Tài liệu Giá trị nhân văn của những hồi ức về thời thơ ấu trong văn học Việt Nam sau 1975: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
15
GIÁ TRỊ NHÂN VĂN CỦA NHỮNG HỒI ỨC VỀ THỜI THƠ ẤU
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975
Humanistic values of childhood recollections in Vietnamese literature after 1975
TS. Ngô Thị Ngọc Diệp
Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt
Trong văn xuôi Việt Nam sau 1975, các dạng thức hồi ức tuổi thơ rất phát triển, khẳng định vị trí ưu trội
của nó trong việc thỏa mãn nhu cầu tìm về tuổi thơ, bộc lộ cái nhìn và sự chiêm nghiệm cá nhân. Giá trị
nổi trội của mảng sáng tác đặc biệt này là đưa lại một thế giới tuổi thơ hồn nhiên, đẹp đẽ, đậm chất nhân
văn. Ở đó, có những kỉ niệm ngọt ngào, nhân cách trẻ thơ trong sáng, tình cảm gia đình sâu nặng và tình
người ấm áp; ở đó trẻ thơ được yêu thương, quí trọng và đề cao. Bị chi phối bởi cơ chế hồi ức và sự trải
nghiệm...
13 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 439 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị nhân văn của những hồi ức về thời thơ ấu trong văn học Việt Nam sau 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
15
GIÁ TRỊ NHÂN VĂN CỦA NHỮNG HỒI ỨC VỀ THỜI THƠ ẤU
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975
Humanistic values of childhood recollections in Vietnamese literature after 1975
TS. Ngô Thị Ngọc Diệp
Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt
Trong văn xuôi Việt Nam sau 1975, các dạng thức hồi ức tuổi thơ rất phát triển, khẳng định vị trí ưu trội
của nó trong việc thỏa mãn nhu cầu tìm về tuổi thơ, bộc lộ cái nhìn và sự chiêm nghiệm cá nhân. Giá trị
nổi trội của mảng sáng tác đặc biệt này là đưa lại một thế giới tuổi thơ hồn nhiên, đẹp đẽ, đậm chất nhân
văn. Ở đó, có những kỉ niệm ngọt ngào, nhân cách trẻ thơ trong sáng, tình cảm gia đình sâu nặng và tình
người ấm áp; ở đó trẻ thơ được yêu thương, quí trọng và đề cao. Bị chi phối bởi cơ chế hồi ức và sự trải
nghiệm của nhà văn, thế giới đó hiện lên vừa lung linh, đẹp đẽ, vừa đọng lại nhiều điều để suy ngẫm,
tiếc nuối về thời đã qua, về trẻ thơ, về tình cảm con người và đặt ra vấn đề xây dựng một cuộc sống tốt
đẹp hơn.
Từ khóa: hồi ức, giá trị nhân văn, thời thơ ấu, trẻ thơ
Abstract
In Vietnamese prose after 1975, the forms of childhood recollections have very much developed,
affirming its dominant position in satisfying the needs to recall childhood, revealing personal insight
and contemplation. The outstanding value of this special composition is to bring back an innocent,
beautiful, and humanistic childhood world. There are sweet memories, pure young child’s personality,
deep family affection and warm human love, in which children are loved, valued and appreciated. To be
controlled by the recollection mechanism and the writer's experience, that world appears sparkling and
beautiful; still, it has many things to ponder and regret about the past, the childhood, human emotions
and raise a problem of building a better life.
Keywords: recollection, humanistic values, childhood, young child
1. Mở đầu
Một điểm đáng chú ý của văn xuôi
Việt Nam sau 1975 là sự xuất hiện nhiều
tác phẩm sử dụng hồi ức tuổi thơ làm chất
liệu nghệ thuật (bao gồm hồi kí, tự truyện,
tiểu thuyết có tính tự truyện viết về thời
thơ ấu, có thể gọi chung là các dạng thức
hồi ức tuổi thơ). Mảng sáng tác đặc biệt
này khẳng định vị trí ưu trội trong việc
thỏa mãn nhu cầu tìm về tuổi thơ, về với
miền kí ức trong trẻo luôn có xu hướng
sống dậy trong tâm thức mỗi người. Đến
với thời thơ ấu, con người như đang kiếm
tìm sự bằng an cho tâm hồn khi phải đối
diện quá nhiều những bon chen, áp lực, sự
căng thẳng và nhiễu tâm. Giá trị nổi trội
Email: nhatdiep71@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
16
của những hồi ức về thời thơ ấu là đưa lại
một thế giới tuổi thơ trong sáng, đẹp đẽ,
đậm chất nhân văn. Ở đó, có những kỉ
niệm của thời đã qua, vẻ đẹp của nhân cách
trẻ thơ, tình cảm gia đình sâu nặng và tình
người ấm áp. Bị chi phối bởi cơ chế hồi ức
và sự trải nghiệm của nhà văn, thế giới đó
hiện lên vừa lung linh, đẹp đẽ, vừa đọng lại
nhiều điều để suy ngẫm, nuối tiếc. Làm sao
để nhớ về tuổi thơ của mình với tất cả niềm
yêu thương dịu dàng, bởi: “Tuổi thơ của ai
cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm
đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi
nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ
cũng ngát hương” (Vũ Thư Hiên)? Làm
sao để mọi người sống với nhau bằng trái
tim con trẻ hồn nhiên, thánh thiện khi cuộc
sống cứ quá căng thẳng, phức tạp, nhiều
bất ổn mà nhân văn lại có chiều giảm sút?
Từ sự trở về tuổi thơ mà đánh thức phần
tâm hồn đẹp đẽ ở mỗi người; từ sự nâng
niu, quý trọng nhân cách các em mà có ý
thức xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Đó
chẳng phải là giá trị nhân văn thấm đẫm,
sâu sắc của loạt tác phẩm viết về thời thơ
ấu trong văn học Việt Nam sau 1975 sao?
2. Nội dung
Nói giá trị nhân văn là chạm đến cái
cốt lõi của văn chương. Văn chương luôn
hướng tới những vấn đề của con người nên
nhân văn bao giờ cũng là thước đo giá trị
tác phẩm mọi thời đại. Trong văn học nói
chung, các nhà nhân văn chủ nghĩa coi con
người và đời sống trần thế của nó là mục
đích cao nhất. Họ khẳng định "Con người
là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của muôn
loài" (Wiliam Shakespeare); lên tiếng ca
ngợi tình yêu trần thế, tự do; đặt ra vấn đề
giải phóng cá nhân, chống lại những gì gây
ra cho nhân loại cảnh bất hạnh, tội lỗi...
Không đi ra ngoài quỹ đạo tiếng nói nhân
văn, nhưng văn học viết cho thiếu nhi thể
hiện giá trị này ở góc độ khá đặc biệt, phù
hợp với đối tượng thẩm mĩ của nó. Trẻ thơ
chính là hiện thân của cái đẹp, nói như nhà
thơ Định Hải: "Đó là thế giới thần tiên
trong sạch, chỉ có cái đẹp và vươn tới cái
đẹp". Các nhà văn bao giờ cũng chú ý khắc
họa vẻ đẹp tâm hồn tuổi thơ với những tình
cảm trong sáng, đẹp đẽ, những hành động
giàu lòng trắc ẩn, những khát khao khám
phá, sáng tạo. Thế giới xung quanh các em
cũng trở nên tốt đẹp hơn, ở đó vẫn có sự
hiện diện của cái xấu, cái ác nhưng sự
chính nghĩa, lòng tốt, cái cao thượng mới
khẳng định ưu thế và sức mạnh của nó. Tất
cả thể hiện một chất nhân văn lí tưởng, tạo
niềm tin về sự tất thắng của những giá trị
tốt đẹp, vĩnh hằng trong cuộc sống.
2.1. Ngợi ca thế giới tuổi thơ đẹp đẽ
trong kí ức, hoài niệm
Thế giới tuổi thơ vốn trong sáng, tươi
vui, đẹp đẽ. Với các hồi ức về thời thơ ấu,
khi đắm mình trong cảm xúc yêu thương,
tiếc nhớ, thế giới đó càng được tô đậm,
lung linh hơn. Các nhà văn cho ta hình
dung rõ nét về một cuộc sống hồn nhiên,
trong trẻo và đầy sôi nổi, đam mê của trẻ
thơ. Nét thơ ngây, đáng yêu của các em
luôn được ống kính hồi tưởng của nhà văn
bắt lấy trước tiên. Đó là cái ấm ức của một
chú bé sơ sinh khi không hiểu sao những gì
mình thích đều bị giật ra, bị treo lên: “Tôi
đúng là bị biến thành con chó, chỉ được
phép giương mắt nhìn những thứ mà mình
thích, nhưng không thể gặm mõm vào
được” (Kao Sơn, 2017, tr.14); cái thật thà
của cậu bé Mừng khai “biết bồng em” khi
xin vào Vệ quốc đoàn (Tuổi thơ dữ dội);
hay cái ngây thơ nghĩ mình có thể thay đổi
cả thế giới của cu Mùi, Hải cò, Tủn, Tí sún
(Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ) Quãng
NGÔ THỊ NGỌC DIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
17
đời tuổi thơ luôn hấp dẫn với những sinh
hoạt, vui chơi đầy hào hứng. Kí ức các nhà
văn mở ra cả một thế giới trò chơi và thú
vui thuở bé vô cùng ngọt ngào cuốn hút,
trong đó không thiếu những chuyến “phiêu
lưu”, những trò nghịch dại. Vũ Thư Hiên
đưa người đọc trở về miền thơ ấu với bao
trò chơi mải mê của bọn trẻ trong làng:
chơi trốn tìm, ô ăn quan, giải gianh, câu
công cống, câu cá, thả diều (Miền thơ
ấu). Trong Miền xanh thẳm, Thiện và Bảo
có thể đội mưa, chịu rét cả đêm để bắt “cá
cóng” hay lũ ếch béo mầm. Hai cô bé Bê
và Loan có cả một kho tàng bí mật giấu
trên đảo Hoa Vàng và thường xuyên trốn
mẹ bơi thuyền vượt sông để thăm nó
(Hành trình ngày thơ ấu). Có thể nói, các
cậu bé, cô bé tuổi học trò luôn tạo cho
mình một thế giới riêng để đắm mình trong
đó với bao thích thú, say mê và mơ mộng.
Tuổi thơ rất giàu tình cảm, giàu lòng
trắc ẩn. Bản tính thiện, lòng tốt, tình yêu
trong sáng luôn sẵn có trong các em để sẻ
chia với những người xung quanh. Có thể
thấy hình ảnh một cậu bé Khán nhạy cảm,
biết quan tâm những con người nhỏ bé, tàn
tật, sống cô đơn, còm cõi như bà Chùa, bà
Vinh, bà Sứt, ông Đống trong Tuổi thơ im
lặng. Ở Miền thơ ấu, cậu bé Thư gần gũi
và yêu thương những con người khắc khổ,
cơ nhỡ như ông Nhiêu Tuất, cô Thiệp, cô
Nhất, cô Gái, chú Khóa. Cô bé Bê mạnh
mẽ, bướng bỉnh nhưng luôn dành tình cảm
chân thành cho những con người có cảnh
ngộ đáng thương như Ly, Đào Ca, Dũng
còm, bé Cau và người mẹ tàn tật (Hành
trình ngày thơ ấu)
Một nét đẹp của tâm hồn trẻ thơ là ước
mơ, khát vọng. Khi quay về tuổi thơ, chắc
chắn mỗi chúng ta đều mỉm cười nhớ lại
những mơ ước thuở bé. Hồi ức tuổi thơ đã
đi sâu vào đời sống nội tâm, hé lộ những
ước mơ riêng tư, thầm kín của các em.
Khát vọng cháy bỏng của mọi đứa trẻ là
được đến trường. Đó tưởng chừng là ước
mơ bình thường, nhỏ bé nhưng rất lớn lao
vì nó mở ra nhiều kì vọng tốt đẹp cho con
người và không phải ai cũng dễ dàng đạt
được. Với mỗi em, ước mơ đến trường
hiện lên trong niềm khao khát và mong
mỏi khác nhau. Cô bé Bê đau khổ, luyến
tiếc với ước mơ đã trở nên xa vời khi bị
đuổi học (Hành trình thời thơ ấu); những
học sinh Cao Bằng phải trải qua bao khó
khăn thử thách để chinh phục con chữ
(Đường về với mẹ Chữ) Không chỉ được
đến trường, ước vọng tuổi thơ còn mở ra
vô tận và niềm khát khao đủ lớn để trong
mọi hoàn cảnh các em luôn nuôi dưỡng nó.
Những ngày trọ học khổ cực, thiếu thốn
nhưng các bạn nhỏ trong Miền xanh thẳm
vẫn không ngừng đeo đuổi những ước mơ
bay bổng như trở thành kĩ sư địa chất để
tìm ra những vỉa quặng lớn nhất nước, trở
thành bác sĩ chữa bệnh cho mọi người, trở
thành nhà văn viết những tác phẩm thật
hay... Khát vọng lớn nhất của trẻ thơ là
vượt lên chính mình. Trong những hoàn
cảnh bất hạnh nhất các em vẫn không
ngừng khao khát vươn lên. Mong muốn có
cuộc sống như bao đứa trẻ bình thường
khác, Vững đã vượt qua mặc cảm thân
phận con nuôi, là gánh nặng cho gia đình,
kiên quyết đứng lên trên đôi chân gần như
bại liệt. Nỗ lực, kiên trì luyện tập, học tập
trong đau đớn và chua xót, sau cùng cậu bé
ốm yếu, tật nguyền ngày nào đã tốt nghiệp
đại học y khoa, rồi trở thành nhà văn nổi
tiếng (Tuổi thơ khát vọng).
Sẽ không hoàn thiện vẻ đẹp của trẻ thơ
nếu không nhắc đến cái mạnh mẽ, dũng
cảm của lứa tuổi đang muốn khẳng định
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
18
mình. Chính sự trong sáng, hồn nhiên
khiến các em có sức mạnh và sự can đảm
kì lạ mà đôi khi người lớn không có được.
Người đọc thật sự xúc động và ấn tượng
với một Vịnh-sưa đột nhập khu vực giặc
đóng, trèo lên nóc lầu chót vót, dùng cờ tín
hiệu báo cho quân ta về kho xăng đạn bí
mật của địch. Em đã hi sinh và tạc một
tượng đài lịch sử “tưởng như chính lửa đã
tạc khắc nên” (Tuổi thơ dữ dội). Trong
Cơn giông tuổi thơ, những đứa trẻ chăn
trâu, ở đợ như Thắng, Tâm-đen đã rất gan
góc từ những lần đánh nhau với cá sấu đến
những trận chiến trực diện với kẻ thù
Không chỉ anh dũng trong chiến đấu, cuộc
sống sinh hoạt bình thường cũng cho thấy
khí chất mạnh mẽ, can đảm của các em. Cô
bé Bê một mình dám chống trả thầy Gia -
một con người giả dối, bất công (Hành
trình ngày thơ ấu). Bảy em học sinh Lư,
Hồng, Hỏn, Tập, Hoảnh, Tâm, Lạng phải
trèo đèo lội suối suốt chín ngày đêm, vượt
qua chặng đường dài gần 300 cây số,
thường xuyên chống lại trộm cướp, hổ báo,
rắn rết để đến trường (Đường về với mẹ
Chữ). Đó là những hình ảnh trẻ thơ cứng
cỏi, đầy nghị lực, tạo ấn tượng sâu đậm
trong kí ức nhà văn.
Có thể nói, với cảm hứng hồi tưởng,
tiếc nhớ, sự ùa về của bao kỉ niệm khó phai
và cái nhìn tinh tế, nhập thân vào trẻ thơ,
hiểu các em, các nhà văn đã khắc họa khá
đầy đặn, sinh động vẻ đẹp tuổi thơ. Kí ức
tuổi thơ mở ra một thế giới hồn nhiên,
trong sáng, đầy ắp tình yêu thương, sự
ngay thẳng, mạnh mẽ, những hoạt động sôi
nổi, những niềm vui bất tận. Làm sống dậy
những hình ảnh đẹp đẽ về trẻ thơ, các tác
giả đã thể hiện sự nâng niu đối với tuổi
ngọc ngà, gửi gắm ước vọng về những điều
tươi sáng, tốt đẹp.
2.2. Đề cao tình cảm gia đình và tình
người ấm áp
Một phương diện thể hiện rõ giá trị
nhân văn trong hồi ức về thời thơ ấu sau
1975 là ngợi ca phẩm chất, tình cảm tốt
đẹp của con người. Gia đình là nơi khởi
đầu những phẩm chất đẹp đẽ, là cái nôi của
sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ
thơ. Không phải ngẫu nhiên mỗi người
trưởng thành đều nhớ da diết và biết ơn nơi
nuôi dưỡng tâm hồn mình từ thuở ấu thơ.
Với tâm thế đó, các hồi ức về tuổi thơ
thường nhớ lại những kỉ niệm gắn bó của
các em với gia đình, tình cảm tốt đẹp của
những người thân dành cho nhau. Cuốn
tiểu thuyết tự truyện Miền thơ ấu cứ làm
người đọc nhớ đến một đại gia đình yêu
thương, một cộng đồng gắn kết tối lửa tắt
đèn có nhau. Cậu bé Thư biết gắn bó với
quê hương và hướng về tổ tiên nguồn cội
chính là nhờ những năm tháng sống ở quê
nội với người cô như được sinh ra với sứ
mệnh gìn giữ “nếp nhà”. Cái gốc rễ gia
đình ở quê hương bé Thư vẫn còn sâu nặng
lắm. Trong Miệt vườn xa lắm, cô bé Tám
Tiệp phác họa một cách dí dỏm cái tôn ti
trật tự của gia đình mình mà “thủ lĩnh” Tư
Ràng cất công xây dựng để: “Bầy con của
anh Ba tui lớn lên biết kính trên nhường
dưới, biết ngó trước ngó sau, biết chân chỉ
thật thà” (Dạ Ngân, 2012, tr.58). Trong gia
đình này ai cũng phải có nghĩa vụ lao động
và sống “thắt lưng buộc bụng” nhưng lại
rộng rãi hay “cho chác” người khác, bởi
theo cô Tư Ràng thì: “Của ăn là của hết,
của cho là của còn” (Dạ Ngân, 2012,
tr.52). Đó là suy nghĩ sâu sắc, thể hiện lối
sống nghĩa tình, thơm thảo của người dân
Nam bộ xưa.
Trẻ thơ luôn được thừa hưởng những
phẩm chất tốt đẹp của các thành viên
NGÔ THỊ NGỌC DIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
19
“người lớn” trong gia đình. Đặc biệt, các
em rất gần gũi, quấn quýt với ông bà. Với
trẻ con ngây thơ, bồng bột thì ông bà mới
là người có đủ trải nghiệm, thời gian và
lòng yêu thương để lắng nghe, chăm bẵm
chúng. Những ngày đầu xa gia đình, cậu
bé Thư đã “nhớ mẹ thì ít mà nhớ bà thì
nhiều”. Người bà của Thư như bước ra từ
chuyện cổ tích với đôi mắt hiền từ, gương
mặt phúc hậu, cái nhìn dịu dàng. Bà dạy
bọn trẻ biết yêu thương, trân trọng người
kém may mắn quanh ta từ những việc nhỏ,
như cách giúp đỡ những người ăn mày:
“Bà cấm chúng tôi không được ném tiền
xuống đất để bắt người ăn mày mù sờ
soạng tìm, mà phải đặt tiền vào tận tay
hoặc bỏ vào đấu, bỏ chứ không được ném”
(Vũ Thư Hiên, 1988, tr.43). Tâm hồn giàu
tình cảm của Thư có lẽ ảnh hưởng từ người
bà nhân từ. Côi cút giữa cảnh đời của Ma
Văn Kháng làm nổi bật phẩm chất của một
người bà nhân hậu, giàu đức hi sinh. Với
hai đứa cháu côi cút, bé bỏng, bà như cây
sào mảnh mai mà cứng cỏi, cố gắng chèo
chống để nuôi nấng, bảo bọc, nhẫn nhịn
nhận về mình mọi cơ cực, khổ đau. Cậu bé
Duy mãi nhớ về bà của mình với lòng biết
ơn vô hạn: “Ơn bà mãi mãi cháu để hai
vai. Bà nhịn cho chúng cháu ăn. Bà lạnh
cho chúng cháu ấm. Bà bế bồng dìu dắt
chúng cháu đi qua những năm tháng cách
trở, lừa lọc, phản trắc, bất công” (Ma Văn
Kháng, 2006, tr.275). Nhà văn Vũ Đức
Nguyên viết cuốn tự truyện Tuổi thơ khát
vọng để tưởng nhớ công ơn người ông của
mình: “Tôi viết cuốn sách này là để tưởng
nhớ hương hồn ông ngoại và tặng con trai
tôi, cùng các em nhỏ tàn tật yêu thương”
(Lời đề từ tác phẩm Tuổi thơ khát vọng).
Người đọc không khỏi xúc động với hình
ảnh ông ngoại của Vững qua từng trang
sách. Là người thâm trầm, sâu sắc, ông
cảm thông cho đứa con gái một nách ba
con vất vả nhưng cũng trách con cạn nghĩ,
xốc nổi khi nỡ cay nghiệt với đứa con nuôi
đang ốm liệt giường. Chính ông đã thức
trắng đêm để tìm cách cứu đứa cháu bất
hạnh trong cơn thập tử nhất sinh rồi sắp đặt
mọi việc để đỡ con nuôi cháu Có thể nói,
hình ảnh người ông, người bà qua màn
sương hoài niệm được nâng lên thành
những biểu tượng cho thiên tính, luôn là
chỗ dựa tinh thần cho con cháu.
Cha mẹ là hình tượng thể hiện rõ nhất
tình cảm gia đình, bởi tình yêu thương họ
dành cho con cái là nguồn tình cảm dạt dào
nhất. Người mẹ là đối tượng gắn bó đặc
biệt với trẻ thơ. Trong kí ức của cậu bé
Khán, hình ảnh mẹ luôn hiện về với dáng
vẻ lo toan vất vả. Tác giả không bao giờ
quên đôi vai gầy chai sạn vì gánh gồng của
mẹ: “Đôi vai của mẹ thành chai từ bao giờ
con không biết Nhưng chính đôi vai
xương xẩu, bé nhỏ, mỏng manh ấy lại gánh
được bao thứ mà người thường không gánh
nổi” (Duy Khán, 1985, tr.57). Cuộc đời
của mẹ gắn với bao công việc làm lụng tất
bật: gánh củi đi bán, gánh thóc về xay giã,
gánh gạo đến nơi con trọ học, những
chuyến buôn bán chợ gần, chợ xa. Ấn
tượng sâu đậm nhất là những lần ngóng
trông mẹ về. Thật cảm động và vui sướng
khi đi đâu về, mẹ cũng có quà cho con trẻ,
như chim mẹ tha mồi về cho chim con.
Sống lại niềm vui nhỏ bé ngày xưa, tác giả
không nguôi nhớ thương, tiếc nuối: “Ước
gì mình cứ bé mãi để được reo lên: “U về!
U về!”. Ước gì u cứ sống mãi để chúng tôi
được reo lên “U về! U về!” (Duy Khán,
1985, tr.66). Trong cuốn tự truyện Miền
xanh thẳm, mẹ của Thiện tuy ốm yếu
nhưng luôn lo lắng cho con hết mực. Trí
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
20
nhớ trẻ con của em vẫn không bao giờ
quên được hình ảnh người mẹ hoảng hốt lo
sợ ngồi che chắn máy bay cho con: “Thật
giống cái cảnh gà mẹ xòe cánh che chở
cho bầy gà con khi có diều hâu chao liệng
trên đầu” (Trần Hoài Dương, 2000,
tr.130). Mẹ sinh nở tám lần, ốm đau mà
không có điều kiện chạy chữa thuốc thang,
trong lúc hấp hối mẹ đã khóc lặng lẽ vì
thương đàn con nhỏ dại. Chính mẹ đã đặt
cho Thiện một cái tên thật ý nghĩa (sau này
trở thành bút danh: Trần Hoài Dương):
“Mẹ tôi rất yêu hoa, thích trồng hoa, đặc
biệt là hoa quỳ, tức hoa hướng dương.
Chắc mẹ mong mỏi con trai mẹ cũng giống
loài hoa ấy, lúc nào cũng hướng về phía
mặt trời, hướng về phía ánh sáng, phía
ngay thẳng, chính trực, phía của cái đẹp,
hướng thiện” (Trần Hoài Dương, 2000,
tr.133).
Cùng là đấng sinh thành, hiện thân cho
tình yêu thương và đức hi sinh nhưng trong
văn học nói chung và hồi ức tuổi thơ nói
riêng, hình ảnh người cha thường không
được thể hiện nổi bật, phong phú bằng hình
ảnh người mẹ. Hơn nữa, quá khứ được tái
hiện trong hồi ức sau 1975 thường là những
câu chuyện về một thời khó khăn của đất
nước, những người đàn ông phải xa gia đình
để gánh vác trọng trách xã hội, ít được trực
tiếp thể hiện tình cảm với con cái. Điều này
giải thích vì sao xuất hiện nhiều ông bố “đi
vắng” đến vậy: ba của Tiệp Kiến Vàng giao
cả ba má, vườn tược và bầy con của mình
cho cô em gái để đi làm cách mạng rồi trở
thành tù chính trị thụ án hai mươi năm ở Côn
Đảo (Miệt vườn xa lắm); bố của Bê là thủ
trưởng một đơn vị bộ đội biên phòng ở Khậu
Phai, Cao Bằng, thuộc biên giới phía Bắc xa
xôi (Hành trình ngày thơ ấu); bố của Vững
tham gia cách mạng, làm công tác đoàn thể
nên cứ đi biền biệt (Tuổi thơ khát vọng); bố
của Thiện tham gia kháng chiến trong một
đơn vị quân y nay đây mai đó khắp nhiều
miền đồi núi Thái Nguyên (Miền xanh
thẳm)
Tuy nhiên, hồi ức tuổi thơ cũng khắc
họa được một số hình ảnh đẹp về người
cha. Nếu hình ảnh người mẹ hiện lên rõ nét
với tình thương yêu, chăm sóc, đức hi sinh
thì những người bố lại hiện thân cho chỗ
dựa tinh thần, sự dạy dỗ, bảo ban con cái.
Trong Tuổi thơ im lặng, tác giả luôn nhớ
về người cha nhọc nhằn với đôi bàn chân
dầm sương giãi nắng đã thành bệnh: “Gan
bàn chân bao giờ cũng xám xịt và lỗ rỗ
Mu bàn chân mốc trắng, bong da từng bãi,
lại có nốt lấm tấm” (Duy Khán, 1985,
tr.55). Ấy vậy mà cha luôn dạy con có ý
thức giữ gìn đôi bàn chân để đi cho thật
khỏe, thật xa! Cha của Khán hay dạy chữ,
dạy con đọc sách và hay mang về những
món quà để mở rộng hiểu biết và làm giàu
tâm hồn con trẻ. Qua hồi ức của Trần Hoài
Dương, hình ảnh người cha hiện lên với vẻ
đẹp truyền thống. Ông có tấm lòng yêu
thương, giúp đỡ mọi người, biết gắn kết
mọi người trong gia tộc, chăm lo đến
chuyện họ hàng, huyết thống, mồ mả đất
cát ông bà. Đó chính là những gì tốt đẹp
nhất ông “trang bị” cho con cái: “Tóm lại,
chúng tôi đã thừa hưởng ở bố tôi một tình
cảm cốt lõi và bậc nhất của nhân cách con
người, đó là tấm lòng nhân hậu, khoan
hòa” (Trần Hoài Dương, 2000, tr.175).
Có thể nói, hồi ức tuổi thơ đã làm sống
dậy truyền thống gia đình và hình ảnh bao
người thân yêu như những biểu tượng đẹp
đẽ. Màn sương hoài niệm và cảm xúc yêu
thương càng tô đậm vẻ đẹp của mái nhà
xưa, làm cho mỗi gương mặt thân thương
hiện ra đẹp hơn, đáng nhớ hơn. Ngợi ca vẻ
NGÔ THỊ NGỌC DIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
21
đẹp của tình mẫu tử, phụ tử và thấy được
sự tác động ở chiều sâu nhân cách trẻ thơ,
đó chính là sự thể hiện giá trị nhân văn sâu
sắc của hồi ức tuổi thơ sau 1975.
Không chỉ đề cao tình yêu thương giữa
những người thân trong gia đình, tình cảm
cộng đồng cũng được thể hiện vô cùng ấm
áp, đặc biệt khi các nhà văn nói đến thầy cô
giáo, đối tượng rất gần gũi với lứa tuổi
thiếu nhi. Hình ảnh thầy cô như một phần
kí ức đẹp đẽ luôn hiện về trong nỗi nhớ và
sự yêu thương, kính trọng của các em. Một
điển hình cho vẻ đẹp nhân cách của người
thầy qua hồi ức tuổi thơ đó là “bố Thế”
trong Hành trình ngày thơ ấu. Các em học
sinh gọi thầy là “bố” với tất cả tình yêu
thương, trìu mến và kính trọng, xem thầy
như người cha thứ hai của mình. Đây là
cảm nhận của cô bé Bê về người thầy tuyệt
vời: “Công bằng và nhân hậu, nâng đỡ và
dìu dắt con người cho tới khả năng cuối
cùng, thành thực và chất phác, đó là những
đức tính chúng tôi nhận được ở thầy”
(Dương Thu Hương, 1985, tr.29). Thầy
giáo Khang trong Tuổi thơ khát vọng cũng
là một người thầy đáng kính. Thầy rất
thương những học trò tật nguyền và luôn
quan tâm, động viên các em. Thầy tìm từng
cuốn sách hay cho học trò đọc, vui mừng
mỗi khi các em đến lớp đầy đủ. Chính thầy
là người khích lệ và nuôi dưỡng ước mơ
trở thành bác sĩ của người học trò có đôi
chân bại liệt. Những lời nhắn nhủ và tin
tưởng của thầy là động lực để Vững biến
ước mơ thành hiện thực: “Nếu em khao
khát trở thành người thầy thuốc đem sức
lực và tài năng phục vụ nhân dân thì
phải chuyên tâm học tập mới đạt được.
Thầy tin là em sẽ vượt qua mọi khó khăn”
(Vũ Đức Nguyên, 2004, tr.194) Có thể
nói, hình ảnh thầy cô trong hồi ức tuổi thơ
thường được khắc họa với góc nhìn truyền
thống, đậm tính nhân văn. Hiện lên trong
nỗi nhớ, sự quý trọng cùng cảm hứng lí
giải quá trình hình thành nhân cách của trẻ
thơ, hình ảnh thầy cô càng được khắc sâu,
đề cao những phẩm chất đáng quý và sức
ảnh hưởng sâu sắc của nó.
Trong khi trở về tuổi thơ, các nhà văn
còn đưa người đọc trở về làng quê, cội
nguồn quê hương của người dân Việt để
chứng kiến những mối quan hệ cộng đồng
tốt đẹp còn lưu giữ. Ở miền quê nghèo khó
của Duy Khán trong Tuổi thơ im lặng, con
người khắc khổ, lam lũ nhưng luôn đối xử
với nhau bằng cái tình chân chất, đơn sơ
nhưng nồng ấm. Bà cả Tuệ với cái quán
nghèo nhưng hào phóng đã che chở cho
nhiều người cơ nhỡ; lòng nhân hậu của bác
Xa, lòng trắc ẩn của bác Dao; tình bạn của
Khán với em Dị, của bà Vinh với bà Nụ
Kí ức của cậu bé Thư cũng hiện rõ sự coi
trọng tổ tiên họ hàng, tình làng nghĩa xóm
như một nét đẹp văn hóa của quê hương.
Sự mộ đạo thêm phần gắn kết mọi người.
Những buổi lễ sớm để lại hình ảnh thật
đẹp: “Con đường trước cổng nhà tôi bỗng
nườm nượp bóng người và vang lên những
lời chào hỏi niềm nở Làng tôi bỗng trở
thành một gia đình. Mọi người đều bộc lộ
lòng yêu thương đối với nhau và trong
thâm tâm có dễ người ta chỉ mong cho
nhau sự tốt lành” (Vũ Thư Hiên, 1988,
tr.102). Tình hàng xóm láng giềng thể hiện
rõ và cảm động qua những hành động cưu
mang, giúp đỡ nhau lúc khó khăn, hoạn
nạn. Trong Côi cút giữa cảnh đời, những
người hàng xóm tốt bụng, giàu lòng trắc ẩn
như cô Đại Bàng, cô Quyên, ông Vinh
pháo, cụ Xương, cụ Tuệ, mỗi người một
tay, cảm thông, chia sẻ đã giúp bà cháu
Duy vượt qua cơn khốn khó. Họ đã cho
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
22
Duy thấu hiểu: “Nỗi đau khổ được con
người nhân hậu nghiêng xuống lắng nghe,
thông cảm, cũng có thể được vợi bớt đi và
người ta vì thế có thể lại vui sống được”
(Ma Văn Kháng, 2006, tr.142).
Nhìn chung, kí ức của các nhà văn đã
mở ra cả quãng đời tuổi thơ với nhiều kỉ
niệm ngọt ngào và tình cảm ấm áp. Truyền
thống gia đình tốt đẹp và phẩm chất đáng
quý của những người thân yêu, hình ảnh
những người thầy đáng kính và bao con
người tốt bụng luôn yêu thương, giúp đỡ
các em trên từng bước đường đời như
những mảng sáng lấp lánh trong hồi ức tuổi
thơ. Sự nâng niu, ca ngợi quá khứ, ca ngợi
thế giới tuổi thơ cho thấy tinh thần lạc quan
và ý thức hướng đến giá trị nhân văn cao
đẹp của hồi ức về thời thơ ấu sau 1975.
2.3. Tiếng nói bênh vực trẻ thơ
Chiều sâu của tư tưởng nhân văn là
chống lại những gì gây ra cảnh bất hạnh,
tội lỗi cho con người. Thuộc dòng mạch
hồi thuật nói chung, các hồi kí, tự truyện,
tiểu thuyết có tính tự truyện về thời thơ ấu
cũng tỏ ra có ưu thế trong việc nhìn lại quá
khứ, đánh giá lại nhiều vấn đề xoay quanh
cuộc sống của trẻ thơ, qua đó thể hiện rõ
tiếng nói bênh vực trẻ thơ. Hoài niệm về
một thời tuổi thơ khói lửa cho thấy các nhà
văn đã tình nguyện đứng về phía các em
khi nhìn rõ số phận trẻ thơ bị cuốn trong
chiến tranh vừa hùng tráng, vừa có cái bi
thương, thảm khốc như bản chất muôn đời
của nó. Các em hoặc là chủ nhân hoặc là
nạn nhân của chiến tranh, ở góc độ nào
cũng ẩn sâu cái đau đớn của nhà văn khi
cuộc sống của trẻ thơ bị những cú va đập
dữ dội từ cuộc chiến.
Sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh
không chừa một ai. Những cái chết thương
tâm nhất trong bom đạn là cái chết của
những đứa trẻ ngây thơ vô tội. Trong ám
ảnh kinh hoàng về sự chết chóc luôn có
hình ảnh đau thương của trẻ thơ: “Một em
bé gái cổ chân đeo cái vòng bạc bị đại bác
phanh ruột cạnh một gốc mít, ruồi nhặng
bâu kín cả mặt em” (Phùng Quán, 2005,
tr.211); “Ở xóm Bãi chúng bắn pháo lân
tinh. Một em nhỏ bị bỏng lân tinh gào thét
thảm thiết” (Bùi Minh Quốc, 2006,
tr.173) Những thiếu niên cầm súng ra
trận cũng hi sinh rất nhiều. Kết thúc tác
phẩm Tuổi thơ dữ dội, hầu hết các chiến sĩ
của đội thiếu niên trinh sát trung đoàn Trần
Cao Vân đều nằm lại nơi chiến trường:
Mừng, Vịnh-sưa, Quỳnh-sơn ca, Châu,
Hiền, Hòa-đen Những cái chết của các
chiến sĩ nhỏ tuổi tạo một âm hưởng bi
tráng cho cuộc chiến đấu.
Vượt qua cái chết thì bom đạn chiến
tranh luôn đưa đến những mất mát, thiệt
thòi, để lại nhiều vết chai, vết sẹo trên thể
xác và tâm hồn các em. Tuổi thơ hồn nhiên
bị đánh cắp cùng cái yên bình của làng quê
khi bọn giặc “bắt mang đi tất cả những
người trong làng để xóa dấu vết làng tôi.
Chúng giết tất cả những con trâu Trích,
trâu Mỡ, trâu Ve để xóa nhòa đồng ruộng
tuổi thơ và dĩ vãng của những đứa trẻ con
làng quê” (Thu Bồn, 1978, tr.38). Không
còn cảnh đồng quê yên ả mỗi buổi chiều để
lũ trẻ thong dong lùa trâu về, không còn
những dòng sông trong mát để trẻ thơ thỏa
sức vẫy vùng và cũng không còn những
ngày yên bình rong chơi. Cuộc sống thời
chiến vất vả, căng thẳng, hiểm nghèo in
hằn lên dáng dấp, tâm trạng của những đứa
trẻ: “Em nào cũng đen nhẻm, gầy sắt, ánh
mắt mệt mỏi vì đói ngủ, vì phải làm việc
quá sức Trên gương mặt trẻ thơ của các
em đều hằn lên khá rõ cái vẻ suy nghĩ, lo
toan Tính nết các em cũng thay đổi
NGÔ THỊ NGỌC DIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
23
nhiều, không một tiếng cười đùa, không
một lời trêu chọc” (Phùng Quán, 2005,
tr.174). Trẻ thơ vốn rất nhạy cảm, dễ tổn
thương nên bom đạn, chết chóc cùng áp lực
của cuộc chiến đấu không khỏi ảnh hưởng
nặng nề đến tâm lí của các em. Những
đoạn kí ức như chùng xuống, trĩu nặng tâm
trạng đau xót của nhà văn. Chiến tranh đã
không cho trẻ thơ sống đúng lứa tuổi hồn
nhiên, ngây thơ của mình. Nhà văn Phùng
Quán không khỏi chua xót nhìn lại tuổi thơ
của mình cũng như những đứa trẻ trong
thiên sử thi hoành tráng Tuổi thơ dữ dội:
“Tuổi thơ tôi là một tuổi thơ nghiệt ngã
13 tuổi tôi đã phải cầm lấy khẩu súng ra
trận cứu nước cùng với thế hệ cha anh.
Vào cái tuổi chơi bi chơi đáo thì tôi đã
phải nhìn thấy cảnh đầu rơi máu chảy,
phải trộm súng vượt ngục. Tất cả những
điều này tôi đã kể lại trong tiểu thuyết Tuổi
thơ dữ dội” (Phùng Quán trả lời phỏng vấn
của báo Ấp Bắc). Đằng sau chiến công,
những tấm huy chương còn có cái xô bồ,
phức tạp, những trớ trêu, oan trái tác động
không nhỏ đến đời sống trẻ thơ. Trong
Dòng sông thơ ấu, cậu bé Minh khổ sở vì
sự lôi kéo của ông Tư Khởi đang ngả
nghiêng theo giáo phái Hòa Hảo. Tác phẩm
Tuổi thơ dữ dội cho thấy nỗi oan ức đến
tuyệt vọng của cậu bé Mừng khi bị lãnh
đạo nghi ngờ là Việt gian. Trẻ thơ như cây
non mọc thẳng, các em không chịu được
bất cứ sự bẻ cong nào! Trong lúc hấp hối,
Mừng đã cầu xin khẩn thiết: “Anh ơi, anh
đừng nghi em là Việt gian nữa, anh hí”, lời
nói yếu ớt và nhỏ gần như một hơi thở
nhưng trong khoảnh khắc ấy “đã trùm lấp
cả tiếng bom đạn giặc” (Phùng Quán,
2005, tr.715). Đó thực sự là tiếng kêu
thống thiết của một tâm hồn trong trắng bị
nghi ngờ oan ức. Chỉ bằng chiến công và
cái chết, Mừng mới lấy lại được sự trong
sáng, ngay thẳng của mình.
Nhìn chung, các nhà văn đã ngoái về
quá khứ để nhìn rõ đời sống, số phận trẻ
thơ trong chiến tranh, mạnh dạn nhìn thẳng
vào sự thật mất mát, đau thương để chua
xót cho những mảnh đời trẻ thơ đặt trong
bối cảnh khốc liệt, vốn không phải là môi
trường của các em. Hồi ức về tuổi thơ
trong chiến tranh như gióng lên hồi chuông
cảnh tỉnh nhân loại hãy chấm dứt chiến
tranh, trả lại tuổi thơ cho tuổi thơ, trả lại
cuộc sống bình yên cho những đứa trẻ.
Tiếng nói bênh vực trẻ thơ còn được
thể hiện trong sự nhìn nhận lại mối quan hệ
của các em với gia đình, nhà trường và xã
hội. Trong môi trường gia đình, quan hệ
giữa người lớn và trẻ em thường đặt ra theo
hướng người lớn bao giờ cũng tốt, cũng
đúng và trẻ em là đối tượng để dạy bảo,
phải tuân theo sự sắp đặt, hướng dẫn của
họ. Với tinh thần nhân văn, đứng về phía
trẻ thơ, các nhà văn đã có cái nhìn khác.
Giờ đây, các em không còn là đối tượng để
sai khiến, dạy bảo của người lớn mà đã trở
thành một nhân cách, một cá tính độc lập.
Tuy có liên quan chặt chẽ nhưng không
phải lúc nào các em cũng phụ thuộc vào
người lớn mà có sự chủ động, vận động
riêng. Nếu người lớn là một thế giới bí ẩn
mà trẻ em không thể nào hiểu được thì đến
lượt mình, các em cũng là một thế giới
khác lạ mà người lớn không khi nào hiểu
hết. Hồi ức tuổi thơ sau 1975 chỉ ra nguyên
nhân của những mâu thuẫn, xung đột giữa
bố mẹ và con cái luôn là bố mẹ không hiểu
hết tâm tư, tình cảm của những đứa trẻ.
Trong Hành trình ngày thơ ấu, mẹ của
Bê rất thương em nhưng cũng hay dùng
đòn roi với đứa con gái cứng đầu. Mẹ
không hiểu Bê bởi cô bé có tư tưởng “nổi
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
24
loạn” còn bà vẫn theo quan niệm cũ. Khi
Bê chống lại thầy Gia, mẹ cho rằng: “Bất
luận là gì, thầy vẫn là thầy, trò vẫn là trò.
Trò dám chống lại thầy là tội không dung
thứ” (Dương Thu Hương, 1985, tr.87). Bà
bắt buộc con phải kính trọng thầy dù đó là
người thầy vô đạo đức và ra sức ngăn chặn
tư tưởng phản kháng của con. Phải chăng
việc dùng đến đòn roi chứng tỏ người mẹ
đã đuối lí, bất lực trước lời lẽ của Bê. Quan
niệm phải kính trọng thầy một cách bất
chấp của bà có phần lung lay. Quyết định
bỏ nhà lên biên giới tìm bố của Bê thực
chất là một phản ứng mạnh mẽ với mẹ, với
những gì bất công vô lí. Trong sự việc
“trầm trọng” Bê gây ra, không chỉ có người
mẹ tức giận, đau khổ mà Bê cũng day dứt,
đau đớn khôn cùng. Có thể thấy, Bê là một
đứa trẻ biết suy nghĩ sâu sắc, có ý thức trân
trọng nề nếp gia đình chứ không phải “hư
hỏng”, “bất trị” như lời của mẹ. Không chỉ
trường hợp của Bê, trong cuộc sống đời
thường, còn bao ông bố bà mẹ không thấu
hiểu con trẻ dù họ cũng từng là trẻ con.
Cậu bé Cao nhiều lần tủi thân, ấm ức giấu
kín trong tâm hồn thơ dại khi bị bố mẹ
thường xuyên mắng mỏ, đánh đập. Bố mẹ
đã vô tình hắt hủi, tạo áp lực cho Cao mà
bỏ quên những xúc cảm, tình cảm tốt đẹp
của một đứa trẻ. Cậu cảm thấy đau không
phải vì những cái “đét mông, tát má, cốc
đầu” mà vì bị mẹ bắt đi lấy mũ về khi cậu
đội cho thằng bù nhìn rơm, vì bị quát là
điên khi cho con chó Đốm một miếng thịt,
vì bị bắt đi đòi lại chiếc đèn ông sao cậu đã
cho bé Tâm, vì bị nghi ngờ là copy bài toán
đã cố gắng tự làm! Cái đau đớn, tổn thương
tinh thần của Cao lặng lẽ nhưng không dễ
nguôi quên: “Nước mắt tôi chảy ra. Không
phải tôi khóc vì cái cốc đầu của mẹ Và
cả sau này nữa, khi tôi đã lớn khôn, tôi vẫn
tiếp tục bị làm đau, những cái đau vô
hình” (Kao Sơn, 2017, tr.98). Trong Cho
tôi xin một vé đi tuổi thơ, bố mẹ của cu
Mùi và “những người bạn” cũng không
hiểu hết suy nghĩ, hành động của chúng.
Họ không hình dung ra bọn trẻ cảm thấy
buồn tẻ và nhàm chán như thế nào khi ngày
ngày lặp đi lặp lại từng ấy thứ: rửa mặt, ăn
cơm, học bài, đi ngủ... lại phải răm rắp tuân
theo sự chỉ bảo và chịu sự giám sát của bố
mẹ. Họ không hiểu trẻ thơ luôn thích
những cái mới mẻ, khác lạ và hiếu động,
nghịch phá gần như là bản chất. Họ luôn
đem những tiêu chí, chuẩn mực của người
lớn để lí giải, đánh giá trẻ con. Rốt cục,
trong mắt người lớn, các em toàn là rồ dại,
phá phách, hư hỏng, phải dùng đòn roi,
trách phạt để “trị tội” chúng. Nguyên nhân
của những hành động “điên điên” kia chỉ
có các em mới hiểu và được giấu kín trong
thế giới riêng của mình.
Tình yêu thương, bênh vực trẻ thơ
giúp các nhà văn soi rọi cả những ẩn khuất
của số phận các em. Với tâm hồn nhạy
cảm, Thiện sớm nhận ra câu chuyện phức
tạp của người lớn trong gia đình khi vợ kế
của bố cũng là em ruột của mẹ. Đằng sau
cái êm ấm, hòa thuận là một sự rạn nứt, đổ
vỡ ngấm ngầm. Điều này không khỏi gieo
vào lòng cậu bé nỗi buồn chán, khổ tâm
(Miền xanh thẳm). Trong Tuổi thơ khát
vọng, người đọc thật xót xa khi chứng kiến
cảnh cậu bé Vững tật nguyền thường xuyên
bị người mẹ nuôi gắt gỏng, cáu kỉnh đến
cay nghiệt. Em trở thành gánh nặng trong
mắt người mẹ. Áp lực cơm áo dường như
che lấp tình cảm của bà. Trong những hoàn
cảnh khắc nghiệt, đôi khi bố mẹ cũng
không làm tròn trách nhiệm với con cái,
như trường hợp mẹ của Duy đã bỏ rơi con
mà tâm hồn trẻ dại của em không thể nào
NGÔ THỊ NGỌC DIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
25
hiểu được: “Cho đến tận bây giờ tôi vẫn
không hiểu nổi lí do gì mà mẹ tôi bỏ tôi lại
cho bà, ra đi theo cái ông lái xe tải nọ. Bà
nội đã già và tôi thì còn quá bé bỏng” (Ma
Văn Kháng, 2006, tr.3). Với góc nhìn đa
chiều, sâu sắc, các nhà văn giúp người đọc
thấy rõ đời sống trẻ thơ trong quan hệ gia
đình. Trẻ em cũng phải chịu đời sống gia
đình phức tạp, nhiều ẩn khuất, chịu đựng
những ấm ức do sự áp đặt, bảo thủ của
người lớn và cha mẹ không phải lúc nào
cũng giữ được hình ảnh đẹp đẽ trong mắt
con trẻ. Đi cùng những rạn nứt trong tình
cảm gia đình là những đổ vỡ, thương tổn
trong tâm hồn trẻ thơ.
Không chỉ trong gia đình, nhà trường
và môi trường xã hội vẫn còn những đối
tượng, những vấn đề gây bao buồn tủi, đau
khổ cho trẻ thơ. Đến trường không phải
lúc nào các em cũng được học với những
người thầy đáng kính. Với tinh thần đứng
về phía trẻ thơ, các nhà văn đã dựng lên
chân dung những thầy cô yếu kém về năng
lực, không đủ tư cách, phẩm chất để dạy
học sinh. Đó là cô Thìn không có đạo đức
làm người khi nỡ đối xử tàn nhẫn, bất công
với một đứa bé mới năm tuổi đầu chỉ vì:
“Tôi không có quần áo đẹp, không có đồ
chơi, không được cô giáo Thìn yêu chiều
chăm sóc như nhiều đứa” (Ma Văn
Kháng, 2006, tr.98); đó là cô Tuyết hám
tiền, hám quyền mà đánh rơi lòng tự trọng,
không xứng đáng là nhà giáo khi“phù kẻ
thịnh, về hùa với kẻ có quyền hành và giàu
có, quen thói tác yêu tác quái vào mọi
việc” (Ma Văn Kháng, 2006, tr.236); đó là
thầy Gia đồi bại, cổ hũ, chẳng những yếu
kém về chuyên môn mà còn không có tư
cách, đạo đức nhà giáo khi quấy nhiễu, tán
tỉnh, trù úm học sinh (Hành trình ngày thơ
ấu) Như vậy, quan niệm về người thầy
đã có sự thay đổi, không phải lúc nào thầy
cô cũng đúng, cũng tốt. Quan niệm về học
sinh cũng khác trước, không phải lúc nào
các em cũng ngoan ngoãn tuân theo sự dạy
bảo của thầy cô. Các em cũng là những cá
nhân, cá tính, có thể phản ứng, nổi loạn
nếu thật sự đứng trên bục giảng không
phải là những người đáng kính. Quan niệm
học trò “ngoan - hư” cũng được xem xét
lại, không phải lúc nào học sinh phản ứng
với thầy cô hay đấu tranh chống lại những
bất công, vô lí trong nhà trường cũng là
“hư”. Nhà văn đã không né tránh sự phán
xét của học sinh với thầy cô, tuy nhiên,
không khỏi chua xót khi khắc họa hình
tượng trẻ thơ với những thương tổn, đổ vỡ
về thầy cô giáo vốn là những “tượng đài”
đẹp đẽ trong lòng học sinh. Mạnh dạn thể
hiện mặt trái trong môi trường giáo dục,
các tác giả đã tỏ rõ thái độ đứng về phía trẻ
thơ, cảm thông và trân trọng các em, đồng
thời phê phán mạnh mẽ những mặt tiêu
cực, xấu xa không đáng tồn tại ở nơi dành
cho các em học tập và rèn luyện.
Trong mối quan hệ của trẻ thơ với đời
sống xã hội, các nhà văn rất quan tâm đến
những tác động không tốt và thể hiện với
cái nhìn khác trước. Nhân cách của các em
không chỉ được bồi đắp từ những điều tốt
đẹp mà còn có sự ảnh hưởng của cái xấu,
cái ác. Do vậy, nhà văn đã mạnh dạn phanh
phui mặt trái của quá khứ, phơi bày những
gì bảo thủ, lạc hậu, xấu xa. Cậu bé Khán
từng chứng kiến những chú mõ ở quê mình
bị coi thường, khinh khi, thái độ đó có tác
động không tốt đến trẻ con. Chú Ất tóc đã
bạc vẫn bị đánh chửi, kêu thẳng tên tục,
Khán thương xót nhưng cũng có những
đứa trẻ gọi chú là “thằng Ất”! (Tuổi thơ im
lặng). Trong Hành trình ngày thơ ấu, cô bé
Loan rất ghét lão cai Cân vì lão coi trọng
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
26
tiền bạc hơn cả con ruột, hơn cả tình nghĩa.
Lão cưới mẹ Loan rồi lừa tiền, đánh đập,
hắt hủi. Lão thà mất con chứ không bỏ tiền
chuộc khi Dũng còm bị bắt cóc, khiến cậu
bé chua xót xem như mình không có bố.
Trong Côi cút giữa cảnh đời, mỗi khi kí ức
tuổi thơ sống dậy là Duy lại rùng mình nhớ
đến hành động của những kẻ như lão
Hứng, lão Luông, chị em con Vành
Khuyên. Đó như những “con quỷ” ám ảnh
Duy từ thời thơ ấu. Có thể nói, đối diện với
cuộc sống còn nhiều phức tạp, cái xấu, cái
ác vẫn có cơ hội tồn tại, đòi hỏi các em có
một độ trưởng thành nhất định về mặt nhân
cách, phải can đảm, mạnh mẽ, có cái nhìn
sâu sắc hơn, biết phân biệt cái đúng, cái
sai, nhận ra người tốt kẻ xấu để học hỏi
những điều hay và nguyện đứng bên này
của bờ vực xấu xa, tội lỗi.
3. Kết luận
Trở về tuổi thơ là trở về với những giá
trị thuần khiết, đẹp đẽ, cảm hứng chung
của mảng hồi ức về thời thơ ấu trong văn
học Việt Nam sau 1975 là ngợi ca thế giới
tuổi thơ, những phẩm chất tốt đẹp, tình yêu
thương và tấm lòng nhân hậu của con
người. Kí ức về thời thơ ấu cũng giúp nhà
văn suy tư nhiều về đời sống trẻ thơ, bộc lộ
sự nâng niu, quý trọng, bênh vực trẻ thơ,
lên tiếng phê phán những gì gây đau khổ,
buồn tủi cho các em. Qua màn sương hoài
niệm, cuộc sống thường đẹp hơn và những
câu chuyện của chính mình bao giờ cũng
thuyết phục hơn, do vậy, tiếng nói nhân
văn trong các dạng thức hồi ức tuổi thơ
cũng lấp lánh vẻ đẹp của sự ngợi ca, tiếc
nhớ và đạt đến độ chân thực, sâu sắc trong
cái nhìn của những con người trưởng
thành, từng trải. Giá trị nhân văn mà các
hồi ức về thời thơ ấu sau 1975 đưa lại có
sức thuyết phục và tác động ở chiều sâu
tâm hồn mỗi người để cùng suy ngẫm và
xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn cho trẻ
thơ và cho con người nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Minh Quốc. (2006). Hồi đó ở Sa Kỳ. Hà Nội: NXB Kim Đồng.
Dạ Ngân. (2012). Miệt vườn xa lắm, Hà Nội: NXB Kim Đồng.
Duy Khán. (1985). Tuổi thơ im lặng. Hà Nội: NXB Tác phẩm mới.
Dương Thu Hương. (1985). Hành trình ngày thơ ấu. Hà Nội: NXB Kim Đồng.
Kao Sơn. (2017). Khúc đồng dao lấm láp. Hà Nội: NXB Kim Đồng.
Lã Thị Bắc Lý. (2000). Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975. Hà Nội: NXB Đại học
Quốc gia.
Ma Văn Kháng. (2006). Côi cút giữa cảnh đời. Hà Nội: NXB Kim Đồng.
Ngô Thị Phương Trà. (2009). Kí ức tuổi thơ trong tiểu thuyết Việt Nam 1975 – 2000. Luận
văn Thạc sĩ Ngữ văn.
Nguyễn Nhật Ánh. (2008). Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ. TP.HCM: NXB Trẻ.
Nguyễn Quang Sáng. (2005). Dòng sông thơ ấu. Hà Nội: NXB Hội nhà văn.
Nhiều tác giả. (2012). Trần Hoài Dương - Vẫn còn một miền xanh thẳm. TP.HCM: NXB Trẻ.
NGÔ THỊ NGỌC DIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
27
Phong Lan. (1989). Miền thơ ấu - Một cuốn sách đẹp. Nghiên cứu Văn học, Số 4, 96 - 100.
Phùng Quán. (2005). Tuổi thơ dữ dội. Huế: NXB Thuận Hoá.
Thu Bồn. (1978). Cơn giông tuổi thơ. Hà Nội: NXB Hà Nội.
Trần Đình Sử. (1986). Tuổi thơ im lặng - Kỉ niệm về một tầng văn hóa làng quê lâu đời.
Văn nghệ, Số 39.
Trần Hoài Dương. (2000). Miền xanh thẳm. Hà Nội: NXB Văn học.
Vi Hồng. (2015). Đường về với mẹ Chữ. Hà Nội: NXB Hội nhà văn.
Vũ Đức Nguyên. (2004). Tuổi thơ khát vọng. Hà Nội: NXB Hà Nội.
Vũ Quần Phương. (1990). Đọc Côi cút giữa cảnh đời. Tác phẩm mới, Số 1, 185 - 188.
Vũ Thư Hiên (1988), Miền thơ ấu, NXB Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
Ngày nhận bài: 19/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34_2591_2214939.pdf