Tài liệu Giá trị chẩn đoán của các kỹ thuật xét nghiệm phân trong việc xác định nhiễm giun móc ở học sinh cấp 1, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 400
GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN CỦA CÁC KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM PHÂN
TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH NHIỄM GIUN MÓC Ở HỌC SINH CẤP 1,
HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016
Hoàng Thuý Hằng*, Nguyễn Hữu Ngọc Tuấn**, Nhữ Thị Hoa***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiễm giun móc (Ancylostoma duodenale và Necator americanus) phổ biến ở các nước nhiệt
đới, cận nhiệt đới; là gánh nặng cho xã hội, trong đó, thiếu máu thiếu sắt là hậu quả quan trọng. Chương trình
phòng chống giun sán đã được thực hiện trong cả nước nhiều năm qua, đặc biệt ở lứa tuổi học đường. Việc kiểm
soát hiệu quả chương trình, đánh giá trước và sau điều trị là thiết yếu, đòi hỏi kỹ thuật xét nghiệm chẩn đoán tin
cậy, độ nhạy cao, có thể áp dụng trên cộng đồng.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định giá trị chẩn đoán của các kỹ thuật xét nghiệm phân trong nhiễm giun móc ở
học sinh cấp 1, huyện Củ Chi, Thành phố...
10 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị chẩn đoán của các kỹ thuật xét nghiệm phân trong việc xác định nhiễm giun móc ở học sinh cấp 1, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 400
GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN CỦA CÁC KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM PHÂN
TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH NHIỄM GIUN MÓC Ở HỌC SINH CẤP 1,
HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016
Hoàng Thuý Hằng*, Nguyễn Hữu Ngọc Tuấn**, Nhữ Thị Hoa***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiễm giun móc (Ancylostoma duodenale và Necator americanus) phổ biến ở các nước nhiệt
đới, cận nhiệt đới; là gánh nặng cho xã hội, trong đó, thiếu máu thiếu sắt là hậu quả quan trọng. Chương trình
phòng chống giun sán đã được thực hiện trong cả nước nhiều năm qua, đặc biệt ở lứa tuổi học đường. Việc kiểm
soát hiệu quả chương trình, đánh giá trước và sau điều trị là thiết yếu, đòi hỏi kỹ thuật xét nghiệm chẩn đoán tin
cậy, độ nhạy cao, có thể áp dụng trên cộng đồng.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định giá trị chẩn đoán của các kỹ thuật xét nghiệm phân trong nhiễm giun móc ở
học sinh cấp 1, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế cắt ngang phân tích được tiến hành trên toàn bộ học sinh
cấp 1, huyện Củ Chi, Tp. HCM, năm 2016. Mỗi mẫu phân thu thập được xét nghiệm bằng các kỹ thuật cổ điển
(soi trực tiếp, Willis, Kato-Katz, Sasa) và Real-time PCR.
Kết quả: 954 mẫu được đưa vào phân tích. Tỷ lệ nhiễm giun móc dựa trên tiêu chuẩn vàng và trung bình
nhân số trứng trong 1 gram phân là 6,92% và 0,35 [0,24 – 0,48], nhiễm nhẹ chiếm 81,82%. Kỹ thuật soi trực
tiếp, Willis, Kato-Katz, Sasa, Real-time PCR có độ nhạy lần lượt là 45,3%, 57,8%, 67,2%, 75%, 78,1% và giá trị
tiên đoán âm là 96,1%, 97%, 97,6%, 98,2%, 98,3%. Khi phối hợp các kỹ thuật xét nghiệm phân cổ điển, độ nhạy
tăng đáng kể ở các cặp: STT-Sasa 87,5%, KK-Sasa 93,8%, Willis-Sasa 90,6%. Độ nhạy của Real-time PCR
không tăng khi phối hợp với soi trực tiếp, Kato-Katz, hoặc Willis, nhưng tăng đáng kể lên 98,4% khi phối hợp với
Sasa.
Kết luận: Phối hợp các kỹ thuật xét nghiệm phân cổ điển, cặp KK-Sasa cho độ nhạy cao nhất, là lựa chọn ưu
tiên phát hiện nhiễm giun móc trên cộng đồng. Real-time PCR kết hợp Sasa cũng có độ nhạy cao, thích hợp trong
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng hoặc đánh giá hiệu quả tiến triển của các chương trình can thiệp.
Từ khoá: necator americanus, Ancylostoma duodenale, kỹ thuật cấy Sasa, Real-time PCR
ABSTRACT
“STOOL TESTING TECHNIQUES’ DIAGNOSTIC ACCURACY IN DETERMINING INFECTION
WITH HOOKWORMS AMONG ELEMENTARY STUDENTS IN CU CHI DISTRICT,
HO CHI MINH CITY, VIET NAM, 2016”
Hoang Thuy Hang, Nguyen Huu Ngoc Tuan, Nhu Thi Hoa
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 400-409
Background: Hookworm infestation (Ancylostoma duodenale and Necator americanus) found widely in
tropical and subtropical countries, have created a burden to the society, especially iron deficiency anemia as
one of the severe consequences. In recent years, helminthes prevention and control programs has been
*Bộ môn Ký sinh Y học – Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
**Bộ môn Hoá Sinh - Sinh Học Phân Tử Y học – Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
***Bộ môn Vi-Ký sinh, Khoa Y, Đại học Quốc Gia Tp. HCM
Tác giả liên lạc: BS. Hoàng Thuý Hằng ĐT: 0902705039 Email: hoangthuyhang@pnt.edu.vn
*Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch **Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 401
broadly implemented nationwide with an especial focus on school-age children. The program’s effective
control, before-and-after treatments are essential, which require reliable, highly sensitivity and communal
well-applied diagnostic techniques.
Objectives: To determine diagnostic accuracy of stool testing techniques for detection of hookworm infection
among elementary students in Cu Chi District, Ho Chi Minh City.
Methods: The study was conducted in 2016 by using cross-sectional analysis on elementary students living
in Cu Chi District, Ho Chi Minh City. Each stool sample was tested by using traditional stool testing techniques
(direct microscopy, Kato-Katz, Willis, Sasa) and Real-time PCR.
Results: A total of 954 stool samples were qualified for the analysis. Hookworm prevalance based on the gold
standard and geometric mean of eggs per gram of faeces was 6.92% and 0.35 [0.24 – 0.48], with 81.82% cases as
light-intensity infections. Direct microscopy, Willis, Kato-Katz, Sasa, and Real-time PCR had sensitivities of
45.3%, 57.8%, 67.2%, 75% and 78.1% respectively, and negative predictive values of 96.1%, 97%, 97.6%,
98.2%, and 98.3% respectively. The sensitivities increased significantly in pairs: Direct microscopy-Sasa 87.5%,
KK-Sasa 93.8%, Willis-Sasa 90.6%. Combining Real-time PCR with direct microscopy technique, Kato-Katz, or
Willis did not help to increase the sensitivity of PCR; however, Real-time PCR-Sasa would boost PCR’s
sensitivity impressively to 98.4%.
Conclusion: When we put traditional stool testing techniques together, KK-Sasa pair gave the highest level
of sensitivity, should be the priority method to detect hookworm infection in the community. Combining Real-
time PCR with Sasa also gave the highest level of sensitivity, can apply in clinical trial research, or evaluating
effective progress of intervention programs.
Key words: necator americanus, Ancylostoma duodenale, Sasa technique, Real-time PCR
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm giun móc (Ancylostoma duodenale và
Necator americanus) là một vấn đề sức khỏe được
quan tâm ở các nước nhiệt đới, cận nhiệt đới,
liên quan đến tập quán bón phân người chưa
được ủ kỹ, làm việc tay trần, chân đất, Theo
Pullan, khoảng 438,9 triệu người nhiễm giun
móc trên toàn thế giới vào năm 2010, chủ yếu ở
các nước châu Á và vùng Cận Saharan Châu
Phi(12). Tại Việt Nam, tỷ lệ nhiễm giun móc dao
động từ 5,6% - 47,97% tùy theo khu vực và đối
tượng khảo sát(7,8). Gánh nặng bệnh tật do giun
móc được ước tính khoảng 3,23 triệu DALYs
(disability adjusted life years - số năm sống hiệu
chỉnh theo mức độ tàn tật), chiếm cao nhất trong
tổng số 5,18 triệu DALYs do các loại giun truyền
qua đất(12).
Trong nhiều năm qua, chương trình phòng
chống giun sán đã được thực hiện rộng rãi trong
cả nước, đặc biệt ở tuổi học đường. Việc kiểm
soát hiệu quả chương trình, đánh giá trước và
sau điều trị là thiết yếu và đòi hỏi phải có kỹ
thuật xét nghiệm chẩn đoán tin cậy, độ nhạy cao,
có thể áp dụng rộng rãi trên cộng đồng.
Chẩn đoán nhiễm giun móc chủ yếu dựa vào
việc phát hiện trứng giun móc trong phân, như
soi trực tiếp (STT), Kato-Katz (KK), Willis ,...
Trong nhiều nghiên cứu thử nghiệm can thiệp,
do yêu cầu chẩn đoán chính xác tình trạng
nhiễm giun, phương pháp Real-time PCR đã
được sử dụng để phát hiện cùng lúc các loại
giun lây truyền qua đất với độ nhạy cao(1,6). Tuy
nhiên, vấn đề chi phí đã vượt quá tầm với của
các nước đang phát triển. “Trong điều kiện hiện
nay ở Việt Nam, kỹ thuật xét nghiệm phân nào
phù hợp nhất đối với chẩn đoán nhiễm giun
móc, có thể ứng dụng tốt trong cộng đồng, phục
vụ đánh giá hiệu quả các chương trình cũng như
các thử nghiệm can thiệp?”
Vì thế, khảo sát này được tiến hành, hy
vọng các kết quả thu được sẽ giúp trả lời câu
hỏi nêu trên.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ nhiễm giun móc ở học sinh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 402
cấp 1, huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh, năm
2016 dựa trên tiêu chuẩn vàng.
Xác định giá trị chẩn đoán của các kỹ thuật
xét nghiệm phân trong nhiễm giun móc dựa trên
tiêu chuẩn vàng.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang phân tích được thực
hiện từ tháng 3/2016 đến tháng 4/2016, trên tất cả
học sinh từ lớp 1 đến lớp 4 của ba trường tiểu
học An Phước, Phước Hiệp và Phước Thạnh,
huyện Củ Chi, Tp. Hồ Chí Minh có mặt tại thời
điểm nghiên cứu, chưa uống thuốc tẩy giun
trong vòng 3 tháng trước thời điểm nghiên cứu,
được phụ huynh đồng ý cho tham gia nghiên
cứu. Mỗi đối tượng sẽ được thu thập 2 mẫu
phân để xét nghiệm. Những mẫu không đạt như
lượng phân < 10g, lẫn tạp chất, lẫn nước tiểu,
không phải phân người sẽ bị loại khỏi nghiên
cứu. Thông tin về nhân khẩu học được ghi nhận
dựa trên bảng câu hỏi soạn sẵn.
Sau khi thu thập mẫu phân, một lọ sẽ được
xét nghiệm tại Bộ môn Ký sinh Y học, Trường
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, bằng các kỹ
thuật soi trực tiếp, Willis, Kato-Katz và Sasa
trong vòng 24 giờ. Lọ phân còn lại được thực
hiện kỹ thuật Real-time PCR tại khoa Xét
nghiệm, Đơn vị nghiên cứu lâm sàng Đại học
Oxford (OUCRU), Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TP.
HCM. Trong lần phân tích PCR đầu tiên, những
mẫu không xác định được kết quả do internal
control không hoạt động sẽ được chiết tách
DNA lại và chạy Real-time PCR lần 2. Nếu
internal control vẫn không hoạt động, mẫu phân
này sẽ được kết luận là “không xác định”.
Tiêu chuẩn vàng trong nghiên cứu dựa
trên sự phối hợp kết quả của 4 kỹ thuật xét
nghiệm phân cổ điển (soi trực tiếp, Kato-Katz,
Willis và Sasa): được kết luận là “nhiễm giun
móc” khi 1 trong 4 kỹ thuật phát hiện được
giun móc. Do đó, độ đặc hiệu của các xét
nghiệm này đều là 100%.
Đối với kỹ thuật Real-time PCR, trình tự các
đoạn mồi (primer), đoạn dò (probe) của
Ancylostoma duodenale, Necator americanus và
PhHV (internal control) được sử dụng dựa theo
nghiên cứu của Mejia(6).
Đoạn mồi xuôi, 5’ 3’ Vùn
g
đích
Đoạn mồi ngược, 5’ 3’
Đoạn dò, 5’ 3’
A.
duodenale
GAATGACAGCAAACTCGTTGTTG ITS-
2 ATACTAGCCACTGCCGAAACGT
ATCGTTTACCGACTTTAG
N.
americanu
s
CTGTTTGTCGAACGGTACTTGC ITS-
2 ATAACAGCGTGCACATGTTGC
CTGTACTACGCATTGTATAC
PhHV
(internal
control)
GGGCGAATCACAGATTGAATC
GCGGTTCCAAACGTACCAA
TTTTTATGTGTCCGCCACCATCTGGAT
C
Số liệu được phân tích bằng Stata 12.1.
Thống kê mô tả: tần số, tỷ lệ đối với các biến
định tính. Sử dụng khoảng tin cậy 95% và OR
để so sánh tỷ lệ nhiễm theo các thuộc tính của
mẫu nghiên cứu (kiểm định χ2) và độ nhạy
giữa các kỹ thuật xét nghiệm phân (kiểm định
McNemar χ2).
KẾT QUẢ
Tổng cộng có 954 mẫu thoả tiêu chí chọn
mẫu được đưa vào phân tích. Sự phân bố giữa
các nhóm lớp và giới tính là như nhau trong
mẫu nghiên cứu.
Tỷ lệ nhiễm giun móc
Tỷ lệ nhiễm giun móc dựa trên tiêu chuẩn
vàng là 6,92% (66/954). Tỷ lệ nhiễm giun móc
theo từng kỹ thuật xét nghiệm soi trực tiếp
(STT), Kato-Katz (KK), Willis, Sasa và Real-time
PCR (PCR) lần lượt là 3,04% (29/954), 4,61%
(44/954), 3,88% (37/954), 5,24% (50/954) và 9,12%
(87/954).
Trong 44 trường hợp nhiễm giun móc xác
định bằng kỹ thuật Kato-Katz, có 81,82% trường
hợp thuộc nhóm nhiễm nhẹ. Trung bình nhân số
trứng trong 1 gram phân (EPG – eggs per gram)
rất thấp 0,35 [0,24 – 0,48] trứng/gram phân.
Trong 87 trường hợp nhiễm giun móc xác
định bằng kỹ thuật Real-time PCR, đơn nhiễm
Necator americanus chiếm 62,07%, đơn nhiễm
Ancylostoma duodenale chiếm 33,33%, 4,6%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 403
trường hợp nhiễm phối hợp cả 2 loài giun móc
Necator americanus và Ancylostoma duodenale.
Tỷ lệ nhiễm ở trẻ nhóm lớp 3-4 cao gấp 1,78
lần tỷ lệ nhiễm ở trẻ nhóm lớp 1-2 (p = 0,027).
Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về tỷ lệ nhiễm giữa nam, nữ và giữa các trường
(Bảng 1).
Bảng 1: Tỷ lệ nhiễm giun móc phân bố theo giới,
nhóm lớp, trường
Nhiễm giun móc
n (%)
P χ2 OR
[KTC 95%]
Có Không
Nhóm lớp
1 - 2
3 - 4
25 (5,13)
41 (8,78)
462 (94,87)
426 (91,22)
0,027
1,78
[1,04–3,11]
Giới
Nam
Nữ
39 (8,39)
27 (5,52)
426 (91,61)
462 (94,48)
0,081
1,57
[0,92–2,71]
Trường
An Phước
Phước Hiệp
Phước Thạnh
12 (5,45)
28 (7,78)
26 (6,95)
208 (94,55)
332 (92,22)
348 (93,05)
0,581
0,91
[0,66–1,26]
Giá trị chẩn đoán nhiễm giun móc của các kỹ
thuật xét nghiệm phân
Khi thực hiện kỹ thuật Real-time PCR, có 24
mẫu không xác định được kết quả do internal
control không hoạt động, nên được loại ra khi
phân tích giá trị chẩn đoán của các kỹ thuật xét
nghiệm, còn 930 mẫu được đưa vào phân tích.
Độ nhạy của các kỹ thuật có giá trị tăng dần
như sau: soi trực tiếp (45,3%), Willis (57,8%),
Kato-Katz (67,2%), Sasa (75%) và Real-time PCR
(78,1%). Do kết quả dương tính được bao gồm
trong tiêu chuẩn vàng nên độ đặc hiệu và giá trị
tiên đoán dương của các kỹ thuật thành phần
(soi trực tiếp, Kato-Katz, Willis và Sasa) là 100%.
Giá trị tiên đoán âm của tất cả các kỹ thuật này
đều > 96%. Real-time PCR có độ đặc hiệu và giá
trị tiên đoán âm cao, > 95%, nhưng độ nhạy và
giá trị tiên đoán dương thấp, lần lượt là 78,1% và
57,5% (Bảng 2).
Độ nhạy của kỹ thuật Real-time PCR tương
đương với Sasa nhưng cao hơn có ý nghĩa thống
kê so với soi trực tiếp, Kato-Katz và Willis
(p<0,05). Giữa các phương pháp xét nghiệm trực
tiếp, khả năng phát hiện giun móc của soi trực
tiếp thấp hơn cấy Sasa và Kato-Katz (p = 0,002 và
p = 0,004), nhưng chưa tìm thấy sự khác biệt về
mặt thống kê giữa Sasa và Kato-Katz, giữa Willis
và các kỹ thuật trực tiếp khác (Bảng 3).
Bảng 2: Giá trị chẩn đoán của các kỹ thuật xét nghiệm phân dựa trên tiêu chuẩn vàng
Nhiễm giun móc Se
[KTC 95%]
Sp
[KTC 95%]
PV
-
[KTC 95%]
PV
+
[KTC 95%] Có Không
STT
(+) 29 0 45,3%
[32,8 – 58,3]
100%
[99,6 – 100]
96,1%
[94,6 – 97,3]
100%
[88,1 – 100] (-) 35 866
KK
(+) 43 0 67,2%
[54,3 – 78,4]
100%
[99,6 – 100]
97,6%
[96,4 – 98,5]
100%
[91,8 – 100] (-) 21 866
Willis
(+) 37 0 57,8%
[44,8 – 70,1]
100%
[99,6 – 100]
97%
[95,6 – 98,0]
100%
[90,5 – 100] (-) 27 866
Sasa
(+) 48 0 75%
[62,6 – 85,0]
100%
[99,6 – 100]
98,2%
[97,1 – 99,0]
100%
[92,6 – 100] (-) 16 866
PCR
(+) 50 37 78,1%
[66,0 – 87,5]
95,7%
[94,2 – 97]
98,3%
[97,2 – 99,1]
57,5%
[46,4 – 68,0] (-) 14 829
Bảng 3: So sánh độ nhạy của các kỹ thuật xét nghiệm phân
Real-time PCR OR
[KTC 95%]
PMcNemar2
*
(+) (-)
Soi trực tiếp
(+) 29
21
0
14
0,000
(-)
Kato-Katz
(+) 43
7
0
14
0,016
(-)
Willis
(+) 36
14
1
13
14
[2,13 – 591,97]
0,001
(-)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 404
Real-time PCR OR
[KTC 95%]
PMcNemar2
*
(+) (-)
Sasa
(+) 35
15
13
1
1,15
[0,51 – 2,63]
0,851
(-)
Sasa
(+) (-)
Soi trực tiếp
(+) 21
27
8
8
3,38
[1,49 – 8,60]
0,002
(-)
Kato-Katz
(+) 31
17
12
4
1,41
[0,64 – 3,25]
0,458
(-)
Willis
(+) 27
21
10
6
2,1
[0,94 – 4,99]
0,071
(-)
Kato-Katz
(+) (-)
Soi trực tiếp
(+) 25
18
4
17
4,5
[1,48 – 18,28]
0,004
(-)
Willis
(+)
(-)
34
9
3
18
3
[0,75 – 17,23]
0,146
Willis
(+) (-)
Soi trực tiếp
(+)
(-)
23
14
6
21
2,33
[0,84 – 7,41]
0,115
* McNemar 2 exact
Bảng 4: Độ nhạy và giá trị tiên đoán âm khi phối hợp các kỹ thuật xét nghiệm phân truyền thống
Nhiễm giun móc Se
[KTC 95%]
PV
-
[KTC 95%] Có Không
STT-KK
(+) 47 0 73,4%
[60,9 – 83,7]
98,1%
[96,9 – 98,9] (-) 17 866
STT-Willis
(+) 43 0 67,2%
[54,3 – 78,4]
97,6%
[96,4 – 98,5] (-) 21 866
STT-Sasa
(+) 56 0 87,5%
[76,8 – 94,4]
99,1%
[98,2 – 99,6] (-) 8 866
KK-Willis
(+) 46 0 71,9%
[59,2 – 82,4]
98%
[96,8 – 98,8] (-) 18 866
KK-Sasa
(+) 60 0 93,8%
[84,8 – 98,3]
99,5%
[98,8 – 99,9] (-) 4 866
Willis-Sasa
(+) 58 0 90,6%
[80,7 – 96,5]
99,3%
[98,5 – 99,7] (-) 6 866
Bảng 5: Độ nhạy và giá trị tiên đoán âm khi phối hợp kỹ thuật Real-time PCR với các kỹ thuật xét nghiệm phân
truyền thống
Nhiễm giun móc Se
[KTC 95%]
PV
-
[KTC 95%] Có Không
STT-PCR
(+) 50 37 78,1%
[66,0 – 87,5]
98,3%
[97,2 – 99,1] (-) 14 829
KK-PCR
(+) 50 37 78,1%
[66,0 – 87,5]
98,3%
[97,2 – 99,1] (-) 14 829
Willis-PCR
(+) 51 37 79,7%
[67,8 – 88,7]
98,5%
[97,4 – 99,2] (-) 13 829
Sasa-PCR
(+) 63 37 98,4%
[91,6 – 100]
99,9%
[99,3 - 100] (-) 1 829
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 405
Khi phối hợp các kỹ thuật xét nghiệm phân
truyền thống, độ nhạy của các cặp đều tăng lên
so với từng kỹ thuật đơn thuần, đặc biệt tăng
đáng kể ở các cặp phối hợp với cấy Sasa: STT–
Sasa 87,5%; Willis–Sasa 90,6%; KK–Sasa 93,8%
(Bảng 4).
Phối hợp kỹ thuật Real-time PCR với các
kỹ thuật soi trực tiếp, Kato-Katz, Willis không
làm tăng độ nhạy của PCR, nhưng phối hợp
với Sasa sẽ gia tăng đáng kể khả năng phát
hiện giun móc (98,4%) so với Real-time PCR
đơn thuần (78,1%) (Bảng 5).
BÀN LUẬN
Tỷ lệ nhiễm giun móc
Tỷ lệ nhiễm giun móc dựa trên tiêu chuẩn vàng
Dựa trên tiêu chuẩn vàng, kết quả nhiễm
tổng hợp của các kỹ thuật xét nghiệm phân
truyền thống (soi trực tiếp, Kato-Katz, Willis và
Sasa) là 6,92%, nhỏ hơn so với các công bố trong
nước những năm gần đây ở các vùng dịch tễ
giun móc trên các nhóm tuổi lớn hơn(5,8). Ở trẻ
nhỏ, nguy cơ tiếp xúc nguồn nhiễm ít hơn dẫn
đến khả năng nhiễm thấp hơn có thể đã chi phối
đặc điểm này. Cũng trên nhóm tiểu học, nhưng
số trường hợp nhiễm vượt trội trong các báo cáo
tại Krông Pắk, Đắk Lắk: 19,25% và 22,8% vào
năm 2011 và 2015(3,7). Xét thuộc tính của đối
tượng nghiên cứu, tỷ lệ 22,8% thu được từ trẻ Ê
Đê trong khi 19,25% chủ yếu thuộc về nhóm dân
tộc Kinh.
Như vậy, tập quán sinh hoạt khác nhau, điều
kiện thổ nhưỡng của khu vực sinh sống khác
nhau, dù ít dù nhiều đã góp phần vào sự chênh
lệch này. Khi so sánh với các điều tra trên trẻ 6 –
11 tuổi, tỷ lệ nhiễm 6,92% trong nghiên cứu chỉ
xấp xỉ 1/5 – 1/4 số trường hợp nhiễm tại một số
xã thuộc huyện Củ Chi vào năm 2007(9,9). Nói
cách khác, tình hình nhiễm giun móc trong cộng
đồng huyện Củ Chi có khuynh hướng giảm, phù
hợp với nhận định của Pullan trong một phân
tích tổng hợp năm 2010 từ 6091 nghiên cứu
thuộc 118 nước: tỷ lệ nhiễm giun lây truyền qua
đất nói chung và nhiễm giun móc nói riêng đang
giảm mạnh ở các nước khu vực Châu Á, 7,7%
vào năm 2010 so với 13,8% năm 1990(12). Từ thập
niên vừa qua, nền kinh tế chính của địa phương
đang chuyển dần từ nông nghiệp sang các
ngành công nghiệp, điều kiện kinh tế, đời sống
dân cư và vệ sinh môi trường từng bước được
cải thiện. Mặt khác, Củ Chi được nhiều đơn vị
lựa chọn để điều tra về tình hình nhiễm giun
trong cộng đồng kèm với tẩy giun đại trà. Qua
đó nâng cao nhận thức của người dân về tính
phổ biến và tầm quan trọng của các bệnh do
giun lây truyền qua đất, góp phần thay đổi hành
vi nguy cơ liên quan đến nhiễm giun như sử
dụng hố xí hợp vệ sinh, mang găng, đi ủng khi
làm vườn, trồng trọt trên ruộng, rẫy Do vậy,
tỷ lệ nhiễm giảm đáng kể là điều tất yếu.
Nhóm lớp 3-4 (tương ứng với nhóm 9-11
tuổi) có tỷ lệ nhiễm giun móc cao gấp 1,78 lần
nhóm lớp 1-2 (tương ứng với 6-8 tuổi) (p =
0,027). Trẻ nhỏ thường chơi quanh nhà, trong
khi trò chơi của trẻ lớn thường tập trung trên các
bãi đất trống, trên đồng, ruộng, và có thể giúp
cha mẹ một số công việc đồng áng nên nguy cơ
phơi nhiễm cao hơn.
Xét trên phạm vi cộng đồng, với tỷ lệ nhiễm
6,92% và trung bình nhân số trứng/100 gam
phân là 35 [24 – 48] (epg trung bình = 0,35 [0,24 –
0,48]) đã cho phép kết luận tình trạng nhiễm
giun móc ở học sinh cấp 1 tại ba trường tiểu học
An Phước, Phước Hiệp, Phước Thạnh thuộc
cộng đồng nhiễm nhẹ. Biện pháp can thiệp thích
hợp đối với cộng đồng này là quản lý các trường
hợp nhiễm: tẩy giun, xét nghiệm phân kiểm tra
sau điều trị, và theo dõi cho đến khi xét nghiệm
phân âm tính. Đối với cá thể nhiễm nặng, nên
lặp lại liều thứ 2 cách liều đầu tiên 1 tuần. Đồng
thời, truyền thông giáo dục về phòng ngừa
nhiễm giun cho tất cả học sinh, phụ huynh, thầy
cô giáo, nhân viên của 3 trường nhằm giảm thiểu
tối đa các hành vi nguy cơ, góp phần tiếp tục
giảm số trường hợp bệnh mới, dần dần tiến đến
loại trừ bệnh.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 406
Tỷ lệ nhiễm phân bố theo loài
Kỹ thuật Real-time PCR xác định được 87
trường hợp nhiễm giun móc, trong đó 62,07% là
Necator americanus, 33,33% nhiễm Ancylostoma
duodenale và 4,6% nhiễm phối hợp cả hai loài,
phù hợp với y văn: ở khu vực Đông Nam Á,
Necator americanus là loài giun móc chiếm ưu thế,
ngoài ra nhiễm phối hợp với Ancylostoma
duodenale cũng khá phổ biến(2).
Ngoài N. americanus và A. duodenale, một loại
giun móc ký sinh ở chó mèo, Ancylostoma
ceylanicum, đã được phân lập từ phân người
bằng kỹ thuật PCR trong nhiều năm gần đây và
đã trở thành loài giun móc phổ biến thứ 2 gây
bệnh cho người, sau N. americanus, trong cộng
đồng nhiễm giun móc ở khu vực Châu Á. RJ
Traub ước lượng khoảng 19 – 73 triệu người bị
nhiễm Ancylostoma ceylanicum tại các vùng dịch
tễ của bệnh giun sán động vật ký sinh trên
người(14). Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam vẫn
chưa phát hiện được loài giun móc này trong các
mẫu phân người bị nhiễm trứng giun móc. Như
vậy phải chăng A. ceylanicum không hiện diện ở
Việt Nam hay vấn đề liên quan đến kỹ thuật xét
nghiệm? Thật vậy, nhiều khả năng A. ceylanicum
đã bị che giấu khi đoạn mồi sử dụng trong
nghiên cứu này đặc hiệu cho giống Ancylostoma
nhưng không đặc hiệu cho loài. Cần xây dựng
một đoạn mồi đặc hiệu hơn khi khảo sát sự phân
bố các loài giun móc ký sinh trong ruột người.
Việc tìm hiểu sự phân bố của các loài giun móc
sẽ giúp xây dựng biện pháp phòng chống cụ thể
theo từng vùng dịch tễ.
Giá trị chẩn đoán nhiễm giun móc của các kỹ
thuật xét nghiệm phân
Độ nhạy của các kỹ thuật xét nghiệm phân
dựa trên tiêu chuẩn vàng
Soi trực tiếp mẫu phân tươi với nước muối,
dung dịch lugol 1– 3% hoặc mẫu phân cố định
trong dung dịch bảo quản F2AM chỉ sử dụng
một lượng phân rất nhỏ, khoảng 1 mg cho mỗi
phết ướt nên khả năng bỏ sót ký sinh trùng cao,
âm tính giả thường xảy ra, dẫn đến sự thua kém
về khả năng phát hiện ký sinh trùng so với Sasa
và Kato-Katz (p < 0,05, Bảng 3). Birgit Nikolay
phân tích tổng hợp 20 công trình nghiên cứu
trên thế giới đã kết luận 42,8% (KTC 95%: 38,3%
- 48,4%) mẫu nhiễm giun móc bằng soi trực tiếp,
thấp nhất trong các phương pháp được sử dụng
(Kato-Katz, Formol-ether, FLOTAC,
miniFLOTAC, McMaster)(11). Cường độ nhiễm
cũng là một yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến độ
nhạy của xét nghiệm, sự phân tích phân tầng
theo mức độ nhiễm sẽ cho phép bộc lộ chính xác
hơn giá trị của các phương pháp như trong báo
cáo của Nikolay: độ nhạy của kỹ thuật soi trực
tiếp đối với giun móc ở nhóm nhiễm nhẹ chỉ
16,3% [4,4% - 34,8%] và tăng mạnh lên 53,7%
[47,6% - 59,7%] ở nhóm nhiễm nặng(11). Trong
nghiên cứu hiện tại, số trường hợp nhiễm bằng
Kato-Katz không nhiều, chỉ 44 mẫu dương, đã
hạn chế chiến lược phân tầng khi phân tích kết
quả. Trong các điều tra trên cộng đồng, xét
nghiệm phân bằng soi trực tiếp đơn thuần có thể
ước lượng thấp tình trạng nhiễm và không cho
phép đánh giá chính xác mức độ nhiễm dựa trên
cách mô tả mật độ theo hệ thống dấu cộng (+) sẽ
ảnh hưởng đến chiến lược phòng chống tại địa
phương. Tuy nhiên, ưu điểm của kỹ thuật soi
trực tiếp là dụng cụ và thao tác đơn giản, chi phí
thấp, cho kết quả nhanh, không bị khống chế
thời gian xét nghiệm, an toàn cho xét nghiệm
viên, có thể khảo sát tất cả các loại ký sinh trùng
đường ruột đặc biệt là đơn bào.
Mặc dù xác suất phát hiện trứng giun móc
của soi trực tiếp kém hơn Kato-Katz, nhưng
Bảng 2 và 3 cho thấy độ nhạy của Kato-Katz chỉ ở
mức khá tốt (67,2%). Theo thống kê của Nikolay,
độ nhạy của Kato-Katz (59,5%) sẽ tăng lên khi
thực hiện 2 tiêu bản trên một mẫu phân (63%) và
tăng cao hơn nếu thực hiện trên nhiều mẫu phân
lấy nhiều ngày khác nhau (74,3%)(11). Mặt khác,
nếu để mẫu phân quá lâu, trứng giun nở thành
ấu trùng sẽ không được phát hiện trên tiêu bản
Kato-Katz. Tổ Chức Y Tế Thế Giới (TCYTTG) đã
khuyến cáo nên thu thập và xét nghiệm phân
trong ngày để tránh trường hợp trứng nở thành
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 407
ấu trùng. Hơn nữa, trứng giun móc vỏ mỏng, dễ
bị glycerin trong kỹ thuật Kato-Katz làm tiêu
biến nhanh, khó nhận diện, do đó để tăng cường
hiệu quả của Kato-Katz trong chẩn đoán giun
móc, thời gian từ lúc chuẩn bị tiêu bản đến khi
quan sát phải được đảm bảo trong vòng 15-30
phút. Như vậy, bên cạnh các hạn chế như chỉ
phát hiện được trứng giun, sán, quy trình khá
phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và
yêu cầu tuân thủ chặt chẽ các quy định kỹ thuật,
Kato-Katz vẫn được TCYTTG khuyến cáo sử
dụng trong các khảo sát bệnh giun móc trên
cộng đồng vì có khả năng định lượng cường độ
nhiễm và có độ nhạy cao hơn soi trực tiếp.
Độ nhạy của Sasa trong nghiên cứu là 75%,
cao hơn trong nghiên cứu của Nhữ Thị Hoa và
cs (56,4%)(9). Có thể do số liệu phân tích trong
Bảng 2 xuất phát từ cộng đồng nhiễm nhẹ với
trung bình nhân số trứng trên 1 gram phân rất ít,
0,35 [0,24 – 0,84], thấp hơn 3,89 [3,5 – 4,3] của
Nhữ Thị Hoa. Lê Đức Vinh cũng tìm thấy độ
nhạy của Sasa trong khảo sát giun móc khá cao
86,17%, kế đến là Willis 72,35% và soi trực tiếp
63,67%(5). Phương pháp cấy Sasa với khối lượng
phân sử dụng lớn và việc ly tâm dung dịch cấy
sẽ tập trung ấu trùng trong cặn lắng sẽ tăng cơ
hội nhận diện ấu trùng dưới kính hiển vi.
Khi đánh giá hiệu quả của Sasa và Kato-
Katz, Bảng 3 không thể hiện sự khác biệt giữa 2
phương pháp này đối với chẩn đoán nhiễm giun
móc. Trong nghiên cứu của Nhữ Thị Hoa và cs,
phân tích phân tầng đã bộc lộ được tác động của
mật độ nhiễm lên tính nhạy của Sasa và Kato-
Katz. Trên dân số nhiễm nhẹ, Kato-Katz nhạy
hơn Sasa gấp 1,4 lần (p = 0,000) nhưng Sasa sẽ
hiệu quả gấp 5 lần Kato-Katz (p = 0,000) trên
nhóm đối tượng nhiễm nặng(9). Ngoài tác động
của mật độ nhiễm, của những yếu tố được đề
cập khi so sánh độ nhạy của Kato-Katz và soi
trực tiếp, một “tai biến” kỹ thuật không thể kiểm
soát triệt để cũng có thể ít nhiều ảnh hưởng đến
giá trị chẩn đoán: trong canh cấy Sasa, nếu phân
rơi xuống phần dung dịch bên dưới, những chất
chuyển hoá trong phân có thể làm thay đổi pH,
ức chế sự tồn tại và phát triển của ấu trùng dẫn
đến âm tính giả. Tóm lại, kỹ thuật cấy Sasa dễ
thao tác, chi phí thấp, nhưng quy trình phức tạp,
thời điểm đọc kết quả phải sau 7-10 ngày, trong
khi các kỹ thuật khác có thể quan sát ngay sau
khi thu thập mẫu phân, vì vậy kỹ thuật này phù
hợp cho điều tra cộng đồng hơn phục vụ chẩn
đoán lâm sàng.
Đối với Real-time PCR, độ đặc hiệu và giá trị
tiên đoán âm của xét nghiệm này thuộc nhóm
cao, tương ứng lần lượt là 95,7% và 98,3%,
nhưng độ nhạy và giá trị tiên đoán dương vẫn
còn hạn chế, 78,1% và 57,5%. Khối lượng phân
sử dụng để chiết tách DNA trong kỹ thuật PCR
ít hơn khoảng 50 lần khối lượng dùng cho cấy,
do đó xác suất lấy trúng mẫu xét nghiệm không
chứa mầm bệnh không phải là không có, đặc
biệt khi mật độ ký sinh trùng thấp. Bảng 3 cho
thấy 13 trường hợp được phát hiện bằng Sasa
nhưng âm tính giả đối với PCR đã củng cố thêm
cho lập luận này. Như vậy, độ nhạy của Real-
time PCR cũng bị ảnh hưởng bởi mật độ nhiễm,
tương tự các phương pháp trực tiếp tầm soát
trứng, ấu trùng giun. Đặc điểm này có thể được
phản ánh qua kết quả của Knopp và Verweij, với
trung bình số trứng trên 1 gram phân là 516, khả
năng phát hiện nhiễm giun móc của PCR và
Kato-Katz dường như không khác biệt, lần lượt
là 73,6% và 75%(4), nhưng ở quần thể nhiễm nặng
hơn, epg trung bình = 720, độ nhạy của PCR đạt
gần như tuyệt đối, 100% đối với A. duodenale và
99,5% đối với N. americanus, trong khi tỷ lệ
dương tính trong nhóm bệnh của Kato-Katz là
81%(15).
Bảng 3 cũng tìm thấy tính nhạy vượt trội có ý
nghĩa thống kê của PCR so với soi trực tiếp,
Kato-Katz và Willis (p < 0,05), nhưng chưa thể
hiện được sự khác biệt so với Sasa. Xuất phát từ
nguyên lý của kỹ thuật, khả năng phát hiện
nhiễm của PCR tất nhiên phải cao hơn soi trực
tiếp, Willis và Kato-Katz: PCR xét nghiệm 100mg
phân nhiều hơn soi trực tiếp và Kato-Katz, sau
đó DNA được chiết tách và khuếch đại, có thể
xem đây là một kiểu tập trung ký sinh trùng như
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 408
trong Willis và Sasa. Bên cạnh đó những hạn chế
khách quan trong kỹ thuật của Kato-Katz và
Sasa đã đề cập ở các đoạn trên đã khiến độ nhạy
của các kỹ thuật trực tiếp kém hơn hoặc tương
đương với PCR. Nhưng đối với cường độ nhiễm
giun móc thấp, Stefanie Knopp cho rằng độ
nhạy của PCR và Kato-Katz tương đương nhau,
thậm chí tác giả nghi ngờ hiệu quả của PCR
trong các trường hợp nhiễm rất nhẹ(4).
Giá trị tiên đoán âm của tất cả các kỹ thuật
đều > 96%, cao nhất là PCR, nhưng giá trị tiên
đoán dương của PCR lại ở mức thấp, chỉ 57,5%.
Hai giá trị này chịu tác động của tỷ lệ hiện mắc,
vì thế, với 6,92% dân số nghiên cứu bị nhiễm
giun móc theo tiêu chuẩn vàng, PV+ < 60% là tất
yếu. Giá trị tiên đoán dương cao được đòi hỏi
đối với những bệnh cần phải điều trị sớm để hạn
chế các biến chứng, quyết định điều trị có thể để
lại di chứng xấu mặc dù giữ được tính mạng cho
bệnh nhân, chi phí điều trị cao, hoặc bệnh có
mức độ lây lan mạnh, Trái lại, trong can thiệp
cộng đồng, giá trị tiên đoán âm cao sẽ giúp lựa
chọn cộng đồng mục tiêu cần được can thiệp,
cho phép giám sát hiệu quả của các chương trình
đang được thực hiện, theo dõi nguy cơ bệnh
quay trở lại trong vùng nội dịch.
Như đã đề cập, xét nghiệm tham khảo dùng
đánh giá PCR là kết quả tổng hợp của bốn
phương pháp soi trực tiếp, Kato-Katz, Willis và
Sasa. Các khuyết điểm trình bày trong các phần
trên đã cho thấy vai trò tiêu chuẩn vàng của
phức hợp này ít nhiều bị hạn chế. Theo y văn,
trong các phương pháp chẩn đoán giun móc và
S. stercoralis, cấy trên thạch được xem là tiêu
chuẩn vàng với độ nhạy 97% và độ đặc hiệu
100%. Tuy nhiên do chi phí tốn kém, dụng cụ,
hoá chất và quy trình phức tạp, khả năng lây
nhiễm cao nên tính khả thi kém khi áp dụng vào
những nghiên cứu cộng đồng với nguồn mẫu
lớn(13). Do đó, kết quả phân tích có thể chưa phản
ánh hết giá trị chẩn đoán của PCR. Ngoài ra, số
trường hợp nhiễm dùng trong phân tích độ
nhạy, độ đặc hiệu, PV+ và PV– của các kỹ thuật
vẫn chưa lớn. Cần có một tiêu chuẩn vàng thích
hợp và số mẫu dương tính lớn hơn để phân tích
giá trị của PCR trong tầm soát nhiễm giun móc
trên cộng đồng.
Độ nhạy khi phối hợp các kỹ thuật xét nghiệm
phân
Khi phối hợp các kỹ thuật xét nghiệm phân
truyền thống, độ nhạy của các cặp đều tăng lên
so với từng kỹ thuật đơn thuần, đặc biệt tăng
đáng kể ở các cặp phối hợp với cấy Sasa. Điều
này cho thấy kỹ thuật Sasa làm tăng khả năng
phát hiện nhiễm giun móc, đặc biệt trong những
trường hợp nhiễm nhẹ, có thể bị bỏ sót khi thực
hiện bằng các kỹ thuật xét nghiệm phân truyền
thống khác.
Bảng 5 chứng tỏ khi phối hợp Real-time
PCR và cấy Sasa, số mẫu nhiễm gia tăng đáng
kể (98,4%); phối hợp Real-time PCR và các kỹ
thuật khác không làm tăng độ nhạy. Sasa là
phương pháp tập trung đặc hiệu cho giun móc
và có tỷ lệ phát hiện bệnh cao thứ 2, sau PCR,
trong nghiên cứu này. Sự phối hợp các kỹ
thuật tối ưu, Sasa và PCR, tất nhiên hiệu quả
sẽ cộng hưởng nhiều hơn.
Như vậy, để tăng khả năng phát hiện nhiễm
giun móc, nếu điều kiện cơ sở vật chất khó khăn,
có thể phối hợp cấy Sasa với các kỹ thuật xét
nghiệm truyền thống khác. Khi cần xác định
chính xác loài giun móc, việc phối hợp Real-time
PCR và cấy Sasa là lựa chọn thích hợp để làm
tăng độ nhạy và độ đặc hiệu; hạn chế được tính
chủ quan của xét nghiệm viên.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ nhiễm giun móc của học sinh cấp 1
trường An Phước, Phước Thạnh và Phước Hiệp,
huyện Củ Chi là 6,92%, trung bình nhân cường
độ nhiễm là 0,35 [0,24 – 0,48] trứng/1 gram phân;
được xếp vào nhóm cộng đồng nhiễm nhẹ.
Phối hợp các kỹ thuật xét nghiệm phân
truyền thống, cặp KK-Sasa cho độ nhạy cao
nhất (93,8%), là lựa chọn ưu tiên phát hiện
nhiễm giun móc trên cộng đồng. Phối hợp kỹ
thuật Real-time PCR với các kỹ thuật cổ điển,
cặp Sasa-PCR có độ nhạy cao nhất (98,4%), có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 409
thể ứng dụng trong nghiên cứu thử nghiệm
lâm sàng hoặc trong đánh giá hiệu quả tiến
triển của các chương trình can thiệp, đòi hỏi sự
chẩn đoán chính xác tình trạng nhiễm giun và
loài giun móc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Basuni M et al (2011). A pentaplex real-time polymerase chain
reaction assay for detection of four species of soil-transmitted
helminths. Am J Trop Med Hyg, 84(2):pp.338-343.
2. Brooker S, Bethony J and Hotez PJ (2004). Human hookworm
infection in the 21st century. Adv Parasitol, 58:pp.197-288.
3. Bui Khac Hung et al (2016). Prevalence of Soil-Transmitted
Helminths and Molecular Clarification of Hookworm Species in
Ethnic Ede Primary Schoolchildren in Dak Lak Province,
Southern Vietnam. Korean J Parasitol, 54(4):pp. 471-476.
4. Knopp S et al (2014). Diagnostic accuracy of Kato-Katz,
FLOTAC, Baermann, and PCR methods for the detection of
light-intensity hookworm and Strongyloides stercoralis
infections in Tanzania. Am J Trop Med Hyg, 90(3):pp. 535-45.
5. Lê Đức Vinh và cộng sự (2007). Điều tra tình hình nhiễm giun
móc và giun lươn bằng phương pháp cấy phân cải tiến tại xã
Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh từ
tháng 7-2006 đến tháng 12-2006. Y học TP. Hồ Chí Minh, 11(2):tr.
39-42.
6. Mejia R, et al (2013). A novel, multi-parallel, real-time
polymerase chain reaction approach for eight gastrointestinal
parasites provides improved diagnostic capabilities to resource-
limited at-risk populations. Am J Trop Med Hyg, 88(6):pp. 1041-
1047.
7. Nguyễn Châu Thành (2013). Thực trạng nhiễm giun đũa
(Ascaris lumbricoides), giun tóc (Trichuris trichiura) và giun
móc/mỏ (Ancylostoma duodenale/Necator americanus) ở học sinh
tiểu học tại hai xã Ea Phe và Ea Kuang, huyện Krông Pách, tỉnh
Đắk Lắk năm 2011. Y học TP. Hồ Chí Minh, 17(1):tr. 151-156.
8. Nguyễn Xuân Thao, Phan Văn Trọng và Thân Trọng Quang
(2016). Liên quan giữa thiếu máu và nhiễm giun móc/mỏ ở
người dân huyện Krông Pắk và thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk năm 2012. Báo cáo khoa học toàn văn Hội nghị ký sinh
trùng học toàn quốc lần thứ 43. Nhà xuất bản khoa học tự nhiên
và công nghệ, Hà Nội, tr. 246-251.
9. Nhữ Thị Hoa và cộng sự (2010). Giá trị của các kỹ thuật quan
sát trực tiếp, Kato-Katz và Sasa trong chẩn đoán nhiễm giun
móc, giun lươn năm 2007. Y học TP. Hồ Chí Minh, 14(1):tr. 37-41.
10. Nhữ Thị Hoa, Từ Cẩm Hương và Lê Thị Ngọc Diệp (2009). Vai
trò của kiến thức - thực hành trong nhiễm giun móc ở học sinh
cấp 1, huyện Củ Chi, TP. HCM năm 2007. Tạp chí Y học TP. Hồ
Chí Minh, 13(4):tr. 218-224.
11. Nikolay B, Brooker SJ and Pullan RL (2014). Sensitivity of
diagnostic tests for human soil-transmitted helminth infections:
a meta-analysis in the absence of a true gold standard. Int J
Parasitol, 44(11):pp. 765-74.
12. Pullan RL et al (2014). Global numbers of infection and disease
burden of soil transmitted helminth infections in 2010. Parasit
Vectors, 7:pp. 37.
13. Siddiqui AA and Berk SL (2001). Diagnosis of Strongyloides
stercoralis infection. Clin Infect Dis, 33(7):pp. 1040-1047.
14. Traub RJ (2013). Ancylostoma ceylanicum, a re-emerging but
neglected parasitic zoonosis. Int J Parasitol, 43(12-13):pp. 1009-
1015.
15. Verweij JJ et al (2007). Simultaneous detection and
quantification of Ancylostoma duodenale, Necator americanus, and
Oesophagostomum bifurcum in fecal samples using multiplex real-
time PCR. Am J Trop Med Hyg, 77(4):pp. 685-90.
Ngày nhận bài báo: 31/01/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 12/02/2019
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_chan_doan_cua_cac_ky_thuat_xet_nghiem_phan_trong_vie.pdf