Tài liệu Gia đình và dòng họ người dao hiện nay những biến đổi và vấn đề đặt ra - Lý Hành Sơn: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Ngày nhận bài: 22/4/2017; Ngày phản biện: 15/5/2017; Ngày duyệt đăng: 5/6/2017
(1) Viện Dân tộc học; e-mail: mongdao@yahoo.com.vn
Số 18 - Tháng 6 năm 2017
Qua kết quả Tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 2009, dân tộc Dao ở nước ta có 751.067
người, phân bố cư trú ở hầu hết các tỉnh miền núi
phía Bắc và trung du Bắc Bộ (636.523 người), Tây
Nguyên (35.176 người) và một số tỉnh miền đông
Nam Bộ (8.796 người). Trong đó, tập trung ở các
tỉnh: Hà Giang (109.708 người), Tuyên Quang
(90.618 người), Lào Cai (88.379 người), Yên Bái
(83.888 người), Quảng Ninh (59.156 người),...
Theo phân loại của nhiều nhà nghiên cứu, người
Dao ở Việt Nam được chia thành 7 nhóm: Dao
Đỏ (Dao Đại Bản), Dao Tiền (Dao Đeo Tiền hoặc
Tiểu Bản), Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang (Dao
Thanh Phán), Dao Quần Trắng (Dao Họ), Dao
Thanh Y (Dao Chàm), Dao Tuyển (Dao Áo Dài).
Nếu dựa vào ngôn ngữ thì có hai phương ngữ: nói
phương ngữ Miền g...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 449 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gia đình và dòng họ người dao hiện nay những biến đổi và vấn đề đặt ra - Lý Hành Sơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Ngày nhận bài: 22/4/2017; Ngày phản biện: 15/5/2017; Ngày duyệt đăng: 5/6/2017
(1) Viện Dân tộc học; e-mail: mongdao@yahoo.com.vn
Số 18 - Tháng 6 năm 2017
Qua kết quả Tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 2009, dân tộc Dao ở nước ta có 751.067
người, phân bố cư trú ở hầu hết các tỉnh miền núi
phía Bắc và trung du Bắc Bộ (636.523 người), Tây
Nguyên (35.176 người) và một số tỉnh miền đông
Nam Bộ (8.796 người). Trong đó, tập trung ở các
tỉnh: Hà Giang (109.708 người), Tuyên Quang
(90.618 người), Lào Cai (88.379 người), Yên Bái
(83.888 người), Quảng Ninh (59.156 người),...
Theo phân loại của nhiều nhà nghiên cứu, người
Dao ở Việt Nam được chia thành 7 nhóm: Dao
Đỏ (Dao Đại Bản), Dao Tiền (Dao Đeo Tiền hoặc
Tiểu Bản), Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang (Dao
Thanh Phán), Dao Quần Trắng (Dao Họ), Dao
Thanh Y (Dao Chàm), Dao Tuyển (Dao Áo Dài).
Nếu dựa vào ngôn ngữ thì có hai phương ngữ: nói
phương ngữ Miền gồm các nhóm Dao Đỏ, Dao
Tiền, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang; nói phương
ngữ Mùn có Dao Quần Trắng, Dao Tuyển và Dao
Thanh Y1. Về nguồn gốc, vấn đề cội nguồn sinh
tụ, quá trình hình thành và phân hoá tộc người
Dao thành các nhóm địa phương vẫn chưa được
các nhà khoa học chứng minh cụ thể, mà chỉ
dừng lại dưới dạng giả thuyết. Song, hầu hết các
1. Xem: Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung,
Nguyễn Nam Tiến (1971), Người Dao ở Việt Nam, NXB.
Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.31-33; Nguyễn Khắc Tụng
(1997), Trở lại vấn đề phân loại các nhóm Dao ở Việt Nam,
Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.30-37.
nhà nghiên cứu đều cho rằng, người Dao ở Việt
Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc di cư đến qua
nhiều thời kỳ, trong đó sớm nhất được cho là thế
kỷ XII và XIII, muộn là đầu thế kỷ XX2.
Trong quá trình thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước, đặc biệt từ khi đổi
mới năm 1986 đến nay, đời sống kinh tế - xã hội
và văn hóa của người Dao ở nước ta đã không
ngừng được nâng cao và biến đổi theo xu hướng
ngày càng phát triển, từng bước hội nhập với các
dân tộc cận cư. Tuy vậy, hiện nay mặc dù có rất
nhiều nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam từ
góc nhìn Dân tộc học, song những biến đổi liên
quan tới hoạt động kinh tế, thiết chế xã hội, đời
sống văn hóa,... của đồng bào mới chỉ được đề
cập một cách tản mạn trong một số công trình,
kể cả những công trình mang tính khảo tả về
người Dao như: Người Dao ở Việt Nam của Bế
Viết Đẳng và các tác giả (1971); Văn hoá truyền
thống người Dao ở Hà Giang do Phạm Quang
Hoan và Hùng Đình Quý làm chủ biên (1999);
Phong tục tập quán của người Dao Thanh Hóa
của Đào Thị Vinh (2001); Người Dao ở Lạng Sơn
do Lý Dương Liễu làm chủ biên (2004); Người
2. Xem: Bế Viết Đẳng và các tác giả (1971), Người Dao
ở Việt Nam, sđd, tr.17-24; Trần Quốc Vượng (1963), Qua
nghiên cứu Bình hoàng khoán điệp, thử bàn về gốc tích
người Dao (Mán), Dân tộc, số 40.
GIA ĐÌNH VÀ DÒNG HỌ NGƯỜI DAO HIỆN NAY
NHỮNG BIẾN ĐỔI VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Lý Hành Sơn(1)
Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, dân tộc Dao ở nước ta có 751.067 người, sinh sống chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Phân tích một số nghiên
cứu cho thấy, từ năm 1986 đến nay, gia đình và dòng họ người Dao ở nước ta đã biến đổi
nhanh chóng . Đó là việc mai một loại gia đình lớn đa hệ; các gia đình trong dòng họ đã cư
trú phân tán; hệ thống tên đệm của dòng họ chỉ bắt buộc sử dụng khi đặt pháp danh trong lễ
cấp sắc; quan hệ giữa các gia đình nhỏ với gia đình gốc và gia đình trưởng dòng họ đã độc
lập hơn trên nhiều lĩnh vực,... Những biến đổi ấy tuy phù hợp với xu hướng phát triển của xã
hội, song cũng đặt ra nhiều vấn đề, nhất là việc duy trì và trao truyền các giá trị truyền thống
vốn có của gia đình và dòng họ người Dao, cần được các cấp, các ngành ở địa phương quan
tâm với những giải pháp thiết thực hơn.
Từ khóa: Gia đình; dòng họ; biến đổi; người Dao; vấn đề đặt ra.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
79Số 18 - Tháng 6 năm 2017
Dao Quần Chẹt ở miền núi và trung du Bắc Bộ do
Nguyễn Ngọc Thanh làm chủ biên (2015),... Qua
tổng quan một số công trình đã công bố, bài viết
này xin khái quát về những biến đổi và vấn đề đặt
ra đối với gia đình, dòng họ người Dao ở nước
ta hiện nay. Giống với nhiều dân tộc, gia đình và
dòng họ người Dao gồm nhiều khía cạnh như cấu
trúc, quan hệ, chức năng,... vì vậy, trong khuôn
khổ một bài tạp chí, ở đây cũng chỉ đề cập tới
những biến đổi về cấu trúc và các mối quan hệ.
1. Những biến đổi trong gia đình
1.1. Biến đổi về cấu trúc gia đình
Cho đến cuối những năm 90 thế kỷ XX,
gia đình của người Dao nói chung cũng giống
như gia đình của nhiều tộc người thiểu số ở nước
ta, là gia đình nhỏ phụ hệ, người đàn ông làm
chủ gia đình,... Điều này đã được thể hiện trong
công trình Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà
Giang do Phạm Quang Hoan và Hùng Đình Quý
làm chủ biên (1999): “Những kết quả điền dã thu
thập được qua các đợt khảo sát thực tế tại nhiều
vùng người Dao ở Hà Giang cho thấy gia đình
nhỏ phụ hệ là loại gia đình chủ yếu ở các nhóm
Dao Đỏ và Dao Áo Dài. Có thể nói loại gia đình
này chiếm tỷ lệ cao và phổ biến rộng rãi ở các
bản người Dao”3. Về đặc điểm, mỗi gia đình nhỏ
phụ hệ người Dao bao gồm một cặp vợ chồng,
các con chưa xây dựng gia đình cùng với ông, bà
hoặc chỉ một trong hai người ấy. Tuy nhiên, do
gia đình truyền thống trước đây gồm nhiều cặp
vợ chồng anh em trai hoặc chị em gái cùng sống
trong một mái nhà, nên vẫn còn có loại gia đình
nhỏ gồm hai cặp vợ chồng hoặc loại gia đình gồm
bố mẹ và cặp vợ chồng con gái ở chung trong
một nhà. Chưa kể những gia đình có thêm con
em trong họ hoặc dòng họ khác, thậm chí dân tộc
khác nếu gia đình đó nhận con nuôi và lấy rể đời.
Đặc biệt, cấu trúc hiện nay trong gia đình người
Dao tuy đã biến đổi nhiều theo xu hướng gia tăng
số lượng gia đình nhỏ hạt nhân, song vẫn có thể
gặp trường hợp: “Một gia đình có bốn thế hệ với
ba cặp vợ chồng cùng sinh sống dưới một mái
nhà, có cơ sở kinh tế chung và tiêu dùng chung”4.
3. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý (Chủ biên, 1999),
Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang, NXB. Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội, tr.167.
4. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý (Chủ biên, 1999),
Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang, sđd, tr.169.
Trong công trình Phong tục tập quán người
Dao Thanh Hóa (2001), tác giả Đào Thị Vinh có
viết: “Ngày nay, gia đình đông con cũng thường
tách hộ, sau khi đã lập gia đình cho con. Thường
thì bố mẹ lo cho anh cả từ cưới vợ, đến nhà cửa
và ít tài sản. Đến lượt anh cả lại cùng với bố mẹ
lo cho các em thứ,...”. Bên cạnh đó, tác giả này
còn viết: “Cũng xin nói thêm, cho đến nay gia
đình người Dao vẫn còn nhiều dấu hiệu của gia
đình đa hệ. Hiện nay vẫn còn nhiều ngôi nhà rộng
dài được chia làm nhiều ngăn để làm buồng ngủ
cho ông bà, bố mẹ, con trai, con gái, con dâu,...”5.
Do nghiên cứu về người Dao ở tỉnh Thanh Hóa,
nên tác giả Đào Thị Vinh đã lấy ví dụ như: Trong
nhà ông Triệu Xanh Phin ở xóm Pù Quăn thuộc
xã Pù Nhi (huyện Mường Lát) vào năm 2000 có
tới 17 người, gồm 4 thế hệ chung sống, đó là bà,
bố mẹ, 2 anh em trai đã lấy vợ mỗi người có 4
đứa con, 2 chị em gái; nhà ông Bàn Sinh Phúc ở
làng Tân Thành, xã Ngọc Khê (huyện Ngọc Lạc)
có 11 người, gồm 3 thế hệ, trong đó có 2 anh
em trai đã có vợ con,... Hơn nữa, trong bài tham
luận tại Hội thảo Quốc tế lần thứ 7 về tộc người
Dao tổ chức ở thành phố Thái Nguyên vào tháng
12/1995, Hoàng Bá Thịnh và Lê Thị Nhâm Tuyết
(1998) cũng đã khẳng định rằng cơ cấu trong gia
đình người Dao ở nước ta hiện nay tuy đã giảm
dần về số lượng thành viên nhưng vẫn ở mức khá
quy mô: “Gia đình người Dao thường có quy mô
lớn, số hộ có từ 8 người trở lên chiếm 26%, từ 5-7
người chiếm 47%, quy mô gia đình lớn là gánh
nặng đối với người phụ nữ trong cuộc sống...”6.
Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu tại
thực địa và nhận định của các tác giả về tình hình
cấu trúc gia đình hiện nay ở người Dao nước ta đều
có sự tương đồng nhau. Cụ thể, từ khi đổi mới năm
1986 tới nay, cấu trúc gia đình người Dao tuy đã
có sự thay đổi theo hướng giảm đi số lượng thành
viên và chiếm đa số hiện nay là gia đình nhỏ hạt
nhân, tức gồm bố mẹ và các con chưa dựng vợ gả
chồng, song giai đoạn chuyển đổi ấy vẫn còn tồn
tại loại gia đình truyền thống gồm vài thế hệ và
vài đôi vợ chồng chung sống dưới một mái nhà
5. Đào Thị Vinh (2001), Phong tục tập quán người Dao
Thanh Hóa, NXB. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr.103-104.
6. Hoàng Bá Thịnh và Lê Thị Nhâm Tuyết (1998), Một số
vấn đề về giới trong đời sống của người Dao, Trong Sự phát
triển văn hóa xã hội người Dao: Hiện tại và tương lai, Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia xuất bản, Hà
Nội, 1998, tr.78.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
80 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
trong một thời gian nhất định, rồi sau đó mới tách
ra thành những gia đình nhỏ hạt nhân. Vì vậy, có
thể nói từ khi đổi mới đất nước, dưới tác động của
cơ chế thị trường và các giá trị văn hóa thay đổi,
cấu trúc gia đình người Dao ở nước ta đã và đang
chuyển đổi theo xu hướng: từ quy mô lớn, đông
người đến quy mô nhỏ, ít người để phù hợp hơn
với cơ chế nông hộ, tức kinh tế hộ gia đình và hoạt
động theo thị trường.
1.2. Biến đổi về quan hệ trong gia đình
Qua một số công trình viết về tộc người
Dao ở nước ta cho thấy, các mối quan hệ trong gia
đình hiện nay của tộc người này đã có sự biến đổi
đáng kể so với truyền thống, do số thế hệ và số
lượng thành viên trong nhà giảm đi, tức gia tăng
mô hình gia đình nhỏ hạt nhân gồm hai thế hệ
chung sống với nhau. Tuy nhiên, nét đẹp truyền
thống các mối quan hệ trong gia đình vẫn được
duy trì: “Ở gia đình, những nét đẹp trong quan
hệ giữa các thành viên thể hiện ở tính dân chủ,
bình đẳng, thương yêu lẫn nhau, không kể con đẻ
hay con nuôi vẫn là những nét nổi bật. Mọi người
trong gia đình luôn nghe lời nhau, sinh hoạt có nề
nếp, nhìn nhau mà làm để có thành quả lao động
xứng đáng...”7.
Giống như nhiều dân tộc khác, sau khi kết
hôn, đôi vợ chồng trẻ người Dao vẫn mong muốn
đẻ được con trai. Với lý do trong gia đình phụ hệ,
người con trai vừa là người chủ, vừa đóng vai trò
chủ đạo đối với các công việc của gia đình, kể cả
đảm nhiệm các vấn đề khác liên quan đến dòng
họ và quan hệ với người bên ngoài. Tuy vậy, đôi
vợ chồng đó cũng không quá lo lắng khi đẻ toàn
con gái, bởi người Dao hiện nay càng có điều
kiện để thực hiện tập quán nuôi con nuôi và lấy
rể đời cho con gái. Theo đó, người con nuôi hoặc
rể đời sẽ thay con trai làm chủ gia đình, rồi con
cái sinh ra sẽ trở thành người trong dòng họ của
bố mẹ nuôi hoặc bố mẹ vợ, được thừa kế tài sản
khi bố mẹ nuôi hay bố mẹ vợ qua đời,... Hơn nữa,
việc mua hoặc xin nhận con nuôi và lấy rể đời ở
người Dao còn được thực hiện một cách trang
trọng và có ý nghĩa tâm linh thông qua nghi lễ
đổi họ sang họ của bố nuôi hoặc họ của vợ. Rõ
ràng, tập quán này không chỉ thể hiện mối quan
7. Bế Viết Đẳng (1998), “Người Dao ở Việt Nam - Những
truyền thống thời hiện đại”, Trong cuốn Sự phát triển văn
hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai, sđd, tr.23.
hệ khá đặc biệt, tức quan hệ phức tạp nhưng luôn
diễn ra êm ấm giữa con nuôi và con đẻ, giữa con
trai và rể đời,... trong một số gia đình người Dao,
mà còn đảm bảo giữ được tính bền vững trong
sự phát triển của mỗi dòng họ người Dao khi gia
đình không thể đẻ được con trai.
Như vậy, đối với người Dao, các mối quan
hệ nhận con nuôi và ở rể đời là nét đặc trưng
không mang tính sinh lý mà mang tính xã hội sâu
sắc, giống như tác giả Diệp Đình Hoa đã viết:
“Để phù hợp với ý thức xã hội, người Dao đã sử
dụng các phương cách như ở rể, nhận làm con
nuôi dưới nhiều hình thức để tạo nên tính bền
vững này. Lễ cáo tiên tổ để đổi họ được tuân thủ
rất nghiêm ngặt”8. Còn trong bài Người Dao ở
Hà Giang, học giả Triệu Đức Thanh còn viết
thêm: “Người Dao không có tình trạng mẹ ghẻ
con chồng, mẹ kế con cái đều gọi là mẹ..., không
có tình trạng mẹ kế bị coi rẻ và mẹ kế đối xử bạc
đãi với con chồng. Tương tự như vậy, nếu đôi vợ
chồng nào chỉ có con gái, thường phải lấy con rể
về thế con trai, phải đổi họ và coi nhau như con
đẻ, bố mẹ đẻ...”9. Qua đây có thể thấy, cho đến
nay, trong gia đình, dòng họ và xã hội tộc người
Dao nói chung còn có một bộ phận nhỏ là tộc
người khác đến ở rể hoặc làm con nuôi, nhưng đa
số họ đã được cảm hóa trở thành người Dao thực
thụ. Song, sự biến đổi diễn ra ở chỗ, nếu trước
đây người Dao thường nhận con nuôi hoặc lấy rể
đời là người ở địa phương, thì nay họ mở rộng lấy
thêm người ở địa phương khác, đặc biệt là người
ở dưới xuôi với nhiều lý do, nhưng chủ yếu với
mục đích mở rộng giao lưu, tiếp thu những kinh
nghiệm liên quan tới hoạt động kinh tế.
Theo tập quán, quan hệ trong gia đình
người Dao tuy phụ quyền là hình thái đặc trưng,
tức người cha - người chồng đóng vai trò quyết
định khi tình huống đặt ra và trong mọi công việc
của gia đình. Tuy vậy, đối với các công việc hệ
trọng như làm nhà mới, cưới xin, cấp sắc cho con
trai,... đều có sự bàn bạc giữa các thành viên lớn
tuổi trong nhà, chồng có ý kiến trao đổi với vợ,...
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội
8. Diệp Đình Hoa: “Người Dao ở xóm Yên (xóm Suối Yên)”,
Trong cuốn Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao:
Hiện tại và tương lai, sđd, tr.219.
9. Triệu Đức Thanh: “Người Dao ở Hà Giang”, Trong cuốn
Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và
tương lai, sđd, tr.181.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
81Số 18 - Tháng 6 năm 2017
nhập hiện nay, khi quyết định công việc của gia
đình, kể cả các công việc liên quan đến sản xuất
hoặc cho con cái đi học, người đàn ông Dao lại
càng quan tâm hơn đến sự bàn bạc và thống nhất
của người vợ cùng với các thành viên khác trong
nhà, thậm trí còn tranh thủ trao đổi ý kiến với
những người có uy tín trong dòng họ. Còn mối
quan hệ giữa bố chồng, anh chồng - con dâu, em
dâu, mẹ vợ - con rể trong gia đình người Dao thì
hiện nay đã được rộng mở hơn nhiều so với trước
kia. Theo đó, tác giả Lý Dương Liễu đã viết:
“Con dâu - bố chồng, anh chồng đã có thể ngồi ăn
cùng mâm”, tuy vậy, những giá trị truyền thống
trong nhà người Dao vẫn được duy trì: “Con cái
được giáo dục phép tắc ứng xử kính trọng người
trên, hiếu khách. Trẻ con ít khi bị đánh, con nuôi
được đối xử như con đẻ...”.10
Về nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự biến
đổi các mối quan hệ trong gia đình người Dao kể
từ khi đổi mới, do lớp trẻ người Dao đã dần mạnh
dạn hơn trong việc giao lưu với xã hội bên ngoài.
Trên cơ sở đó: “Họ vừa muốn bảo lưu và phát
triển tinh hoa của nếp sinh hoạt truyền thống,
vừa có ý thức tiếp thu nếp sống mới của đại gia
đình các dân tộc Việt Nam, của thời đại. Người
Dao đã khéo léo kết hợp để tạo ra sức mạnh trong
mối quan hệ: Nếp nhà - Lệ làng - Phép nước”11.
Có thể nói, những biến đổi trong gia đình người
Dao ở nước ta về cấu trúc và quan hệ giữa các
thành viên, kể các các khía cạnh khác như việc
thực hiện các chức năng gia đình,... đều phù hợp
với xu hướng phát triển chung của xã hội, đảm
bảo cho sự hội nhập nhưng không hòa tan với các
tộc người láng giềng trong bối cảnh cơ chế thị
trường, kinh tế gia đình tự chủ và toàn cầu hóa.
2. Những biến đổi trong dòng họ
2.1. Biến đổi về cấu trúc dòng họ
Các nhóm Dao thuộc phương ngữ Miền
gọi dòng họ là “phính”. Theo Quá sơn bảng văn
hay Bình hoàng khoán điệp mà nay được nhiều
dòng họ người Dao đang lưu giữ, dân tộc Dao
xưa kia có 12 họ: Bàn, Trần, Hoàng, Lý, Đặng,
10. Lý Dương Liễu (Chủ biên, 2004), Người Dao ở Lạng Sơn,
Sở Văn hóa Thông tin Lạng Sơn xuất bản, Lạng Sơn, tr.213.
11. Đào Thị Vinh (2001), Phong tục tập quán người Dao
Thanh Hóa, sđd, tr.107.
Chu, Triệu, Hồ, Trịnh, Phùng, Lôi và Tưởng12.
Tuy nhiên, do mở rộng giao lưu từ lâu đời, người
Dao ở Việt Nam hiện nay có thêm nhiều họ khác,
ví dụ như: Sằm, Phượng, Dương, Trương,...
trong đó, đông đảo nhất là các họ Bàn, Đặng,
Lý, Triệu,... Hơn nữa, qua quá trình phát triển,
các họ lớn đã bị phân tách thành các dòng họ, từ
các dòng họ ấy lại chia ra thành nhiều chi họ và
tông tộc khác nhau,... Chẳng hạn, họ Bàn có họ
Bàn lớn, họ Bàn nhỏ, thậm chí có họ Bàn trắng,
họ Bàn xanh,...; họ Triệu có Triệu đỏ, Triệu mốc,
Triệu xanh, Triệu tím; họ Lý có họ Lý bé, họ Lý
to,... Vì vậy, quan hệ thân thuộc trên thực tế hiện
nay thường là quan hệ trong tông tộc gần nhau
hay cùng một chi, cũng có thể một dòng họ gồm
nhiều tông tộc (cha làu) nhưng mấu chốt ở chỗ là:
các gia đình thành viên vẫn còn cùng thờ cúng tổ
tiên dòng họ. Dòng họ cùng thờ cúng tổ tiên, tức
tông tộc có vai trò rất quan trọng trong sinh hoạt
cộng đồng người Dao, bởi có người đứng đầu là
trưởng tộc hay trường dòng họ (cha làu con), nhà
của trưởng tộc ấy được coi là nhà lớn (tầm piáu),
các gia đình khác thuộc tông tộc gọi là nhà nhỏ
(piáu ton).13
Tuy nhiên, trong bối cảnh từ đổi mới đến
nay, dưới tác động của việc làm ăn theo cơ chế
thị trường và kinh tế hộ gia đình thì: “Tổ chức
dòng họ và gia đình thành viên theo kiểu nhà lớn
- nhà nhỏ ở một vài nơi, vài nhóm đang diễn ra
theo xu hướng xé nhỏ”14, hoặc: “Nhà lớn là nơi tổ
chức hành lễ, cúng bái và ăn tết chung. Sau khi tổ
chức xong ở Nhà lớn, các gia đình mới được về
nhà mình tổ chức nghi lễ riêng. Tuy nhiên, hiện
nay ở Bắc Kạn tập tục này hầu như đã bị phá
vỡ, không còn được duy trì như ở một số dân tộc
có dòng họ lớn - chẳng hạn như dân tộc Kinh”15.
Theo đó, các gia đình người Dao với vai trò là
nhà nhỏ (piáu ton) giống như vệ tinh xung quanh
nhà lớn - nhà trưởng họ hay trưởng tộc (tầm piáu)
12. Triệu Hữu Lý (Sưu tầm và biên dịch), Quá Sơn bảng văn
(Bình hoàng khoán điệp) của dân tộc Dao, tài liệu đánh máy
lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học, mã số B89.
13. Nhiều tác giả (2004), Bản sắc và truyền thống văn hóa
các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội,
tr.205.
14. Lý Dương Liễu (Chủ biên, 2004), Người Dao ở Lạng
Sơn, sđd, tr.246.
15. Nhiều tác giả (2004), Bản sắc và truyền thống văn hóa
các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, sđd, tr.206.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
82 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
thì ngày càng ít đi, với nguyên nhân lý do bối
cảnh đổi mới hiện nay nhiều nhà nhỏ muốn tự
xác lập vị trí vai trò của mình trong dòng họ và
trong xã hội mà không cần phải thông qua nhà
lớn nữa. Tình anh em họ hàng và các mối tương
trợ nhau cũng vì thế mà có phần phai nhạt và lỏng
lẻo hơn so với trước. Bên cạnh đó, tập quán giáo
dục thường xuyên về nguồn gốc dòng họ, nguồn
gốc tộc người Dao,... thông qua những câu truyện
mà người già trong dòng họ kể lại cho con trẻ
nghe, những bản trường ca hát trong đêm tạ ơn
Bàn Vương khi có lễ cúng lớn của dòng họ cùng
với nhiều hình thức giáo dục truyền thống khác
trong dòng họ đối với các thành viên của mình
cũng đang ngày một thưa dần. Bởi vì hiện nay,
lớp trẻ người Dao ở khắp các vùng miền đất nước
thường quan tâm đến cuộc sống thường nhật, đặc
biệt là theo xu hướng hiện đại nhiều hơn so với
việc thực hiện các mối quan hệ dòng họ khép kín
của mình.
Ngoài ra, trong cấu trúc dòng họ của người
Dao còn có hiện tượng một số ít hộ gia đình thành
viên trước kia vốn thuộc dòng họ khác, như dòng
họ Triệu chẳng hạn, nhưng do hoàn cảnh nào đó
đã làm lễ nhập vào họ mới, tức nhập ma để được
công nhận là người của dòng họ mới (họ Lý hoặc
Bàn,...). Rõ ràng, những thành viên được làm lễ
nhập họ hoặc đổi họ sang họ mới thì không có
quan hệ huyết thống với các gia đình khác ở trong
dòng họ mới được nhập vào, mà chỉ có quan hệ
cùng chung ma tổ tiên dòng họ mà thôi16. Tương
tự như vậy, những trường hợp gia đình nhận con
nuôi cùng hoặc khác dân tộc cũng không có quan
hệ huyết thống với các gia đình thành viên trong
dòng họ, song do đã chấp nhận làm lễ nhập họ
nên trở thành người của dòng họ. Vì thế, những
người đó tuy không cùng huyết thống nhưng do
cùng thờ tổ tiên, nên con cháu sinh ra không được
lấy nhau. Có thể thấy, đây chính là điểm khác biệt
về thành phần trong cấu trúc của dòng họ người
Dao so với cấu trúc dòng họ của một số tộc người
láng giềng. Hiện nay, vấn đề này vẫn đang tồn
tại và có phần biến đổi theo hướng phức tạp hơn
do phần lớn trường hợp nhận con nuôi và lấy rể
đời là người không cùng địa phương và không
cùng dân tộc, làm cho các mối quan hệ họ hàng
16. Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời
người của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn, NXB. Khoa
học Xã hội, Hà Nội, tr.32-33.
và thông gia ngày càng mở rộng thêm. Trong khi,
tập quán quan hệ thứ bậc trong dòng họ người
Dao vốn theo vòng tên đệm nhưng nay có một số
nơi, một số dòng họ đã đặt tên đệm cho con cháu
theo sở thích giống như người Kinh.
2.2. Biến đổi về quan hệ trong dòng họ
Đã từ lâu và trong bối cảnh hiện nay, một
trong những đặc điểm nổi bật nhất thể hiện các
mối quan hệ trong mỗi dòng họ hay tông tộc, tức
chi họ của người Dao là: “Người Dao rất bình
đẳng: ai sinh ra trước là anh, là chị, sinh sau là
em chứ không phụ thuộc con anh, con em”17. Để
phân biệt các thế hệ ông, bố, con, cháu, chắt, chút,
chít,... trong cùng một dòng họ, đồng bào Dao sử
dụng hệ thống tên đệm cho mỗi thế hệ đàn ông,
khi hết các tên đệm này thì quay lại từ đầu, tức
được một vòng hay còn gọi là một giáp. Chẳng
hạn, trong hệ thống tên đệm của một trong các
dòng của họ Triệu có 7 tên gọi, đó là: Long, Phú,
Nguyên, Hữu, Đức, Tài, Tiến; còn ở một trong
các dòng của họ Lý có 9 tên đệm như: Tài, Sảo,
Toàn, Tiến, Phú, Hỷ, Văn, Cung, Thành. Mỗi
dòng họ có hệ thống tên đệm riêng để phân biệt
các thế hệ đàn ông trong dòng họ ấy, tức hệ thống
tên đệm của các dòng họ không giống nhau về số
lượng và cách gọi, có dòng họ chỉ có 5 tên đệm,
cũng có dòng họ dùng 7 hoặc 9, thậm chí có 12
tên đệm hoặc nhiều hơn nữa. Tuy vậy, trong quá
trình phát triển của dòng họ, đặc biệt là thời kỳ du
canh du cư trước đây, có một số đời trong dòng
họ do gặp phải rủi ro hoặc bị mất gia phả mà quên
đi một số tên đệm trong hệ thống các tên đệm của
dòng họ mình nên dòng họ ấy thường tránh và bỏ
đi những tên đệm mà những đời trước đã bị đau
khổ,....18. Cụ thể như người Dao ở Ba Vì thuộc
Hà Nội, nếu quy định bậc trong một giáp để phân
biệt vai trên vai dưới mà tác giả Dương Trung
Tâm đã thể hiện thì: “Họ Triệu 7 bậc, họ Phùng
7 bậc, họ Dương 9 bậc: Dương Phú, Dương Quý,
Dương Tiền, Dương Văn, Dương Sinh, Dương
Hữu, Dương Đức,...”19. Trong quá trình giao lưu
17. Triệu Đức Thanh (1998), Người Dao ở Hà Giang, Trong
cuốn Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại
và tương lai, sđd, tr.180.
18. Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời
người của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể, sđd, tr.29.
19. Dương Trung Tâm (1998),Người Dao ở Ba Vì, Trong
cuốn Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại
và tương lai, sđd, tr.282.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
83Số 18 - Tháng 6 năm 2017
và hội nhập, hệ thống tên đệm của mỗi dòng họ
vẫn được người Dao duy trì bằng cách lưu giữ
quyển gia phả của dòng họ đã ghi chép, được cất
cẩn thận tại nhà ông trưởng dòng họ hoặc trưởng
tộc. Song, khi đặt tên đệm dùng thường ngày, tức
tên đệm ghi trong hồ sơ hay giấy tùy thân thì như
đã trình bày, người ta thường không đặt theo hệ
thống tên đệm của dòng họ như trước kia nữa, mà
đặt theo tùy thích sao cho vần với họ và tên gọi
giống như ở người Kinh láng giềng. Với sự biến
đổi này, hệ thống các tên đệm của mỗi dòng họ
người Dao ở không ít địa phương hiện nay hầu
như chỉ còn được dùng bắt buộc đối với tên cấp
sắc, tức tên âm hay còn gọi là pháp danh (phạt
búa) khi người ấy được làm lễ cấp sắc. Theo đó,
người đàn ông Dao đã thụ lễ cấp sắc thì có họ, tên
đệm và tên âm bằng tiếng Dao, được ghi chép cẩn
thận vào trong gia phả của dòng họ. Đây là tên gọi
được dùng lúc thực hành cúng bái và khi chết đi
con cháu chỉ gọi đến tên này mỗi lần khấn cúng,
tức không khấn gọi tên và tên đệm thường dùng
hàng ngày ghi trong hồ sơ hoặc lý lịch cá nhân.
Rõ ràng, cho đến nay mặc dù đã có một
số thay đổi về cấu trúc dòng họ, song, mối quan
hệ trong phạm vi dòng họ và giữa các dòng họ
của người Dao vẫn khá phong phú, đa dạng. Theo
đó, cách xưng hô giữa những người ở các dòng
họ hoặc tông tộc khác nhau lại hoàn toàn mang
tính xã hội giống như ở nhiều tộc người khác, tức
không dựa theo thứ tự tên đệm mà chỉ căn cứ tuổi
già hay trẻ để gọi và xưng hô cho phải vai phải
lứa. Còn trường hợp cùng dòng họ hoặc tông tộc,
thì phải nhìn mặt hoặc tuổi tác để xưng hô là anh
(chị) hoặc em nếu cùng tên đệm, tức cùng thế hệ;
nếu khác thế hệ thì xưng bác nếu người ấy già
hơn bố mình, chú khi thấy người đó trẻ hơn bố
mình hoặc xưng ông, cháu,... Bên cạnh đó, cần
lưu ý rằng, con trai người Dao đến nay vẫn có 3
tên gọi: tên khai sinh, tên thường gọi khi trên 10
tuổi trở lên hoặc gọi theo tên của con, tên pháp
danh dùng khi cúng bái20. Thông thường, những
người có gia đình và con cái thì được gọi theo
tên con, người thanh niên chưa vợ hoặc chồng thì
gọi là anh hoặc chị nếu cùng thế hệ, trường hợp
thế hệ trên thì vẫn phải gọi là chú (cô) hoặc ông
(bà),... tuy người ấy còn rất trẻ. Riêng tên âm,
20. Triệu Đức Thanh (1998), Người Dao ở Hà Giang, Trong
cuốn Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại
và tương lai, sđd, tr.180.
tức pháp danh thì chỉ dùng trong cúng bái và khi
xưng hô giữa thầy cúng trong lễ cấp sắc và trò tức
người được cấp sắc, ngày thường không ai nhắc
tới và cũng rất ít người biết đến tên gọi này của
người đàn ông khác không thuộc dòng họ mình.
Như đã nói, mỗi dòng họ người Dao cho
đến nay đều phải có một người đứng đầu, gọi là
trưởng dòng họ hoặc trưởng tộc, nhà ở của người
trưởng họ ấy được các gia đình thành viên gọi là
nhà lớn. Qua nghi cứu thực thế cũng cho thấy, đối
với các mối quan hệ và cách ứng xử, mỗi dòng họ
hay tông tộc của người Dao giống như một gia
đình lớn, trong đó người cầm lái là ông trưởng
dòng họ. Các gia đình thành viên trong dòng họ
luôn có trách nhiệm phát triển sản xuất, giáo dục
con cháu khôn lớn, giám sát việc chấp hành phong
tục tập quán, thực hiện nghĩa vụ tương trợ nhau
trong dòng họ,...21. Sau năm 1986, dưới tác động
của cơ chế kinh tế hộ, mặc dù các gia đình thành
viên có sự độc lập tương đối trong hoạt động sinh
kế, quan hệ xã hội, tổ chức đời sống tinh thần
cho các thành viên,... nhưng trưởng dòng họ ở
người Dao vẫn là người đóng vai trò quan trọng
đối với các vấn đề liên quan đến phong tục tập
quán Dao. Đó là khi các gia đình thành viên có
những công việc hệ trọng như: làm lễ cấp sắc cho
con trai, tiến hành tảo mộ, tang ma,... Đặc biệt,
trưởng dòng họ người Dao hiện nay vẫn có uy
tín đối với các gia đình thành viên trong việc giải
quyết những vấn đề liên quan tới hòa giải trong
dòng họ, kể cả động viên con cháu đi học, đảm
bảo sự đoàn kết giữa các gia đình cùng dòng họ,...
3. Một số vấn đề đặt ra
3.1. Về tình hình biến đổi
Từ sau năm 1986, dưới tác động của việc
đổi mới toàn diện về chính sách dân tộc cùng
với sự phát triển đi lên của đất nước, gia đình và
dòng họ người Dao ở nước ta tuy được coi là khá
bền vững trong các thiết chế xã hội truyền thống
của tộc người này nhưng cũng đã có sự biến đổi
nhanh chóng, nhất là các yếu tố liên quan tới cấu
trúc và các mối quan hệ. Qua các tư liệu phân
tích, về cơ bản, những biến đổi ấy diễn ra theo
xu hướng phù hợp với quá trình đổi mới đất nước
ngày càng sâu rộng trên các lĩnh vực kinh tế, xã
21. TS. Đặng Thị Hoa (Chủ biên, 2014), Quản lý xã hội vùng
dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong phát triển bền vững, NXB.
Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.83.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
84 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
hội, văn hóa,... Đây là điều kiện thuận lợi cho gia
đình và dòng họ người Dao mở rộng giao lưu, hội
nhập với các dân tộc láng giềng, nhất là với người
Kinh trên cơ sở tiếp thu các yếu tố mới.
Tuy nhiên, tình trạng biến đổi nhanh chóng
đã dẫn tới việc đứt gãy một số yếu tố truyền
thống và đây cũng là vấn đề đặt ra đối với công
tác bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Bởi
vì sự thay đổi về cấu trúc cũng như các mối quan
hệ trong gia đình và dòng họ sẽ dẫn tới những
biến đổi về một số chức năng, vị trí vai trò của
hai tổ chức thiết chế xã hội truyền thống này.
Chưa kể tới những tác động khác do đơn vị cư
trú của người Dao có xu hướng thay đổi mạnh
mẽ về cảnh quan môi trường cũng như thiết chế
và cơ chế quản lý các mối quan hệ cộng đồng
thôn/làng, do xuất hiện và xác lập thêm các mối
quan hệ mới theo cơ chế thị trường như di dân,
lao động tự phát,... Như đã đề cập, nếu trước đây
các gia đình “nhà nhỏ” trong dòng họ thường cư
trú gần gia đình “nhà lớn” thì hiện nay, không ít
gia đình “nhà nhỏ” do tác động của việc di cư
hoặc thay đổi về ngành nghề sinh kế,... đã không
còn là “vệ tinh” quay xung quanh “nhà lớn” nữa,
tức mối quan hệ trong dòng họ, đặc biệt là giữa
gia đình “nhà lớn” với các gia đình “nhà nhỏ” sẽ
phai nhạt dần, bởi khoảng cách cư trú không gần
nhau. Trong khi, gia đình và dòng họ người Dao
từ xưa đến nay luôn có yếu tố mở, nghĩa là có thể
tiếp nhận người khác tộc hoặc chia tách từ dòng
họ này sang dòng họ khác,...
3.2. Vấn đề nảy sinh từ những tác động
của sự biến đổi
Dưới tác động của sự biến đổi nhanh
chóng về cấu trúc gia đình tức gia tăng số hộ
gia đình nhỏ hạt nhân, các hoạt động sinh kế của
mỗi gia đình người Dao hiện nay đều tập trung
hướng tới tự chủ về đời sống kinh tế dựa trên cơ
chế thị trường, do đó có tình trạng phân hóa giàu
nghèo không chỉ ở trong cộng đồng thôn/làng mà
cả trong phạm vi dòng họ. Tuy nhiên, điều này
không có nghĩa các gia đình và dòng họ người
Dao hiện nay đã bỏ đi các hình thức tương trợ
nhau. Trong bối cảnh mới khi các hộ gia đình đều
đua nhau làm kinh tế, đặc biệt là dưới tác động
của kinh tế thị trường, sự trợ giúp nhau cũng có
hạn, tức những gia đình có hoàn cảnh khó khăn
nếu không tự lực vượt qua thì cũng không thể mãi
nhận được sự giúp đỡ của dòng họ và cộng đồng
cư trú. Ở đây cũng cần lưu ý rằng, sự phân hóa
giàu nghèo trong trường hợp này không dẫn đến
tình trạng nhà nghèo thì quá nghèo đến nỗi không
có gì để ăn, tức họ chỉ nghèo về gia sản và việc
tích lũy của cải, bởi vì họ vẫn đủ thóc gạo để ăn
uống hàng ngày. Song, đây cùng một vấn đề nan
giải cần có những giải pháp khắc phục.
Mặt khác, do tác động của sự biến đổi về
cấu trúc cũng như các mối quan hệ trong gia đình
và dòng họ cùng với tình trạng khan hiếm rừng
và đất canh tác tại địa phương đã dẫn tới việc
ngày càng nhiều người Dao vượt ra ngoài phạm
vi dòng họ và đơn vị cư trú để tìm kiếm việc
làm thêm, thậm chí di cư đi nơi khác lập nghiệp.
Chẳng hạn như các trường hợp đi làm thuê theo
thời vụ ở trong phạm vị xã, huyện hoặc tỉnh khác;
đi làm công nhân tại các công ty hoặc xí nghiệp
liên doanh; vượt biên giới sang Trung Quốc hoặc
sang Lào để kiếm việc làm thuê,... Việc ngày
càng gia tăng tình trạng này cũng là vấn đề đang
đặt ra, do người Dao trong các gia đình và dòng
họ có điều kiện di dân đến nhiều địa phương, bất
kể nơi nông thôn hay thành thị, thậm chí xuyên
qua biên giới quốc gia để tiến hành lao động tự
do. Trên cơ sở đó, cùng với tình hình di cư tự do
trong thời gian qua từ các tỉnh miền núi phía Bắc
đi vào phía Nam sinh sống, người Dao trong mỗi
gia đình, dòng họ và thôn/làng hiện nay có cơ hội
và điều kiện thiết lập mạng lưới xã hội ngày càng
rộng rãi, với các mối quan hệ đa chiều vượt ra
khỏi phạm vi kiểm soát của gia đình và dòng họ
nên rất phức tạp, dễ bị lợi dụng vào những mục
đích khác nhau, bị tôn giáo mới thâm nhập hoặc
gặp tệ nạn xã hội,...
3.3. Vấn đề tiếp tục bảo tồn các giá trị
trong gia đình và dòng họ
Trên cơ sở những biến đổi liên quan tới gia
đình và dòng họ người Dao, các yếu tố văn hóa
tộc người cũng được tiếp biến, thậm chí mai một
dần, nhường chỗ cho các yếu tố văn hóa mới, phổ
thông và hiện đại, đặc biệt là văn hóa đô thị. Thực
tế cũng cho thấy, trong hầu hết các gia đình người
Dao hiện nay đã không còn bóng dáng thanh niên
nam nữ mặc bộ trang phục truyền thống, hát các
bài hát dân ca bằng tiếng Dao, trong một số nghi
lễ tuy vẫn còn hát nhưng chỉ mang tính hình thức;
tiếng Dao đã có sự pha trộn với tiếng Việt, trong
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
85Số 18 - Tháng 6 năm 2017
khi đang gia tăng số người trẻ nói được ít hoặc
không nói được tiếng Dao; các tập quán tương
trợ giữa các gia đình tuy vẫn duy trì, song yếu tố
thương mại và thị trường cũng ngày càng được
chú trọng,... Hầu như tất cả những sự biến đổi
này đều xuất phát từ mỗi gia đình và dòng họ
người Dao nói chung. Đây là vấn đề thách thức
nếu không có chính sách và giải pháp phù hợp để
bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống từ ngay
trong mỗi gia đình và dòng họ của mỗi dân tộc,
trong đó có người Dao.
Do nắm bắt được những thách thức không
chỉ trước mắt mà cả lâu dài về sự mai một những
đặc trưng văn hóa diễn ra tại các gia đình, dòng
họ và thôn/làng của các dân tộc thiểu số trong đó
có tộc người Dao, Đảng và Nhà nước cũng như
các cấp các ngành đã có những chính sách, dự
án hỗ trợ bảo tồn, phục dựng và phát huy. Nhờ
đó, một số sinh hoạt văn hóa truyền thống của
người Dao được duy trì, chẳng hạn như các nghi
lễ trong gia đình, cúng miếu làng, tết nhảy, lễ mở
cửa rừng,... Tuy nhiên, về lâu dài, dưới tác động
của những biến đổi trong gia đình và dòng họ kết
hợp du nhập các yếu tố văn hóa mới sẽ dần làm
lu mờ và mai một không ít các đặc điểm văn hóa
truyền thống của gia đình, dòng họ và cộng đồng
thôn/làng các dân tộc thiểu số nói chung, của
người Dao nói riêng. Chẳng hạn, lớp trẻ trong gia
đình Dao hiện nay hầu như ít quan tâm đến tiếng
Dao và chữ Nôm Dao, không học thêu thùa bộ
trang phục truyền thống, không biết bài hát dân
ca Dao, không còn thích nghe và cũng chẳng nhớ
đến các loại truyện cổ tích mà cha ông trao truyền
lại... Trong các hoạt động văn hóa của thanh niên
hiện nay, kể cả mỗi khi gia đình có đám cưới, vào
nhà mới... đều xuất hiện loa đài cùng âm ly và
băng đĩa ca nhạc nhẹ, bởi vì người ta thích hát các
bài hát mới, thích nhảy các điệu múa hiện đại,...
Như vậy, vấn đề đặt ra là việc tiếp tục bảo tồn và
phát huy các đặc trưng văn hóa truyền thống của
tộc người từ ngay trong mỗi gia đình và dòng họ
người Dao trước những tác động từ sự biến đổi
ngày càng nhanh và sâu rộng của các điều kiện tự
nhiên và các cơ sở vật chất liên quan tới việc duy
trì các đặc điểm văn hóa ấy.
Kết luận
Gia đình và dòng họ là những tổ chức thiết
chế xã hội của nhiều dân tộc, trong đó có người
Dao. Qua phân tích một số công trình nghiên cứu
cho thấy, từ sau năm 1986 đến nay, dưới tác động
của nhiều yếu tố, đặc biệt là sự đổi mới toàn diện
trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước ta, gia đình và dòng họ của dân tộc
Dao đã có sự biến đổi nhanh so với truyền thống
trước đây. Đó là tình trạng xuất hiện ngày càng
nhiều loại gia đình nhỏ hạt nhân; việc thay đổi
tập quán cư trú của một số gia đình thành viên
trong dòng họ; yếu tố tự chủ hoạt động kinh tế
của các gia đình thành viên trong dòng họ đang
từng bước được xác lập; hệ thống tên đệm của
dòng họ đã không còn sử dụng phổ biến ở không
ít địa phương khi bố mẹ làm giấy khai sinh cho
đứa trẻ,...
Bên cạnh đó, các mối quan hệ giữa các gia
đình nhỏ hạt nhân với gia đình gốc và gia đình
trưởng dòng họ cũng không còn đậm nét truyền
thống trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong lao động
sản xuất, thực hành một số nghi lễ gia đình và
dòng họ như cúng tổ tiên dòng họ, cưới xin, làm
nhà mới,... Về cơ bản, những biến đổi này phù
hợp với bối cảnh đổi mới đất nước ngày càng sâu
rộng và xu hướng phát triển chung của xã hội, tạo
điều kiện thuận lợi cho các gia đình và dòng họ
người Dao tiếp thu những yếu tố mới tích cực và
hiện đại, hòa nhập dần với các dân tộc anh em.
Tuy nhiên, những biến đổi ấy cũng sẽ làm mai
một đi một số yếu tố truyền thống tốt đẹp vốn có
của gia đình và dòng họ người Dao.
Với sự biến đổi nhanh chóng của gia đình
và dòng họ người Dao thời gian gần đây, có một
số vấn đề đang đặt ra, đặc biệt là vấn đề bảo tồn
và phát huy các đặc trưng văn hóa truyền thống
tộc người từ trong mỗi gia đình và dòng họ. Thực
tế cho thấy, không ít giá trị văn hóa mang tính bản
sắc dân tộc Dao vốn được lưu giữ, trao truyền từ
các thành viên trong gia đình và dòng họ người
Dao thì nay đang bị pha trộn với các yếu tố mới
hoặc bị mai một đi, cụ thể như việc thêu thùa và
khâu bộ trang phục truyền thống, nói chuẩn tiếng
Dao, truyền dạy và hát các bài dân ca cổ truyền...
Do vậy, các cấp các ngành và chính quyền địa
phương cần có những giải pháp phù hợp và linh
hoạt để từng bước khơi dậy ý thức tự giác của
các gia chủ và những người có uy tín trong dòng
họ cũng như trong thôn/làng đối với việc duy trì
và trao truyền các giá trị văn hóa tộc người trước
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
86 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
những tác động ngày càng mạnh mẽ của quá trình
đô thị hóa, cơ chế thị trường và hội nhập.
Tài liệu tham khảo
[1] Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng,
Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến (1971), Người
Dao ở Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội;
[2] TS. Đặng Thị Hoa (Chủ biên, 2014),
Quản lý xã hội vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam
trong phát triển bền vững, NXB. Khoa học Xã
hội, Hà Nội;
[3] Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý
(Chủ biên, 1999), Văn hóa truyền thống người
Dao ở Hà Giang, NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội;
[4] Lý Dương Liễu (Chủ biên, 2004),
Người Dao ở Lạng Sơn, Sở Văn hóa Thông tin
Lạng Sơn xuất bản, Lạng Sơn;
[5] Triệu Hữu Lý (Sưu tầm và biên dịch),
Quá Sơn bảng văn (Bình hoàng khoán điệp) của
dân tộc Dao, tài liệu đánh máy lưu tại Thư viện
Viện Dân tộc học, mã số B89;
[6] Nhiều tác giả (2004), Bản sắc và truyền
thống văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, NXB.
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội;
[7] Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ
yếu trong chu kỳ đời người của nhóm Dao Tiền ở
Ba Bể, Bắc Kạn, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội;
[8] Nguyễn Ngọc Thanh (Chủ biên, 2015),
Người Dao Quần Chẹt ở miền núi và trung du
Bắc Bộ, NXB. Thế giới, Hà Nội;
[9] Nguyễn Khắc Tụng (1997), Trở lại vấn
đề phân loại các nhóm Dao ở Việt Nam, Tạp chí
Dân tộc học, số 3, tr.30-37;
[10] Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân
văn Quốc gia (1998), Sự phát triển văn hóa xã
hội của người Dao: Hiện tại và tương lai, Kỷ yếu
Hội thảo, Trung tâm KHXH&NVQG xuất bản,
Hà Nội;
[11] Đào Thị Vinh (2001), Phong tục tập
quán người Dao Thanh Hóa, NXB. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội;
[12] Trần Quốc Vượng (1963), Qua nghiên
cứu Bình hoàng khoán điệp, thử bàn về gốc tích
người Dao (Mán), Dân tộc, số 40.
FAMILY AND DAO FAMILY LINE IN OUR COUNTRY TODAY
THE CHANGES AND PROBLEMS
Abstract: According to the 2009 Population and Housing Census, the Dao ethnic group
in our country has 751,067 people, living mainly in the northern mountainous provinces.
Analysis of some studies show that, from 1986 until now, family and the Dao family in our
country has changed rapidly. It is a family of large families multi-system; families in the clan
have been living dispersed; The family name system of the family is only mandatory when
naming it during the ritual; Relationships between small families and their families are more
independent in many areas. These changes, however, are in line with the social development
trend, but also set many The problem related to especially the maintenance and transmission
of traditional values inherent in the family and Dao lineage should be concerned by the local
levels and branches with more practical solutions.
Keywords: Family; family line; change; digger; the problem poses.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 221_939_1_pb_8765_2152008.pdf