Tài liệu Giá trị siêu âm qua đáy chậu trong giai đoạn 2 chuyển dạ đánh giá kết cục sanh ngã âm đạo: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 69
GIÁ TRỊ SIÊU ÂM QUA ĐÁY CHẬU TRONG GIAI ĐOẠN 2
CHUYỂN DẠ ĐÁNH GIÁ KẾT CỤC SANH NGÃ ÂM ĐẠO
Trần Thị Thanh Thủy*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tỷ lệ mổ sinh do thai trình ngưng tiến có xu hướng ngày càng tăng. Chẩn đoán diễn tiến của
ngôi thai trong chuyển dạ chủ yếu là dực vào thăm khám âm đạo. Hiện nay, siêu âm được xem như một phương
tiện hữu hiệu giúp đánh giá độ lọt của đầu thai.
Phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm chẩn đoán. Siêu âm qua đáy chậu trên 375 thai phụ có thai kỳ không
biến chứng, đơn thai, ngôi chỏm, đủ tháng và cổ tử cung trọn tại Khoa Sanh, Bệnh viện Hùng Vương TP. Hồ Chí
Minh trong thời gian từ tháng 09/2016 đến 05/2017.
Kết quả: Góc tiến triển lớn hơn hoặc bằng 120 độ trên siêu âm qua đáy chậu có độ nhạy (96,5%), độ đạc hiệu
(17,5%), giá trị tiên đoán dương 0,86, giá trị tiên đoán âm 0,47. Tỷ lệ sinh ngã âm đạo ...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 407 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị siêu âm qua đáy chậu trong giai đoạn 2 chuyển dạ đánh giá kết cục sanh ngã âm đạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 69
GIÁ TRỊ SIÊU ÂM QUA ĐÁY CHẬU TRONG GIAI ĐOẠN 2
CHUYỂN DẠ ĐÁNH GIÁ KẾT CỤC SANH NGÃ ÂM ĐẠO
Trần Thị Thanh Thủy*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tỷ lệ mổ sinh do thai trình ngưng tiến có xu hướng ngày càng tăng. Chẩn đoán diễn tiến của
ngôi thai trong chuyển dạ chủ yếu là dực vào thăm khám âm đạo. Hiện nay, siêu âm được xem như một phương
tiện hữu hiệu giúp đánh giá độ lọt của đầu thai.
Phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm chẩn đoán. Siêu âm qua đáy chậu trên 375 thai phụ có thai kỳ không
biến chứng, đơn thai, ngôi chỏm, đủ tháng và cổ tử cung trọn tại Khoa Sanh, Bệnh viện Hùng Vương TP. Hồ Chí
Minh trong thời gian từ tháng 09/2016 đến 05/2017.
Kết quả: Góc tiến triển lớn hơn hoặc bằng 120 độ trên siêu âm qua đáy chậu có độ nhạy (96,5%), độ đạc hiệu
(17,5%), giá trị tiên đoán dương 0,86, giá trị tiên đoán âm 0,47. Tỷ lệ sinh ngã âm đạo của góc tiến triển ≥ 120 độ
là: 96,2%. Mối tương quan giữa góc tiến triển trên siêu âm qua đáy chậu ở những sản phụ cổ tử cung trọn, đơn
thai, trưởng thành và ngôi chỏm với kết cục sanh là: góc tiến triển ≥ 120 độ thì khả năng sinh ngã âm đạo cao hơn
góc tiến triển < 120 độ 1,66 lần, KTC 95% [1,09 – 2,49]. Góc tiến triển tối ưu là 152 độ với độ nhạy, độ đặc hiệu
đối với sinh ngã âm đạo là 50% và 87,7% (Điểm Youden).
Kết luận: siêu âm qua đáy chậu có thể giúp thêm cho các bác sĩ lâm sàng đánh giá độ lọt của thai nhi trong
chuyển dạ. Cần có thêm các nghiên cứu về vấn đề này trong tương lai.
Từ khóa: siêu âm qua đáy chậu, chuyên dạ giai đoạn II, độ lọt.
ABSTRACT
TRANSPERINEAL SONOGRAPHY IN SECOND STAGE OF LABOR AS PREDICTORS OF VAGINAL
DELIVERY
Tran Thi Thanh Thuy, Huynh Nguyen Khanh Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 69 - 74
Background: The prevalence of caesarean section due to improgressive labor has been on the rise. Diagnosis
of pregnancy progression during labor is mainly vaginal examination. Currently, ultrasound is considered as an
effective means of assessing position of fetus head in labor.
Methods: Diagnostic test study. Transperineal ultrasound in 375 pregnant women with uncomplicated
pregnancy, singleton, crown, full month in second stage of labor in Delivery department, Hung Vuong Hospital
during the period from 09/2016 to 05/2017.
Results: The angle of progression was greater than or equal to 120 degrees on the transperineal ultrasound
with sensitivity (96.5%), specificity (17.5%), PPV of 0.86, NPV of 0.47. The vaginal birth rate of ≥ 120 degrees is:
96.2%. Correlation between transperineal ultrasonography on the pelvic floor of the uterus, mononuclear
maturation, maturation and crown with birth outcomes: progressive angle ≥ 120 degrees, has 1.66 times higher in
vaginal delivery than the angle of progression was <120 degree, 95% CI [1.09 - 2.49]. Optimal progressive angle
was 152 degrees with sensitivity, specificity for vaginal delivery was 50% and 87.7% (Youden score).
Conclusion: Transperineal ultrasound can help clinicians to evaluate the fetus head position during labor.
* Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh. ** Bệnh viện Hùng Vương
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang ĐT: 0903882015 Email: tranghnk08@gmail.com.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 70
More research is needed on this issue in the future.
Key words: Transperineal ultrasound, the second stage of labor.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, tỷ lệ mổ sanh có chiều hướng gia
tăng trên toàn thế giới. Chẳng hạn tại Hoa kỳ
năm 2011, cứ 3 sản phụ thì sẽ có 1 người mổ
sanh, trong số những người mổ sanh lần đầu thì
chỉ định mổ sanh thường gặp nhất là thai trình
ngưng tiến (34%)(17). Tại bệnh viện Hùng Vương,
tỷ lệ mổ sanh năm 2015 là 42,2%, mổ sanh lần
đầu chiếm tỷ lệ 62,8% và chỉ định mổ sanh vì
thai trình ngưng tiến chiếm 1/3.
Hiện nay, qua khám lâm sàng bác sĩ chẩn
đoán thai trình ngưng tiến dựa vào phần trình
diện ngôi thai không xuống khung chậu người
mẹ. Việc đánh giá độ lọt của đầu thai trong
chuyển dạ thì luôn dựa vào mối tương quan
giữa phần thấp nhất của đầu thai và 2 gai hông(9).
Tuy nhiên, trong thực tế khi khám độ lọt thì vẫn
có sự khác biệt phụ thuộc kinh nghiệm trong
cách đánh giá giữa các bác sĩ, điều này phản ánh
lên sự khó khăn và kém tin cậy của việc đánh giá
dựa vào lâm sàng, đặc biệt khi đầu thai có bướu
huyết thanh và / hoặc uốn khuôn (có dấu chồng
xương). Vì vậy, cần một phương pháp khách
quan hơn trong đánh giá độ lọt ngôi thai giúp
nhà lâm sàng có thêm thông tin để quyết định
trong những trường hợp thai trình ngưng tiến.
Khi chuyển dạ ngưng tiến hoặc suy thai, bác
sĩ sản khoa cần lựa chọn giữa sanh thủ thuật
hoặc mổ sanh. Nếu sanh thủ thuật thành công
thì an toàn hơn là mổ cấp cứu. Vì đầu thai di
chuyển xuống vào trong khung chậu người mẹ,
mổ sanh vào giai đoạn 2 chuyển dạ thì có liên
quan tăng nguy cơ cho mẹ như: chảy máu, tổn
thương bàng quang, rách thêm góc tử cung dẫn
đến khối tụ máu trong dây chằng rộng. Hơn
nữa, mổ sanh sau sanh giác hút thất bại cũng liên
quan đến nguy cơ chấn thương thai (18). Siêu âm
trong chuyển dạ được báo cáo là một công cụ hỗ
trợ trong việc đánh giá độ lọt của thai trong
khung chậu sản phụ và được sử dụng ngày càng
nhiều do tính hữu dụng trong việc đánh giá tiến
trình chuyển dạ một cách khách quan(2,6,10).
Vì vậy, siêu âm trong chuyển dạ có thể
dùng để chẩn đoán những bất thường trong
chuyển dạ và tiên lượng khả năng thành công
của sinh ngã âm đạo nhằm cải thiện kết cục
của mẹ và thai. Cần có các nghiên cứu trả lời
câu hỏi: Dùng siêu âm qua đáy chậu có giúp
đánh giá được việc lọt của đầu thai hay
không? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi tiến
hành thực hiện nghiên cứu “Giá trị siêu âm
qua đáy chậu trong giai đoạn 2 chuyển dạ
nhằm tiên lượng kết cục sanh”.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên
đoán dương và giá trị tiên đoán âm của góc tiến
triển lớn hơn hoặc bằng 120 độ trên siêu âm qua
đáy chậu ở những sản phụ có cổ tử cung trọn,
đơn thai, trưởng thành, ngôi chỏm.
Xác định tỷ lệ sinh ngã âm đạo và các yếu tố
liên quan của góc tiến triển với sinh ngã âm đạo.
Mối tương quan giữa góc tiến triển nhỏ
hơn và lớn hơn hoặc bằng 120 độ trên siêu âm
qua đáy chậu ở những sản phụ cổ tử cung
trọn, đơn thai, trưởng thành và ngôi chỏm với
kết cục sanh.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm chẩn đoán.
Chọn mẫu
Thai phụ có thai kỳ không biến chứng, đơn
thai, ngôi chỏm, đủ tháng và CTC trọn tại Khoa
Sanh, Bệnh viện Hùng Vương TP. Hồ Chí Minh
trong thời gian từ tháng 09/2016 đến 05/2017
thỏa tiêu chuẩn nhận vào và đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Cỡ mẫu tính theo độ nhạy:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 71
Với TP là tỉ lệ dương tính thật ; FN là tỉ lệ âm
tính giả; là hằng số của phân phối chuẩn (với
α = 0,05 thì = 1,96); w là độ dao động của độ
nhạy tương ứng và pSNAĐ là tỉ lệ sinh ngã âm đạo.
Theo các nghiên cứu, độ nhạy và độ đặc hiệu
của siêu âm đáy chậu trên 90% (11). Giả sử độ
nhạy và độ đặc hiệu cho phép trong mẫu nghiên
cứu là 90% với độ dao động là 5%, tỉ lệ sinh ngã
âm đạo tại bệnh viện Hùng Vương là 57,8%.
Cỡ mẫu tối thiểu là 328 thai phụ.
Nghiên cứu khảo sát 375 đối tượng.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Thai kỳ không biến chứng, đơn thai, ngôi
chỏm và đủ tháng. CTC trọn, biểu đồ tim thai
nhóm I hoặc nhóm II (theo ACOG 2012)(16). Đồng
ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Đa thai. Đơn thai không phải ngôi chỏm. Vết
mổ cũ trên tử cung. Các bệnh lý nội khoa không
cho phép sinh ngã âm đạo. Suy thai cấp trong
chuyển dạ.
Cách thực hiện(6):
Tại phòng sanh, sản phụ nằm tư thế sản phụ
khoa, bàng quang trống
Đầu dò được bao lại bằng găng tay cao su
sạch có gel siêu âm, sau đó đặt đầu dò giữa 2
môi lớn ở phía dưới xương mu. Ở mặt cắt dọc,
xác định trục dọc của xương mu bằng cách nhẹ
nhàng nhích đầu dò hướng lên trên. Trong mặt
phẳng này, phần trình diện thấp nhất của xương
sọ thai cũng dễ dàng thấy rõ. Trên ảnh dọc, vẽ 1
đường giữa trục dọc xương mu, đường thứ hai
từ đầu dưới xương mu xuống tiếp tuyến với
đường viền xương sọ thai. Góc giữa 2 đường
được đo trực tiếp trên màn hình hoặc bằng cách
đo góc ở bản in giấy. Vì xương mu là một cấu
trúc khá ngắn, nên cẩn thận xác định chính xác 2
điểm cuối của nó để trục dọc xương mu được
xác định chính xác.
Mặt cắt dọc cũng cho phép xác định rõ bướu
huyết thanh và dấu hiệu chồng xương (nếu có).
Hình ảnh siêu âm khi xác định khoảng cách
đầu – đáy chậu thỏa các yêu cầu: Đầu dò được
bao lại bằng găng tay cao su sạch có gel siêu âm,
sau đó đặt đầu dò giữa 2 môi lớn ở phía dưới
xương mu. Ở mặt cắt ngang, khoảng cách ngắn
nhất từ bờ ngoài xương sọ thai đến bề mặt da
của đáy chậu. Lưu ý: Giữ đầu dò vượt qua ụ
ngồi với lực ép không đổi, nhưng không làm cho
bệnh nhân khó chịu.
Phương pháp thống kê
Số liệu được mã hoá và nhập bằng chương
trình EpiInfo 3.0. Phân tích số liệu bằng phần
mềm STATA 12.0.
KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Tỉ lệ sinh ngã âm đạo trong mẫu nghiên cứu
là 84,8% với KTC 95% [80,8 - 88,3] (Bảng 1).
Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu (n=375)
Đặc điểm n (%)
< 20 tuổi
20 – 35 tuổi
>35 tuổi
11 (2,9)
339 (90,4)
25 (6,7)
Tp HCM
Khác
150 (40)
225 (60)
Con so
Con rạ
270 (72)
105 (28)
BMI * bình thường
Thừa cân
Béo phì
175 (46,7)
176 (46,9)
24 (6,4)
Có giảm đau sản khoa
Không giảm đau sản khoa
208 (55,5)
167 (44,5)
Sinh thường
Sinh hút hay kềm
Sinh mổ
257 (68,5)
61 (16,3)
57 (15,2)
*BMI = Body Mass index: chỉ số khối cơ thể
Các yếu tố liên quan chuyển dạ sinh
Bảng 2. Các yếu tố liên quan chuyển dạ sinh
Yếu tố Trung bình
Chiều cao thai phụ 156,4 ± 5,0 (cm)
Cận nặng thai phụ 62,6 ± 8,2 (kg)
Tuổi thai 38,5 ± 0,9 (tuần)
Cân nặng thai 3066 ± 365 (gram)
Góc tiến triển qua siêu âm 149,1 ±19,4 (độ)
Khoảng cách đầu – đáy chậu 50,3 ± 12,6 (mm)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 72
Giá trị của góc tiến triển 1200 qua siêu âm đáy
chậu khi cổ tử cung mở trọn, ối vỡ
Độ nhạy 96,54%; Độ đặc hiệu 17,54%; Giá trị
tiên lượng dương 86,93%; Giá trị tiên lương âm
47,82%.
Bảng 3. Giá trị của góc tiến triển 120 0 qua siêu âm
đáy chậu khi cổ tử cung mở trọn, ối vỡ
Giá tri
Sinh ngả âm đạo
Có Không
Góc tiến triển ≥ 120
0
306 46
Góc tiến triển < 120
0
12 11
BÀN LUẬN
Sử dụng siêu âm trong chuyển dạ được
Akmal báo cáo lần đầu tiên vào năm 2002 nhằm
xác định vị trí của đầu thai nhi trong quá trình
chuyển dạ(3,16). Siêu âm đáy chậu trong chuyển
dạ được xem là một công cụ hữu ích để giúp các
bác sĩ lâm sàng cải thiện quan sát các cơ quan
của thai trong quá trình chuyển dạ (phần trình
diện thai nhi, sàng lọc tình trạng dây rốn )(15),
và các đánh giá quá trình chuyển dạ(7,12). Vì thế,
với phương tiện siêu âm sẵn có trong phòng
sanh, siêu âm trong chuyển dạ được chấp nhận
rộng rãi như là một công cụ trong tay các nhà
sản khoa (13). Siêu âm trong chuyển dạ có thể mô
tả được sự phức tạp về sinh lý sinh sản và đưa ra
những thông tin khách quan về động học những
giai đoạn khác nhau trong chuyển dạ và cũng
được dùng để đánh giá tiên lượng sanh ngã âm
đạo cũng như sanh thủ thuật(8,12).
Đo góc tiến triển là một kỹ thuật siêu âm đơn
giản vì nó chỉ dựa vào 2 vật được mô tả trên siêu
âm một cách dễ dàng: cấu trúc xương mu của mẹ
và bờ xương sọ của thai. Tiến trình này vượt qua
được những giới hạn của liên quan hình ảnh
siêu âm qua đáy chậu như khó khăn trong việc
quan sát 2 gai hông là điểm liên quan với sự đi
xuống đầu thai nhi được xác định qua khám âm
đạo bằng tay, Barbera(5) cũng báo cáo rằng sự
hình thành bướu huyết thanh và chùn da đầu
không ảnh hưởng đến góc tiến triển đo được qua
siêu âm(5).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, siêu âm đáy
chậu đánh giá góc tiến triển thời điểm cổ tử cung
trọn giúp tiên đoán sanh ngã âm đạo. Với góc
tiến triển 1200, chúng tôi ghi nhận độ nhạy và độ
đặc hiệu lần lượt là 96,5% và 17,5%. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận giá trị cắt tốt
nhất là 1520 với độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt
là 50% và 87,2%. Việc sử dụng góc tiến triển
đánh giá khả năng sanh ngã âm đạo được nhiều
tác giả nghiên cứu và đồng thuận (4,5,8,12,13). Tuy
nhiên, độ nhạy và độ tin cậy được công bố khác
nhau giữa các nghiên cứu. Tuy nhiên, các nghiên
cứu đều ghi nhận các góc càng lớn thì tăng khả
năng sanh ngã âm đạo tự nhiên hoặc có dụng cụ
hỗ trợ(4,5,13). Những kết quả trong nghiên cứu
Amin xác định góc tiến triển càng lớn thì khả
năng sanh ngã âm đạo càng thành công(11).
Đường cong hồi qui tuyến tính cho thấy mối
tương quan mạnh giữa góc tiến triển và sự cần
thiết mổ sanh nếu góc tiến triển 100o, khả năng
sanh ngã âm đạo tự nhiên hoặc sanh giác hút là
10%, tuy nhiên khả năng này tăng lên 85,5% nếu
góc tiến triển là 120o, kết quả này cũng được ghi
nhận trong nghiên cứu của Kalache và Barbera
(5,13). Họ thấy rằng trong tất cả những ca sanh ngã
âm đạo thì có sự tăng dần góc tiến triển với và
sanh tự nhiên trong tất cả những trường hợp với
góc tiến triển trên 120 o.
Marsoosi và cộng sự ghi nhận góc tiến
triển trên chuyển dạ càng lớn thì thời gian
sanh càng ngắn(14). Barbera(5) ghi nhận với
những bệnh nhân có góc tiến triển càng cao thì
thời gian từ lúc trọn đến lúc sanh càng ngắn(5).
Sau khi phân tích, tác giả ghi nhận những
trường hợp góc tiến triển nhỏ hơn 1350 thì thời
gian trung vị là 45,5 phút, thời gian này ngắn
khi góc tiến triển lớn hơn.
Sau khi được đào tạo bởi bác sĩ chuyên
ngành chẩn đoán hình ảnh, nghiên cứu chưa ghi
nhận sự khác biệt giữa bác sĩ sản có chứng chỉ
siêu âm và bác sĩ chuyên ngành chẩn đoán hình
ảnh khi so sánh góc tiến triển và khoảng cách
đầu đáy chậu. Chênh lệch góc tiến triển giữa bác
sĩ sản khoa và bác sĩ siêu âm là 0,330 với 95%
khoảng tin cậy là -1,420 đến 2,090 và khoảng cách
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 73
đầu đáy chậu là -0,27 mm với khoảng tin cậy
95% là -1,41mm đến 0,88mm. Theo nhiều nghiên
cứu, siêu âm đáy chậu đánh giá quá trình
chuyển dạ là phương pháp dễ học và dễ thực
hiện đối với các bác sĩ lâm sàng thực hành sản
phụ khoa(1,4,16). Vì thế, việc tập huấn và triển khai
phương pháp siêu âm mới này có thể thực hiện
dễ dàng và áp dụng trong bệnh viện chuyên
khoa Sản.
Trong nghiên cứu, tỉ lệ sanh ngã âm đạo là
84,8%, trong đó sanh thường chiếm 80,7% và
phần còn lại là sanh có hỗ trợ của dụng cụ
(Forceps hoặc Ventous). Tỉ lệ sanh ngã âm đạo
của chúng tôi khá tương đồng với tác giả
Kalache. Tỉ lệ mổ lấy thai trong nghiên cứu của
chúng tôi là 15%. Tỉ lệ này tương đồng với Yuce
và Kalache, cao hơn so với Barbera và thấp hơn
so với nghiên cứu của Đặng Thị Hà tại Bệnh viện
Đại học Y Dược cơ sở II (5,7,13,18).
Hạn chế
Chưa đánh giá động học của góc tiến triển
cũng như tiến triển của đầu thai nhi trong ống
sanh. Chưa đánh giá sự khác biệt giữa thực hành
lâm sàng đánh giá tiến triển của đầu thai nhi
(ngôi, thế, kiểu thế, độ lọt) và kết quả siêu âm
đáy chậu. Dân số nghiên cứu chỉ bao gồm thai
trưởng thành không bệnh lý, chưa nghiên cứu
trên các đối tượng khác như ối vỡ non.
KẾT LUẬN
Trong thời gian từ 09/2016 đến 04/2017, ghi
nhận trên 375 sản phụ đơn thai trưởng thai, ngôi
chỏm, có cổ tử cung trọn, ối vỡ:
1. Góc tiến triển lớn hơn hoặc bằng 120 độ
trên siêu âm qua đáy chậu có độ nhạy (96,5%),
độ đặc hiệu (17,5%), giá trị tiên đoán dương 0,86,
giá trị tiên đoán âm 0,47.
2. Tỷ lệ sinh ngã âm đạo của góc tiến triển ≥
120 độ là: 96,2%
3. Mối tương quan giữa góc tiến triển trên
siêu âm qua đáy chậu ở những sản phụ cổ tử
cung trọn, đơn thai, trưởng thành và ngôi chỏm
với kết cục sanh là: góc tiến triển ≥ 120 độ thì khả
năng sinh ngã âm đạo cao hơn góc tiến triển <
120 độ 1,66 lần, KTC 95% [1,09 – 2,49]. Góc tiến
triển tối ưu là 152 độ với độ nhạy, độ đặc hiệu
đối với sinh ngã âm đạo là 50% và 87,7% (Điểm
Youden).
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Adam G, Sirbu O, Voicu C, Dominic D, Tudorache S, Cernea, N
(2014). “Intrapartum ultrasound assessment of fetal head
position, tip the scale: natural or instrumental delivery?”. Curr
Health Sci J, 40(1):pp.18-22.
2. Ahn KH,Oh MJ (2014). “Intrapartum ultrasound: A useful
method for evaluating labor progress and predicting operative
vaginal delivery”. Obstet Gynecol Sci, 57(6):pp.427-435.
3. Akmal S, Tsoi E, Kametas N, Howard R, Nicolaides KH (2002).
“Intrapartum sonography to determine fetal head position”. J
Matern Fetal Neonatal Med, 12(3):pp.172-177.
4. Amin MA, Eltomey MA, El-Dorf AA (2014). “Role of
transperineal ultrasound measurements in women with
prolonged second stage of labor as predictors of the mode of
delivery”. The Egyptian Journal of Radiology and Nuclear Medicine,
45(4):pp.1295-1299.
5. Barbera AF, Pombar X, Perugino G, Lezotte DC, Hobbins JC
(2009). “A new method to assess fetal head descent in labor with
transperineal ultrasound”. Ultrasound Obstet Gynecol,
33(3):pp.313-319.
6. Cho GJ, Hong HR, Seol HJ, Koo BH, Hong SC, Oh MJ, et al
(2015). “Use of the angle of progression on ultrasonography to
predict spontaneous onset of labor within 7 days”. J Perinat Med,
43(2):pp.185-189.
7. Đặng Thị Hà (2010). “Tình hình mổ lấy thai tại Bệnh viện Đại
học Y Dược cơ sở 2”. Y học TP. Hồ Chí Minh, 14(4):pp.1-10.
8. Dietz HP, Lanzarone V (2005). “Measuring engagement of the
fetal head: validity and reproducibility of a new ultrasound
technique”. Ultrasound Obstet Gynecol, 25(2):pp.165-168.
9. Eggebo TM, Gjessing LK, Heien C, Smedvig E, Okland I,
Romundstad P, et al (2006). “Prediction of labor and delivery by
transperineal ultrasound in pregnancies with prelabor rupture of
membranes at term”. Ultrasound Obstet Gynecol, 27(4):pp.387-391.
10. Eggebo TM, Heien C, Okland I, Gjessing LK, Romundstad P,
Salvesen KA (2008). “Ultrasound assessment of fetal head-
perineum distance before induction of labor”. Ultrasound Obstet
Gynecol, 32(2):pp.199-204.
11. Gilboa Y, Kivilevitch Z, Spira M, Kedem A, Katorza E, Moran O,
et al (2013). “Head progression distance in prolonged second
stage of labor: relationship with mode of delivery and fetal head
station”. Ultrasound Obstet Gynecol, 41(4):pp.436-441.
12. Henrich W, Dudenhausen J, Fuchs I, Kamena A, Tutschek B
(2006). “Intrapartum translabial ultrasound (ITU): sonographic
landmarks and correlation with successful vacuum extraction”.
Ultrasound Obstet Gynecol, 28(6):pp.753-760.
13. Kalache KD, Duckelmann AM, Michaelis SA, Lange J, Cichon G,
Dudenhausen JW (2009). “Transperineal ultrasound imaging in
prolonged second stage of labor with occipitoanterior presenting
fetuses: how well does the 'angle of progression' predict the
mode of delivery?”. Ultrasound Obstet Gynecol, 33(3):pp.326-330.
14. Marsoosi V, Pirjani R, Mansouri B, Eslamian L, Jamal A, Heidari
R, et al (2015). “Role of angle of progression' in prediction of
delivery mode”. J Obstet Gynaecol Res, 41(11):pp.1693-1699.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_sieu_am_qua_day_chau_trong_giai_doan_2_chuyen_da_dan.pdf