Giải pháp đổi mới, hoàn thiện chủ trương, chính sách đối với đồng bào Khmer ở Tây Nam Bộ trong thời gian tới - Sơn Minh Thắng

Tài liệu Giải pháp đổi mới, hoàn thiện chủ trương, chính sách đối với đồng bào Khmer ở Tây Nam Bộ trong thời gian tới - Sơn Minh Thắng: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 1 Ngày nhận bài: 10/2/2017. Ngày phản biện: 15/2/2017. Ngày duyệt đăng: 25/2/2017 (1) Ủy ban Dân tộc; e-mail: sonminhthang@cema.gov.vn (2)(3) Học viện Dân tộc; e-mail: ngoquangson@cema.gov.vn, vuthanhminh@cema.gov.vn Đồng bào Khmer hiện có dân số trên 1,2 triệu người, sinh sống tại các tỉnh, thành phố khu vực Tây Nam Bộ, tập trung đông nhất ở 9 tỉnh, thành phố: Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Vĩnh Long, Hậu Giang, Cần Thơ, với 271.311 hộ/1.197.935 người, chiếm 10,66 % so với dân số chung1. Đồng bào chủ yếu theo Phật giáo Nam tông Khmer (tỷ lệ 87,06% so với dân số). Toàn vùng có 462 chùa, số lượng chư tăng dao động hàng năm trên dưới 8.000 vị2. Hầu hết đồng bào Khmer sinh sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, chỉ có một bộ phận nhỏ sinh sống tại thành thị nhưng chủ yếu là các thị trấn của huyện, một ...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 375 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp đổi mới, hoàn thiện chủ trương, chính sách đối với đồng bào Khmer ở Tây Nam Bộ trong thời gian tới - Sơn Minh Thắng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 1 Ngày nhận bài: 10/2/2017. Ngày phản biện: 15/2/2017. Ngày duyệt đăng: 25/2/2017 (1) Ủy ban Dân tộc; e-mail: sonminhthang@cema.gov.vn (2)(3) Học viện Dân tộc; e-mail: ngoquangson@cema.gov.vn, vuthanhminh@cema.gov.vn Đồng bào Khmer hiện có dân số trên 1,2 triệu người, sinh sống tại các tỉnh, thành phố khu vực Tây Nam Bộ, tập trung đông nhất ở 9 tỉnh, thành phố: Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Vĩnh Long, Hậu Giang, Cần Thơ, với 271.311 hộ/1.197.935 người, chiếm 10,66 % so với dân số chung1. Đồng bào chủ yếu theo Phật giáo Nam tông Khmer (tỷ lệ 87,06% so với dân số). Toàn vùng có 462 chùa, số lượng chư tăng dao động hàng năm trên dưới 8.000 vị2. Hầu hết đồng bào Khmer sinh sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, chỉ có một bộ phận nhỏ sinh sống tại thành thị nhưng chủ yếu là các thị trấn của huyện, một số phường vùng ven thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong nhiều năm qua, nhằm phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào Khmer, Đảng và nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, như Chỉ thị số 117/1982- CT/TƯ về công tác đối với đồng bào Khmer; Chỉ thị số 68/1991-CT/TW về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer; Thông 1. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Tổng hợp báo cáo của các tỉnh Tây Nam Bộ, năm 2016. 2. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Tổng hợp báo cáo của các tỉnh Tây Nam Bộ, năm 2016. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI, HOÀN THIỆN CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO KHMER Ở TÂY NAM BỘ TRONG THỜI GIAN TỚI (*) Sơn Minh Thắng(1) Ngô Quang Sơn(2) - Vũ Thị Thanh Minh(3) Trong nhiều năm qua, nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Khmer, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách thiết thực, do đó đời sống của đồng bào đã được nâng lên rõ rệt, khó khăn bức xúc đã giải quyết cơ bản, công tác xóa đói, giảm nghèo được triển khai thực hiện một cách tích cực,... tuy nhiên hiện nay tình hình kinh tế, xã hội của đồng bào Khmer vẫn còn kém phát triển. Quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng về thực hiện chủ trương, chính sách đối với đồng bào Khmer, căn cứ vào điều kiện thực tế đời sống của đồng bào hiện nay, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp xây dựng và thực hiện chính sách đối với đồng bào Khmer ở Tây Nam Bộ. Từ khóa: Chủ trương, chính sách, giải pháp đổi mới, hoàn thiện chủ trương, chính sách, đồng bào Khmer, Tây Nam Bộ. báo Kết luận số 67/2007-TB/TW về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 68/1991-CT/TW. Cùng với đó là hệ thống chính sách dành cho vùng dân tộc thiểu số (DTTS) nói chung, trong đó đồng bào Khmer cũng được thụ hưởng như: Chính sách đối với huyện nghèo; Chính sách đối với xã khó khăn; Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư; Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo,... chính sách dành cho vùng đồng bằng sông Cửu Long. Qua thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách phát triển ngành, lĩnh vực đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long cùng các chính sách đặc thù đối với vùng DTTS, nhất là thực hiện Chỉ thị số 117- CT/TƯ và Chỉ thị số 68/1991-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, vùng đồng bào Khmer có những chuyển biến tích cực: Trong nhiều năm qua, Chính phủ đã và đang tập trung đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm như: Sân bay Rạch Giá, Cà Mau, Cần Thơ, Phú Quốc; cầu Mỹ Thuận, Rạch Miễu, Hàm Luông, Cần Thơ; xây dựng mới đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ; nâng cấp và mở rộng quốc lộ 1A; nâng cấp và xây dựng mới hệ thống quốc lộ, tỉnh lộ, hương lộ; xây dựng mới Trường Đại học An Giang; thành lập Trường Đại học Trà Vinh, Đại học Y Dược Cần Thơ, Trường (*) Bài viết là sản phẩm nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu kết quả thực hiện một số chủ trương, chính sách đối với đồng bào Khmer và những vấn đề đặt ra”, Ủy ban Dân tộc, 2016-2017 Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 2 Số 17 - Tháng 3 năm 2017 Đại học Dân lập Vĩnh Long, Trường Đại học Sư phạm Đồng Tháp,... Riêng vùng dân tộc Khmer, các bộ, ngành và địa phương trong vùng tích cực xây dựng các công trình thiết yếu từ nhiều nguồn lực. Các địa phương tăng cường, đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo3; trình độ dân trí trong đồng bào Khmer có bước phát triển đáng kể; đến nay, có 09 trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh và 25 trường cấp huyện; trường phổ thông dân tộc nội trú và hầu hết các điểm trường trong vùng dân tộc Khmer đều tổ chức dạy chữ Khmer; đội ngũ cán bộ y tế là người dân tộc Khmer được đào tạo và bố trí sử dụng hàng năm; chính sách y tế đối với người nghèo được triển khai thực hiện rộng khắp. Hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc Khmer từng bước được củng cố kiện toàn. Đội ngũ đảng viên, cán bộ là người dân tộc Khmer tăng về số lượng và chất lượng, tham gia ngày càng nhiều trong hệ thống chính trị các cấp từ Trung ương đến địa phương. An ninh, chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội duy trì được sự ổn định, đoàn kết giữa các dân tộc và tôn giáo được phát huy, tạo được môi trường tốt để đồng bào an tâm lao động, học tập, xây dựng cuộc sống. Các tỉnh, thành phố: Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Hậu Giang, Kiên Giang đã thành lập Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước các cấp từ tỉnh đến cơ sở. Hiện nay, đời sống của đồng bào DTTS tuy được nâng lên rõ rệt, khó khăn đã được giải quyết 3. Giai đoạn 2001 - 2005, tỷ lệ hộ Khmer nghèo so với tổng số hộ Khmer ở đầu giai đoạn là 35,61%, cuối giai đoạn giảm còn 29,59%; đầu giai đoạn 2006 - 2010 là 41,68%, cuối giai đoạn giảm còn 24,57%; đầu giai đoạn 2011- 2015 là 34,57%, cuối giai đoạn giảm còn 13,1%; đầu giai đoạn 2016 - 2020 là 23,4% theo chuẩn nghèo đa chiều, năm 2016 các địa phương giảm được 3%. Riêng đầu giai đoạn 2006 - 2010, số lượng hộ Khmer nghèo tăng cao, có đến 103.170 hộ, chiếm tỷ lệ 41,68% so với tổng số hộ Khmer và tăng 30.091 hộ so với giai đoạn 2001 - 2005 do nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là do 2 nguyên nhân cơ bản: Mức chuẩn nghèo giai đoạn mới cao, kéo theo số lượng hộ nghèo Khmer tăng lên và các thành viên sinh sống trong hộ nghèo tách, lập thành hộ mới, cụ thể là số hộ dân tộc Khmer ở đầu giai đoạn 2001 - 2005 là 205.217 hộ, đầu giai đoạn 2006 - 2010 là 247.482 hộ, tức là tăag 42.211 hộ. Yếu tố tác động đến việc tách, lập hộ mới là do xu hướng sống tự lập của giới trẻ, tuy nhiên cũng có một bộ phận có tâm lý tách, lập hộ nghèo riêng để được thụ hưởng các chính sách ưu đãi. cơ bản; công tác xóa đói, giảm nghèo được triển khai thực hiện một cách quyết liệt, nhưng nhìn chung đời sống của một bộ phận đồng bào vẫn còn gặp khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ đồng bào tái mù chữ phổ thông còn cao. Việc hưởng thụ văn hóa, thông tin bằng tiếng và chữ Khmer còn hạn chế,... Đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS tuy số lượng tăng dần trong những năm gần đây, nhưng vẫn thấp so với tỷ lệ DTTS và so với tỷ lệ dân số dân tộc Khmer. Các hội, nhóm “Khmer Krôm” ở nước ngoài có nhiều tác động gây bất lợi vào vùng đồng bào Khmer Nam Bộ. Chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, lịch sử vùng đất Nam Bộ, để phá hoại sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng về thực hiện chủ trương, chính sách đối với đồng bào Khmer, căn cứ vào điều kiện thực tế đời sống kinh tế - xã hội của đồng bào trong bối cảnh hiện nay, chúng tôi đề xuất một số giải pháp trong xây dựng và thực hiện chính sách đối với vùng đồng bào Khmer như sau: 1. Nhóm chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội Việc phát triển kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào Khmer không thể tách rời sự phát triển chung của vùng, của đất nước, của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, do đó các bộ, ngành và địa phương cần quan tâm, tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách chung của cả nước, các chương trình mục tiêu quốc gia, các chính sách đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long, các chính sách đặc thù đối với vùng DTTS, vào vùng đồng bào Khmer. Từ quan điểm đó, song song với các chính sách chung của cả nước, các chương trình mục tiêu quốc gia, cần tiếp tục xây dựng và thực hiện các chính sách đặc thù đối với vùng DTTS theo từng giai đoạn bởi 2 lý do cơ bản: (1) Các chính sách chung của cả nước, các chương trình mục tiêu quốc gia là chính sách vĩ mô có mặt chưa hướng vào nhu cầu thực tế, cấp bách, bức xúc của vùng DTTS; (2) Hạ tầng kinh tế - xã hội vùng DTTS, vùng có đông đồng bào Khmer sinh sống có mặt còn yếu kém, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, trình độ dân trí còn thấp nên nhất thiết phải xây dựng và thực hiện chính sách đặc thù có tính lâu dài để đầu tư, hỗ trợ nhu cầu thực tế, cấp Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 3Số 17 - Tháng 3 năm 2017 bách, bức xúc nhằm sớm rút ngắn khoảng cách chênh lệch so với các địa bàn khác, giúp đồng bào các DTTS Tây Nam bộ, trong đó có đồng bào Khmer sớm hòa nhập vào xu thế phát triển chung của đất nước và hội nhập quốc tế. Khi xây dựng chính sách đặc thù đối với vùng DTTS, bên cạnh tiêu chí và điều kiện chung, cần chú ý đến tiêu chí, điều kiện, tính đặc thù của vùng DTTS ở Nam Bộ, trong đó có vùng đồng bào Khmer, cụ thể là: - Nếu như phần lớn địa bàn sinh sống của đồng bào DTTS ở Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên bị chia cắt bởi đồi núi, mức đầu tư cơ sở hạ tầng cao, thì phần lớn địa bàn sinh sống của đồng bào DTTS ở vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng bị chia cắt bởi sông rạch, nền đất yếu, nhiều sông rạch, nên mức đầu tư cơ sở hạ tầng cũng cao. - Nếu như tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS ở Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên xét ở phạm vi thôn, xã cao hơn tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS ở Nam Bộ, thì số lượng hộ nghèo trong đồng bào DTTS ở Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên thấp hơn số lượng hộ nghèo trong đồng bào DTTS ở Nam Bộ, vì thực tế cho thấy mật độ dân số trong thôn, xã ở Nam Bộ đông hơn mật độ dân số trong thôn, xã ở Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên. Do đó, nếu không xem xét 2 điều kiện vừa nêu cùng với một số tiêu chí, điều kiện thực tế khác ở Nam Bộ, thì sẽ loại trừ nhiều địa bàn khó khăn, nhiều hộ nghèo DTTS ở Nam Bộ khỏi đối tượng thụ hưởng. Trong thực hiện chính sách đặc thù đối với vùng DTTS, cần chú ý đến các vấn đề cơ bản sau đây: - Bên cạnh sự hỗ trợ, đầu tư của Chính phủ đối với xã khó khăn, xã đặc biệt khó khăn, cần tích cực huy động nguồn lực từ cộng đồng, từ các tổ chức nước ngoài, tổ chức nhân đạo để xây dựng các công trình phục vụ dân sinh. - Khi phân bổ nguồn lực, không nhất thiết phân bổ theo dạng bình quân chung như thời gian qua, mà phân bổ cao thấp, ít nhiều theo điều kiện thực tế, theo số lượng dân số, số lượng hộ nghèo, người nghèo ở từng địa bàn cụ thể. Điều này đòi hỏi các bộ, ngành có liên quan và các địa phương phải rà soát, lập đề án, phương án, kế hoạch chi tiết ở từng địa bàn cụ thể để có cơ sở phân bổ nguồn lực hợp lý. - Xóa đói, giảm nghèo trong đồng bào DTTS không chỉ hỗ trợ, giúp đỡ về điều kiện sản xuất, kinh doanh, mà trọng tâm là tạo điều kiện học hành, đào tạo nghề, giải quyết việc làm mới, giảm nghèo bền vững. - Tăng cường trang bị kiến thức cho hộ nghèo, hộ cận nghèo để họ biết lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập. Đầu tư, tạo cơ hội cho nông dân nói chung, trong đó có nông dân DTTS chuyển đổi cơ cấu sản xuất, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, mùa vụ và phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa để tăng giá trị sản phẩm và thu nhập. - Đầu tư phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp; khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác theo nhiều mô hình và loại hình khác nhau, khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống cũng như các ngành nghề mới; hỗ trợ kết nối thị trường cho người nghèo, mời gọi các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến thu mua, chế biến sản phẩm do đồng bào làm ra; từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hướng dẫn cách làm ăn cho hộ nghèo, hộ cận nghèo; chuyển giao khoa học công nghệ, cung cấp thông tin nhằm phát triển kinh tế hàng hóa, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. 2. Nhóm chính sách đặc thù đối với đồng bào Khmer Nhất thiết phải xây dựng chính sách đặc thù với sắc thái riêng của đồng bào Khmer bằng các đề án cụ thể, hướng tới nội dung và giải pháp sau: 2.1. Hình thức dạy và học chữ Khmer theo chương trình Pali, Phật học - Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục biên soạn 3 trình độ tiếng Khmer để tổ chức giảng dạy ở bậc trung học phổ thông, tương ứng với lớp 10, 11, 12. - Đưa chương trình dạy Khmer ngữ tại các điểm chùa vào Trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh để quản lý, thi cử, cấp giấy chứng nhận trình độ A, B, C như mô hình giảng dạy Anh ngữ, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 4 Số 17 - Tháng 3 năm 2017 Pháp ngữ hiện hành. Các chùa chỉ là điểm dạy, còn việc quản lý, chương trình học, thi cử, cấp giấy chứng nhận do Sở Giáo dục và Đào tạo đảm nhận nhằm đảm bảo giá trị pháp lý của văn bằng, chứng chỉ. Để có đội ngũ giáo viên giảng dạy tiếng Khmer đạt chuẩn theo quy định hiện hành, trước mắt cần chuẩn hóa kiến thức sư phạm cho đội ngũ chư tăng, giảng viên đang giảng dạy tại các điểm chùa, về lâu dài cần đào tạo giáo viên một cách cơ bản hơn. - Đưa mô hình giáo dục - đào tạo của Phật giáo Nam tông Khmer vào hệ thống giáo dục, đào tạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam để có đơn vị có tư cách pháp nhân quản lý, công nhận. - Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam: (1) Có cơ chế xây dựng, biên soạn chương trình giảng dạy và chương trình đào tạo giáo viên dạy tiếng Khmer, Pali và Phật học các cấp, kèm theo đó là quy chế giảng dạy, học tập, thi cử, cấp giấy chứng nhận, văn bằng tốt nghiệp, áp dụng thống nhất trong vùng; (2) Chỉ đạo Học viện Phật giáo Nam tông Khmer xây dựng Quy chế đào tạo, Quy chế tuyển sinh căn bản hơn. - Các Viện, Trường thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam liên kết với các Viện, Trường Phật giáo Nam tông thuộc các nước: Campuchia, Thái Lan, Myanma để có chương trình hợp tác đào tạo. Qua đó, hàng năm có kế hoạch đào tạo tăng sinh Phật giáo Nam tông Khmer tại một số nước nêu trên theo nhu cầu thực tiễn mà trong nước chưa có, hoặc không có điều kiện đào tạo, kèm theo cơ chế chính sách hỗ trợ trong thời gian tăng sinh du học. - Hình thành đơn vị có tư cách pháp nhân (giao đơn vị sự nghiệp Nhà nước hoặc tạo điều kiện pháp lý cho các đơn vị tư nhân) để nhập kinh sách Phật giáo từ Campuchia dưới dạng kinh doanh, nhưng được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định hiện hành để phục vụ tu học. 2.2. Hình thức đào tạo đội ngũ văn nghệ sĩ Khmer - Đào tạo đội ngũ sáng tác, biên đạo: Định kỳ 5 năm Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh có đoàn nghệ thuật Khmer, xây dựng trình cấp có thẩm quyền phê duyệt đề án đào tạo đội ngũ sáng tác, đạo diễn chương trình nghệ thuật Khmer tại các cơ sở đào tạo hiện có (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh) nhằm tạo ra đội ngũ có trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển nghệ thuật Khmer. - Đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công: Đây là đội ngũ trực tiếp thể hiện, biểu diễn tiết mục, kịch mục, chương trình nghệ thuật Khmer cần được đào tạo tại một số trường văn hóa nghệ thuật hiện có ở các tỉnh, thành phố trong vùng. Để thực hiện chủ trương trên, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh có đoàn nghệ thuật Khmer, định kỳ 5 năm xây dựng trình cấp có thẩm quyền phê duyệt đề án và tổ chức thực hiện đề án đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công biểu diễn nghệ thuật truyền thống Khmer tại trường văn hóa nghệ thuật hiện có. Việc đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công cần được đào tạo từ độ tuổi 15 (tức là sau khi tốt nghiệp Trung học cơ sở), vì đây là độ tuổi đang phát triển về thể chất nên dễ giải phóng cơ thể trong quá trình tập luyện kỹ năng, kỹ thuật biểu diễn, nếu để sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông mới đào tạo thì khó luyện tập kỹ năng, kỹ thuật biểu diễn vì thể chất cơ bản đã ổn định. Để giải quyết trình độ văn hóa, trong thời gian 03 năm đào tạo nghề các trường cần bố trí thời gian hợp lý để học viên vừa học được nghề, vừa học được chương trình bổ túc văn hóa theo hệ giáo dục thường xuyên. Như vậy, sau 03 năm đào tạo, học viên vừa có được bằng trung cấp nghề về văn hóa nghệ thuật, vừa có được bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông hệ giáo dục thường xuyên. Đối với chương trình đào tạo, các trường cần thực hiện 2 nhóm nội dung đào tạo: (1) Giảng dạy kiến thức chung theo quy định hiện hành; (2) Giảng dạy kỹ năng biểu diễn nghệ thuật dân tộc do nghệ nhân, nghệ sĩ Khmer trực tiếp giảng dạy. Để có nơi đào tạo chính thức, chọn và đầu tư một số trường văn hóa nghệ thuật hiện có tại các tỉnh, thành phố, cụ thể là: (1) Giao nhiệm vụ cho Trường Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công cho nghệ thuật dân tộc Khmer bậc sơ cấp, trung cấp; (2) Nâng Trường Văn hóa Nghệ thuật thành phố Cần Thơ thành Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật để đào tạo cho cả vùng, trong đó có nhiệm vụ đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công cho nghệ thuật dân tộc Khmer bậc cao đẳng (sau khi được đào tạo bậc trung cấp ở tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng). Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 5Số 17 - Tháng 3 năm 2017 Chỉ khi đào tạo được đội ngũ diễn viên, nhạc công thì mới giải quyết được những vấn đề khó khăn, bức xúc, bất cập hiện nay, đó là: (1) Có đội ngũ kế thừa được đào tạo cơ bản, nhất là luôn trẻ hóa được đội ngũ diễn viên, nhạc công tại các đoàn nghệ thuật Khmer; (2) Có đủ tiêu chuẩn, đủ điều kiện để tuyển dụng vào các đoàn nghệ thuật Khmer theo quy định hiện hành, theo Luật Viên chức; (3) Có đội ngũ đáp ứng cho nhu cầu phát động, nuôi dưỡng, phát triển phong trào văn hóa, văn nghệ ở cơ sở. 2.3. Hình thức đào tạo nghề truyền thống Cần đưa nghề điêu khắc, chạm trổ, hội họa của đồng bào Khmer vào các cơ sở đào tạo mang tính chất nghề tại các trường kiến trúc, văn hóa nghệ thuật, theo mã ngành, có bằng cấp nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc hành nghề mà xã hội đang cần, đồng thời đáp ứng cho công tác quản lý nhà nước đối với việc hành nghề. 2.4. Phát thanh, truyền hình, báo chí bằng tiếng và chữ Khmer (1) Tăng thời lượng và bố trí hợp lý thời gian phát sóng chương trình phát thanh, truyền hình tiếng Khmer; tăng trang, tăng kỳ các tờ báo tiếng Khmer; (2) Tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng chương trình phát thanh, truyền hình tiếng Khmer, báo chí tiếng Khmer, trong đó tập trung đầu tư sản xuất chương trình, xây dựng được nhiều kịch mục và nên có chuyên trang văn hóa, văn học, nghệ thuật của các tờ báo tiếng Khmer; (3) Mua chương trình giải trí, văn hóa, nghệ thuật của các đài truyền hình, phát thanh Cămpuchia để phát lại cho đồng bào Khmer Nam Bộ nghe, xem theo quy định hiện hành. 2.5. Ấn phẩm Khmer (1) Giao nhà xuất bản chuyên ngành, kèm theo cơ chế hỗ trợ cụ thể để tổ chức sưu tầm, biên soạn, sáng tác, in ấn các tác phẩm văn hóa, văn học, thơ ca của đồng bào Khmer, phát hành theo cơ chế thị trường, nhưng có sự bù lỗ của Nhà nước có thời hạn và được hưởng các chính sách ưu đãi khác theo quy định hiện hành; (2) Hình thành các đơn vị có tư cách pháp nhân (có thể giao đơn vị sự nghiệp Nhà nước hoặc tạo điều kiện pháp lý cho các đơn vị tư nhân) trao đổi hai chiều với Campuchia về ấn phẩm văn hóa, văn nghệ, văn học, vật dụng truyền thống theo cơ chế thị trường, nhưng được hưởng các chính sách ưu đãi khác nhằm phục vụ nhu cầu thiết thực của đại đa số đồng bào Khmer, đồng thời giới thiệu, quảng bá văn hóa, văn học nghệ thuật Khmer Nam Bộ với người Khmer ở Campuchia và ở các nước khác theo quy định hiện hành. 2.6. Phát triển, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc Khmer Vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc, nhất là năng lực hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở nói chung, vùng đồng bào Khmer nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm tạo điều kiện để cán bộ dân tộc hoạt động hiệu quả, góp phần ổn định an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội và phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, từng lúc, từng nơi, nơi này, nơi khác sự quan tâm của cấp cơ sở chưa đủ mạnh. Do đó, vấn đề này Trung ương cần phải có chủ trương, chính sách đặc thù riêng về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng có đông đồng bào Khmer sinh sống, nhất là phải xây dựng đề án phát triển, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, bố trí cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý là người dân tộc Khmer ở cấp cơ sở và trên cơ sở trong thời gian dài để đạt tới mức tương ứng với tỷ lệ dân số dân tộc Khmer ở từng địa bàn cụ thể, thì mới đảm bảo nhu cầu chính trị đặt ra trong thời kỳ đổi mới. 2.7. Giao lưu văn hóa, nghệ thuật, thể thao, đào tạo tiếng Khmer Cần quan tâm thực hiện một số lĩnh vực mà đồng bào Khmer có nhu cầu thực sự và hội đủ điều kiện như: (1) Giao Trường Đại học Trà Vinh chiêu sinh đào tạo tiếng Khmer bậc đại học, trên đại học, đào tạo đội ngũ sáng tác, đạo diễn, biên đạo nghệ thuật Khmer tại Campuchia bậc cao đẳng, đại học; (2) Cử các đoàn nghệ thuật Khmer Nam Bộ hiện có sang biểu diễn tại Campuchia để vừa giao lưu, quảng bá loại hình nghệ thuật Dù Kê, Rô Băm là sản phẩm nghệ thuật của chính đồng bào Khmer Nam Bộ, vừa tuyên truyền chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, đồng thời mời một số đoàn nghệ thuật của Campuchia sang biểu diễn tại các tỉnh có đông đồng bào Khmer Nam Bộ sinh sống để giao lưu, học hỏi (3) Định kỳ 3 hoặc 5 năm, cử một số đội Ghe Ngo trong đồng bào Khmer vùng Tây Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 6 Số 17 - Tháng 3 năm 2017 Nam Bộ có thành tích cao sang bơi đua, thi đấu tại Campuchia; ngược lại, mời một số đội Ghe Ngo của Campuchia sang bơi đua, thi đấu tại Sóc Trăng nhân dịp lễ hội Ok Om Bok, vừa quảng bá hình ảnh thể thao truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ, vừa tuyên truyền chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta. Để thực hiện tốt các giải pháp trên, chúng tôi có một số kiến nghị sau: - Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ đạo Tổng kết Chỉ thị số 68/1991-CT/ TW, ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer để có cơ sở xem xét ban hành nghị quyết hoặc chỉ thị mới phù hợp với tình hình, nhu cầu thực tế của đồng bào Khmer hiện nay và trong thời gian tới. - Ban Bí thư Trung ương Đảng cần có chủ trương về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc Khmer cấp cơ sở và trên cơ sở ở các tỉnh có đông đồng bào Khmer sinh sống trong tổng thể chiến lược cán bộ chung của cả nước. Trên cơ sở đó, chỉ đạo Ban Tổ chức Trung ương và Bộ Nội vụ có hướng dẫn cụ thể đối với các địa phương xây dựng chỉ tiêu, tiêu chuẩn cán bộ người dân tộc Khmer từ khâu tuyển chọn đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm, kể cả chỉ tiêu cơ cấu cán bộ người Khmer theo từng cấp trên nguyên tắc chung là “nhiệm kỳ sau từ bằng đến cao hơn nhiệm kỳ trước”; từ số lượng đến chất lượng đội ngũ cán bộ được cơ cấu. - Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo Ủy ban Dân tộc và một số bộ, ngành có liên quan xây dựng và thực hiện chính sách đặc thù đối với vùng DTTS trong cả nước theo yêu cầu thực tiễn và xây dựng chính sách đặc thù đối với sắc thái riêng của đồng bào Khmer giai đoạn 2020 - 2025 và những năm tiếp theo. - Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương quan tâm xây dựng chính sách, đề án phát triển nguồn nhân lực đối với đồng bào DTTS khu vực Nam Bộ, nhất là đồng bào dân tộc Khmer đến năm 2030; trong đó coi trọng giáo dục phổ thông, đào đạo nguồn nhân lực cho đồng bào Khmer, đó là giải pháp căn bản, đột phá đối với việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trong đồng bào DTTS và nâng cao dân trí của vùng Tây Nam Bộ vốn là vùng trũng về mặt dân trí so với cả nước. - Các địa phương có đông đồng bào Khmer sinh sống tiếp tục ban hành các nghị quyết, kế hoạch chuyên đề đối với đồng bào Khmer./. Tài liệu tham khảo 1. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị 68/1991-CT/TW ngày 14/4/1991 và Thông báo số 67- TB/TW ngày 14/3/2007; 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; 3. Ủy ban Dân tộc, Báo cáo tình hình vùng dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn Tây Nam bộ, năm 2015-2016; 4.Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, Báo cáo số 246-BC/BCĐTNB ngày 28/12/2015. ABSTRACT SOLUTION OF INNOVATING, COMPLETING THE GUIDELINES AND POLICIES TOWARDS THE SOUTHERN KHMER ETHNIC MINORITY IN THE COMING TIME Over the past years, for the socio-economic development of the Khmer minority, the Party and State have issued a number of guidelines, policies and livelihoods of ethnic minority groups have been significantly improved, the task of eradicating extreme poverty and hunger has been drastically implemented... However, based on the current economic, political and social situations of the Khmer people, there have been still some problems to be resolved. Deeply understanding the guiding opinions of the Party on the implementation of policies and policies for the Khmer people, based on the actual conditions of socio-economic life of the people nowadays, the authors proposed Solutions for the development and implementation of policies for Khmer people. Keywords: Guidelines; policies; solutions for the development and implementation of policies for Khmer people; Khmer ethnic minority; southern

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf229_971_1_pb_8996_2152016.pdf