Giải pháp giống rong chăn nuôi bò thịt ở Nghệ An

Tài liệu Giải pháp giống rong chăn nuôi bò thịt ở Nghệ An: Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 2/2017 [22] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Hội thảo khoa học phát triển chăn nuôi bò thịt theo hướng sản xuất hàng hóa tại Nghệ An (10/2016) 1. Các giống vật nuôi Các giống vật nuôi thường được chia làm 3 nhóm: 1.1. Giống địa phương Đây là các giống đã tồn tại lâu đời tại một địa phương, một vùng nào đó, ví dụ như: gà ri, lợn Móng Cái, bò vàng Các giống này có ưu điểm nổi bật là tính thích nghi với điều kiện cụ thể tại địa phương, thường chịu kham khổ, chống chịu với các bệnh dịch tốt. Điểm yếu của chúng là kích thước nhỏ, năng suất thấp. Giống bò thuộc nhóm này là bò vàng Việt Nam. Bò vàng là giống bò đã có từ lâu đời và được nuôi phổ biến nhất ở Việt Nam, với gần 4 triệu con trong tổng số hơn 7 triệu con bò trong cả nước (chiếm >50%). Bò có lông màu nâu vàng toàn thân, phía bên trong đùi và yếm có màu hơi vàng nhạt, ngoại hình cân đối. Bò cái phía trước thấp, phía sau cao hơn; bò đực thì ngược lại. Bò cái có yếm kéo dài từ hầu đến vú. Bò v...

pdf4 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 312 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp giống rong chăn nuôi bò thịt ở Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 2/2017 [22] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Hội thảo khoa học phát triển chăn nuôi bò thịt theo hướng sản xuất hàng hóa tại Nghệ An (10/2016) 1. Các giống vật nuôi Các giống vật nuôi thường được chia làm 3 nhóm: 1.1. Giống địa phương Đây là các giống đã tồn tại lâu đời tại một địa phương, một vùng nào đó, ví dụ như: gà ri, lợn Móng Cái, bò vàng Các giống này có ưu điểm nổi bật là tính thích nghi với điều kiện cụ thể tại địa phương, thường chịu kham khổ, chống chịu với các bệnh dịch tốt. Điểm yếu của chúng là kích thước nhỏ, năng suất thấp. Giống bò thuộc nhóm này là bò vàng Việt Nam. Bò vàng là giống bò đã có từ lâu đời và được nuôi phổ biến nhất ở Việt Nam, với gần 4 triệu con trong tổng số hơn 7 triệu con bò trong cả nước (chiếm >50%). Bò có lông màu nâu vàng toàn thân, phía bên trong đùi và yếm có màu hơi vàng nhạt, ngoại hình cân đối. Bò cái phía trước thấp, phía sau cao hơn; bò đực thì ngược lại. Bò cái có yếm kéo dài từ hầu đến vú. Bò vàng có tầm vóc nhỏ, năng suất thấp, khối lượng bê sơ sinh 14÷15 kg/con, khối lượng trưởng thành ở bò đực có thể đạt 250÷300 kg/con, bò cái khoảng 150÷200 kg/con. Tuổi phối giống lần đầu lúc 15÷18 tháng tuổi. Sản lượng sữa 350÷400 kg/lứa đẻ - vừa đủ cho bê, tỷ lệ thịt xẻ 42÷44%, thớ thịt mịn, thơm ngon... Ở nước ta, bò vàng có nhiều nhóm khá nổi tiếng như: bò vàng Lạng Đối với chăn nuôi gia súc, gia cầm trong nền sản xuất hàng hóa, các vấn đề quan trọng phải quan tâm là năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Để chăn nuôi đạt năng suất cao thì các yếu tố cần tính đến là: giống, dinh dưỡng và thức ăn, chăm sóc nuôi dưỡng, phòng trừ dịch bệnh (thú y), quản lý và khai thác, trong đó giống là yếu tố số một. Người chăn nuôi cho dù đầu tư chuồng trại tốt, thức ăn giàu dinh dưỡng, chăm sóc kỹ lưỡng mà không có được con giống tốt thì cũng khó đem lại năng sất cao. Ngược lại, khi đã có con giống tốt thì chỉ cần tạo cho con vật các điều kiện khác theo nhu cầu của chúng cũng sẽ đem lại hiệu quả như mong muốn. GIẢI PHÁP GIỐNG TRONG CHĂN NUÔI BÒ THỊT Ở NGHỆ AN n Nguyễn Kim Đường Trung tâm NC và PT KH-CN Nông nghiệp Sơn, bò vàng Thanh Hóa, bò vàng Nghệ An, bò vàng Phú Yên, bò vàng Ninh Thuận Bò vàng do kích thước nhỏ, khối lượng thấp, khả năng cho sữa thấp nên nuôi để lấy thịt hay lấy sữa đều không đem lại hiệu quả, trước đây được nuôi để để cày kéo là chính. Để tận dụng khả năng thích nghi, tính mắn đẻ của giống bò này, nước ta đã và đang lấy giống bò vàng làm nền để cho lai với bò Zebu (Zebu hóa) hay với bò Sind (Sind hóa) trong chương trình cải tạo đàn bò nội Việt Nam nhằm tăng kích thước. Trên cơ sở các con lai này, tiếp tục cho lai với các giống chuyên dụng thịt, sữa để tạo nên các giống bò cải tiến. 1.2. Giống cải tiến Đây là các giống được tạo ra thông qua việc sử Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 2/2017 [23] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI dụng các giống địa phương làm nền, chọn một hoặc một số giống tốt hơn cho lai với nhau, tạo ra con lai, sau đó chọn lọc hoặc tiếp tục cho lai nhiều lần tạo ra giống cải tiến có tính thích nghi với điều kiện ngoại cảnh, chống chịu với các bệnh dịch khá tốt. Giống bò tiêu biểu của nhóm này là bò lai Sind. Đây là con lai cấp tiến giữa bò đực Sind đỏ và bò cái vàng Việt Nam. Đến nay có thể được gọi là giống, song thực chất đây là một nhóm con lai Sind với nhiều tỷ lệ máu khác nhau. Bò lai Sind đang được nuôi ở nhiều địa phương trong cả nước và các con cái đang được cho lai tiếp với các đực giống ngoại để tạo ra bò lai hướng sữa hoặc hướng thịt. Bò lai Sind có màu lông da nâu đỏ, đỏ vàng hoặc màu đỏ, tai to rũ xuống, u to, yếm rộng với nhiều nếp nhăn. Khi bị ruồi muỗi đốt, vùng da bị cắn có thể rung lên để xua đuổi ruồi muỗi. Ở tuổi trưởng thành, con đực cao 1,3m, nặng khoảng 320÷440 kg/con; con cái cao 1,1m, nặng khoảng 250÷300 kg/con. Bò cái có thể sinh lứa đầu vào lúc 30 tháng tuổi. Đây là giống bò kiêm dụng cày kéo - cho thịt, thớ thịt dày và mịn. 1.3. Giống mới hay giống cao sản Đây là sản phẩm của quá trình lai tạo giống. Để có các giống mới hay giống cao sản, trước hết người ta đưa ra mục tiêu của giống, tiếp theo người ta chọn một số giống (có thể là 1, 2, 3 hay nhiều hơn), trong đó mỗi giống có thể có 1-2 tính trạng tương tự như trong mục tiêu của giống mới. Tiếp tục, lập kế hoạch lai để cho ra các thế hệ con lai, đến khi nào thấy con lai đã có được các tính trạng đạt mục tiêu đã đề ra, dừng quá trình lai để cố định các tính trạng (thông qua quá trình tự phối), chọn lọc các con đã có sự ổn định của các tính trạng như mục tiêu đã đề ra. Làm thủ tục công nhận giống mới. Các giống cao, thậm chí rất cao như giống bò 3B (BBB), ở tuổi trưởng thành có khối lượng >1.000 kg/con. Tuy nhiên, các giống mới thường đòi hỏi chế độ dinh dưỡng cao, chăm sóc, nuôi dưỡng tốt và điều kiện ngoại cảnh tốt. Ở nước ta, qua gần 70 năm kể từ khi miền Bắc được giải phóng hoàn toàn đến nay, gần như chưa có một giống cao sản nào được tạo ra. Tất cả các giống vật nuôi cao sản hiện có ở nước ta đã được nhập từ các nước trên thế giới (Mỹ, Úc, Cu Ba). Với các giống bò mới, cao sản, người ta đã tạo ra các giống chuyên cho sữa như: bò lang trắng đen, lang trắng đỏ (Holstein Friesian), Jersey, nâu Thụy Sĩ; các giống bò chuyên thịt như: BBB, Droghmaster, Hereford, Limousine Các giống bò thuộc nhóm này gồm: - Giống bò Sind: Bò Sind, tên đầy đủ là Red Sindhi, có nguồn gốc từ Pakistan và Ấn độ. Bò Sind được nhập vào Việt Nam khoảng năm 1923. Bò có lông màu nâu đỏ hay cánh dán, trán ghồ, tai to rũ xuống, u vai cao, yếm rộng, âm hộ có nhiều nếp nhăn, da có thể rung cục bộ. Khối lượng trưởng thành ở con cái 350÷400 kg/con; con đực 450÷500 kg/con. Tuổi đẻ lứa đầu khoảng 48 tháng, năng suất sữa 275 ngày là 1.600kg, tỷ lệ mỡ sữa 5,2%. Bò Sind hiện được nuôi ở một số nơi của miền Bắc (nông trường Việt Mông, Ba Vì - Hà Tây...). Hiện nay, bò Sind chủ yếu là sử dụng các con bò đực để phối trực tiếp hay khai thác Một số giống bò tại Nghệ An: Giống bò vàng địa phương Giống bò lai Zebu Giống bò lai sind Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 2/2017 [24] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1919. Giống bò BBB có cơ bắp phát triển siêu trội (hệ thống cơ đôi), ngoại hình đẹp, rất hiền lành, khả năng sử dụng thức ăn tốt, thịt thơm ngon, hiệu quả kinh tế cao. Bò BBB có khả năng thích nghi với nhiều vùng địa lý khác nhau trên thế giới và đã được nuôi ở nhiều nước như: Anh, Pháp, Mỹ, Úc. Hiện nay đã có hơn 20 hiệp hội chăn nuôi bò BBB trên thế giới. Bò BBB có 3 màu lông cơ bản: trắng, loang xanh và đen do sự phân ly của gen bò Shorthorn. Một số tính trạng và chỉ tiêu sản xuất chính của bò BBB: Khối lượng sơ sinh bình quân 44 kg/con, một năm tuổi đạt 480÷500 kg/con, khối lượng trưởng thành của bò đực 1.100÷1.250 kg/con, có con đạt 1.400 kg/con. Tuổi đẻ lứa đầu trung bình là 32 tháng, nặng 700÷750 kg/con, bò cái trưởng thành nặng 850÷900 kg/con. Tỷ lệ đẻ hàng năm 80%, khoảng cách lứa đẻ 14 tháng. Hệ số sử dụng thức ăn cao: 5,5÷7 kg TĂ/kg tăng trọng. Tỷ lệ thịt tinh/thịt xẻ đạt: 78%. Nhược điểm của bò cái BBB là sự đàn hồi của cơ xương chậu kém khi đẻ, 90% bò cái BBB khi đẻ phải mổ để lấy thai. 2. Giải pháp giống trong chăn nuôi bò thịt ở Nghệ An Nghệ An là một trong những tỉnh có đàn bò lớn trong cả nước với 428.000 con (theo số liệu 1/10/2015), trong đó 48% là bò lai như: lai sind (F1, F2), lai bò vàng x Brahman (F1), lai bò vàng x Zebu (F1, F2) Đây là các con lai cải tiến, nhờ đó mà sản lượng bò hơi xuất chuồng hàng năm vẫn tăng 3-5% trong khi tổng đàn bò không tăng, thậm chí có phần giảm. Có được điều này là nhờ kích cỡ của nhóm bò lai cao hơn bò vàng tới 25- 30%, cao hơn bò lai Sind lâu đời (nhóm bò lai Sind đã lai qua lai lại nhiều đời, đã tồn tại trong đàn bò có khi vài ba chục năm) 15-25%. Trong điều kiện như vậy, với hiện trạng con giống ở Nghệ An hiện nay, để phát triển chăn nuôi bò thịt có hiệu quả kinh tế, có đủ sản phẩm thịt, chất lượng tương đương thịt bò Úc mà ta đang nhập về giết thịt cung cấp cho người tiêu dùng trong siêu thị, nhà hàng (restaurant), khách sạn thì cần phải làm gì? Trước hết có thể thấy, với điều kiện kinh tế tinh để phối cho bò nội cho ra bò lai Sind. Chương trình Sind hóa đàn bò là chương trình lai cấp tiến giữa bò đực Sind đỏ với bò cái vàng. Kết quả của chương trình này đã nâng cao tầm vóc của bò. Lúc trưởng thành, bò đực lai Sind có khối lượng 320÷440 kg/con và con cái là 250÷300 kg/con. Bò lai Sind là nguồn vật liệu ban đầu cho công tác lai tạo bò hướng sữa hoặc hướng thịt của nước ta. - Giống bò Brahman: Bò Brahman được nhập từ Cu Ba, có 2 nhóm: Brahman trắng và Brahman đỏ, đều thuộc nhóm bò Zebu. Giống bò này đang được nuôi ở Ninh Bình, Hà Tây, Bình Định và một số nơi khác. Bò Brahman trắng toàn thân có màu trắng bạc hoặc trắng xám. Bò có đầu hơi dài, trán dô, tai to rũ ra phía sau, u to, yếm rộng có nhiều nếp gấp, ngực sâu nhưng hơi lép, chân cao, đuôi dài. Bò Brahman đỏ chỉ khác Brahman trắng là có màu lông đỏ và ở tuổi trưởng thành thì con đực có màu lông sẫm màu hơn con cái. Khối lượng sơ sinh của bê Brahman khoảng 24÷25 kg/con, lúc 12 tháng tuổi bò đực có khối lượng khoảng 210 kg/con và con cái khoảng 180 kg/con. Ở tuổi trưởng thành, con đực khoảng 800 kg/con và con cái khoảng 450 kg/con. Bò Brahman cái đẻ lứa đầu lúc khoảng 40 tháng tuổi (hơi muộn). Khoảng cách giữa hai lứa đẻ khoảng 18 tháng. Bò Brahman là một giống bò hướng thịt. Giống bò này đang được sử dụng để lai với bò vàng, bò lai Sind để tạo bò lai hướng thịt, trong đó bò Brahman đỏ được người nôi ưa chuộng hơn. - Giống bò Droughtmaster: Bò được nhập về Việt Nam từ bang Queensland, Úc. Giống phát triển tốt ở vùng Bắc Mỹ, thích hợp với điều kiện nóng bức. Là giống lớn con trung bình, thân dài, tròn, lông ngắn, thưa, mượt, da mỏng, đàn hồi tốt. Màu lông từ màu vàng nhạt đến đỏ sậm. Phần lớn bò đều không sừng, u lưng nhỏ, chân và móng chắc, khỏe. Bò Droghrmater thích hợp với điều kiện nóng bức, tận dụng đồng cỏ nghèo nàn rất tốt, không bị trúng nắng, mò mắt, ung thư mắt, kháng ve, ký sinh trùng. Khối lượng sơ sinh: 20÷25 kg/con, 6 tháng tuổi: 150÷170 kg/con, 12 tháng tuổi: 240÷270 kg/con, 24-36 tháng tuổi: 450÷600 kg/con, lúc giết mổ (24-27 tháng tuổi): 500÷550 kg. Tỷ lệ thịt xẻ (móc hàm): 58÷60%. Bò cái dễ đẻ, lành tính, nuôi con tốt, đẻ lần đầu: 12÷16 tháng, khoảng cách giữa 2 lần đẻ: 11÷12 tháng. - Giống bò BBB: Bò BBB (Blanc Blue Belge) là giống bò thịt đặc biệt của thế giới được tạo ra từ nhiều giống bò địa phương của Bỉ với bò Shorthorn từ năm Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 2/2017 [25] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Trước mắt, sử dụng bò cái vàng làm nền cho phối với tinh bò Sind, Zebu, Brahman... tạo ra các con lai F1. Bò đực lai F1 nuôi để lấy thịt, khối lượng và năng suất thịt của chúng đã cao hơn bò vàng 25-30%. Bò cái lai F1 sử dụng để cho lai tiếp với bò Brahman, Lim- ousine, Hereford để tạo ra con lai F2, khối lượng và năng suất thịt bò lai F2 cao hơn bò lai F1 khoảng 10-15% và cao hơn bò vàng 30-40%. Trong khoảng 10 năm khi tỷ lệ bò lai trong đàn bò lên tới 70% thì trong đó sẽ có khoảng 50% bò lai F1 và 20% bò lai F2, lúc đó năng suất cũng như sản lượng bò xuất chuồng để giết thịt sẽ tăng không chỉ là 3-5%/năm mà cao hơn (6-8%/năm). Cũng cần nói thêm rằng, để tăng năng suất và hiệu quả chăn nuôi bò thịt, không thể không giải quyết thỏa đáng nhu cầu dinh dưỡng, thức ăn cho chúng. Về chiến lược thì không nên tăng số lượng đàn bò, vì nó sẽ làm tăng áp lực về việc tạo nguồn thức ăn thô xanh để cung cấp cho chúng, đồng thời làm tăng lượng chất thải (phân, nước tiểu) là tăng nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Giải pháp tăng kích cỡ (kích thước, khối lượng) là giải pháp tốt hơn và bền vững hơn./. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Kim Đường, 2009, Báo cáo tổng kết đề tài KH&CN cấp Tỉnh “Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp phát triển chăn nôi bò hàng hóa bền vững ở Nghệ An”. 2. https://www.youtube.com/watch? v=9spgjnCd704 3. droughtmaster.html 4. bo-lai-bo-chuyen-thit-va-bo-sua-o-viet-nam/ 5. TinBai.aspx?ID=2066 6. —b-tga.vn/?page=newsDetail &id=764468&site=34844 7. uu/channuoi/2013/2.8.%20Bo%20lai%20chat %20luong%20cao.pdf và năng lực khoa học như hiện nay, chúng ta không thể lai tạo để cho ra giống bò chuyên thịt (BBB, Limousine, Herrford ) ở Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng, vì nó đòi hỏi nguồn tiền hàng trăm ngàn tỷ đồng, với thời gian lên tới hàng chục năm. Và đến lúc đó, chúng ta cũng chỉ có giống bò mới, chứ chưa có đàn bò giống mới cao sản hàng trăm ngàn con. Giải pháp tốt nhất, ít tốn kém nhất và ngắn nhất là biện pháp lai, tạo ra đàn bò lai cải tiến. Trong đàn bò nói chung ở Nghệ An, bò cái (sinh sản) chiếm 58,24%, trong đó ở bò vàng là 58,73%, bò lai là 57,03% (Nguồn: Ngyễn Kim Đường, 2009, Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp phát triển chăn nôi bò hàng hóa bền vững ở Nghệ An, Báo cáo tổng kết). Với 429.000 con bò hiện có thì số bò cái sinh sản là khoảng 250.000 con, trong đó bò cái vàng 147.000 con. Tỷ lệ sinh sản của bò cái vàng hàng năm là khoảng 70%, như vậy mỗi năm có khoảng 103.000 con bò vàng sinh bê. Nếu 100% bê sinh ra này là bê lai thì mỗi năm tỷ lệ bò lai tăng 2,4%. Để nâng tỷ lệ bò lai trong đàn bò (hiện nay là 48%) lên 70%, chúng ta sẽ mất 10 năm. Công thức lai tạo bò thịt cao sản ở Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf2_nctd_02_2_3176_2224610.pdf