Tài liệu Giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương: 71
Giải pháp phát triển . . .
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
TỈNH HẢI DƯƠNG
Vũ Văn Thực*
TÓM TẮT
Sau 30 năm đổi mới, kinh tế nước ta đã gặt hái được một số thành tựu nhất định, trong đó
nông nghiệp là một trong những ngành có bước phát triển đáng kể. Thực tế cho thấy, trong giai
đoạn vừa qua, nông nghiệp là một trong những ngành đã và đang có đóng góp lớn cho phát triển
kinh tế của đất nước, đặc biệt nông nghiệp còn được coi là trụ đỡ của nền kinh tế của đất nước trong
những thời điểm kinh tế khó khăn, do đó nông nghiệp vẫn được coi là ngành quan trọng, quyết định
sự thành công trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước nói riêng. Hải Dương là một tỉnh nằm ở đồng bằng sông Hồng, có quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh, song nông nghiệp vẫn là ngành chủ yếu, đóng góp lớn vào quá
trình phát triển kinh tế của tỉnh, chính vì vậy phát triển nông nghiệp được các cấp, các ngành trong
tỉnh đặc biệt...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 279 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
71
Giải pháp phát triển . . .
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
TỈNH HẢI DƯƠNG
Vũ Văn Thực*
TÓM TẮT
Sau 30 năm đổi mới, kinh tế nước ta đã gặt hái được một số thành tựu nhất định, trong đó
nông nghiệp là một trong những ngành có bước phát triển đáng kể. Thực tế cho thấy, trong giai
đoạn vừa qua, nông nghiệp là một trong những ngành đã và đang có đóng góp lớn cho phát triển
kinh tế của đất nước, đặc biệt nông nghiệp còn được coi là trụ đỡ của nền kinh tế của đất nước trong
những thời điểm kinh tế khó khăn, do đó nông nghiệp vẫn được coi là ngành quan trọng, quyết định
sự thành công trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước nói riêng. Hải Dương là một tỉnh nằm ở đồng bằng sông Hồng, có quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh, song nông nghiệp vẫn là ngành chủ yếu, đóng góp lớn vào quá
trình phát triển kinh tế của tỉnh, chính vì vậy phát triển nông nghiệp được các cấp, các ngành trong
tỉnh đặc biệt quan tâm. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá khái quát thực trạng nông nghiệp
tỉnh Hải Dương trong thời gian qua, trên cơ sở những nguyên nhân tồn tại, tác giả đề xuất các giải
pháp nhằm phát triển ngành nông nghiệp tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
Tứ khóa: nông nghiệp, Hải Dương
AGRICULTURAL DEVELOPMENT SOLUTIONS
HAI DUONG PROVINCE
ABSTRACT
After 30 years of on going innovation, the country’s economy has achieved certain
achievements, in which agriculture is the sectors with significant development. In recent period,
agriculture has contributed substantially to the economic growth of the country. Moreover, it is
considered as pillars of the economy in the difficult times. Therefore, agriculture is considered an
important sector, deciding the success of the process of economic-society development in general,
and of the industrialization and modernization in particular. Hai Duong Province is geographically
located in the Red River Delta. It has been on the process of fast economic restructuring, still
agriculture in the region remains a main sector which plays a part in the province’s economic
development. Hence boosting agriculture sector is particularly concerned by the province’s
authority. The objective of this study is to assess the status of agricultural in Hai Duong province
in recent years. Based on the exist, the authors shall propose measures to develop the agricultural
sector in Hai Duong in the future.
Keywords: agriculture, Hai Duong
* TS. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tp. Hồ Chí Minh, CN. Tân Bình
72
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. Đặt vấn đề
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, nền kinh
tế Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu
đáng kể, đặc biệt là ngành nông nghiệp, từ
một nước thường xuyên thiếu lương thực,
hàng năm phải nhập hàng triệu tấn lương
thực từ nước ngoài, nhưng đã trở thành nước
xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới, GDP
trong lĩnh vực nông nghiệp bình quân hàng
năm tăng 3,3%. Thực tế cho thấy nông nghiệp
ngày càng có nhiều đóng góp tích cực hơn
vào tiến trình phát triển, hội nhập của kinh
tế cả nước vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt
trong những thời điểm khó khăn, nông nghiệp
còn được coi như trụ đỡ của nền kinh tế; nông
nghiệp không chỉ đã góp phần quan trọng
vào việc ổn định chính trị-xã hội nông thôn
và nâng cao đời sống của người nông dân,
mà nông nghiệp đã ngày càng tạo ra nhiều
hơn nữa những tiền đề vật chất cần thiết, góp
phần tích cực đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế
và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước
ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn
ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ
sở và lực lượng để phát triển kinh tế-xã hội
bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh,
quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Tỉnh
Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng sông
Hồng, có diện tích đất nông nghiệp lớn, với
đa số dân số đang sinh sống, lao động và sản
xuất nông nghiệp ở nông thôn. Trong những
năm qua, ngành nông nghiệp Hải Dương đã
có những bước phát triển đáng kể, song so với
tiềm năng, lợi thế sẵn có, ngành nông nghiệp
tỉnh Hải Dương vẫn chưa thực sự phát huy
hết tiềm năng, lợi thế vốn có của nó. Việc ứng
dụng công nghệ vào sản xuất và bảo quản sau
thu hoạch còn khiêm tốn; sản xuất manh mún;
thị trường tiêu thụ nông sản còn bấp bênh, thiếu
nguồn lực đáp ứng cho yêu cầu của ngành nông
nghiệpđang là những rào cản ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của ngành nông nghiệp
tỉnh Hải Dương. Do đó, tìm ra giải pháp nhằm
phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương có tính
cấp thiết đối với các cấp, các ngành của tỉnh
trong giai đoạn hiện nay.
2. Thực trạng nông nghiệp tỉnh Hải
Dương
Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng
sông Hồng, thuộc vùng kinh tế trọng điểm
Bắc bộ, có tổng diện tích tự nhiên là 1.651
km2, diện tích chủ yếu là đồng bằng, chiếm
89% và miền núi chiếm 11% ; là một tỉnh
nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia
làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Vào
giai đoạn từ tiết lập xuân đến tiết thanh minh
(khoảng đầu tháng hai - đầu tháng tư dương
lịch) có hiện tượng mưa phùn và nồm là giai
đoạn chuyển tiếp từ mùa khô sang mùa mưa;
mùa mưa kéo dài từ tháng tư đến tháng mười
hàng năm. Tỉnh Hải Dương có tài nguyên
đất phong phú, đa dạng, đặc biệt là đất phù
sa với diện tích 148.929 ha; hệ thống sông
ngòi tự nhiên và sông nội đồng dày đặc cùng
với hàng ngàn ao hồ nhỏ; có hệ thống thủy
lợi, hệ thống giao thông hoàn chỉnh rất thuận
lợi cho phát triển nông nghiệp. Những năm
gần đây, ngành nông nghiệp tỉnh Hải Dương
đã có những bước phát triển tương đối toàn
diện, giá trị nông, lâm, thủy sản tăng bình
quân hàng năm trên 4,8%, cơ cấu kinh tế có
xu hướng dịch chuyển tăng tỷ trọng ngành
chăn nuôi, giảm tỷ trọng ngành trồng trọt.
Giá trị sản phẩm trên 1 ha đất nông nghiệp và
đất nuôi trồng thủy sản ngày càng tăng. Đặc
biệt, ngành nông nghiệp Hải Dương đã hình
thành nên một số vùng sản xuất hàng hóa tập
trung như vùng vải thiều ở huyện Thanh Hà,
73
Giải pháp phát triển . . .
với diện tích 10.500 ha, sản lượng thu hoạch
trên 30.000 tấn/năm; vùng dưa hấu, rau ngắn
ngày ở huyện Kim Thành, Gia Lộc với diện
tích trên 6.000 ha; vùng trồng lúa nếp cái hoa
vàng ở huyện Kim Thành, Kinh Môn với diện
tích khoảng 800-1000 ha; vùng trồng hành,
tỏi ở huyện Nam Sách, Kinh Môn với diện
tích khoảng 3.500 ha; vùng nuôi cá Basa có
diện tích 100 ha ở huyện Tứ Ký, Cẩm Giàng,
Ninh Giang và Kim Thành; vùng trồng cà rốt
ở huyện Cẩm Giàng với diện tích 420ha, hàng
năm cho thu hoạch sản lượng 12.000 – 13.000
tấn. Dưới đây là thực trạng ngành nông nghiệp
tỉnh Hải Dương trong những năm qua:
2.1. Về diện tích đất nông nghiệp
Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị
hóa và phát triển công nghiệp của tỉnh Hải
Dương diễn ra với tốc độ nhanh chóng, qua
đó đã góp phần vào công cuộc phát triển kinh
tế của địa phương cũng như của cả nước. Tuy
nhiên, khi đô thị hóa và các khu công nghiệp
ngày càng phát triển thì diện tích đất nông
nghiệp cũng có xu hướng giảm xuống để
nhường đất cho các khu đô thị và công nghiệp.
Theo số liệu thống kê, giai đoạn 2009-2011,
diện tích đất nông nghiệp của tỉnh Hải Dương
đã có xu hướng giảm dần qua các năm, cụ
thể: năm 2010, tổng diện tích đất nông nghiệp
trong toàn tỉnh là 108.697 ha, giảm so với
năm 2009 là 881 ha, tỷ lệ giảm 0,83%, trong
đó: TP. Hải Dương giảm 1 ha, tỷ lệ giảm
0,41%; huyện Chí Linh giảm 314 ha, tỷ lệ
giảm 1,5%; huyện Nam Sách giảm 62 ha, tỷ lệ
giảm 0,9%; huyện Kinh Môn giảm 215 ha, tỷ
lệ giảm 2,3%; huyện Kim Thành giảm 618 ha,
tỷ lệ giảm 8,24%; huyện Thanh Hà giảm 3 ha,
tỷ lệ giảm 0,03%; huyện Cẩm Giàng giảm 9
ha, tỷ lệ giảm 0,14%; huyện Bình Giang giảm
24 ha, tỷ lệ giảm 0,32%; huyện Gia Lộc giảm
27 ha, tỷ lệ giảm 0,36%; huyện Tứ Kỳ giảm
58 ha, tỷ lệ giảm 0,5%; huyện Ninh Giang
giảm 50 ha, tỷ lệ giảm 0,56%; huyện Thanh
Miện giảm 30 ha, tỷ lệ giảm 0,34%. Năm
2011, tổng diện tích đất nông nghiệp trên địa
bàn giảm 463 ha, tỷ lệ giảm 0,44%, trong đó:
TP. Hải Dương giảm 29 ha, tỷ lệ giảm 1,18%;
huyện Chí Linh giảm 141 ha, tỷ lệ giảm 0,7%;
huyện Nam Sách giảm 14 ha, tỷ lệ giảm
0,2%; huyện Kinh Môn giảm 3 ha, tỷ lệ giảm
0,03%; huyện Kim Thành giảm 29 ha, tỷ lệ
giảm 0,45%; huyện Thanh Hà giảm 12 ha, tỷ
lệ giảm 0,13%; huyện Cẩm Giàng giảm 28 ha,
tỷ lệ giảm 0,45%; huyện Bình Giang giảm 49
ha, tỷ lệ giảm 0,66%; huyện Gia Lộc giảm 21
ha, tỷ lệ giảm 0,28%; huyện Tứ Kỳ giảm 15
ha, tỷ lệ giảm 0,13%; huyện Ninh Giang giảm
24 ha, tỷ lệ giảm 0,3%; huyện Thanh Miện
giảm 8 ha, tỷ lệ giảm 0,1% (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Diện tích đất nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 2009-2011
Chỉ tiêu Năm
2009
Năm 2010 Năm 2011
Diện tích
Mức
tăng,
giảm
Tỷ lệ
tăng,
giảm (%)
Diện tích Mức
tăng,
giảm
Tỷ lệ
tăng,
giảm (%)
Hải Dương 2.450 2.449 (1) (0,041) 2.420 (29) (1,18)
Chí Linh 21.019 20.705 (314) (1,5) 20.564 (141) (0,7)
Nam Sách 7.081 7.019 (62) (0,9) 7.005 (14) (0,2)
Kinh Môn 9.306 9.521 (215) (2,3) 9.518 (3) (0,03)
Kim Thành 7.054 6.436 (618) (8,24) 6.407 (29) (0,45)
Thanh Hà 9.468 9.465 (3) (0,03) 9.453 (12) (0,13)
Cẩm Giàng 6.272 6.263 (9) (0,14) 6.235 (28) (0,45)
74
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Bình Giang 7.494 7.470 (24) 0,32) 7.421 (49) (0,66)
Gia Lộc 7.508 7.481 (27) (0,36) 7.460 (21) (0,28)
Tứ Kỳ 11.285 11.227 (58) (0,5) 11.212 (15) (0,13)
Ninh Giang 8.924 8.974 (50) (0,56) 8.950 (24) (0,3)
Thanh Miện 8.717 8.687 (30) (0,34) 8.679 (8) (0,1)
TOÀN TỈNH 106.578 105.697 (881) (0,83) 105.324 (463) (0,44)
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Hải Dương [3]
2.2. Diện tích các loại cây trồng
Diện tích các loại cây trồng trên địa bàn
tỉnh Hải Dương tăng nhẹ trong giai đoạn
2009-2011, qua đó đã góp phần làm tăng sản
lượng và giá trị cho ngành nông nghiệp cùa
tỉnh (Bảng 2.2).
Bảng 2.2. Diện tích đất trồng cây nông nghiệp tỉnh Hải Dương (2009-2011)
Năm
Cây hàng năm Cây lâu năm
Diện tích (ha) Mức tăng,
giảm
Tỷ lệ
tăng,
giảm (%)
Diện tích
(ha)
Mức
tăng,
giảm
Tỷ lệ
tăng,
giảm (%)
2009 163.877 22.499
2010 166.108 2.231 1,36 22.471 (28) (0,12)
2011 164.767 (1.341) (0,8) 23.277 806 3,6
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hải Dương[3]
Bảng 2.2 cho thấy, tổng diện tích đất nông
nghiệp tăng nhẹ trong năm 2010 nhưng qua
năm 2011 giảm xuống, cụ thể: năm 2010,
diện tích đất trồng cây hàng năm là 166.108
ha, tăng 2.231 ha so với năm 2009, tỷ lệ tăng
1,36%; năm 2011, diện tích cây trồng hàng
năm là 164.767 ha, giảm 1.341 ha so với năm
2010, tỷ lệ giảm 0,8%. Năm 2010, diện tích
đất trồng cây lâu năm là 22.471 ha, giảm
28 ha so với năm 2009, tỷ lệ giảm 0,12%;
năm 2011, diện tích đất trồng cây lâu năm là
23.277 ha, tăng 806 ha so với năm 2010, tỷ
lệ tăng 3,6%.
75
Giải pháp phát triển . . .
2.3. Số lượng đàn gia súc, gia cầm
Số lượng đàn gia súc, gia cầm giai đoạn 2009-2011 có xu hướng giảm xuống, riêng đàn gia
cầm tăng khá cao trong năm 2011 ( Bảng 2.3)
Bảng 2.3: Số lượng gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2009 -2011
Chỉ tiêu
Năm
2009
Năm 2010 Năm 2011
Số lượng
(con)
Mức tăng Tỷ lệ
tăng,
giảm
Số lượng
(con)
Mức
tăng
Tỷ lệ
tăng,
giảm
Đàn trâu 8.032 7.189 (843) (10,5) 6.286 (903) (12,6)
Đàn bò 38.205 33.477 (4.728) (12,4) 22.864 (10.613) (31,7)
Đàn lợn 597.653 586.235 (11.418) (1,9) 537.632 (48.603) (8,3)
Đàn gia cầm 7.122.000 8.106.000 (984.000) (13,8) 9.947.000 1.841.000 22,7
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Hải Dương[3]
Bảng 2.3 cho thấy số lượng gia súc, gia
cầm trên địa bàn tỉnh Hải Dương có xu hướng
giảm trong giai đoạn 2009-2011, cụ thể: Năm
2010, số lượng trâu là 7.189 con, giảm 843
con so với năm 2009, tỷ lệ giảm 10,5%; số
lượng bò là 33.477 con, giảm 4.728 con so
với năm 2009, tỷ lệ giảm 12,4%; số lượng lợn
là 586.235 con, giảm 11.418 con so với năm
2009, tỷ lệ giảm 1,9%; số lượng con gia cầm là
8.106.000 con, giảm 984.000 con so với năm
2009, tỷ lệ giảm 13,8%. Năm 2011, số lượng
trâu là 6.286 con, giảm 903 con so với năm
2010, tỷ lệ giảm 12,6%; số lượng bò là 22.864
con, giảm 10.613 con so với năm 2010, tỷ lệ
giảm 31,7%; số lượng lợn là 537.632 con,
giảm 48.603 con so với năm 2010, tỷ lệ giảm
8,3%; trong khi đó số lượng con gia cầm là
9.947.000 con, tăng 1.841.000 con so với năm
2010, tỷ lệ tăng 22,7%
2.4. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên
1ha đất nông nghiệp
Thời gian qua, nhờ có sự chỉ đạo sâu sát
của lãnh đạo tỉnh, cũng như việc áp dụng
đồng bộ các giải pháp như dồn điền đổi thửa,
tập trung đẩy mạnh ứng dụng các giống cây
trồng, vật nuôi có năng suất chất lượng cao,
thích hợp với điều kiện sinh thái của từng địa
bàn, mùa vụ và trình độ sản xuất của nông
dân ở các vùng khác nhau của tỉnh. Bên cạnh
đó, các cấp, các ngành đã tăng cường tuyên
truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức và triển
khai ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học
và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, từ đó làm
cho năng suất, chất lượng của sản phẩm nông
nghiệp ngày càng được nâng lên. Công tác
xúc tiến thương mại ngày càng chú trọng hơn
để tháo gỡ cho sản phẩm đầu ra cho nông
nghiệp, từ đó giúp cho thu nhập của người
nông dân ngày càng được cải thiện, góp phần
nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần
của đồng bào vùng nông thôn, điều đó có thể
thấy rõ giá trị sản phẩm nông nghiệp trên mỗi
ha hàng năm trên địa bàn tỉnh tăng nhanh qua
các năm, cụ thể: năm 2010, giá trị sản phẩm
trên 1 ha đất trồng trọt đạt 80,1 triệu đồng,
tăng 13 triệu đồng so với năm 2009, tỷ lệ tăng
19,4% và giá trị sản phẩm trên 1 ha đất nuôi
trồng, thủy sản đạt 105,1 triệu đồng, tăng 13,1
triệu đồng, tỷ lệ tăng 14,24%; năm 2011 giá
trị sản phẩm trên 1 ha đất trồng trọt là 96,4
76
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
triệu đồng, tăng 16,3 triệu đồng so với năm
2010, tỷ lệ tăng 20,35% so với năm 2010 và
năm 2011 giá trị sản phẩm trên 1 ha đất nuôi
trồng, thủy sản đạt 159,7 triệu đồng, tăng 54,6
triệu đồng so với năm 2010, tỷ lệ tăng 52%
(Bảng 2.4).
Bảng 2.4. Giá trị sản phẩm trên 1ha đất trồng trọt và nuôi trồng, thủy sản tỉnh Hải Dương
Năm
Giá trị sản
phẩm /1ha đất
trồng trọt
(Triệu đồng)
Mức
tăng,
giảm
Tỷ lệ
tăng,
giảm (%)
Giá trị sản phẩm
/1ha đất
nuôi trồng, thủy
sản
(Triệu đồng)
Mức tăng,
giảm
Tỷ lệ
tăng,
giảm
(%)
2009 67,1 92
2010 80,1 13 19,4 105,1 13,1 14,24
2011 96,4 16,3 20,35 159,7 54,6 52
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Hải Dương[3]
Giá trị sản xuất trồng trọt, lâm nghiệp
và nuôi trồng thủy sản của tỉnh Hải Dương
tăng khá cao trong những năm vừa qua, cụ
thể: năm 2010, giá trị sản xuất trồng trọt,
lâm nghiệp đạt 7.264.380 triệu đồng, tăng
so với năm 2009 là 1.124.673 triệu đồng, tỷ
lệ tăng 18,32%; giá trị chăn nuôi, thủy sản
đạt 4.724.823 triệu đồng, tăng 944.188 triệu
đồng, tỷ lệ tăng 25%. Năm 2011, giá trị chăn
nuôi thủy sản đạt 7.040.008 triệu đồng, tăng
so với năm 2010 là 2.315.185 triệu đồng, tỷ lệ
tăng 49% (Bảng 2.5).
Bảng 2.5: Giá trị sản xuất trồng trọt, lâm nghiệp và chăn nuôi, thủy sản tỉnh Hải Dương
Đơn vị: Triệu đồng
Năm Trồng trọt,
lâm nghiệp
Mức
tăng, giảm
Tỷ lệ
tăng,
giảm (%)
Chăn nuôi,
thủy sản
Mức tăng,
giảm
Tỷ lệ tăng,
giảm (%)
2009 6.139.707 3.780.635
2010 7.264.380 1.124.673 18,32 4.724.823 944.188 25
2011 8.919.018 1.654.638 22,8 7.040.008 2.315.185 49
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Hải Dương [3]
3. Nguyên nhân hạn chế
- Thiếu quy hoạch tổng thể và quyết tâm
thực hiện quy hoạch tổng thể đó với tầm nhìn
chiến lược và bám sát của nhu cầu thị trường
trong nước và quốc tế. Mặc dù, địa phương
đã quy hoạch ngành nông nghiệp, nhưng quy
hoạch đó chỉ mang tính địa phương, cục bộ,
chưa kết nối được với địa phương khác để có
được một quy hoạch mang tầm vóc sản xuất
hàng hóa lớn.
- Tuy đã có nhiều tiến bộ trong việc ứng
dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp, song hoạt động khoa học, công nghệ
nhìn chung vẫn còn hạn chế, hiệu quả chưa cao,
nhất là công nghệ tạo giống đáp ứng yêu cầu
sạch bệnh, kháng bệnh, khả năng tăng trưởng
và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Điệp khúc mất mùa được giá và được
mùa mất giá đã và đang là vấn đề nhức nhối
77
Giải pháp phát triển . . .
của ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung,
ngành nông nghiệp Hải Dương nói riêng.
Thời gian qua, các cấp, các ngành đã đưa ra
nhiều giải pháp nhằm tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp, điển hình trong số đó là vải thiều của
mùa vải năm 2015, tuy nhiên chưa thực sự có
giải pháp thực sự căn cơ, lâu dài đối với vấn
đề đầu ra của sản phẩm nông nghiệp.
- Để có thể phát triển ngành nông nghiệp
nhanh và bền vững hơn rất cần nguồn vốn
đầu tư cho cơ sở hạ tầng, ứng dụng khoa học
kỹ thuật công nghệ, cơ giới hóa, tự động hóa
nông nghiệptuy nhiên, nguồn vốn đầu tư
cho lĩnh vực nông nghiệp chưa thực sự đáp
ứng được nhu cầu phát triển của ngành.
- Là một trong những đia phương tiên
phong trong việc dồn điền, đổi thửa đất nông
nghiệp, song cho đến nay vẫn chưa thực hiện
xong, việc sử dụng đất manh mún vẫn là hiện
tượng phổ biến ở tỉnh Hải Dương, khó có thể
thực hiện ứng dụng khoa học kỹ thuật công
nghệ vào sản xuất, từ đó dẫn đến năng suất
thấp, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu của
người tiêu dùng.
- Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách
phát triển chuỗi ngành hàng nông sản để khuyến
khích người nông dân, hợp tác xã và các doanh
nghiệp tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
- Chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp chưa
được quan tâm đúng mức, chưa có sản phẩm
bảo hiểm cho nông nghiệp nên người nông
dân chưa thực sự mạnh dạn đầu tư cho nông
nghiệp.
- Một bộ phận người dân chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên diện
tích sử dụng đất nông nghiệp của mình, do đó
ảnh hưởng nhất định đến các quyền theo qui
định của luật đất đai như chuyển nhượng, cho
thuê, góp vốn, liên doanh liên kết, thế chấp
quyền sử dụng đất
4. Giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh
Hải Dương
Một là, rà soát, qui hoạch lại ngành nông
nghiệp: cần thực hiện qui hoạch lại ngành
nông nghiệp như diện tích sử dụng đất nông
nghiệp; trồng cây gì, chăn nuôi con gì cho phù
hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu; việc
qui hoạch phải vừa đạt về hiệu quả kinh tế,
xã hội, mặt khác phải bảo vệ môi trường sinh
thái hướng đến phát triển bền vững. Trong qui
hoạch cần chú trọng đến việc xây dựng quy
hoạch tổng thể đối với từng vùng, từng ngành
dựa trên lợi thế của từng loại cây trồng, vật
nuôi, trên địa bàn từng huyện, xã; vùng nào,
địa phương nào có lợi thế so sánh trồng cây gì,
nuôi con gì thì chỉ được thực hiện trồng, nuôi
con đó, gắn liền qui hoạch giữa địa phương
với cả nước và thị trường tiêu thụ của sản
phẩm nông nghiệp. Bênh cạnh đó cần gắn kết
chặt chẽ giữa quá trình sản xuất với chế biến
và thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo ra
sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm,
có tính cạnh tranh cao trên thị trường trong và
ngoài nước.
Hai là, giải pháp về khoa học công nghệ:
đẩy nhanh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật
cũng như chuyển giao công nghệ hiện đại
trong sản xuất, chế biến, bảo quản sau thu
hoạch. Ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học
nhằm tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi
có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, tăng
nhanh giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị diện tích
canh tác; nghiên cứu công nghệ bảo quản sau
thu hoạch để giúp người nông dân bảo quản
sản phẩm tốt hơn, từ đó nâng cao giá trị của
sản phẩm nông nghiệp. Bên cạnh đó, tỉnh cần
tăng tỷ trọng đầu tư ngân sách cho hoạt động
nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ
cho nông nghiệp từ đó tạo ra bước chuyển
biến đột phá trong hoạt động nghiên cứu và
78
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
ứng dụng khoa học công nghệ cho ngành nông
nghiệp tại địa phương; có chính sách đãi ngộ
đối với đội ngũ nghiên cứu khoa học trong và
ngoài tỉnh có đóng góp thiết thực, hiệu quả
cho ngành nông nghiệp của tỉnh nhằm tạo
động lực cho đội ngũ cán bộ khoa học phát
huy được hết năng lực của mình.
Ba là, giải pháp đầu ra cho sản phẩm:
cần có giải pháp tốt về thị trường về đầu ra
cho sản phẩm, có sự gắn kết chặt chẽ giữa
các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm với người
nông dân, tỉnh cần phối hợp với các sở, ngành
rà soát các chính sách chưa phù hợp để có kiến
kiến nghị với Bộ, ngành Trung ương nhằm tạo
điều kiện và thu hút nhiều doanh nghiệp gắn
kết với nông dân xây dựng vùng nguyên liệu
kèm những ràng buộc chặt chẽ hơn, qua đó sẽ
tạo được sự gắn kết giữa công ty với người
nông dân từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm theo hướng bền vững và ổn định.
Bốn là, giải pháp về nguồn vốn cho nông
nghiệp: huy động tối đa nguồn vốn cho nông
nghiệp, tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghiệp
chế biến, công nghiệp chế tạo máy móc nông
nghiệp, sản xuất vật tư nông nghiệp, dịch vụ
khoa học công nghệ, tích tụ đất đai, chuyển
đổi cơ cấu sản xuất. Để thu hút tối đa nguồn
nguồn vốn cần có giải pháp huy động vốn từ
ngân sách nhà nước, vốn đầu tư trực tiếp của
các cá nhân, tổ chức ở trong, ngoài nước và
nguồn vốn tín dụng ngân hàng để đầu tư cho
phát triển nông nghiệp.
Năm là, đẩy nhanh tiến độ dồn điền, đổi
thửa: thực trạng sử dụng đất nông nghiệp của
tỉnh Hải Dương cho thấy, việc sử dụng đất
manh mún vẫn là hiện tượng phổ biến ở tỉnh
Hải Dương, từ đó dẫn đến khó có thể thực
hiện ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ
vào sản xuất, làm cho năng suất, chất lượng
sản phẩm thấp, năng suất lao động không
cao. Do đó, cần thực hiện việc dồn điền, đổi
thửa đất nông nghiệp trên toàn địa bàn tỉnh.
Để thực hiện tốt giải pháp này, cần có sự
tham gia của cả nhà nông, doanh nghiệp và
Nhà nước; muốn dồn điền, đổi thửa thực hiện
nhanh chóng thì công tác tuyên truyền, vận
động để người dân hiểu được lợi ích thiết thực
của việc dồn điền đổi thửa, đồng tình và tự
nguyện tham gia là một trong những nhiệm
vụ hàng đầu của các cấp chính quyền. Dồn
điền đổi thửa phải gắn liền với công tác quy
hoạch; từng địa phương cần quy hoạch, rà
soát điều chỉnh quy hoạch để hình thành các
vùng sản xuất hàng hoá theo từng cây, con ổn
định, lâu dài. Cần có chủ trương và sự chỉ đạo
thống nhất của các cấp chính quyền, tạo hành
lang pháp lý và có chính sách hỗ trợ để xây
dựng các mô hình điển hình về dồn điền đổi
thửa; tổ chức tham quan, học tập trao đổi kinh
nghiệm giữa các địa phương để rút ra bài học
kinh nghiệm.
Sáu là, tăng cường vai trò, hiệu lực quản
lý của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Hải
Dương và sự phối hợp trong tổ chức thực
hiện của các cấp, các ngành trong phát triển
nông nghiệp: UBND tỉnh đóng vai trò chủ
chốt trong việc xâv dựng chiến lược, chương
trình, dự án, kế hoạch phát triển nông nghiệp
bền vững trên địa bàn tỉnh; ban hành kịp thời
các văn bản, hướng dẫn chỉ đạo tổ chức thực
hiện đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp,
đặc biệt là các văn bản liên quan đến sự phát
triển nông nghiệp bền vững; UBND tỉnh Hải
Dương phải là cầu nối liên kết “bốn nhà ” (nhà
nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiêp và nhà
nông) để phối kết hợp cho sự phát triển ngành
nông nghiệp, cần cụ thể hoá các chính sách
hỗ trợ của nhà nước đối với lĩnh vực nông
nghiệp, làm cho mọi người dân có cơ hội tiếp
79
Giải pháp phát triển . . .
cận các nguồn lực, chủ động tham gia vào xây
dựng nền nông nghiệp bền vững; đầu tư hơn
nữa cho phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ
phát triển nông nghiệp bền vững.
Bảy là, xây dựng cơ chế, chính sách phát
triển chuỗi ngành hàng nông sản: xây dựng
cánh đồng mẫu lớn gắn với khâu liên kết giữa
nông dân, hợp tác xã và các doanh nghiệp
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Bên cạnh đó
cần có chính sách nhằm khuyến khích doanh
nghiệp phân phối hàng nông sản trực tiếp đến
các chuỗi siêu thị trong nước và quốc tế; tuyên
truyền đến người nông dân sản xuất hàng nông
sản theo tiêu chuẩn chất lượng Vietgap; tăng
cường quản lý thị trường theo hướng minh
bạch chất lượng; kiểm tra kỹ nguồn gốc, xuất
sứ hàng nông sản, có biện pháp xử lý nghiêm
minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật,
coi thường người tiêu dùng. Hình thành chuỗi
ngành hàng chiến lược có dư địa thị trường,
có liên kết quốc tế mạnh, có thương hiệu toàn
cầu, có vị thế ở một số thị trường mục tiêu, có
ảnh hưởng kinh tế và xã hội lớn.
Tám là, tiếp tục thực hiện các chính sách
ưu đãi cho ngành nông nghiệp: nghiên cứu
đưa ra chính sách ưu đãi cho các tổ chức, cá
nhân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp như ưu
đãi về tiền sử dụng đất, thuế giá trị gia tăng,
thuế thu nhập doanh nghiệp; ưu đãi về vốn,
thuế nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến
phục vụ cho sản xuất nông nghiệptừ đó sẽ
khuyến khích được các tổ chức, cá nhân tham
gia đầu tư, nhất là các dự án đầu tư áp dụng
công nghệ cao cho sản xuất, chế biến và công
nghệ bảo quản sau thu hoạch.
Chín là, bảo hiểm nông nghiệp và thành
lập quĩ cho vay nông thôn: kiến nghị với Chính
phủ cho thí điểm bảo hiểm nông nghiệp nhằm
hỗ trợ cho người sản xuất nông nghiệp chủ
động khắc phục và bù đắp thiệt hại tài chính
do hậu quả của thiên tai, dịch bệnh gây ra, từ
đó giúp cho người nông dân yên tâm sản xuất,
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Hình
thành các quỹ cho vay tín dụng nông thôn cho
sinh viên nông thôn vay học tập, quỹ cho trí
thức trẻ về nông thôn lập nghiệp, quỹ cho trang
trại mới thành lập, quỹ hỗ trợ lao động mất đất
chuyển sang công nghiệp, dịch vụ.
Mười là, tăng cường quản lý, tránh đầu
tư dàn trải, chống thất thoát, lãng phí vốn đầu
tư cho nông nghiệp: đây là một trong những
giải pháp cần được thực hiện kiểm tra, giám
sát thường xuyên, liên tục nhằm tránh thất
thoát cũng như lãng phí vốn. Với nguồn lực
hạn chế, nên mỗi đồng vốn đầu tư cần được sử
dụng sao cho hiệu quả nhất; tăng trách nhiệm
và xử lý nghiêm người quản lý đối với mọi
hành vi đầu tư không hiệu quả, làm thất thoát
vốn của nhà nước và nhân dân.
Mười một là, thành lập quĩ bình ổn giá
cho nông nghiệp: những năm qua, vẫn còn
xảy ra tình trạng giá nông, thủy sản không
ổn định, gây bất lợi cho người nông dân. Để
người nông dân có thể yên tâm hơn khi sản
xuất kinh doanh, thiết nghĩ tỉnh cần nghiên
cứu thành lập quỹ bình ổn giá nông, thủy sản
để thực hiện trợ giá khi thị trường có biến
động xấu gây bất lợi cho người nông dân, từ
đó giúp cho người nông dân yên tâm bám đất
để đầu tư lâu dài trên chính ruộng đồng của
mình. Nguồn bình ổn giá được trích từ nguồn
vốn ngân sách tỉnh và nguồn đóng góp của
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông
nghiệp và người nông dân. Tuyên truyền,
phân tích những lợi ích từ quĩ bình ổn giá cho
doanh nghiệp và người nông dân biết để tạo
được sự đồng thuận của các doanh nghiệp và
người nông dân.
Mười hai là, đẩy nhanh cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất: thực tế cho thấy,
không có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất người nông dân không thể thực hiện các
quyền của mình theo qui định của luật đất đai
như: chuyển nhượng quyền sử dụng đất; thế
chấp quyền sử dụng đất, góp vốn liên doanh
liên kếtNhư vậy, tỉnh cần chỉ đạo để thực
80
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
hiện tốt việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Để thực hiện tốt được giải pháp này
thì cấp ủy, chính quyền các cấp cần nhận thức
rõ rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là nhiệm vụ trọng tâm để tập trung
chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện và coi
đây là một trong những tiêu chí đánh giá, xếp
loại người đứng đầu các địa phương, đơn vị
có liên quan trong toàn tỉnh; có chính sách
khen thưởng đối với tổ chức, cá nhân thực
hiện tốt việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; người đứng đầu chính quyền cần
thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn
để phát hiện và giải quyết kịp thời những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
để kịp thời giải quyết tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo về đất đai. Đối với những địa phương
thực hiện không nghiêm cần kiểm điểm, làm
rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất
là trách nhiệm của người đứng đầu đối với
những đơn vị không hoàn thành kế hoạch cấp
giấy chứng nhận, cũng như những cán bộ gây
phiền hà, sách nhiễu đối với tổ chức, cá nhân
khi thực hiện các thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Tóm lại: phát triển nông nghiệp tỉnh Hải
Dương là một trong những nhiệm vụ quan
trọng mà các cấp, các ngành trong tỉnh cần
đặc biệt quan tâm, khi nông nghiệp phát triển
sẽ giúp cho đời sống vật chất cũng như tinh
thần của người dân được cải thiện, đảm bảo
an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Bài viết
này đã trình bày khái quát thực trạng ngành
nông nghiệp tỉnh Hải Dương, trên cơ sở những
nguyên nhân hạn chế, tác giả đề xuất một số
giải pháp nhằm phát triển ngành nông nghiệp
tỉnh Hải Dương trong thời gian tới. Hy vọng
rằng những giải pháp đã được đề xuất nếu
được triển khai áp dụng đồng bộ sẽ giúp ngành
nông nghiệp Hải Dương phát triển nhanh hơn,
bền vững hơn trong thời gian tới, sớm hoàn
thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, qua đó từng bước nâng cao đời
sống vật chất cũng như tinh thần của đồng bào
ở vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hoàng Thị Chỉnh (2014). Liên kết “4 nhà” ở Đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng và những vấn
đề đặt ra. Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật, số (11).
[2]. Nguyễn Thiện Nhân (2015). HTX kiểu mới: Giải pháp đột phá phát triển nông nghiệp Việt Nam.
Báo điện tử Chính phủ.
[3]. Cục thống kê Hải Dương (2011). Niên giám thống kê.
[4].
ha-noi-919.html
[5].
Nong-nghiep-ben-vung.html
[6]. & view=article&id=3615:chien-
luoc-phat-trien-nong-nghiep-nong-thon-giai-doan-2011-2020&catid=56:kien-thuc-tin-
hoc&Itemid=71
[7].
nganh-nong-nghiep-viet-nam-41133.html
[8].
[9].
10].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 51_3272_2122302.pdf