Gia phong trong ký ức của một người con xứ Nghệ

Tài liệu Gia phong trong ký ức của một người con xứ Nghệ: 74 Xã hội học số 1 (85), 2004 Gia phong trong ký ức của một ng−ời con xứ Nghệ Phong Lê Gia phong - nếp nhà. Có những nhà, những gia hệ gắn với tên tuổi các danh nhân văn hóa, lịch sử của dân tộc đang là đối t−ợng khảo sát của nhiều giới nghiên cứu khoa học. Họ Ngô Thì ở Tả Thanh Oai. Họ Phan Huy ở Sài Sơn Có những dòng tộc xứ Nghệ đ−ợc ng−ời đời nhìn vào một cách ng−ỡng mộ và đem lại sự hãnh diện không chỉ cho các thành viên là con cháu về sau mà còn cho tất cả những ai là đồng h−ơng. Họ Nguyễn Tiên Điền ở Nghi Xuân. Họ Nguyễn Tr−ờng L−u ở Can Lộc. Họ Cao Xuân ở Diễn Châu, v.v ở đó nói chuyện gia phong thật là dễ. Nh−ng gia phong có lẽ cần đ−ợc nhìn rộng hơn nh− một nếp sống chung cho nhiều dòng họ, càng rộng hơn, cho cả một vùng. Có lẽ vì thế mà Hội thảo này có tên là Gia phong xứ Nghệ. Tôi hi vọng cách nghĩ này sẽ có tầm rộng rãi hơn cho sự bàn luận. Gia phong là vấn đề xã hội. Nh−ng nó cũng có chỗ gắn bó với vấn đề “gien” trong sinh học chăng? “Con nhà ...

pdf5 trang | Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 740 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gia phong trong ký ức của một người con xứ Nghệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
74 Xã hội học số 1 (85), 2004 Gia phong trong ký ức của một ng−ời con xứ Nghệ Phong Lê Gia phong - nếp nhà. Có những nhà, những gia hệ gắn với tên tuổi các danh nhân văn hóa, lịch sử của dân tộc đang là đối t−ợng khảo sát của nhiều giới nghiên cứu khoa học. Họ Ngô Thì ở Tả Thanh Oai. Họ Phan Huy ở Sài Sơn Có những dòng tộc xứ Nghệ đ−ợc ng−ời đời nhìn vào một cách ng−ỡng mộ và đem lại sự hãnh diện không chỉ cho các thành viên là con cháu về sau mà còn cho tất cả những ai là đồng h−ơng. Họ Nguyễn Tiên Điền ở Nghi Xuân. Họ Nguyễn Tr−ờng L−u ở Can Lộc. Họ Cao Xuân ở Diễn Châu, v.v ở đó nói chuyện gia phong thật là dễ. Nh−ng gia phong có lẽ cần đ−ợc nhìn rộng hơn nh− một nếp sống chung cho nhiều dòng họ, càng rộng hơn, cho cả một vùng. Có lẽ vì thế mà Hội thảo này có tên là Gia phong xứ Nghệ. Tôi hi vọng cách nghĩ này sẽ có tầm rộng rãi hơn cho sự bàn luận. Gia phong là vấn đề xã hội. Nh−ng nó cũng có chỗ gắn bó với vấn đề “gien” trong sinh học chăng? “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. (Còn “Con vua thì lại làm vua” là chuyện khác). “Gien” là câu chuyện về bộ mã di truyền đang hứa hẹn biết bao triển vọng cho sự cải tạo loài ng−ời, giống ng−ời. Quả tim của Chopin đang đ−ợc giữ gìn, còn bộ não của Einstein và các vĩ nhân khoa học thì đã và đang hứa hẹn các kết quả nghiên cứu. Nh−ng lại có những chuyện giúp nghĩ rộng hơn. Trong 4 học sinh nhận Huy ch−ơng Vàng Giải Toán quốc tế ở Luân Đôn năm vừa qua có 1 em ng−ời Vĩnh Phúc, sinh ra trong một gia đình bình th−ờng, và việc học của em cũng bình th−ờng, không có gì đặc biệt (em không theo các lò luyện, không tìm thầy giỏi, không về Hà Nội). Quỳnh Trang với liên tục những giải cao trong các kỳ thi quốc tế về arcordéon; hoặc một bé gái học trò cô Thái Thị Sâm đoạt giải nhất về piano trong cuộc thi ở Paris, cả hai đều không thuộc những gia đình có truyền thống âm nhạc. Bố mẹ các em đều là những ng−ời lao động bình th−ờng. Nh− vậy thì yếu tố “gien” không còn là nguyên cớ bao quát hoặc duy nhất cho việc nhìn nhận tài năng; và vấn đề khả năng, tài năng con ng−ời có một môi tr−ờng rộng rãi và dân chủ hơn cho sự phát hiện, phát triển. Từ chuyện gia phong trong văn hóa học, phong tục học, xã hội học và chuyện “gien” trong sinh học tôi muốn nói đến sự mở rộng các dấu ấn và ảnh h−ởng của nó trong không gian, thời gian theo các biến động của lịch sử, nơi câu chuyện của chúng ta đang bàn. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Phong Lê 75 Bây giờ xin cho phép tôi đi vào ký ức bản thân với một ít rào đón. Bởi bản thân tôi không có gì đặc biệt và dòng họ nhà tôi cũng không có gì đặc biệt, nh− sau đây sẽ rõ. Chỉ có điều tôi là ng−ời Hà Tĩnh, trong tên gọi chung Nghệ Tĩnh, và gọi tắt là xứ Nghệ, nên có lẽ cũng đ−ợc cảm nhiễm chút ít “gia phong xứ Nghệ” chăng, nếu nh− gia phong cho một vùng là có? Ông bà nội tôi có 10 ng−ời con. Nh−ng chỉ hai ng−ời đ−ợc học hành. Một ng−ời bác trai thứ 3, có một vốn chữ Hán nhất định và có tài xem t−ớng số. Nghe nói bác đã có một vài lần trẩy Kinh xem số cho Bảo Đại. Những ng−ời đ−ợc bác xem số đều rất đúng. Tôi và ng−ời anh cùng tuổi, con của bác đều có lá số từ bé, và sự tiên đoán của cả hai xem ra rất nghiệm. Còn chính bác, bác biết tr−ớc mệnh của mình: chết đ−ờng (tức là chết xa nhà) ở tuổi 53. Và đúng thế, đó là năm sau Giảm tô, không chờ đến Cải cách ruộng đất bác bị bắt đi cải tạo, rồi chết ở Trại Nắng - miền Tây H−ơng Khê. Sau bác trai thứ 3, chỉ bố tôi - con út - con thứ 10, là đ−ợc học hành, một ít chữ Hán và nhỉnh hơn là chữ Pháp, rồi đ−ợc bổ làm h−ơng s− ở Thanh Hóa. Chỉ là h−ơng s− thôi, thế mà ông cũng lần l−ợt đ−ợc dăm cháu trai con các ông anh đi cùng, cho theo học, mỗi đứa một hai năm ở xứ Thanh. Có học nên ông rất chăm m−ợn sách cho con đọc, rất chăm cho sự học của con. Chăm một cách tự nhiên, chứ không gò bó. Không đe nẹt, roi vọt theo lối nhà Nho. Còn việc cày cấy, chợ búa, ăn mặc, sinh hoạt trăm sự đều để mẹ lo; mẹ - con một nhà Nho trong vùng, thế mà lại rất biết chịu khó, chịu khổ để nuôi chồng, nuôi con. Còn bố tôi dẫu chỉ là h−ơng s−, mà vẫn không động đến bất cứ công việc lao động chân tay nào. Trong con mắt của ng−ời làng, mà ai cũng gọi ông là Thầy, ông nh− thuộc một tầng lớp khác. Từ khi lên cấp 2, học tr−ờng huyện, tôi phải đi - về hàng ngày hàng chục cây số vào ban đêm. Lên cấp 3, vào tr−ờng tỉnh, phải ở trọ, mỗi tuần đi bộ 5,6 chục cây số về nhà để mang theo gạo muối. Ngày ra Hà Nội ứng thí Đại học, bố tôi đ−a tiễn con hơn 10 cây số đến bến ca nô Đức Thọ để ra Vinh. Hai bố con lững thững đi trên đê nh− hai ng−ời đi dạo. Nói lững thững vì bố tôi có lối đi rất khoan thai - đó là điều trái ng−ợc với tôi. Có ng−ời nói, ông T. về đến cổng rồi mà gặp m−a vẫn cứ bị −ớt nh− th−ờng. Bởi vì ông không bao giờ chạy, kể cả chạy m−a. Từ đây, từ bến ca nô Đức Thọ, tôi xa gia đình, một mình xoay trở, giải quyết mọi việc trên đ−ờng ra Hà Nội; ở Hà Nội tự lo chuyện thi cử, rồi chờ đợi cho đến khi trúng tuyển và nhận giấy nhập học Và nếu tôi không rời quê, thì chắc chắn số phận tôi bây giờ đã khác. Không biết có một dấu hiệu gì đó thuộc “gia phong” chăng, nằm trong cái vốn học vấn thấp thoáng mà cả một đại gia đình 10 ng−ời con, trong đó 8 ng−ời phải nh−ờng nhịn, cho 2 ng−ời đ−ợc h−ởng? Nằm ở cái ham không làm giàu theo lối chạy theo phẩm hàm, hoặc theo lối trọc phú? Mà là ham chăm lo cho sự học. Và cái điều tâm niệm của bố là phải trang bị và tranh thủ mọi điều kiện cho con rời quê; một tâm niệm ông nén kín trong lòng, nh−ng tôi biết là ông rất nung nấu, và kiên quyết thực hiện cho bằng đ−ợc. Bắt đầu từ tôi, rồi đến các em tôi. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Gia phong trong ký ức của một ng−ời con xứ Nghệ 76 Nh− vậy là chỉ qua một chút bản thân mà tôi chợt hiểu thân phận, hành trình và hành trang của những ông “đồ Nghệ” trong lịch sử. Hiểu câu thơ Xuân Diệu: Cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong Ông đồ Nghệ đeo khăn gói đỏ Hiểu vì sao những ông đồ Nghệ có mặt ở khắp nơi. Trở lại chuyện lần đầu tiên tôi xa nhà. Tiếc là cái lúc quyết định “số phận” tôi - lúc nhận giấy gọi vào Đại học - tôi không đ−ợc chứng kiến niềm vui của bố tôi khi biết tôi không phải lộn trở về làng. Nh−ng tôi hiểu là ông hồi hộp lắm, và niềm vui trong ông tràn ngập qua tất cả những lá th− ông viết rất đều và rất dài hàng tháng cho tôi, và sau này, cho các cháu nội của ông ở Hà Nội Chăm lo cho sự học của con và tạo một khởi động quyết liệt cho đứa con đầu. Đó là công của ng−ời cha. Rồi sau đó nh− cuộc chạy đua tiếp sức, ng−ời anh sẽ thay mặt cho cha mà lo cho đàn em phía sau, lần l−ợt đứa nọ đến đứa kia. Tôi muốn nhìn hiện t−ợng đó nh− một thứ gia phong xứ Nghệ, một truyền thống có phần nổi đậm hơn nhiều nơi. Truyền thống đó, cách chăm lo đó, tôi thấy có nhiều bậc đàn anh và bè bạn đồng nghiệp cùng quê xứ Nghệ của tôi trong cùng cơ quan, cũng nh− ở ngoài cơ quan. Qua tôi, tôi hiểu họ; và qua họ tôi cũng có dịp hiểu tôi hơn Ng−ời Nghệ xa quê, nh−ng vẫn không lỏng lẻo chút nào mối liên hệ gia đình, gia tộc, dòng họ, bởi sự “dắt díu” nhau nh− trên. Thú biết bao, trong văn ch−ơng, đến Nguyễn Minh Châu bỗng có một vài chuyện “trúng” với nét sống này của ng−ời xứ Nghệ nh− Giao thừa, Khách ở quê ra Một khám phá rất tự nhiên; và nếu là ng−ời Nghệ Tĩnh đọc Nguyễn Minh Châu thì có thể sẽ còn tủm tỉm c−ời một mình. ở đâu cũng thế, Hà Nội hoặc Sài Gòn, các hộ dân xứ Nghệ nào cũng đông khách, gồm chú bác, cô dì, cậu mự (mợ), anh em, con cháu đến từ gần đến xa, cả những ng−ời “đồng h−ơng”. Cứ nhìn vào cái thông báo mời dự họp “đồng h−ơng” gồm cả tỉnh, huyện và xã vào dịp đầu năm thì rõ điều này. Mà “đồng h−ơng” xứ Nghệ thì đâu mà không có, và cũng dễ nhận dạng lắm: nói to, c−ời to, âm giọng rất nặng; chỉ vài ng−ời là đủ náo động cả xóm Nhất thiết phải rời quê - lập nghiệp nơi khác, và mang theo tất cả nếp sống quen thuộc của đất quê. Tất nhiên đây là chỉ −ớc ao, là mong mỏi; còn việc có thực hiện đ−ợc hay không lại cần rất nhiều điều kiện mà không phải ai cũng có, khiến cho đã gọi là ng−ời xứ Nghệ thì tuyệt đại đa số phải sống trên đất Nghệ. Nh−ng rời quê rồi mà lòng không lúc nào nguôi nhớ đất quê. Đó cũng là một nét tâm lý của ng−ời Nghệ. Mỗi năm vào dịp giỗ chạp, Tết nhất, cái gia đình “tha h−ơng” gồm cả bố mẹ, anh em, con cái lại dắt díu nhau về quê, khiến cho các chuyến tàu về Vinh gần nh− đông chật và mất trật tự hơn cả. Về quê nh− là cái đích kết thúc của một năm. Dẫu vất vả đ−ờng sá, tầu xe. Dẫu nguy hiểm của chiến tranh. Tôi có nghe trong chiến tranh, khi chen chúc qua cầu phao Bến Thủy vào ban đêm, có ông bố chở con ở pocbaga xe đạp cùng với hành lý lủng củng đã để con rơi xuống sông lúc nào không biết. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Phong Lê 77 Nỗi niềm quê h−ơng quả chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tài khoản tình cảm của ng−ời xứ Nghệ. Khiến cho, với tôi, những Câu hò trên đất Nghệ An, Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh mỗi lần nghe cứu nh− có một l−u luyến, một ngân nga của riêng nó. Tháng 7 năm 2000, theo “đặt hàng” của ông Đức Ban tôi có gửi về cho tạp chí Hồng Lĩnh một đoạn tâm sự: “Với tôi, Hà Tĩnh là quê sinh, Hà Nội là quê ở, cả hai khó nói nơi đâu là quan trọng hơn. Thế nh−ng trong đời ng−ời, những kỷ niệm của tuổi thơ là không thể phai, là cứ nguyên vẹn thế mà đi cùng với đ−ờng đời. Do thế mà Hà Tĩnh luôn ở trong tôi và Hồng Lĩnh luôn thân thiết với tôi. Với tôi, ng−ời Hà Tĩnh là nghĩa tình, là cần cù, là chịu th−ơng chịu khóNh−ng không chỉ có thế ”. Thơ Huy Cận trong Lửa Thiêng tr−ớc cách mạng có nhiều bài hay. Một trong những bài th−ờng ít đ−ợc tuyển, và do đó cũng ít đ−ợc biết, nh−ng lại in rất sâu trong bộ nhớ của tôi, đó là bài Em về nhà. Bởi trong đó có hình ảnh Em: Thôi, sáng hung rồi; em hãy đi Tự nhiên em nhé chớ buồn chi Suốt ngày nhắc nhở em từng phút Anh đoán thuyền em đến bến gì? Em - nh− biết bao là ng−ời th−ơng của tôi ở tuổi ấu thơ. Và cũng biết bao là bến trên dọc dài Ngàn Sâu, Ngàn Phố tr−ớc khi hội vào dòng Sông La ở ngã ba Linh Cảm. Và nhất là 4 câu thơ gợi nhớ bến Tam Sa. Đứng ở bên này Linh Cảm nhìn sang bên kia sông thì phía trái xa mờ nơi chân núi Mồng ác là xã Ân Phú (nay là xã Đức Ân), quê của Huy Cận. Còn tr−ớc mặt, gần hơn, xoãi theo chân núi Mồng Gà là xã Đôn Mỹ, rồi Mỹ Long (nay là xã Sơn Trà) quê nghèo của tôi: Tới ngã ba sông, n−ớc bốn bề Nửa chiều gà lạ gáy bên đê Làng xa lặng lẽ theo tre trúc Bến cũ thuyền em sắp ghé về. Những lần về quê, th−ờng tôi cùng vợ con dừng lại bên này Linh Cảm, dầm chân rất lâu vào dòng mát sông La, nhìn toàn bộ cảnh quan ngã ba sông, tr−ớc khi qua đò, đi nốt chặng đ−ờng đồng cuối cùng để vào tận cái xóm nép sâu vào chân núi, có cái tên lạ là xóm Ri. Xứ Nghệ “non xanh n−ớc biếc nh− tranh họa đồ” - đó là chuyện trong thơ. Còn tôi, tôi cảm nhận đến tận da thịt sự khắc nghiệt của thời tiết, và cái nghèo, thiếu của Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Gia phong trong ký ức của một ng−ời con xứ Nghệ 78 đời sống. Do vậy mà sự cần kiệm, sức chịu đựng và tính lo xa gần nh− thành tính cách của con ng−ời và nếp nhà dân xứ Nghệ. Có thể gọi đó là một nét của gia phong chăng? Đọc Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ, tôi thấy sau cái trào lộng của ông đồ trẻ đang dùi mài kinh sử là cái thực đến trần trụi, xót đắng trong cảnh nghèo của ng−ời xứ Nghệ - một cái nghèo nh− là gia truyền, và l−u niên trong lịch sử. “Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch ”. “ấm trà góp lá bàng lá vối pha mùi chất chát chua chua. Miếng trầu têm vỏ mận vỏ già buồn miệng nhai nhổ nhổ ”. Cái nghèo của nhà Nho Uy Viễn huyện Nghi Xuân d−ờng nh− cứ thế đi suốt đến thế hệ tôi, trong khoảng cách hơn 100 năm Nghèo, thiếu niên phải cần kiệm, lo xa. Chuyện cá gỗ là chuyện của ng−ời xứ Nghệ trong lịch sử nh− đã đ−ợc Tr−ơng Vĩnh Ký ghi lại d−ới tên truyện Cá rô cây, in trong Chuyện khôi hài năm 1882. Theo thời gian, còn có thêm những chuyện khác của thời hiện đại. Ng−ời Nam Bộ kiếm đ−ợc 8 đồng thì tiêu xoẳn cả, thậm chí còn vay thêm tiền để tiêu. Còn ng−ời xứ Nghệ thì không những không tiêu mà còn phải kiếm thêm 2 đồng cho chẵn 10 đồng để bỏ ống. Nghĩ mà th−ơng, mà tội. Chứ không đáng trách. Cần kiệm đến thế mà cũng rất ít ng−ời biết thế nào là giàu, dẫu chỉ là giàu của xứ Nghệ. Làm gì có chuyện “công tử Bạc Liêu” ở đây! Phải lo xa bởi cuộc sống quá nghèo thiếu và bởi những gì bất trắc và hiểm họa luôn rình rập. Những bất trắc và hiểm họa ở xứ Nghệ d−ờng nh− là nhiều và gay gắt hơn mọi nơi. Trở lên tôi nói những chuyện hôm nay nghe cứ nh− là chuyện đời x−a. Bởi đó là những gì đã thành nếp - nếp sống, nếp nghĩ trong từng ng−ời, từng nhà từ xửa x−a cho đến thời của bố mẹ tôi và tôi. Những nếp sống, nếp nghĩ mà tôi ghi tản mạn theo lối hồi ức, kỷ niệm, chứ không kịp đúc kết thành lý luận rồi sẽ phai nhạt dần chính trong đám con cháu xa gần của tôi hôm nay, dẫu khi ghi sinh quán, chánh quán cho giấy khai sinh chúng vẫn là ng−ời của quê cha, quê ông: Hà Tĩnh. Truyền thống phụ hệ ở một thời cái tôi cá nhân và đời sống đô thị, nếp sống công nghiệp xuất hiện và ngự trị vẫn còn nguyên vẹn một cách hình thức và công thức nh− thế đấy. Cuối cùng, điều hiển nhiên là một thay đổi cách mạng, đúng theo nghĩa của nó - ch−a một lần xẩy ra trong lịch sử nhiều nghìn năm ở xứ ta, đã diễn ra rất nhanh gấp trong thế kỷ XX. Nửa đầu thế kỷ là hiện đại hóa, nh−ng là trong bối cảnh xã hội thuộc địa nên ch−a thể động đ−ợc vào các bề sâu hạ tầng; và do vậy nên thế hệ tôi vẫn còn nhiều giằng co hoặc l−u luyến với cái cũ. Nửa sau thế kỷ, sau 30 năm chiến tranh, và dồn vào cuối thế kỷ, là nền kinh tế thị tr−ờng là kỷ nguyên cách mạng thông tin và xu thế toàn cầu hóa, nh− một áp lực của thời đại, khiến cho sự phôi pha và biến dạng của gia phong, của nếp nhà là điều tự nhiên, khó mà c−ỡng đ−ợc. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso1_2004_phongle_7019.pdf
Tài liệu liên quan