Tài liệu Giá trị biểu cảm của các tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao quảng Nam - Đà Nẵng Phan - Thúy Hạnh Trang: 1
GIÁ TRỊ BIỂU CẢM CỦA CÁC TÍN HIỆU THẨM MĨ
TRONG CA DAO QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
Phan Thúy Hạnh Trang1
Tóm tắt: Tín hiệu thẩm mĩ là sản phẩm lao động nghệ thuật trong trạng thái cảm
hứng – thẩm mĩ cao độ. Vì thế, tín hiệu thẩm mĩ phải bao hàm những thông tin về cảm
xúc, thái độ, sự đánh giá về tư tưởng thẩm mĩ của người nghệ sĩ. Trong tín hiệu thẩm
mĩ, cảm xúc vốn là cái chủ quan do chủ thể sáng tạo đã được khách quan hóa thành
một phần quan trọng của thành phần ngữ nghĩa của tín hiệu thẩm mĩ. Cảm xúc ấy tạo
nên giá trị biểu cảm và có khả năng khơi gợi sự đồng cảm cao độ của người tiếp nhận.
Ca dao Quảng Nam - Đà Nẵng thể hiện tâm tư, tình cảm, tính cách của con người xứ
Quảng. Qua bàn tay nhào nặn tài hoa, các tín hiệu thẩm mĩ đa dạng của ngôn ngữ đã
phản ánh được tài năng sáng tạo của các nghệ sĩ dân gian. Những hình ảnh thơ được
thể hiện là những hình tượng đẹp, giàu ý nghĩa và mang đậm dấu ấn riêng của ca dao
Quảng Nam - Đà Nẵng.
Từ khóa: Tín hiệu thẩm mĩ...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 435 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị biểu cảm của các tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao quảng Nam - Đà Nẵng Phan - Thúy Hạnh Trang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
GIÁ TRỊ BIỂU CẢM CỦA CÁC TÍN HIỆU THẨM MĨ
TRONG CA DAO QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
Phan Thúy Hạnh Trang1
Tóm tắt: Tín hiệu thẩm mĩ là sản phẩm lao động nghệ thuật trong trạng thái cảm
hứng – thẩm mĩ cao độ. Vì thế, tín hiệu thẩm mĩ phải bao hàm những thông tin về cảm
xúc, thái độ, sự đánh giá về tư tưởng thẩm mĩ của người nghệ sĩ. Trong tín hiệu thẩm
mĩ, cảm xúc vốn là cái chủ quan do chủ thể sáng tạo đã được khách quan hóa thành
một phần quan trọng của thành phần ngữ nghĩa của tín hiệu thẩm mĩ. Cảm xúc ấy tạo
nên giá trị biểu cảm và có khả năng khơi gợi sự đồng cảm cao độ của người tiếp nhận.
Ca dao Quảng Nam - Đà Nẵng thể hiện tâm tư, tình cảm, tính cách của con người xứ
Quảng. Qua bàn tay nhào nặn tài hoa, các tín hiệu thẩm mĩ đa dạng của ngôn ngữ đã
phản ánh được tài năng sáng tạo của các nghệ sĩ dân gian. Những hình ảnh thơ được
thể hiện là những hình tượng đẹp, giàu ý nghĩa và mang đậm dấu ấn riêng của ca dao
Quảng Nam - Đà Nẵng.
Từ khóa: Tín hiệu thẩm mĩ, tư tưởng thẩm mĩ, chủ thể sáng tạo, tình cảm khách
thể, người tiếp nhận.
1. Mở đầu
Ca dao được ví như tài sản vô hình của mỗi vùng miền. Trong văn chương truyền
khẩu của dân tộc ta, ca dao chiếm một vị trí quan trọng. Ngoài những câu được phổ
biến trong cả nước hoặc được truyền tụng qua nhiều địa phương, mỗi địa phương lại
có những câu ca dao mang tính chất đặc thù riêng của địa phương mình. Tính chất đặc
thù này, hoặc nói lên bản sắc của người dân địa phương thuộc mỗi vùng, hoặc phản
ánh một số địa danh, đặc sản, nghề nghiệp, tập quán hay ngôn ngữ của từng địa phương
Các tín hiệu thẩm mĩ vừa là phương tiện truyền tải tư tưởng vừa là vật chứa đựng
cảm xúc, thái độ, tình cảm của những người sáng tạo. Những điều mà mỗi tín hiệu
thẩm mĩ nói lên được về thế giới nội tâm của tác giả dân gian sẽ làm nên giá trị biểu
cảm của nó.
2. Tính biểu cảm của các Tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao Quảng Nam
- Đà Nẵng 2.1 . Hệ thống chất liệu để xây dựng tín hiệu thẩm mĩ
Khác với các loại hình nghệ thuật khác, chất liệu của văn học là ngôn ngữ. Các
1 . ThS. Khoa Tiểu học-Mầm non, trường Đại học Quảng Nam
phAn thúy hạnh trAnG
2
yếu tố ngôn ngữ qua bàn tay nhào nặn của người thợ tài hoa đã mài giũa thành những
hình tượng văn học đầy sức khơi, gợi. Trong ca dao Quảng Nam - Đà Nẵng, tất cả các
chất liệu xây dựng đều bắt nguồn từ những sản vật, từ nhân tình (tình trạng con người),
từ phong tục tập quán của người Quảng. Vì thế, nó có sức khơi gợi cảm xúc mãnh liệt
đối với người dân xứ Quảng.
2.1.1 . Các sản vật gắn liền với địa danh Quảng Nam - Đà Nẵng Bạc
vàng ở tại Bông Miêu
Phú Nam, Phú Thương biết bao nhiêu chè
Hai câu ca dao có đến hai sản vật được nhắc đến đó là vàng và chè. Vàng có
nhiều ở Bông Miêu thuộc xã Tam Lãnh huyện Phú Ninh, Tam Kỳ. Chè có nhiều ở
Phú Nam, Phú Thượng thuộc xã Hòa Sơn huyện Hòa Vang. Chính cái tồn tại có thực
của các sản vật gắn liền với các địa danh cụ thể, đã trở thành chất liệu ngôn ngữ để
biểu đạt niềm tự hào về nơi có những sản vật quý. Chính trên cơ sở đó đã hình thành
các tín hiệu thẩm mĩ và các tín hiệu thẩm mĩ ấy tạo cho người tiếp nhận liên tưởng để
có một cách hiểu mới đúng đắn, phù hợp.
Ở một bài ca dao khác có ba sản vật xuất hiện: Than đá, đường và quế.
Nông Sơn than đá thiếu chi
Bảo An đường tốt, Trà My quế nhiều
Cũng như bài ca dao trên, từ sự trù phú của các vùng đất có thật ở các địa phương
có tên tuổi: Nông Sơn, Bảo An (Điện Bàn), Trà My đã trở thành chất liệu và nguồn
cảm hứng để người bình dân gởi gắm vào đó niềm hạnh phúc, tự hào. Và cũng từ chất
liệu ngôn ngữ quen thuộc ấy đã truyền đến người nghe, người thưởng thức một tình
cảm, một xúc cảm tương tự.
Ca dao Quảng Nam còn giới thiệu những sản vật đơn sơ nhưng gắn bó tự bao
đời nay nơi vùng đất trung du với đời sống người dân cần cù, chân chất:
Ai lên Trung Phước, Đèo Le
Làm ơn cho gửi nắm chè mồng năm.
Ai về đất Quế làm dâu
Ăn cơm ghế mít, hát câu ân tình
Chè, mít là thổ đặc sản quen thuộc của những vùng quê, gợi lên cuộc sống đơn
sơ, dung dị nhưng ấm no và chan chứa nghĩa tình.
2.1.2 . Cách nói, cách cảm, cách ứng xử giản dị, bộc trực
phAn thúy hạnh trAnG
3
Người xứ Quảng mộc mạc, giản dị và chân tình. Vì thế, ca dao xứ Quảng có rất
nhiều bài thể hiện cách nghĩ, cách cảm rất riêng.
Cũng bắt đầu từ cụm từ “thân em”, nhưng hình ảnh so sánh, cách thể hiện trong
bài ca dao cũng được sử dụng từ chất liệu ngôn ngữ hết sức Quảng Nam: Thân em
như chiếc nón cời
Bung vành đứt đác, chịu đời nắng mưa
Khác với chiếc nón bài thơ xứ Huế xinh xắn, duyên dáng và thơ mộng trong ca
dao Thừa Thiên - Huế, hình ảnh chiếc nón trong ca dao Quảng Nam là chiếc nón cời.
Bài ca dao có ba tín hiệu thẩm mĩ cùng xuất hiện: “chiếc nón cời” gợi hình ảnh cũ kĩ,
xấu xí; “bung vành đứt đác” gợi sự rách nát, tả tơi; “chịu đời nắng mưa” gợi sự gian
khổ nhọc nhằn. Chính những chất liệu ngôn ngữ phát xuất từ những vật dụng gần gũi
với người bình dân xứ Quảng đã tạo nên những hình ảnh khá riêng biệt và giàu sức
biểu cảm.
Ở một bài ca dao khác cách thể hiện tình cảm rất hóm hỉnh:
Thanh Hà trước đến La Nghi
Thăm bác với chú, thăm dì cùng cô
Còn người ở tại Cẩm Phô
Sang năm sẽ chỉ đường vô trong nhà
Nhân qua việc thăm bác, thăm chú, thăm dì, tác giả dân gian đã đề cập đến vấn
đề trọng tâm cần chia sẻ: sẽ chỉ đường vô trong nhà cho người ở Cẩm Phô. Tín hiệu
thẩm mĩ xuất hiện gợi cho người đọc một cách cảm mới: “chỉ đường vô trong nhà”,
đó là nơi mà người con gái sẽ về làm dâu. Hóa ra đó là một cách tỏ tình bằng cách nói
rất mới. Chính cách nói gợi cảm này đã tăng giá trị thẩm mĩ cho bài ca dao.
Sự gắn bó trong tình yêu cũng tràn ngập cảm xúc:
Đưa chàng tới chợ Hương An
Xây lưng ngó lại, hai hàng láng lai
Gặp gỡ rồi chia li là một hình ảnh thường xuất hiện, và là đề tài muôn thuở trong
tình yêu đôi lứa. Không gian chia tay là một buổi chợ ở một địa danh nhiều người biết
đến. Hai tín hiệu thẩm mĩ cùng xuất hiện: “xây lưng ngó lại”, “hai hàng láng lai”. Cách
cảm ấy gợi hình ảnh, gợi cảm xúc ở người tiếp nhận: đọng lại trước mắt người tiếp
nhận là hình ảnh nhân vật trữ tình lưu luyến quay lại nhìn người yêu khuất dần với đôi
mắt đẫm lệ. Cô gái ấy đang khóc, vì có lẽ hình dung rằng lát nữa thôi là nỗi nhớ nhung
sẽ vò xé tâm can.
phAn thúy hạnh trAnG
4
2.2 .Giá trị nghệ thuật của các Tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao Quảng Nam -
Đà Nẵng
2.2.1 . Biểu tượng nghệ thuật đẹp, đa nghĩa
Là một bộ phận cấu thành của văn học dân gian, ca dao xứ Quảng chứa đựng
trong bản thân những yếu tố truyền thống vững bền, đồng thời cũng xác lập được
những sắc thái riêng của một địa bàn cư dân. Ca dao xứ Quảng không chỉ gần gũi với
người đọc, người nghe mà còn là những tín hiệu thẩm mĩ, những biểu tượng nghệ thuật
đẹp, nhiều lớp nghĩa, nói hộ cho nhiều cái được biểu đạt.
Điều đó thể hiện rất rõ trong ý thức với niềm tự hào về những vùng đất thiên
nhiên trù phú, màu mỡ cùng những sản vật đã làm nên tên tuổi của đất và con người
xứ Quảng:
Sông Thu chẳng thiếu đò đưa
Bùi khoai chợ Được, mát dừa Kiến Tân
Quế Sơn cau, mít mấy tầng
Thương bòn bon Đại Lộc, nhớ rượu cần Trà Mi
Câu ca dao đã xuất hiện một lúc hai cụm từ và hai từ mang tín hiệu thẩm mĩ.
Cụm từ “chẳng thiếu đò đưa” không chỉ mang nét nghĩa đơn thuần là những chuyến
đò qua lại tấp nập trên dòng sông Thu Bồn mà còn chỉ những vùng đất trù phú dọc
sông Thu Bồn. Cụm từ “cau, mít mấy tầng” ngoài nét nghĩa chỉ số lượng nhiều, đó còn
là niềm tự hào của người dân Quế Sơn. Ở hai câu cuối của bài ca dao tiếp tục xuất hiện
hai từ mang tín hiệu thẩm mĩ “thương”, “nhớ”. Thương, nhớ ở đây không chỉ dừng lại
ở nét nghĩa yêu quý những món đặc sản mà đó còn là tình cảm gắn bó mặn nồng, sâu
sắc mà bình dị của người dân xứ Quảng.
Cũng có lúc đó là lời lo lắng, sẻ chia:
Kể từ tằm mới ăn ba
Dâu gần không hái đi xa cách đò
Ra đi cha mẹ sợ lo
Phần sông nước lớn, phần đò không đưa
Mảnh đất Đại Lộc, Duy Xuyên dọc đôi bờ sông Vu Gia có những vườn dâu xanh
tươi kéo dài thành một biển dâu thăm thẳm, đã tạo cho nghề tằm tang ở vùng đất này
trở thành một bộ phận quan trọng trong canh tác nông nghiệp. Mượn hình ảnh trồng
dâu, nuôi tằm chủ thể trữ tình bộc lộ tâm trạng của người con gái khi yêu. “Tằm mới
ăn ba” là một tín hiệu thẩm mĩ để chỉ lứa tuổi cập kê, lứa tuổi mới lớn. Lứa tuổi với
phAn thúy hạnh trAnG
5
biết bao nhiêu ước mơ và khát vọng hạnh phúc. Nhưng, cuộc sống vốn khắc nghiệt
với biết bao sóng gió cuộc đời, nên nỗi lo sợ “phần sông nước lớn, phần đò không
đưa” là một điều khó có thể tránh khỏi. Cả câu ca dao là một tín hiệu thẩm mĩ nhằm
để chỉ những không gian đầy thử thách với muôn ngàn khó khăn, gian khổ và cách trở.
Bài ca dao là lời trách móc nhẹ nhàng, ân cần nhưng ẩn đằng sau đó cũng là lời khuyên
nhủ của một tấm lòng chân thành, sâu sắc .
Nhiều câu ca dao ánh lên niềm tươi vui, hạnh phúc:
Thương nhau biển hẹn, non hò
Tiếng đờn ai gẫy dưới đò chiều sương
Thương nhau vì đoạn can trường
Lựu lê, lê lựu nhớ nghĩa nàng, nàng ơi
Bản chất thủy chung của người Quảng được thể hiện trong mọi phương diện
cuộc sống. Thủy chung với đất nước với dân tộc, thủy chung trong tình cảm quê hương,
xóm làng và đặc biệt trong tình yêu đôi lứa. Cha ông ta thường nói “Một ngày nên
nghĩa, chuyến đò nên quen” nên khi yêu “Yêu nhau yêu cả đường đi lối về”. Chính vì
vậy, trong bài ca dao này chúng ta dễ dàng nhận ra điều mà những người con xứ Quảng
khi yêu muốn nhắn gởi. Bài ca dao xuất hiện hai cụm từ có tín hiệu thẩm mĩ: “Biển
hẹn, non hò” và “tiếng đờn”. “Biển hẹn, non hò” nhằm chỉ không gian hẹn hò, trao
duyên của những đôi trai gái trong những ngày đầu gặp gỡ, tìm hiểu. “Tiếng đờn” ở
câu tiếp theo vì thế mang lời lẽ yêu thương. Chính điều đó đã tiếp thêm sức mạnh giúp
họ vượt qua những khó khăn, gian khổ trong cuộc sống để cùng nhau chia sẻ đắng cay,
ngọt bùi. Với cách nói đầy biểu cảm đó làm cho bài ca dao thêm phần sinh động và
hấp dẫn.
Tình cảm chung thủy dày nghĩa, nặng tình còn thể hiện rất rõ như một lời nhắn
gửi:
Bạn về ta chẳng dám cầm
Ngửa bàn tay đưa bạn ruột bầm như dưa
Bạn về chẳng có chi đưa
Đưa bạn quả mứt mà chưa ngào đường
Người dân Quảng Nam rất trọng nghĩa ân tình. Dù chung sống, ăn ở với nhau
chỉ một ngày hay đơn giản chỉ là một lời hẹn ước, thì người Quảng cũng không thể
nào quên được. Dẫu có bao cám dỗ “đem bạc đổi chì” cũng không thể làm cho họ
thay đổi vì “trăm năm lòng gắn dạ ghi”. Câu hát như nói hộ lời của nhân vật trữ tình
trong giờ phút tiễn biệt. Hình ảnh “ruột bầm như dưa” là tín hiệu thẩm mĩ nhằm thể
phAn thúy hạnh trAnG
6
hiện tình cảm quyến luyến, bùi ngùi, xót xa trước lúc chia tay. Tính cách trọng tình
nghĩa, son sắt, thủy chung của người Quảng luôn đi liền với với sự mộc mạc, giản dị.
Vì vậy, “quả mứt chưa ngào đường” là sự giản đơn, bình dị mà đầy nghĩa tình của con
người nơi đây. Sự xuất hiện của hai tín hiệu thẩm mĩ trên, giúp bài ca dao như nói hộ
một triết lí sống giản dị, chân chất mà đầy tình nghĩa của người dân xứ Quảng.
2.2.2 . Khúc xạ dấu ấn văn hóa địa phương Quảng Nam - Đà Nẵng
Khác với lối nói của ca dao toàn quốc thường bắt đầu bằng cụm từ “Thân em”,
ca dao Quảng Nam - Đà Nẵng thường được bộc lộ trực tiếp qua lời nhắn gởi nhiều
hơn. Điều đó có thể được bắt nguồn từ tính cách con người xứ Quảng chân chất, mộc
mạc không quen với cách nói đưa đẩy, hoa lá cành và cũng do địa hình Quảng Nam -
Đà Nẵng có nhiều sông suối, núi đồi cách trở, có sự ngăn cách giữa các vùng miền và
do điều kiện giao thông liên lạc còn nhiều hạn chế. Vì thế, rất nhiều trang viết của
người bình dân đã thể hiện tâm tư, tình cảm của mình bằng những cách nói hết sức
mộc mạc, dân dã qua lời nhắn gởi.
Ta có thể tìm thấy cách nói ấy ở rất nhiều câu ca dao:
Bớ người ơn trọng nghĩa dày
Nắng ba năm không lạt mưa một ngày mà phai
Nghệ nhân dân gian đã không ngại ngần khi thốt lên với những lời lẽ nhắn gởi
chân tình mà thẳng thắn. Chỉ có hai câu ca dao thôi mà đã xuất hiện một lúc ba cụm
từ mang tín hiệu thẩm mĩ cao. “Ơn trọng nghĩa dày” là ẩn dụ cho nghĩa tình đã dày
công vun đắp giữa hai con người từng có chung niềm vui và nỗi buồn, đã từng sẻ chia
biết bao nhiêu kỉ niệm yêu thương. Cụm từ “nắng ba năm không lạt” một lần nữa đã
xác định và khẳng định thêm sự vững bền dài lâu của tình cảm ấy: thiên nhiên khắc
nghiệt thật, cuộc sống có nhiều khó khăn, gian khổ thật, nhưng không thể làm mai một
đi nghĩa tình. Ta cứ tưởng ý thơ sau sẽ góp phần nhấn mạnh để tăng thêm sức thuyết
phục về một tình yêu bền vững, nhưng thật bất ngờ khi ý thơ sau lại là “mưa một ngày
mà phai”. Hai tín hiệu thẩm mĩ có ý hoàn toàn trái ngược “không lạt” và “mà phai”.
Đến đây ta hiểu rõ hơn ý đồ nhắn gởi của người bình dân xưa: phải biết gìn giữ những
tình nghĩa bền lâu, đừng vì một phút thờ ơ mà đánh mất đi những gắn bó mặn nồng
của tình đời, tình người.
Nhưng không phải lúc nào cũng nói đến nghĩa nhạt phai, nhiều câu ca dao lại là
lời nhắn gởi tuy không mượt mà nhưng cũng giàu ân tình: Bớ người chưa vợ chưa
con
Mồ hôi ra ướt áo em còn giặt cho
phAn thúy hạnh trAnG
7
Ở đây xuất hiện hai tín hiệu thẩm mĩ. Nhân vật trữ tình đề cập đến một vấn đề
hết sức gần gũi là “mồ hôi ra ướt áo” và “em giặt cho”. Không dừng lại ở chỗ mồ hôi
anh ướt áo và em sẽ giặt áo cho anh, mà đó là sự tự nguyện của người con gái đến xin
được bầu bạn với chàng trai, xin được chia sẻ những nhọc nhằn, gian lao mà anh phải
nếm trải. Lời nhắn gởi ở đây mang tính nhân văn sâu sắc. Đó là sự gắn bó, cảm thông
để dày đắp nghĩa tình của người bình dân nghĩa nặng.
Đôi khi lời nhắn gởi lại là những lời trêu, ghẹo rất ý nhị và duyên dáng:
Bớ cô gánh nước trồng khoai
Cho xin một miếng trói dây tơ hồng
Nhân vật trữ tình là cô gái trồng khoai và anh. Dây khoai thường rất dai và chắc.
Có lẽ vì thế mà chàng trai không xin cái gì ngoài dây khoai của em. Từ dây khoai,
chàng trai bộc lộ ý định của mình: Anh xin dây khoai của em để làm sợi dây trói chặt
dây tơ hồng. Như vậy việc xin dây khoai chỉ là cái cớ để chàng trai tỏ tình với cô gái.
Đến đây “trói dây tơ hồng” đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ chỉ sự gợi ý, đề nghị và trở
thành sự trói buộc duyên phận của cô gái với chàng trai. Cái mộc mạc, không màu mè
rất Quảng trong lời tỏ tình rất dân dã.
Đó còn là lời phân trần, giãi bày, mong muốn rất lí trí song cũng rất tình cảm:
Bạn ơi bớ bạn vô đây
Trầu cau một hộp đem xây trên bàn
Tội chi đứng sá ngồi đàng
Sương sa lụy nhỏ cảm thương hàn ai nuôi
Cả bài ca dao gồm bốn câu và có năm tín hiệu thẩm mĩ cùng xuất hiện. Thứ nhất
là tín hiệu thẩm mĩ “trầu cau” không chỉ miếng trầu, trái cau mà là lễ vật cho hôn nhân.
Nếu yêu thương nhau thật lòng thì cha mẹ nên đem trầu cau đến nhà gái hỏi vợ nên
“đem xây trên bàn” là tín hiệu thẩm mĩ thứ hai. Tín hiệu thứ ba là “đứng sá ngồi đàng”
nghĩa là chưa được thừa nhận trên danh chính ngôn thuận. Tín hiệu thẩm mĩ thứ tư là
“sương sa lụy nhỏ” nghĩa là hậu quả của tình cảm không lường hết được. Và “cảm
thương hàn ai nuôi” là tín hiệu thẩm mĩ thứ năm với ý nghĩa thẩm mĩ là không có
người thông cảm, đùm bọc, che chở. Năm tín hiệu thẩm mĩ đã làm phong phú thêm ý
nghĩa biểu cảm của bài ca dao.
Dấu ấn văn hóa địa phương còn thể hiện qua cách nói trong cuộc sống hàng
ngày, là lối nói quen thuộc của người Quảng Nam. Không vòng vo, rào đón, người
Quảng luôn thể hiện một cách sống chân chất và trung thực. Chính vì thế, trong ca dao
phAn thúy hạnh trAnG
8
Quảng Nam - Đà Nẵng ta ít gặp cách nói hoa mĩ, bóng bẩy. Đó cũng là một nét đặc
trưng riêng thể hiện khá rõ nét trong từng trang viết của người bình dân xứ Quảng.
Cách mở đầu trực tiếp giống như cách nói thường ngày:
Tiếng đồn ba xã Phú Chiêm
Trồng dâu có mà, ươm tằm được tơ
Phú Chiêm, Thanh Chiêm là vùng đất thuộc xã Điện Phương, Điện Bàn, nơi mà
các đời chúa Nguyễn chọn để đóng dinh trấn Quảng Nam, có vai trò rất lớn trong sự
việc mở mang bờ cõi của dân tộc. Đây cũng chính là nơi đất đai trù phú, con người
giỏi giang. Thông qua hai tín hiệu thẩm mĩ “trồng dâu có mà, ươm tằm được tơ”, tác
giả dân gian muốn thể hiện sự tương giao, tương hợp giữa đất và người, nhằm khẳng
định tình yêu và niềm tự hào đối với quê hương xứ Quảng.
Đôi khi đó còn là lời phê phán trực tiếp trước những việc làm chưa tới nơi tới
chốn:
Lập vườn mà chẳng viếng thăm
Trâu băng, bò dẫm mấy năm cho thành vườn
Ngày xưa người dân chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt, nên lập vườn là một
trong những công việc chính của người bình dân xưa, nhằm mở rộng đất đai canh tác.
Trong bài ca dao hình ảnh lập vườn được nhắc đến với việc miêu tả cảnh trâu băng,
bò dẫm là một hình ảnh có thật và rất thực tế diễn ra ở một số gia đình. Ở đây, đề cập
đến vấn đề này không phải chỉ để nói cảnh trâu băng, bò dẫm vào mảnh vườn chưa lập
xong, mà nhằm phê phán những con người làm việc không đến nơi đến chốn, xem
nhẹ, bỏ bê những công sức mà mình đã từng bỏ ra, để cuối cùng thất bại, không thu
được lợi ích gì. Cụm từ “trâu băng bò dẫm” được thể hiện rất giàu hình ảnh và tính
biểu cảm cao qua chất liệu ngôn ngữ bình dân, không màu mè, gọt giũa của người bình
dân xứ Quảng.
Trong quá trình sống, đấu tranh và sinh tồn đã tạo cho người Quảng một thái độ
sống rạch ròi cương quyết trong cách đánh giá, ứng xử: Cây mô có trái thì rào
Cây mô không trái đạp nhào xuống sông
Ta thường quen thuộc với quan niệm của nhân dân ta là “ăn cây nào rào cây ấy”.
Cũng nội dung ấy song trong cách nói của người Quảng có gì đó sắc bén hơn, gai góc
hơn. Cách nói ấy phát xuất từ cách ăn cục nói hòn của người xứ Quảng. Đó chỉ là hình
thức thể hiện, nhưng thực chất con người xứ Quảng rất nặng nghĩa, nặng tình. “Đạp
nhào xuống sông” là cụm từ mang tín hiệu thẩm mĩ có tính gợi hình và tính cảm xúc
cao. Ở đây, điều mà tác giả dân gian muốn nói đến là thái độ cương quyết trước những
lợi ích thiết thực và lợi ích không thiết thực. Mọi giá trị, lợi ích đều đáng được tôn
phAn thúy hạnh trAnG
9
trọng, giữ gìn, quý trọng song nếu nó vô ích, vô giá trị, thì bản thân điều đó sẽ không
thể tồn tại được.
Thỉnh thoảng ta bắt gặp một cách vào đề rất thẳng thắn mà giàu sức khơi, gợi:
Người ta ăn ở vuông tròn
Sao anh ăn ở như đờn đứt dây
Hai cụm từ có tín hiệu thẩm mĩ xuất hiện đề cập đến hai cách ăn ở trái ngược
nhau: “vuông tròn” và “đờn đứt dây”. Vuông tròn gợi hình ảnh tròn, đầy trọn vẹn. Đờn
đứt dây gợi hình ảnh dừng lại nửa chừng, dang dở. Tác giả dân gian sử dụng biện pháp
tu từ so sánh nhằm làm nổi bật cách sống, cách ửng xử đúng đắn, có tình có nghĩa và
phê phán cách sống, cách ứng xử thiếu nghĩa tình, đành đoạn.
Ở một bài ca dao khác là lời than vãn, oán trách cũng rất Quảng:
Trời ơi răng rứa trời hè
Bỏ mây đứt đoạn, bỏ bè trôi sông
Hình ảnh “mây đứt đoạn”, “bè trôi sông” nhằm miêu tả sự dang dở, đứt đoạn của
duyên tình. Nó còn biểu hiện sự trôi nổi không biết đi về đâu của tình cảm ấy.
Nhiều khi là những câu hỏi rất hóm hỉnh mà sâu sắc:
Đi đâu mà chẳng thấy về
Hay là đã mắc lời thề ở đâu
Khi yêu nhau người ta hay thề thốt để làm tin và để thể hiện tình yêu của mình.
Trong ca dao, “lời thề” đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ chỉ hành động bắt đầu gắn bó
của hai con người đã tìm thấy sự đồng điệu trong tâm hồn. Câu nói như lời nói thường
ngày vì thế nó giàu sức biểu cảm.
Hoặc trong một bài ca dao khác:
Đi đâu áo rách lang thang
Lại đây kiếm vải vá quàng lại cho
Ở đây, ta thấy một lúc xuất hiện hai tín hiệu thẩm mĩ là lời ăn tiếng nói hàng
ngày của người bình dân xứ Quảng: “áo rách lang thang”, “vá quàng”. Áo rách lang
thang chỉ người có cảnh sống nghèo nàn, cô độc không nơi nương tựa.Vá quàng lại là
người sẵn sàng đón nhận, thông cảm và sẻ chia, nhưng trong một chừng mực nào đó
cũng cơ nhỡ, cũng lỡ làng. Hình ảnh ấy thể hiện tính nhân văn sâu sắc của người bình
dân.
phAn thúy hạnh trAnG
10
3 . Kết luận
Quảng Nam - Đà Nẵng là mảnh đất có vai trò quan trọng trên con đường mở
mang bờ cõi về phương Nam của dân tộc. Nằm ở vị trí trung độ của cả nước, lưng tựa
Trường Sơn, mặt hướng biển Đông, Quảng Nam - Đà Nẵng là mảnh đất đầu sóng ngọn
gió qua nhiều thời kì lịch sử, đồng thời là nơi giao lưu, tiếp nhận, tiếp biến văn hóa
giữa các vùng miền trong nước và quốc tế. Trong mạch nguồn văn hóa dân tộc, ca dao
Quảng Nam - Đà Nẵng vừa mang đậm yếu tố truyền thống vừa có những sắc thái riêng
của văn học dân gian nơi vùng đất mới. Nghiên cứu tín hiệu thẩm mĩ và tìm ra các
biểu trưng nghệ thuật của nó chính là con đường để chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới
tình cảm của người dân lao động. Hình thức và nội dung của tín hiệu thẩm mĩ trong
văn học là vấn đề nghiên cứu có giá trị về lí luận và thực tiễn. Tín hiệu thẩm mĩ với
những đặc tính ưu việt của mình đã xác lập vị thế của một phương tiện nghệ thuật
ngôn từ quan trọng. Nghiên cứu tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao có thể tạo cơ sở cho
một sự so sánh, đối chiếu, tìm cái gốc dân tộc trong thơ hiện đại, đồng thời phát hiện
những đóng góp của thơ ca hiện đại đối với nền văn học dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Văn Bổn (1983), Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng, (tập 1),
Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng.
[2] Nguyễn Văn Bổn (2001), Văn học dân gian Quảng Nam, Sở Văn hóa - Thông
tin Quảng Nam.
[3] Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập (tập 2) , Nxb Giáo dục.
[4] Nguyễn Lai (1983), “Từ một số luận điểm của Mác suy nghĩ về bản chất tín
hiệu của ngôn ngữ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
[5] Trương Thị Nhàn (2012), “Một số vấn đề về ngôn ngữ văn chương từ góc nhìn
tín hiệu thẩm mĩ”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4.
[6] Bùi Trọng Ngoãn (2009), “Tiếp nhận tác phẩm thơ ca dưới ánh sáng ngôn ngữ
học hiện đại”, Đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ, mã số: B 2007 - DDN03 - 20.
[7] F. de. Sausure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học - Xã
hội Hà Nội.
[8] Trần Đình Sử (1991), “Ngôn ngữ nghệ thuật, mã và phê bình văn học hôm
nay”, Thông báo khoa học, ĐHSP Hà Nội, số 6.
Title: THE EXPRESSIVE VALUE OF AESTHETIC MESSAGE IN
QUANG NAM – DA NANG FOLK VERSES
phAn thúy hạnh trAnG
11
PHAN THUY HANH TRANG
Quang Nam University
Abstract: Aesthetic message is a product of artistic work in the state of high
artistic inspiration. Therefore, the aesthetic message must contain a lot of information
about feelings, attitudes, and the appreciation of the aesthetic thoughts of the artists.
In the aesthetic message, the emotion is subjectivity which is detached to be an
important part of the semantic component of the aesthetic message. This emotion
creates the expressive value and is able to elicit a high empathy from the receiver.
Quang Nam - Da Nang folk verses express feelings, emotions and characteristics of
Quang people. The diverse aesthetic message of language has reflected the creative
talents of folk artists. The images of poetry are shown as the beautiful, meaningful and
colorful images of Quang Nam - Danang folk verses.
Keywords: aesthetic message, aesthetic thought, creative subject, sentimental
object, receiver.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 13_gia_tri_bieu_cam_cua_cac_tin_hieu_tham_mi_trong_ca_dao_quang_nam_942_2130876.pdf