Giải pháp nâng cao hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn hiện nay

Tài liệu Giải pháp nâng cao hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn hiện nay: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 96 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN HIỆN NAY Solutions for improving self-study of Saigon University students today TS. Nguyễn Đình Bình Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Mục đích của nghiên cứu này là nhận diện tình hình tự học và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động tự học của sinh viên. Nghiên cứu được thực hiện trong năm 2018, các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu gồm điều tra bằng bảng hỏi, quan sát, phân tích, tổng hợp. Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn mới chỉ dừng lại ở nhận thức về vị trí, vai trò của tự học, tuy nhiên, hành vi ...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 837 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp nâng cao hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 96 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN HIỆN NAY Solutions for improving self-study of Saigon University students today TS. Nguyễn Đình Bình Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Mục đích của nghiên cứu này là nhận diện tình hình tự học và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động tự học của sinh viên. Nghiên cứu được thực hiện trong năm 2018, các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu gồm điều tra bằng bảng hỏi, quan sát, phân tích, tổng hợp. Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn mới chỉ dừng lại ở nhận thức về vị trí, vai trò của tự học, tuy nhiên, hành vi và thái độ tự học chưa cao. Kết quả cũng cho thấy các nhân tố chủ quan tác động mạnh nhất đến hoạt động tự học của sinh viên. Từ khóa: giải pháp tự học, Trường Đại học Sài Gòn, tự học Abstract The purpose of this study is to identify the situation and the factors affecting self-study of Saigon University students today, thereby proposing solutions for promoting students’ self-study. The study was carried out in 2018, the methods used in the study involved investigation by questionnaires, observation, analysis and synthesis. Research results show that Saigon University students are aware of the position and the role of self-study; however, their behavior and attitude towards self-study is not really good. The results also show that subjective factors have the strongest impact on students' self-study. Keywords: self-study, Saigon University, solutions Self study 1. Đặt vấn đề Nhân loại đang bước vào cuộc cách mạng công nghệ 4.0, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ. Trung bình khoảng hai năm khối lượng kiến thức của toàn nhân loại tăng lên hai lần, nhưng thời gian dành cho đào tạo ở hệ đại học lại kéo dài đến 4 năm. Vậy bằng cách nào để người học có thể nắm bắt được kiến thức của nhân loại mà không bị quá tải hay hụt hẫng? Nếu trước đây việc tìm kiếm tri thức là quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu tranh sinh tồn và việc tích lũy kiến thức bằng việc nhớ là ưu tiên số một, thì ngày nay khi phương tiện lưu trữ đã quá đầy đủ và thông tin thay đổi liên tục thì ưu tiên số một không còn là việc nhớ, thay vào đó là khả năng tiếp cận tri thức mới, khả năng vận dụng tri thức mới và làm cho nó sản sinh ra tri thức mới.v.v. Do đó, hoạt động tự học, tự tiếp cận và vận dụng tri thức mới trở thành trung tâm của quá trình dạy - học. Email: ndinhbinh@gmail.com NGUYỄN ĐÌNH BÌNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 97 2. Cơ sở lý luận về tự học 2.1. Khái niệm tự học Bùi Hiện, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo (2001), trong cuốn Từ điển Giáo dục học “Tự học là quá trình tự mình lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành không có sự hướng dẫn của giáo viên và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục đào tạo”. Nguyễn Cảnh Toàn (1998), tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp và các phẩm chất khác của người học, cả động cơ tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một tri thức nào đó của nhân loại, biến tri thức đó thành sở hữu của chính mình. Mục 2, Điều 40, Luật giáo dục Việt Nam cũng khẳng định: Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng. Trên cơ sở nghiên cứu các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về tự học, chúng tôi cho rằng: Tự học là quá trình tự giác, độc lập, tích cực, chủ động sử dụng các năng lực trí tuệ, phẩm chất của bản thân người học để chiếm lĩnh tri thức của nhân loại và những kinh nghiệm lịch sử xã hội, biến những tri thức đó thành sở hữu của mình, hình thành kỹ năng, thái độ và ngày càng hoàn thiện nhân cách của bản thân. 2.2. Vai trò của hoạt động tự học Tự học, tự đào tạo là nhân tố quyết định đến chất lượng và hiệu quả học tập của người học, vai trò đó được biểu hiện: Thứ nhất, tự học là hoạt động giúp sinh viên lĩnh hội vững chắc hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Tự học với sự nỗ lực, tư duy sáng tạo đã tạo điều kiện cho việc tìm hiểu tri thức một cách sâu sắc, hiểu rõ bản chất của chân lý. Trong quá trình tự học, người học sẽ gặp nhiều vấn đề mới và việc đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề ấy là cách tốt nhất để kích thích hoạt động trí tuệ cho người học, hình thành một hệ thống kiến thức, kỹ năng vững chắc. Thứ hai, tự học là hoạt động giúp sinh viên rèn luyện để phát triển năng lực nhận thức, hình thành và phát triển các phẩm chất trí tuệ. Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Thứ ba, tự học giúp con người tạo ra ý tưởng lớn. Tự học là lực đẩy giúp người học đào sâu khám phá những cái mới, cái còn nhiều tranh luận. Chính trong quá trình đó, người học thường xuyên hoài nghi, thường xuyên đặt câu hỏi cho bản thân và những câu hỏi với người khác. Thứ tư, tự học không chỉ giúp cho sinh viên tích luỹ được vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, mà trong quá trình độc lập giải quyết các nhiệm vụ học tập, các thao tác trí tuệ của sinh viên cũng trở nên thành thạo, vững chắc. Sinh viên không ngừng phát huy tính tích cực nhận thức, tự mình rèn luyện các thao tác trí tuệ, dần dần hình thành các phẩm chất hoạt động trí tuệ cần thiết như: tính định hướng, tính bề rộng, tính chiều sâu, tính linh hoạt, tính mềm dẻo, tính phê phán, tính khái quát. Thứ năm, tự học còn giúp cho sinh viên hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, tính kiên trì, óc phê SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 98 phán, bồi dưỡng hứng thú khoa học, lòng say mê nghiên cứu tìm tòi, khám phá khoa học và những phẩm chất nhân cách khác. Tự học là con đường tự khẳng định mình, là con đường thành đạt của những ai muốn vươn lên tầm cao trí tuệ của nhân loại trong thời đại thông tin như hiện nay. 2.3. Bản chất của việc tự học Bản chất của tự học là quá trình độc lập và tự nguyện học tập, chiếm lĩnh tri thức của chủ thể. * Tính chất độc lập của việc học trong quá trình tự học được thể hiện: Thứ nhất, tính độc lập của mục đích và giá trị học vấn mong muốn, tức là học cái gì và học để làm gì là do người học quyết định. Thứ hai, độc lập về mặt quản lí từ kế hoạch, cách thức, thời gian, không gian và các điều kiện khác, tức là không có ai khác trực tiếp quản lí, mà do người học tự quản lí. Thứ ba, độc lập của cách thức học tập (kĩ năng và phương pháp học tập), tức là học như thế nào là do người học lựa chọn. Thứ tư, độc lập của phương tiện và môi trường học tập, tức là học ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào và bằng bất cứ cái gì thấy chấp nhận được là do người học phán xét. * Tính tự nguyện của người học có thể thấy được qua những yếu tố sau: Thứ nhất, tác động của động cơ học tập cá nhân, tức là vì cái gì hay vì ai mà học là do người học giác ngộ, không do ai xui khiến. Thứ hai, thái độ thiện chí và tính sẵn sàng cao với việc học của mình. Thứ ba, tình cảm mạnh mẽ và khát vọng sáng tạo trong học tập. Thứ tư, ý chí bền bỉ, không nản lòng trước khó khăn khi học tập. Thứ năm, tính chất tự nhiên của quá trình học tập: linh hoạt, cơ động, trong sáng, toàn tâm toàn ý, thậm chí là vui vẻ sảng khoái trong học tập, không bị áp lực ngay cả khi việc học rất vất vả, năng nhọc. 3. Thực trạng tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn hiện nay Trường Đại học Sài Gòn là trường đào tạo đa ngành, đa cấp, đa lĩnh vực, từ trình độ cao đẳng, đại học và đào tạo sau đại học. Đến nay, trường Đại học Sài Gòn đã được Bộ Giáo dục đào tạo cho phép đào tạo 10 chuyên ngành trình độ thạc sĩ và 02 chuyên ngành trình độ tiến sĩ. Đội ngũ giảng viên có trình độ sau đại học tăng nhanh, đạt trên 73%, đến 02/2019, trường có 328 thạc sĩ, 140 tiến sĩ và 15 phó giáo sư, trong đó, đội ngũ giảng viên trẻ (dưới 40 tuổi) chiếm 40%. Mục đích của nghiên cứu là xây dựng bức tranh về tự học của sinh viên và đề ra giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường Đại học Sài Gòn. Bài viết sử dụng nguồn dữ liệu sơ cấp thông qua điều tra 384 sinh viên của 4 khóa 15, 16, 17, 18 và 107 giảng viên (ở các khoa), cán bộ quản lý ở Phòng Công tác HSSV đang công tác, giảng dạy tại trường Đại học Sài Gòn. Cỡ mẫu điều tra sinh viên được xác định theo công thức của Taro Yamane. Do số lượng sinh viên trường ĐHSG lớn hơn 5000 người nên tác giả sử dụng công thức tính cỡ mẫu tối thiểu là lớn nhất với p = q = 0,5. n = 0,5 x (1 – 0,5) (  z )2 = 0,25 x (  z )2 z = giá trị phân phối tương ứng với độ tin cậy lựa chọn (nếu độ tin cậy 95% thì giá trị z là 1,96) NGUYỄN ĐÌNH BÌNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 99 Kết quả thu được về tình hình tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn như sau: Thứ nhất, sinh viên trường Đại học Sài Gòn đã nhận thức được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động tự học đối với quá trình chiếm lĩnh tri thức của người học. Hầu hết sinh viên đánh giá cao vai trò của tự học, với 161 ý kiến cho rằng tự học có vai trò rất quan trọng, chiếm 42% và 188 ý kiến cho rằng tự học có vai trò quan trọng trong giáo dục đại học, chiếm 49%. Đây là vấn đề đầu tiên, cơ bản trong quá trình làm chuyển biến hoạt động tự học của sinh viên bởi quá trình tự học chỉ thực sự diễn ra và mang lại kết quả khi chủ thể của quá trình nhận thức tự nhận thức được vai trò của quá trình tự học để tự mình xây dựng các kế hoạch và tiến hành tự học có hiệu quả. Tổng hợp kết quả, chúng tôi có biểu đồ sau: Biểu đồ 1: Nhận thức của sinh viên về vai trò của tự học Thứ hai, thời gian dành cho tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn chưa nhiều. Trong số 384 sinh viên được hỏi, có 17 ý kiến, chiếm 4,4% không dành phút nào cho việc tự học của mình. Sinh viên lên lớp chỉ để học những gì đã được giảng viên cung cấp, người thầy vẫn giữ vị trí độc tôn và đóng vai trò quyết định trong việc truyền thụ tri thức. Ngay cả những em được xem là đã có ý thức trong việc tự học, tự chiếm lĩnh tri thức thì thời gian mà các em dành cho việc tự học của mình cũng là một dấu hỏi lớn. Trong số những sinh viên được hỏi, có đến 96 ý kiến, chiếm 25% dành khoảng 30 phút mỗi ngày cho việc tự học. Thực tế cho thấy, 30 phút là khoảng thời gian chưa đủ để sinh viên suy nghĩ phải học môn gì, học nội dung nào, với những tài liệu nào chứ đừng nói gì đến việc tự học có hiệu quả. Chưa kể đến, trong khoảng 30 phút đó, người học còn bị chi phối bởi các tác động từ mạng xã hội và những sức ỳ từ chính bản thân mình. Phần lớn sinh viên dành khoảng một giờ mỗi ngày cho việc tự học của mình, với 138 ý kiến, chiếm 35,9%, trong khi chỉ có 10 sinh viên, chiếm 2,6% dành trên 4 giờ mỗi ngày cho việc tự học của mình. Tổng hợp lại, chúng tôi có biểu đồ dưới đây: )2 = 384 = 0,25 ( 1,96 0,05 SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 100 Biểu đồ 2: Lượng thời gian tự học của sinh viên trung bình trong ngày Thứ ba, tỷ lệ sinh viên tiếp cận thư viện và trung tâm học liệu chưa nhiều và chưa tự giác. Phần lớn sinh viên trường Đại học Sài Gòn chỉ đến thư viện, trung tâm lưu trữ, trung tâm học liệu khi có yêu cầu của giảng viên, với 143 ý kiến, chiếm 37%. Kết quả được trình bày ở biểu đồ 3. Biểu đồ 3: Sự tiếp cận của sinh viên đối với thư viện, trung tâm lưu trữ, trung tâm học liệu phục vụ cho hoạt động tự học Mức độ sẵn sàng và thường xuyên tiếp cận thư viện, các trung tâm học liệu của sinh viên là cơ sở phản ánh xác thực mức độ tự học, tự tìm tòi của sinh viên ở trường đại học. Thư viện không chỉ lưu giữ nhiều tri thức có giá trị của nhân loại mà nơi đây còn tạo ra một môi trường tương tác, lan tỏa cho người học trong quá trình sinh viên tìm kiếm, lĩnh hội và làm giàu tri thức của mình. Tuy nhiên, trong số sinh viên được NGUYỄN ĐÌNH BÌNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 101 hỏi, chỉ có 5% sinh viên thường xuyên đến đây để tham khảo tài liệu, 28% sinh viên thỉnh thoảng đến thư viện khi phải làm các bài tập, dự án mà không thể tìm kiếm tài liệu ở trên các kênh khác. Điều ngạc nhiên với những người làm công tác giáo dục là có đến 113 ý kiến, chiếm 30% cho rằng chưa bao giờ đến những thư viện và trung tâm học liệu. Điều đáng nói hơn là ở chỗ, trong số 113 ý kiến thì có đến 38% là sinh viên năm thứ ba, 29,7% là sinh viên cuối khóa (năm thứ tư). 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của sinh viên trường ĐHSG Trên cơ sở thang đo likert (5 mức độ tác động rất mạnh 4,21-5; tác động mạnh 3.41-4.20, trung bình 2.61-3.40, không tác động 1.81-2.60, rất không tác động 1-1.8), tác giả xác định được hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn chịu tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. Trong đó nhân tố chủ quan như: động cơ, tinh thần, thái độ học tập của sinh viên có sự tác động mạnh mẽ nhất khi cho giá trị trung bình (mean) 4.24 và độ lệch chuẩn khá thấp 0,845. Kết quả này chứng tỏ rằng, quá trình tự học của sinh viên phải được xuất phát từ nhu cầu của bản thân người học, từ động cơ học tập để vươn lên chiếm lĩnh tri thức chứ không dừng lại ở việc học để thi, học để làm vui lòng cha mẹ. Việc xác định động cơ học tập đúng đắn kết hợp với các phương pháp học tập phù hợp là chìa khóa để làm cho quá trình tự học của sinh viên đạt hiệu quả. Kết quả được trình bày ở bảng 4. Bảng 4: Đánh giá của sinh viên về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn Các nhân tố Số lượng Trung bình Độ lệch chuẩn Thứ bậc Môi trường tự học 384 3.72 .973 10 Cơ sở vật chất 384 3.93 .933 8 Phương pháp giảng dạy của giảng viên 384 3.94 .898 7 Sự hướng dẫn và yêu cầu của giảng viên 384 4.01 .953 3 Nội dung, PP thi, kiểm tra, đánh giá 384 4.01 .814 2 Nội dung môn học 384 3.98 .901 5 Quy định chuẩn đầu ra 384 3.83 .985 9 Động cơ, tinh thần, thái độ học tập của sinh viên 384 4.24 .845 1 Mạng xã hội 384 3.98 .968 6 Cơ hội việc làm sau khi ra trường 384 3.99 .866 4 Sự hoạt động của tổ chức Đoàn, Hội 384 3.60 1.058 12 Cố vấn học tập 384 3.62 1.075 11 (Kết quả điều tra và xử lý trên phần mềm SPSS của tác giả) SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 102 Xếp thứ hai trong số các nhân tố tác động đến quá trình tự học của sinh viên được sinh viên đánh giá là nội dung thi, kiểm tra, đánh giá khi cho giá trị trung bình (mean) lần lượt là 4,01 và độ lệch chuẩn tương ứng là 0,814. Thực tế cũng cho thấy nội dung thi như thế nào thì cách học của sinh viên sẽ như thế đó. Nếu nội dung thi yêu cầu sinh viên vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống và các vấn đề trong thực tiễn thì cách học của sinh viên là sự tìm tòi, sáng tạo, tự giác và phải được tiến hành trên cả một quá trình dài. Ngược lại, việc thi chỉ yêu cầu sinh viên tái hiện lại nội dung bài học hoặc chép lại những gì có trong sách giáo khoa thì sinh viên sẽ học theo hướng học thuộc khi kỳ thi sắp đến, thậm chí chỉ cần chuẩn bị đủ tài liệu để chép. Nhân tố tiếp theo tác động đến hoạt động tự học của sinh viên là sự hướng dẫn của giảng viên trong quá trình giảng dạy trên lớp, những yêu cầu mà giảng viên đặt ra là một động lực lớn kích thích tinh thần tự học của sinh viên khi cho giá trị trung bình 4.01 và độ lệch chuẩn 0,953. Cơ hội việc làm sau khi ra trường được sinh viên đánh giá là nhân tố ảnh hưởng thứ tư đến tinh thần, thái độ tự học của mình khi cho giá trị trung bình 3,99 và độ lệch chuẩn 0,866. Nội dung môn học là nhân tố ảnh hưởng khá lớn đến thái độ tự học của sinh viên khi cho giá trị trung bình 3,98 và độ lệch chuẩn 0,901. Sinh viên cho rằng, các môn chuyên ngành, các môn có nội dung thiết thực với ngành nghề của các em thường kích thích sinh viên có khả năng tự học cao hơn, ngược lại các môn đại cương, các môn lý thuyết có tính hàn lâm, các môn có nội dung xa với kiến thức chuyên ngành mà các em chưa thể đối chiếu việc thực tiễn cuộc sống thường không kích thích các em hăng hái học tập (xem bảng 4). 5. Giải pháp nâng cao hoạt động tự học cho sinh viên trường Đại học Sài Gòn 5.1. Nhóm các giải pháp đối với sinh viên Thứ nhất, tăng cường nhận thức về vai trò của tự học Để nâng cao hiệu quả hoạt động tự học, vấn đề đầu tiên và không kém phần quan trọng là nhận thức của chủ thể về hoạt động tự học. Sinh viên phải nâng cao nhận thức của mình về vị trí, vai trò của hoạt động tự học đối với việc chiếm lĩnh tri thức và hình thành kỹ năng. Sinh viên phải tự tạo ra động lực cho mình về hoạt động tự học và phải luôn xác định được rằng, tự học là một quá trình gắn liền với sự tự giác xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện của bản thân mà không cần đến một tác động nào từ bên ngoài. Bản thân phải xác định được rằng, tự học trở thành nhu cầu của bản thân và chỉ có tự học và thông qua tự học bài bản thì chúng ta mới chiếm lĩnh được tri thức, mới biến tri thức của nhân loại thành cái vốn có của mỗi cá nhân. Nhận thức đúng về vai trò, vị trí của tự học cũng là chìa khóa để mỗi cá nhân từ bỏ được các tâm thế trông chờ, ỷ lại và phục tùng tuyệt đối vào các kiến thức trên mạng xã hội, hướng hành vi và thái độ của mình vào việc tự học, tự rèn luyện không ngừng nghỉ. Thứ hai, xây dựng kế hoạch tự học Để hoạt động tự học có hiệu quả, chỉ dừng lại ở nhận thức thôi là chưa đủ. Từ nhận thức, sinh viên phải xây dựng được kế hoạch tự học phù hợp, thiết thực. Thực tế cho thấy, trong quá trình đào tạo, không ít sinh viên nhận thức được vị trí, vai trò của quá trình tự học và đã rất cố gắng để NGUYỄN ĐÌNH BÌNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 103 đưa hoạt động tự học của mình vào nề nếp nhưng hiệu quả chưa cao do chưa có kế hoạch tự học phù hợp. Kế hoạch tự học cần xác định rõ mục tiêu cần đạt được, các ưu tiên, quá trình, nội dung thực hiện và kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh kế hoạch. Thứ ba, tự trang bị các kiến thức tự học Một thực tế cho thấy, hiện nay ở Việt Nam việc bồi dưỡng kỹ năng tự học vẫn chưa được triển khai đồng bộ. Đa phần các trường, các giảng viên thực hiện rèn kỹ năng tự học cho sinh viên thông qua việc lồng ghép vào các nội dung bài học, các buổi nói chuyện, các hoạt động sinh hoạt câu lạc bộ, nhóm. Vì vậy, sinh viên cần tích cực, chủ động tham gia các hoạt động ở các lớp, các khóa đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng của thành Đoàn thành phố Hồ Chí Minh và các câu lạc bộ thanh niên. Trong quá trình tự trang bị các kỹ năng tự học, ngoài nhận thức, kế hoạch, sinh viên cần phải có ý chí quyết tâm để thực hiện thành công các thao tác, các bài học để tự trao dồi cho mình những kỹ năng thiết yếu phục vụ cho quá trình tự học. 5.2. Nhóm các giải pháp đối với giảng viên Thứ nhất, đổi mới phương pháp pháp dạy học theo hướng kích thích khả năng tự học của sinh viên Để kích thích hoạt động tự học của sinh viên, trong thiết kế bài giảng của mình, giảng viên phải chuyển trọng tâm bài học vào sinh viên, giảng viên chỉ đóng vai trò là người định hướng, chỉ dẫn còn sinh viên đóng vai trò là chủ thể đi tìm kiếm tri thức, kỹ năng. Giảng viên phải thường xuyên giao việc cho sinh viên, yêu cầu sinh viên thực hiện gắn liền với việc kiểm tra, giám sát và có khen thưởng, kỷ luật kịp thời. Thường xuyên hướng dẫn sinh viên cách thức tự làm việc, tự chiếm lĩnh tri thức và khả năng lãnh đạo nhóm để đạt được các mục tiêu đề ra. Trong quá trình giám sát, giảng viên có thể hỗ trợ sinh viên bằng các biện pháp như chỉ ra cho sinh viên nguồn tài liệu để thực hiện các yêu cầu, mục tiêu bài học. Thứ hai, động viên, hướng dẫn kỹ năng tự học cho sinh viên Giảng viên nên dành một lượng thời gian vừa đủ ở tuần đầu tiên của môn học để chỉ rõ cho sinh viên về vai trò của tự học đối với việc chiếm lĩnh tri thức. Đặt ra những yêu cầu kiến thức, kỹ năng cần đạt được đối với môn học do mình phụ trách thông qua con đường tự học, tự giáo dục. Giảng viên dành thời gian để huấn luyện cho sinh viên những kỹ năng cơ bản về đọc sách, tra cứu tài liệu, kỹ năng nghe giảng kết hợp với ghi chép, kỹ năng làm việc nhóm và lãnh đạo nhóm để tập hợp ý kiến của tập thể về các chủ đề thảo luận, đồng thời tạo tâm lý gần gũi, thấu hiểu, quan tâm đối với sinh viên. Thứ ba, tăng cường kiểm tra, đánh giá kỹ năng tự học của sinh viên Ngoài việc tự đánh giá của sinh viên, giảng viên phải thường xuyên đánh giá việc tự học của sinh viên để thường xuyên tạo ra một áp lực nhất định cho sinh viên, buộc sinh viên phải làm việc, tránh tư tưởng chây ỳ, đặc biệt là khi sinh viên mới bắt đầu làm quen với quá trình tự học. Sau mỗi bài học, chương học và buổi học, giảng viên cần có kế hoạch kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của sinh viên. Kết quả đánh giá phải được thể hiện bằng các cột điểm đánh giá môn học, công khai cho sinh viên và chỉ ra cho sinh viên biết được lý do đạt được hoặc chưa đạt được, cần phải khắc phục những điểm yếu gì. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 104 5.3. Nhóm các giải pháp đối với nhà trường Thứ nhất, xây dựng khu tự học và trang bị các cơ sở vật chất phục vụ cho khu tự học của sinh viên Đầu tư xây dựng khu tự học khang trang và trang bị các cơ sở vật chất phục vụ cho việc tự học của sinh viên là rất cần thiết trong bối cảnh đổi mới chương trình đào tạo theo hướng phát triển năng lực hiện nay. Việc bố trí các khu tự học cũng phải đảm bảo tính khoa học, thiết thực tùy theo nhu cầu của sinh viên theo các tiêu chí: khu tự học cần sự yên tĩnh để phát huy sự suy nghĩ, sáng tạo của sinh viên; có những khu tự học để sinh viên hoạt động nhóm, trao đổi những thông tin liên quan đến bài học, thậm chí cần có những khu để sinh viên thư giản, giải trí nhằm giảm bớt những căng thẳng. Cùng với việc xây dựng các khu tự học, nhà trường cần trang bị đầy đủ bàn ghế, hệ thống quạt, wifi, hệ thống máy tính kết nối internet, hệ thống thư viện điện tử, ebook và các sách, tài liệu để sinh viên có thể thuận tiện trong việc truy cập và tra cứu, tham khảo tri thức. Thứ hai, xây dựng thư viện hiện đại Nhà trường cần trang bị hệ thống thư viện hiện đại với bộ giữ liệu phong phú, đa dạng, dễ truy cập, thường xuyên cập nhật những tài liệu mới là chìa khóa để kích thích hoạt động tự học của sinh viên, lôi cuốn sinh viên đến với tri thức. Nhà trường cần chỉ đạo thư viện mời giảng viên, chuyên gia mở các lớp huấn luận kỹ năng tự học ngay tại thư viện để thông qua đó tuyên truyền, giới thiệu những cơ sở vật chất, tiện nghi, tài liệu có liên quan đã được trang bị và cập nhật đến toàn thể sinh viên nhằm từng bước thu hút sinh viên đến truy cập tài liệu và tự học ở thư viện ngày càng nhiều. Thứ ba, đổi mới chương trình đào tạo theo hướng giảm thời gian giảng dạy lý thuyết tăng thời gian tự học và thực hành Nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất để giảng viên thay đổi cách thức giảng dạy của mình, chính là chương trình khung đào tạo của nhà trường. Sự thay đổi từ chương trình khung đào tạo, bắt buộc phải thay đổi trong đề cương chi tiết và kéo theo kế hoạch giảng dạy của giảng viên cũng thay đổi. Vì vậy, nhà trường cần chỉ đạo các khoa, bộ môn xây dựng lại toàn bộ chương trình đào tạo các ngành theo hướng giảm bớt thời lượng các học phần lý thuyết hàn lâm, tăng thời lượng cho các học phần thực hành, các học phần rèn kỹ năng cho sinh viên. Thứ tư, xây dựng giáo trình và đổi mới hình thức thi theo hướng kích thích khả năng tự học Nhà trường cần thống nhất trong chỉ đạo việc biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo thống nhất trong toàn trường về các nội dung giảng dạy trên lớp, các nội dung tự học và các nguồn tài liệu tham khảo để thực hiện các nội dung tự học đó. Giáo trình cũng cần thể hiện rõ những câu hỏi ôn tập, kiểm tra theo hướng yêu cầu sinh viên tự học là chủ yếu. Những yêu cầu trong giáo trình là căn cứ cơ bản để sinh viên học tập và cũng là cơ sở quan trọng để giảng viên đánh giá việc tự học của sinh viên. 5.4. Nhóm giải pháp đối với các tổ chức đoàn thể sinh viên Thứ nhất, thường xuyên mở các lớp rèn luyện kỹ năng tự học cho sinh viên Một trong những hạn chế lớn nhất của sinh viên, nhất là sinh viên năm thứ nhất là những kỹ năng tự học. Hầu hết sinh viên đã nhận thức được vị trí, vai trò của việc tự NGUYỄN ĐÌNH BÌNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 105 học, các em đã cố gắng thực hiện tự học nhưng do chưa có kỹ năng nên không biết bắt đầu từ đâu nên hiệu quả chưa cao. Vì vậy, việc mở các lớp rèn kỹ năng tự học cho sinh viên là vấn đề thiết yếu. Thứ hai, tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ học thuật, câu lạc bộ kỹ năng Các câu lạc bộ học thuật, câu lạc bộ kỹ năng là môi trường để sinh viên mở rộng các kiến thức chuyên môn lẫn các kiến thức xã hội, đồng thời rèn luyện các kỹ năng mềm như: tổ chức, lãnh đạo, hợp tác nhóm, giải quyết vấn đề. Tham gia tích cực các hoạt động của câu lạc bộ là một cách cơ bản để sinh viên giao lưu, học hỏi những kiến thức, kỹ năng ngoài lớp học, tạo cho sinh viên tự tin hơn trước đám đông, mạnh dạn triển khai ý tưởng, suy nghĩ của mình cho thầy/cô và bạn bè. 6. Kết luận Kết quả nghiên cứu cho thấy tình hình tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức về vị trí, vai trò của quá trình tự học. Nếu xét về thái độ và hành vi thì tình hình tự học của sinh viên trường Đại học Sài Gòn chưa cao. Biểu hiện bằng việc thời gian dành cho việc tự học chưa nhiều, các phương pháp tự học chưa hiệu quả và chưa tận dụng hết các nguồn lực của nhà trường như thư viện, trung tâm lưu trữ để phục vụ cho việc tự học. Thay đổi cách thức tự học của sinh viên là cả một quá trình với sự tác động của nhiều nhân tố. Tuy nhiên, yếu tố đầu tiên, quyết định đến quá trình tự học của sinh viên là động cơ, thái độ và năng lực của chủ thể người học. Vì vậy, các giải pháp phải hướng vào chủ thể người học, những tác động từ giảng viên, nhà trường và các tổ chức đoàn thể xã hội phải tạo được động cơ tích cực cho người học, làm cho người học tự giác, chủ động chiếm lĩnh tri thức. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2010). Luật Giáo dục 2010. Hà Nội: NXB Quốc Gia, tr. 26. Đặng Xuân Hải. (2013), Kỹ thuật dạy học trong đào tạo theo học chế tín chỉ, Hà Nội: NXB Bách Khoa, tr. 43-79. Trần Thị Minh Hằng. (2011). Tự học và yếu tố tâm lý cơ bản trong tự học của sinh viên Sư phạm. NXB Giáo dục, tr. 113-127. Bùi Hiện, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo. (2001). Từ điển Giáo dục học. NXB Từ điển Bách khoa, tr. 67-80. Rubankin N.A. (2002). Tự học như thế nào, TP.HCM: NXB Trẻ, tr. 42-69. Hà Nhật Thăng, Đào Thanh Âm. (1998). Lịch sử giáo dục thế giới. NXB Giáo dục, tr. 36- 114. Nguyễn Cảnh Toàn. (1998). Quá trình dạy- tự học. NXB Giáo dục, tr. 38-44. Ngày nhận bài: 08/02/2019 Biên tập xong: 15/3/2019 Duyệt đăng: 20/3/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf59_1537_2214964.pdf
Tài liệu liên quan