hợp động mạch tụy
dưới xuất phát từ động mạch tụy lưng(18). Số còn lại
có thể từ động mạch tá tụy trên trước, động mạch tá
tụy dưới trước, động mạch mạc treo tràng trên, động
mạch tụy lớn,...Còn Đỗ Xuân Hợp thì cho rằng động
mạch tụy dưới xuất phát từ động mạch mạc treo
tràng trên(1).
Theo kết quả mà chúng tôi thu được thì động
mạch tụy dưới có thể xuất phát từ động mạch mạc
treo tràng trên hoặc nhánh của động mạch này, từ
động mạch tụy lưng, động mạch thân tạng, hoặc từ
động mạch gan chung,...Trong đó thường gặp nhất là
từ động mạch mạc treo tràng trên (hoặc nhánh của
động mạch này), 17 trong 40 mẫu, tương đương
42,5%. Dạng nguyên ủy mà các tác giả khác gặp
nhiều nhất là từ động mạch tụy lưng thì chúng tôi chỉ
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 47
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
gặp 12 trên 40 mẫu, tương đương 30%.
Ngoài ra, chúng tôi còn ghi nhận là động mạch
tụy dưới thường là động mạch lớn nhất trong các
động mạch của thân và đuôi tụy.
ĐK trung bình của một số động mạch của thân tụy
Động mạch ĐK trung bình
(mm)
ĐK lớn nhất
(mm)
ĐK nhỏ nhất
(mm)
ĐM tụy lưng 1,58±0,52 3,25 0,64
ĐM tụy lớn 1,83 ± 0,51 2,8 0,7
ĐM tụy dưới 2,02 ± 0,48 3,31 1,15
Trong khi đó, Goss cho rằng động mạch tụy lớn
là động mạch lớn nhất trong các động mạch đến
thân và đuôi tụy, với đường kính là 2 đến 4mm(2).
Chúng tôi thấy động mạch tụy dưới còn cho nhánh
phải đến đầu tụy, có thể nối với động mạch tá tụy
trên trước. Điều này không thấy đề cập đến trong các
tài liệu trước đây.
Về đường kính của các động mạch thân và đuôi
tụy cũng chưa có tác giả nào đề cập đầy đủ nên
chúng tôi không bàn luận ở đây.
KẾT LUẬN
Tụy và tá tràng được cấp máu bởi hai nguồn
chính là động mạch thân tạng và động mạch mạc
treo tràng trên.
Đầu tụy và tá tràng có cùng nguồn cung cấp máu
là hai cung động mạch trước và sau đầu tụy. Vì vậy
khó giữ được tá tràng trong phẫu thuật cắt đầu tụy.
Thân và đuôi tụy được cấp máu bởi các nhánh
xuất phát từ động mạch lách (nhánh của động mạch
thân tạng) và động mạch mạc treo tràng trên. Các
nhánh này độc lập với các nhánh cung cấp cho đầu
tụy và tá tràng. Trong đó, động mạch tụy dưới có thể
có nguyên ủy rất đa dạng, chủ yếu từ động mạch mạc
treo tràng trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Xuân Hợp: Tá tràng và tụy, trong Giải phẫu bụng,
Nhà Xuất bản Y học 1985, (trang 125 - 144).
2. Hollinshead W. H.: The Stomach, Duodenum,
Pancreas, and Spleen, in Anatomy For Surgeons,V.2,
Paul B.Hobber Inc, NewYork 1956 (p.382 – 460).
3. Hollinshead W. H: The Stomach, Duodenum,
Pancreas, and Spleen, in Anatomy For Surgeons V.2,
Paul B.Hobber Inc, NewYork, 1971, (p. 381-436).
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 48
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phau_hoc_dong_mach_khoi_ta_tuy.pdf