Tài liệu Ghe xuồng trong ca dao của vùng văn hóa sông nước Tây Nam Bộ - Tiếp cận từ góc nhìn ngôn ngữ biểu tượng: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 66 (6/2019) No. 66 (6/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
23
GHE XUỒNG TRONG CA DAO CỦA VÙNG VĂN HÓA SÔNG NƯỚC
TÂY NAM BỘ - TIẾP CẬN TỪ GÓC NHÌN NGÔN NGỮ BIỂU TƯỢNG
Boats in the folksongs of river culture in the Southwest – An access from
the symbolic language perspective
TS. Nguyễn Đăng Khánh
Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Nằm ở vùng đất tận cùng phía nam Tổ quốc, Tây Nam Bộ mang trong mình hình ảnh của nền “văn
minh kênh rạch”, với biểu tượng ghe xuồng ghi đậm dấu ấn đời sống văn hóa - ngôn ngữ suốt bao đời
qua. Từ góc nhìn ngôn ngữ biểu tượng, qua khảo sát 2462 câu ca dao Nam Bộ, chúng tôi đã xác định
được 9 ý nghĩa biểu tượng của ghe xuồng. Đó là ý nghĩa biểu tượng về đời sống vật chất gắn với những
nét khắc nghiệt và hoang dã của thiên nhiên thời mở cõi hoặc nét thanh bình, no đủ của đời sốn...
14 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ghe xuồng trong ca dao của vùng văn hóa sông nước Tây Nam Bộ - Tiếp cận từ góc nhìn ngôn ngữ biểu tượng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 66 (6/2019) No. 66 (6/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
23
GHE XUỒNG TRONG CA DAO CỦA VÙNG VĂN HÓA SÔNG NƯỚC
TÂY NAM BỘ - TIẾP CẬN TỪ GÓC NHÌN NGÔN NGỮ BIỂU TƯỢNG
Boats in the folksongs of river culture in the Southwest – An access from
the symbolic language perspective
TS. Nguyễn Đăng Khánh
Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Nằm ở vùng đất tận cùng phía nam Tổ quốc, Tây Nam Bộ mang trong mình hình ảnh của nền “văn
minh kênh rạch”, với biểu tượng ghe xuồng ghi đậm dấu ấn đời sống văn hóa - ngôn ngữ suốt bao đời
qua. Từ góc nhìn ngôn ngữ biểu tượng, qua khảo sát 2462 câu ca dao Nam Bộ, chúng tôi đã xác định
được 9 ý nghĩa biểu tượng của ghe xuồng. Đó là ý nghĩa biểu tượng về đời sống vật chất gắn với những
nét khắc nghiệt và hoang dã của thiên nhiên thời mở cõi hoặc nét thanh bình, no đủ của đời sống cư dân
nơi đây. Đó còn là ý nghĩa biểu tượng về đời sống tinh thần phong phú với nét hào sảng của tình yêu
quê hương đất nước hay vẻ chân chất, bộc trực của tình yêu lứa đôi, hoặc khí phách hào hiệp, tính cách
phóng khoáng cùng những nét vất vả mưu sinh của những phận đời lênh đênh chìm nổi theo con nước
lớn ròng. Đó cũng là những vẻ đẹp giá trị của một bản sắc, một biểu tượng mà nền văn hóa sông nước
Nam Bộ đã sản sinh.
Từ khóa: Ghe xuồng, ý nghĩa biểu tượng, biểu tượng, Tây Nam Bộ.
ABSTRACT
Located in the southern end of the country, the Southwest possesses the image of the "civilization of the
canals", with the boat logo symbolizing the cultural-linguistic life throughout the past. From symbolic
language perspective, through the survey of 2462 Southern folk songs, we have identified 9 symbolic
meanings of boats. It is the symbolic meaning of material life associated with the harsh and wild
features of the nature of the open realms or the serenity and fullness of the life of the people there. It is
also the symbolic meaning of the spiritual life enriched with the pride of the homeland's love of the
country or the naivety, straightforwardness of the love of couple, or chivalrous temperament, liberal
personality and the the hardship of life floating under the great water. These nine symbolic meanings are
the nine valuable beauties of an identity and a symbol that the Southern River culture has produced.
Keywords: Boats, symbolic meaning, symbol, Southwest.
1. Đặt vấn đề
1.1. Như đứa con sinh thành được thừa
hưởng tất cả sự yêu thương bao bọc của
dòng sông mẹ Mekong(1) hùng tráng - một
trong mười hai con sông lớn nhất thế giới,
Tây Nam Bộ (còn gọi là Đồng bằng sông
Cửu Long, hay gọi một cách thân thương là
“Đất Chín Rồng”, “miệt vườn Miền Tây”
hoặc nói gọn “miệt Miền Tây”, gọn hơn
nữa: “Miền Tây”), là vùng đất ở tận cùng
Email: dangkhanhvhdlsgu@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019)
24
phía nam của Tổ quốc, với diện tích hơn
40.000 km2, là trung tâm nông nghiệp lớn
nhất nước ta, nơi hội tụ của các cư dân
Việt, Khmer, Hoa, Chăm. Trên cơ thể tự
nhiên của vùng Đất Chín Rồng được tưới
tắm bởi chín con rồng huyền thoại, dòng
Cửu Long đã tạo nên một mạng lưới
khoảng hơn 5000km sông rạch chằng chịt
dọc ngang tựa như hệ mạch máu khiến Tây
Nam Bộ trở nên mềm mại uyển chuyển,
phô diễn vẻ phì nhiêu của tấm thảm xanh
đồng bằng trù phú. Chính môi trường sông
nước đặc thù ấy đã hình thành tập quán ưa
đi lại bằng những phương tiện đường thuỷ
mà chủ yếu là ghe xuồng của cư dân nơi
đây. Và từ không gian ấy, ghe xuồng - một
biểu tượng văn hóa được sản sinh, tạo nên
nét độc đáo của “văn minh kênh rạch”
không nơi nào có trên dải đất hình chữ S.
1.2. Xét từ đặc điểm nguồn gốc ngôn
ngữ, “ghe”, “xuồng”, theo nhà nghiên cứu
Trần Ngọc Thêm (2014), là khái niệm do
người Việt xứ Đàng Trong sử dụng, có
nguồn gốc Đông Nam Á (tiếng Chăm là
gaiy; tiếng Mã Lai là gay), tương đương
với “ghe” là “thuyền” ở xứ Đàng Ngoài.
Ghe xuồng là từ dùng chung để chỉ loại
phương tiện di chuyển trên sông nước,
nhưng trong thực tế sử dụng, cũng có sự
phân biệt ghe và xuồng. Ghe là loại có kích
thước nhỏ, thường không có mui và sức tải
nhỏ hơn, còn xuồng chỉ loại “ghe” có kích
thước và sức tải lớn, thường có mui. Nói
chung, ghe xuồng luôn đáp ứng được mọi
loại nhu cầu vận chuyển hàng hóa, con
người và các loại nông sản, cơ động và linh
hoạt, có thể đi qua mọi khóm ấp và mọi
loại địa hình kinh rạch lớn nhỏ, nông sâu.
Bởi vậy, với cư dân vùng sông nước, ghe
xuồng là người bạn thân thiết. Hơn thế, nó
là thành tố quan trọng để lập ra các đơn vị
quần cư, đó là những làng ghe, làng chài,
làng nghề. Tây Nam Bộ có những làng đóng
ghe xuồng nổi tiếng như Bình Đại (Bến
Tre), Cần Đước (Long An), Phú Quốc (Kiên
Giang), Cần Thơ, An Giang là vì thế. Từ đó,
ghe xuồng trở thành biểu tượng cho vùng
văn hóa sông nước miền Tây. Trong các tài
liệu viết về Nam Bộ của nhiều nhà nghiên
cứu như Nguyễn Thanh Lợi (2005; 2007),
Trần Ngọc Thêm (2014), khi viết về đời
sống cư trú và sinh hoạt của người dân vùng
này, đều có nói tới vai trò, đặc điểm cấu tạo
và công năng sử dụng của các loại ghe
xuồng nhưng đề cập đến mặt biểu tượng
ghe xuồng trong ca dao thì cho tới nay, chưa
hề thấy công trình nào bàn tới.
1.3. Kể từ thế kỉ XVII, ngay buổi đầu
tiên lưu dân người Việt vào đến vùng Nam
Bộ khai phá, trong suốt hơn ba thế kỉ, ghe
xuồng luôn gắn bó khắng khít với sinh hoạt
vật chất và tinh thần của họ. Với đời sống
vật chất, ghe xuồng là tài sản, là phương
tiện di chuyển cơ bản, phương tiện chuyên
chở con người và hàng hóa chủ yếu không
chỉ của khách thương hồ mà còn của cư
dân bản địa. “Ghe xuồng trở thành phương
tiện đi lại tiêu biểu ở Tây Nam Bộ, không
chỉ là dấu hiệu phân biệt Tây Nam Bộ với
Bắc Bộ và Trung Bộ mà còn phân biệt rõ
rệt với cả Sài Gòn nói riêng và Đông Nam
Bộ nói chung” (Trần Ngọc Thêm, 2014, tr.
421). Với đời sống tinh thần, ghe xuồng
mang giá trị tinh thần của một biểu tượng
văn hóa, được nhân sinh hóa, nhân cách
hóa. Bởi vậy, ghe xuồng cũng có mắt mũi,
cũng phục sức chạm trổ thân mình, cũng có
thân phận, số phận, và cao hơn, nó hình
thành một tín ngưỡng. Đó là tục vẽ mắt hai
bên mũi ghe hay lễ cúng khai nhãn để thổi
linh hồn cho ghe nhằm tránh mọi rủi ro, bất
trắc, và công việc làm ăn thuận lợi.
NGUYỄN ĐĂNG KHÁNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
25
2. Con đường hình thành nhận thức
biểu tượng và sự nhận thức biểu tượng
ghe xuồng
2.1. Biểu tượng (tiếng Anh: symbol,
tiếng Pháp: symbole, tiếng Đức: symbol),
vốn bắt nguồn từ tiếng La Mã symbolus và
Hy Lạp cổ symbolon/ sumbolum, có nghĩa
“một đối tượng đại diện cho một đối tượng
khác” (something stands for something
else), là dấu hiệu được phô bày ra bên
ngoài, bao gồm mọi dạng thức hình ảnh,
hữu hình hay vô hình, thể hiện ở thể tĩnh
hay thể động (tĩnh như một pho tượng, một
bức tranh, một con thuyền, một con đò,
một chiếc thuyền hay một chiếc lá; động
như một hoạt động nghi lễ, một khuôn mẫu
ứng xử, một chuỗi hành động trong nghệ
thuật sân khấu biểu diễn) tác động vào giác
quan con người, tạo nên những rung động
về chúng trong tâm hồn theo từng mức độ
khác nhau. Từ điển Petit Larousse (1993)
của Pháp định nghĩa: “Biểu tượng là một
dấu hiệu hình ảnh, bằng con vật sống động
hay bằng đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu
tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự
hay một điều gì đó” (tr. 978). Nhà khoa
học Jung C. G. lại xác định: “Cái mà
chúng ta gọi là biểu tượng là một từ ngữ,
một danh từ hay một hình ảnh, ngay cả khi
chúng là quen thuộc trong đời sống hàng
ngày vẫn chứa đựng những ý nghĩa khác,
bổ sung vào cái ý nghĩa ước định hiển
nhiên và trực tiếp của nó” (dẫn lại trong
Jean Chevier & Alain Gheerbrant, 1997, tr.
28). Tác giả cũng chỉ rõ: “biểu tượng được
định hình thành một vế có khả năng nắm
bắt được, gắn liền với một vế khác không
nắm bắt được” (Jean Chevier & Alain
Gheerbrant, 1997, tr.23). Từ đấy, có thể
thấy, việc sử dụng dụng các hình ảnh, sự
vật tự nhiên để thể hiện những quan niệm,
những nhận thức về thế giới là xu hướng
biểu tượng hóa mà nhân loại thường làm,
như “mặt trời”- khối sáng của vì tinh tú
ban ngày được dùng để biểu tượng cho trí
tuệ vũ trụ bao trùm và soi sáng tất cả các bí
ẩn, “mặt trăng”- khối sáng của vì tinh tú
ban đêm với chu kì mọc lặn của nó được
dùng để biểu tượng cho thước đo thời gian,
“bánh xe pháp luân” với cấu tạo và chức
năng của nó được nhà Phật dùng để biểu
tượng cho sự vận động của vũ trụ cùng
Phật pháp, “bọc trăm trứng” với huyền tích
trong truyện Họ Hồng Bàng là biểu tượng
cho nguồn gốc giống nòi người Việt, “chợ
nổi” với đặc trưng “nổi” trên sông và mọi
hoạt động mua bán, trao đổi diễn ra trên
ghe xuồng vào thời điểm từ tờ mờ sáng đến
lúc bình minh (chợ nổi Cần Thơ chẳng
hạn), được Nhà nước công nhận là “Di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia”, là biểu
tượng cho văn hóa sông nước, cho “văn
minh miệt vườn Tây Nam Bộ”.
2.2. Ngôn ngữ biểu tượng (symbolic
language), theo Đinh Hồng Hải (2015) “là
một thành tố văn hóa do con người tạo ra
để sử dụng như một loại công cụ thông tin
và giao tiếp có tính tượng trưng. Chúng ra
đời, tồn tại và tác động đến đời sống con
người. Vì vậy, việc tìm hiểu ngôn ngữ biểu
tượng cũng là tìm hiểu đời sống văn hóa xã
hội và loài người thông qua các biểu tượng
văn hóa do họ tạo ra” (NĐK nhấn mạnh,
tr. 27). Tuy có những cách giải thích khác
nhau ở nhiều nhà nghiên cứu, nhiều bộ từ
điển và bách khoa thư trên thế giới nhưng
chung quy đều cho rằng, đó là loại ngôn
ngữ có thể kết hợp với ngôn ngữ nói và
ngôn ngữ viết, hoặc có thể dùng độc lập để
giao tiếp và hòa nhập với nhau mà không
nhất thiết nói chung một thứ tiếng, sống
chung với nhau cùng một khu vực không
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019)
26
gian, thời gian, thậm chí cách xa nhau
nhiều nền văn minh, nhiều thế hệ khác
nhau trong lịch sử loài người. Nếu văn hóa
là một hệ thống ý nghĩa, thì ý nghĩa chính
là nội dung hàm chứa trong biểu tượng, tức
“cái được biểu đạt”(signified) hay là ý
nghĩa biểu tượng tồn tại cùng với “cái biểu
đạt”(signifier) của một kí hiệu. Điều này có
nghĩa là việc nhận thức biểu tượng khác
với ý nghĩa biểu tượng. Mặt khác, do biểu
tượng có tính đa chiều và phụ thuộc vào
hiểu biết khoa học và kinh nghiệm trực
giác trong việc “đọc”, giải mã nên ý nghĩa
biểu tượng tuy có tính bao quát, tính
chung, tính quy luật và được cộng đồng
chấp nhận sử dụng nhưng việc hiểu, tiếp
nhận ý nghĩa ấy cũng không hề giản đơn.
Đúng như Lời mở đầu của cuốn Từ điển
biểu tượng văn hóa thế giới đã viết:
“Không cách gì định nghĩa cho được một
biểu tượng. Nó giống mũi tên bay mà
không bay, đứng im mà biến ảo, hiển nhiên
mà lại không nắm bắt được. Ta sẽ phải
dùng các từ để gợi ra một hay nhiều ý
nghĩa của biểu tượng nên phải luôn nhớ
rằng, các từ không thể diễn tả hết các ý
nghĩa của biểu tượng” (Jean Chevier &
Alain Gheebrant, 1997, tr.14). Chính vì
thế, nhà khoa học Nga Iu. Lotman đã
khẳng định: “Biểu tượng là một trong
những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống
các khoa học về kí hiệu” (dẫn theo Trịnh
Bá Dĩnh, 2017, tr.23).
2.3. Ca dao Nam Bộ là tiếng lòng ân
tình, mộc mạc của người dân Nam Bộ,
mang trong đó hình ảnh của nền “văn minh
kênh rạch”, với biểu tượng ghe xuồng gần
gũi quen thuộc, ghi dấu ấn đậm nét trong
đời sống văn hóa-ngôn ngữ vùng này suốt
bao đời qua. Có thể nói, trong suốt hàng
trăm năm nay, trên nền bức tranh vùng sông
nước mà người Mẹ thiên nhiên vĩ đại tạo ra,
nổi bật lên dáng hình của chiếc ghe xuồng
mềm mại, đẩy đưa lả lướt theo dòng nước,
con nước và neo đậu bên những dòng ca
dao dung dị, chân thực, hồn nhiên nhất.
Thế giới ca dao ân tình ấy mở ra nhiều
biểu tượng cực kì đặc sắc, trong đó, ghe
xuồng nổi lên như một biểu tượng trung
tâm. Bởi, nói tới Nam Bộ cũng như miền
Tây, là nói đến miệt vườn sông nước, kinh
rạch, mà nói đến sông nước, kinh rạch là
nói đến ghe xuồng. Ghe xuồng là đại biểu
xứng đáng nhất của không gian “văn minh
sông nước miệt vườn” (chữ dùng của nhà
Nam Bộ học Sơn Nam). Trong kí ức dân
giã, nếu như mái đình, cây đa, bến nước là
biểu tượng trung tâm của làng quê vùng
đồng bằng Bắc Bộ, thì ghe xuồng là biểu
tượng trung tâm của nền văn hóa sông
nước Nam Bộ nói chung, và văn hóa miệt
vườn sông nước Tây Nam Bộ nói riêng.
Xét trong nhiều biểu tượng khác của Tây
Nam Bộ liên quan đến địa hình như sông,
nước, kênh, rạch, biển hay phương tiện
di chuyển như đò, thuyền, phà thì ghe
xuồng là biểu tượng đáng chú ý và nổi bật
nhất. Đây là một nét đẹp văn hoá độc đáo
được lưu giữ qua ca dao cũng như kí ức,
cảm thức ngôn ngữ và văn hóa của con
người vùng đất này suốt hàng thế kỷ.
3. Hệ ý nghĩa của biểu tượng ghe
xuồng trong đời sống sông nước vùng
Tây Nam Bộ
Trong tâm thức và trong dòng chảy
văn hóa ngôn ngữ của vùng Tây Nam Bộ,
ghe xuồng mang một hệ ý nghĩa biểu tượng
khá đặc biệt. Với nhận thức của người
miền Tây, ghe xuồng vừa là vật thể hữu
hình vì nó có hình dáng, kích thước và sự
đa dạng về chủng loại, có hình khối, đường
nét, mà người ta thể sờ lấy, nắm lấy, hay
NGUYỄN ĐĂNG KHÁNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
27
trao trọn tính mạng mình cho nó. Đồng
thời, ghe xuồng cũng có mặt vô hình, bởi
nó còn có linh hồn riêng, neo vào lòng
người và dòng đời, mở đôi mắt dõi nhìn
theo cảnh huống, tâm trạng và nhịp sống
chủ nhân: khi lắng sâu, trầm tĩnh, lúc ào ạt
bung phá, lúc thủ thỉ tâm tình, khi rộn ràng,
cởi mở, khi mưa xuống, nắng lên, lúc đầy
vơi con nước, lúc say tràn cung mây.
3.1. Về mặt định danh
Chính sự ra đời trên nền cảnh sông
nước như vậy nên cảm thức ngôn ngữ - văn
hóa ấy của người Tây Nam Bộ thể hiện
thông qua cách đặt tên gọi ghe xuồng là rất
phong phú, linh hoạt và cực kì cụ thể.
Chẳng hạn, khi định danh, tùy theo cấu tạo,
mục đích sử dụng, thậm chí tùy theo hình
dáng, hình thức, ghe xuồng được gọi tên để
dễ phân biệt. Ghe lớn thì có nhiều loại như
ghe bầu, ghe cửa, ghe lồng, ghe giàn, ghe
be, ghe chài, ghe hầu, ghe quyển, ghe ô,
ghe điệu, ghe hàng bố, ghe bè, ghe cá, ghe
rổi, ghe đục.v.v. Ghe nhỏ cũng vậy, có ghe
lườn, ghe mỏ vạch, ghe tam bản, ghe cà
vom, ghe cui, ghe lưới, ghe cào. Theo
thống kê của Nguyễn Văn Lợi (2007), ở
Tây Nam Bộ có 36 loại ghe. Tương tự,
xuồng do đặc điểm nhỏ gọn, rất linh hoạt
và dễ luồn lách trên kinh rạch quanh co,
nên cũng có nhiều tên gọi như xuồng ba lá,
xuồng tam bản, xuồng năm lá, xuồng be
bẩy, xuồng be chín, xuồng câu, xuồng mui,
xuồng đục, xuồng máy, xuồng năm
quăng.v.v. Từ phương diện chức năng, ghe
xuồng không chỉ đảm nhận vai trò là
phương tiện đi lại đáp ứng nhu cầu về sinh
hoạt, chuyên chở sản phẩm hàng hóa mà
còn đảm nhận vai trò của là một sản phẩm
văn hoá chứa đựng không gian sinh hoạt,
không gian văn hóa tinh thần của người
dân, với những phong tục tập quán, nghi lễ
như tục vẽ mắt cho ghe, tục đua ghe ngo
của người Khmer hay những điệu hò, câu
hát như hò chèo ghe, hò mái dài, mái cụt,
hò sông Hậu, hò Đồng Tháp.v.v. Tất cả đã
tạo nên sắc thái rất riêng của văn minh miệt
vườn vùng Tây Nam Bộ.
3.2. Về mặt biểu hiện
Trên cơ sở hình ảnh thực, trong đời
sống ngôn ngữ văn hóa, ghe xuồng được
nâng lên thành biểu tượng cho cuộc sống
vật chất và tinh thần của người dân miền
Tây. Ghe xuồng trở thành một miền kí ức,
một không gian sinh tồn, một không gian
văn hóa mà sự phong phú về ý nghĩa biểu
tượng của nó đã mở ra cho mọi người thấy
được thế giới vật chất với những hoạt động
cư trú, sinh sống, làm ăn cũng như một thế
giới tinh thần với những tâm lí, tình cảm,
khát vọng của con người miền Tây chân
chất, hào sảng.
Trong đời sống thường ngày, người
Tây Nam Bộ, nhất là khách thương hồ, đều
xem ghe xuồng là nhà, sông nước là quê
hương. Điều này, cách đây hơn hai thế kỉ,
sách “Gia Định thành thông chí” đã mô tả:
“Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe, thuyền,
hoặc dùng thuyền để làm nhà ở, hoặc để đi
chợ, hay để đi thăm người thân thích, hoặc
chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi, mà
ghe thuyền chật sông ngày đêm qua lại...”
(Trịnh Hoài Đức, 1998, tr.27).
Do đặc trưng sông ngòi dày đặc, địa
bàn làm ăn, cư trú, sinh hoạt hầu như
quanh năm gặp cảnh sình lầy, ngập nước
nên ghe xuồng là phương tiện hữu dụng và
phổ biến nhất trong hoạt động sản xuất,
sinh hoạt. Trên cơ sở cảm nhận và hiểu
được sâu sắc nhịp biến động của thiên
nhiên, nhịp đầy vơi của con nước, dòng
nước, nên người Tây Nam Bộ đã chế tạo ra
nhiều loại ghe thuyền nhằm tận dụng, đối
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019)
28
phó và phát huy tối đa các phương tiện đi
lại, vận chuyển trên sông nước. Bởi thế,
ghe xuồng rất đa dạng về kiểu loại, chủng
loại. Từ những chiếc ghe xuồng hoạt động
bằng bơi, chèo, chống, luồn lách trong
kinh, rạch nhỏ đến những chiếc ghe, tàu vài
chục tấn, vài trăm tấn chạy bằng động cơ
máy nổ được sử dụng đan xen nhau chở
hàng hóa, nông sản, thủy hải sản tạo nên
cảnh tấp nập, nhộn nhịp mang đặc trưng
riêng của miệt vườn sông nước miền Tây.
Khảo sát trên 2462 câu ca dao Nam
Bộ, ý nghĩa biểu tượng về đời sống vật
chất càng được thể hiện rõ. Khi thì ghe
xuồng gắn với ý nghĩa biểu tượng về môi
trường sông nước với những nét khắc
nghiệt và hoang dã của thiên nhiên thời mở
cõi. Từ buổi đầu lưu dân người Việt mới
đến khai phá, vùng đất Nam Bộ nói chung
và miền Tây nói riêng còn hết sức hoang
sơ, cả trời, đất, thực vật, động vật tạo ra
một cảnh tượng: “Muỗi kêu như sáo thổi/
Đỉa lội tựa bánh canh/ Cỏ mọc thành
tinh/Rắn đồng biết gáy”; kèm theo đó là
một ý nghĩa biểu tượng về sự khắc nghiệt,
dữ dằn, bất trắc và đầy ám ảnh: “Chèo ghe
sợ sấu cắn chưn/ Xuống bưng sợ đỉa, lên
rừng sợ ma”; “Ai ơi Rạch Giá qua truông/
Gió rung ngọn sậy ngồi buồn nhớ em/ U
Minh Rạch Giá thị quá Sơn Trường/ Dưới
sông sấu lội trên rừng cọp đua”; “Bớ chiếc
ghe sau chèo mau anh đợi/ Kẻo khúc sông
này bờ bụi bụi tối tăm”; “Chèo ghe xuống
biển bắt cua/ Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa
bơi”. Từ đó, ý nghĩa biểu tượng ghe xuồng
xuất hiện trong mô hình thứ nhất:
Ý nghĩa biểu tượng GHE/XUỒNG = Hình ảnh sự vật tự nhiên + Yếu tố tĩnh/động
biểu hiện sự khắc nghiệt, dữ dằn của vùng sông nước Nam Bộ thời khẩn hoang
Sự khắc nghiệt, hoang dã ấy chỉ là hình
ảnh buổi đầu của vùng đất thời khẩn hoang
còn thực tế ngày nay, nhờ sự bồi đắp của hệ
thống sông Cửu Long, tài nguyên phong phú,
dồi dào với nhiều nguồn lợi thủy sản phong
phú, với những cánh đồng thẳng cánh cò
bay, với những miệt vườn xanh mướt, với
nhiều sản vật vang danh khắp xứ. Bởi thế,
trong không gian văn hóa sông nước miệt
vườn ấy, ghe xuồng còn mang ý nghĩa biểu
tượng cho sự trù phú, no đủ của đời sống cư
dân: “Sông Tiền, sông Hậu cùng nguồn/ Ghe
xuồng tấp nập bán buôn dập dìu”; “Kinh
Vĩnh Tế biển Hà Tiên/ Ghe thuyền xuôi
ngược bán buôn dập dìu”; “Sài Gòn là xứ
ngựa xe/ Mỹ An là xứ xuồng ghe dập dìu”;
“Có ai đến với xứ thơ/ Ghé qua xứ lụa bên
bờ Tiền Giang/ Dòng sông thẳng tắp hàng
ngàn/ Tàu ghe xuôi ngược, đò sang bên này/
Bên này mặc Lãnh Mỹ A/ Đưa đò sang chợ
tưởng xa hóa gần”; “Bớ ghe ai chờ đợi em
cùng/ Kẻo ghe anh nặng vẫy vùng chẳng đi”.
Theo đó, ý nghĩa biểu tượng ghe xuồng xuất
hiện trong mô hình thứ hai:
Ý nghĩa biểu tượng GHE/XUỒNG = Hình ảnh sự vật tự nhiên + Yếu tố tĩnh/động biểu
hiện sự trù phú, no đủ của miệt vườn sông nước miền Tây
Mỗi khi xuất hiện trong những lời ca
dao ân tình, mộc mạc như vậy, ghe xuồng
thường gợi lên hình ảnh một cuộc sống đời
thường dung dị, thanh bình, yên ả của miệt
NGUYỄN ĐĂNG KHÁNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
29
vườn sông nước, hay một cuộc sống tinh
thần thanh thoát, thăng hoa từ chính những
dòng nước, con nước. Đặc biệt, cảm giác
về sự yên bình, no đủ ấy khi có mặt của
xuồng ba lá- biểu tượng của sự thanh bình
êm ái, yên ả, thậm chí ngay cả trong cảnh
huống “lênh đênh”: “Dẫu xuồng ba lá lênh
đênh/ Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi/
Anh ơi chớ ngại ngần chi/ Ngồi xuồng ba
lá giữa kỳ nước lên"; “Quan cưới em bằng
kiệu em cũng không thèm/ Anh cưới em
bằng xuồng ba lá em cũng nguyền đi
theo”. Ý nghĩa biểu tượng ghe xuồng, do
vậy, xuất hiện trong mô hình thứ ba:
Ý nghĩa biểu tượng GHE/XUỒNG = Hình ảnh sự vật tự nhiên + Yếu tố tĩnh/động biểu
hiện sự thanh bình, êm ái, yên ả ở chốn miệt vườn sông nước miền Tây
Đối với giới thương hồ, chiếc ghe
dùng để chở hàng hoá cũng là căn nhà di
động, nay đậu ở vàm kinh này, mai lại dời
đi bến khác, len lỏi vào tận những con
kinh, con rạch chằng chịt để buôn bán tìm
kế mưu sinh. Do vậy, ghe xuồng mang ý
nghĩa biểu tượng cho cuộc sống của khách
thương hồ, cho những phận đời nổi trôi,
nhiều bất trắc, sớm hôm mưu sinh trên
những con nước lớn ròng: “Thảm thiết
thương cho chiếc ghe lườn đi ngược/
Không biết chừng nào mới được nước
xuôi”; “Tôi ở Trà Vinh tôi nghèo quá/ Tôi
chèo ghe vô Cà Mau, Rạch Giá/ Tôi mua ít
tạ khoai lang/ Tôi đi thẳng Trà Bang/ Tôi
bán một tạ chỉ lời mấy cắc/ Tôi trở về nhà
thấy anh ở sòng tứ sắc/ Tôi kể chắc anh đã
thua rồi/ Trời đất ơi! Con năm bảy đứa,
gạo tôi kiếm từng nồi anh thấy không?”;
“Anh đi ghe rổi chín chèo/ Bởi anh thua
bạc nên nghèo, nợ treo/ Nợ treo mặc kệ nợ
treo/ Em bán bánh bèo trả nợ nuôi anh”;
“Bước xuống ghe quạt che quạt ngoắt/ Cất
mái chèo ruột thắt từng cơn”; “Chèo ghe
đi bán lòng tong/ Nước chảy ròng ròng
chẳng thấy ai mua”; “Thuyền lên Châu
Đốc, ghe xuống Vàm Nao/ Thẳng tới Ba
Sao coi chừng con nước đẩy”Cái địa
danh “Vàm Nao”, vốn chỉ dòng sông
chuyển nước sông Tiền vào sông Hậu, nổi
danh có dòng chảy xiết, có nhiều nước
xoáy nên rất hiểm nguy cho tàu bè, là một
nỗi ám ảnh đối với cư dân và khách thương
hồ mỗi khi đi ghe xuồng qua đây. Không
phải ngẫu nhiên mà sông Vàm Nao còn
được gọi là “Hồi Oa” có nghĩa là “nước
chảy xoáy tròn”. Bởi thế, ý nghĩa biểu
tượng cho thân phận của khách thương hồ
miền sông nước, nổi nênh và bất trắc càng
được tô đậm. Do đó, ý nghĩa biểu tượng
ghe xuồng lại được xuất hiện trong mô
hình thứ tư:
Ý nghĩa biểu tượng GHE/XUỒNG = Hình ảnh sự vật tự nhiên + Yếu tố tĩnh/động biểu
hiện thân phận khách thương hồ lênh đênh, chìm nổi nơi miền Tây sông nước
Đối với người dân vùng sông nước, ghe
xuồng là cả không gian sống. Cho dù trên
thực tế, mỗi ghe xuồng có diện tích khá hạn
chế, nhưng do được nối kết với sông nước
nên không gian tự nhiên của nó được mở
rộng khoáng hoạt với đất trời. Bởi vậy, sau
một ngày vất vả bán buôn hoặc rong ruổi
trên sông nước tha phương, dưới ánh trăng
lúc mờ lúc tỏ, khách thương hồ tụ họp lại
bên tách trà, ly rượu hoặc ngân lên một điệu
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019)
30
hò mái đẩy với rộn ràng đàn ca tài tử, cất
lên một lớp Nam ai, lẩy vài câu vọng cổ,
hòa quyện với tiếng đàn kìm, đàn ghi ta
ngân vang trên nhịp đầy vơi của con nước
hữu tình. Ghe xuồng, lúc ấy, mang ý nghĩa
biểu tượng cho tâm hồn trong sáng, hồn
hậu, cho tiếng lòng con người dung dị ở
miệt vườn sông nước miền Tây. Tiếng lòng
đó, lúc thì tâm tình, thủ thỉ, lúc thì bừng
bừng khí thế: “Xuồng ai đi trước/ Giọt
nước chảy ròng ròng/ Phải xuồng người
nghĩa, quay vòng tôi hỏi thăm”; “Ghe ai
ngọn sóng vỗ bờ/ Nghe vang tiếng hát tiếng
hò mà thương”; “Hai đứa mình ngồi xuống
một ghe/ Khoan khoan chèo chậm để nghe
huê tình”; “Ghe bầu dọn dẹp kéo neo/ Mấy
chú bạn chèo bắt cái hò khoan”; “Bớ chiếc
thuyền loan, khoan khoan ngớt mái/ Đặng
đây tỏ một đôi lời phải trái nghe chơi/ Đây
cũng muốn chờ/ Ngặt bóng trăng lờ, tiếng
đàn diệu vợi/ Xuồng lái em sẵng sàng, em
đợi luống công”. Qua cách thức đó, ý nghĩa
biểu tượng ghe xuồng xuất hiện trong mô
hình thứ năm:
Ý nghĩa biểu tượng GHE/XUỒNG = Hình ảnh sự vật tự nhiên + Yếu tố tĩnh/động biểu
hiện cho tâm hồn trong sáng, hồn hậu, dung dị của con người miền Tây
Nhưng có lẽ, khó tìm thấy ở đâu đẹp
đẽ và hào sảng, giàu sức biểu cảm, “lao
lung’ hơn như ý nghĩa biểu tượng của ghe
xuồng về tình cảm quê hương đất nước
thông qua cảnh sinh hoạt gia đình cụ thể,
dung dị: “Con nước lớn cha chống xuồng/
Con nước ròng mẹ nhóm bếp cà ràng đợi
gió/ Vàng bông điên điển Châu Giang/ Ai
đến Văn Lang/ Ai về châu thổ/ Con nước
rong chảy tràn mùa nước nổi/ Con nước
kém ai dừng lại bên bờ châu thổ/ Gác mái
dầm nghe câu hát lao lung".
Và từ đấy, ý nghĩa biểu tượng ghe
xuồng xuất hiện trong mô hình thứ sáu:
Ý nghĩa biểu tượng GHE/XUỒNG = Hình ảnh sự vật tự nhiên + Yếu tố tĩnh/động biểu
hiện tình cảm quê hương đất nước hào sảng của người dân vùng sông nước miền Tây
Đời sống sông nước đã cho họ những
tình cảm hồn nhiên chân chất và ghe xuồng
trở thành một sinh thể chứa đầy cảm xúc,
tâm trạng. Trong bối cảnh ấy, ghe xuồng
mang ý nghĩa biểu tượng cho tính cách hào
hiệp, phóng khoáng của con người xứ miệt
vườn với niềm hứng khởi dâng tràn: “Gió
lên rồi căng buồm cho sướng/ Gác chèo
lên ta nướng ngô khoai/ Nhậu cho tuôn hết
mấy chai/ Bỏ ghe nghiêng ngửa không ai
chống chèo”; “Đi xuồng có bốn cái vui/
Lúc chống, lúc bạo, lúc bơi, lúc chèo”.
Qua đây, ý nghĩa biểu tượng ghe xuồng
xuất hiện trong mô hình thứ bảy:
Ý nghĩa biểu tượng GHE/XUỒNG = Hình ảnh sự vật tự nhiên + Yếu tố tĩnh/động
biểu hiện tính cách hào hiệp, phóng khoáng của con người miền Tây
Có lẽ cái hồn hậu, trong trẻo ấy trong
đời sống tâm hồn người dân vốn có căn
nguyên từ môi trường sông nước trong
lành đã cho họ một cách sống, cách suy
NGUYỄN ĐĂNG KHÁNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
31
nghĩ, cách cảm vừa hồn nhiên, trong sáng,
vừa phóng khoáng, vừa hài hước, lạc quan,
dí dỏm. Điều đáng lưu ý là tất cả cảm xúc,
cung bậc tình cảm con người đều được ghe
xuồng chuyên chở lặng lẽ, say mê và đầy
tận tụy như một người bạn tri kỉ, tri âm, lúc
lắng sâu, diệu vợi hay lúc tột đỉnh thăng
hoa. Nhất là trong tình yêu đôi lứa, nhờ sự
nhân cách hóa, ý nghĩa biểu tượng của ghe
xuồng được thắp sáng với tất cả vẻ đằm
thắm, dịu dàng, hồn nhiên, bộc trực.
Đây là tâm trạng của một chàng trai
lúc khởi đầu muốn làm quen, chưa biết
thực hư “đối tác” thế nào, trong sự hóa
thân của ghe xuồng, tâm trạng chàng trai
mang một chút lao xao và một chút thăm
dò: “Chèo ghe tới bến cắm sào/ Nghe em
có chỗ, anh lộn nhào xuống sông”. Và cô
gái cũng vậy, trước tình thế ấy, buộc phải
lên tiếng giãi bày, thề thốt, cởi mở thẳng
thắn: “Chiếc ghe kia nói có/ Chiếc ghe nọ
nói không/ Phải chi miễu ở gần sông/ Em
thề một tiếng kẻo lòng anh nghi”; “Đừng
theo cái thói ghe buôn/ Khi vui thì ở, khi
buồn thì đi”. Rồi cả hai đều vỡ òa trong sự
giải tỏa, vui vẻ, hào hứng: “Xuồng đã chèo
lơi, đặng chờ người tri kỷ/ Gặp mặt chuyện
trò cho phỉ ước mơ”; “Chèo ghe mái nổi
mái chìm/ Lòng thương em bậu anh tìm tới
đây”. Còn đây là tâm trạng khấp khởi, hồi
hộp của của cô gái trong buổi đầu hò hẹn,
sự mạnh mẽ dễ thương bất chấp cảnh
nghèo, cảnh khó của chàng trai đã làm cho
cô gái mềm long. Ghe xuồng, lúc này như
chứng nhân lắng nghe và thấu hiểu: “Ghe
ai đỏ mũi xanh lườn/ Phải trên Gia Định
xuống vườn thăm em”; “Nhà anh cách nhà
em hai kinh một rạch/ Anh ngó thấy em tóc
dài buông hờ bà ba tím/ Anh nghèo chưa
sắm xuồng ba lá/ Chẳng đành lội kinh
dính sình sang bên gặp em” để rồi nhanh
chóng chuyển thành sự ngóng đợi, nhớ
nhung, trao gửi: “Chiếc xuồng nhỏ đưa em
về xóm nhỏ/ Bỏ anh một mình chiều ra ngõ
ngó trông/ Trông trời mây trắng vây
quanh/ Ghe mờ lối nhỏ nên đành xa em”;
“Ghe lên, ghe xuống dập dìu/ Ghe củi,
ghe nghều chẳng thấy ghe em”; “Chiều
chiều con quạ nó đứng đầu cầu/ Nó kêu
bớ má ghe bầu đã vô”; “Ghe lên, ghe
xuống dầm dề/ Sao em không gửi thư về
thăm anh?”; “Nóp nồng em gửi tặng anh/
Xuồng em bơi tận trong kinh Tháp Mười”;
“Ghe lui khỏi vịnh/ Em thọ bịnh đau liền/
Không tin anh hỏi xóm giềng mà coi”.
Hãy nghe những lời nhắn gửi của cô gái
gửi đến chàng trai, nghe xao lòng, da diết
thấu đến ruột gan: “Anh ơi đừng ham đi
bạn ghe chài/ Cột buồm cao, bao lúa
nặng có ngày anh xa em”. Lúc này, ý
nghĩa biểu tượng ghe xuồng được xuất
hiện trong mô hình thứ tám:
Ý nghĩa biểu tượng GHE/XUỒNG = Hình ảnh sự vật tự nhiên + Yếu tố tĩnh/động biểu
hiện các cung bậc tình yêu đôi lứa đằm thắm, hồn nhiên, bộc trực của con người miền Tây
Mô hình này biểu hiện các cung bậc
cảm xúc của tình yêu đôi lứa có thể nói là
đa dạng bậc nhất và thú vị bậc nhất. Điều
này lí giải tại sao trong kết quả khảo sát,
tần suất xuất hiện của ý nghĩa biểu tượng
cho tình yêu đôi lứa đằm thắm, dịu dàng,
hồn nhiên, bộc trực lại chiếm tỉ lệ áp đảo,
với 93/218 câu ca dao, chiếm 43%.
Tình yêu trên sông nước hữu tình,
trong sự hóa thân của những ghe xuồng
đậm chất thi vị, lãng mạn và rất đặc trưng
càng làm nổi bật những vẻ đẹp ý nghĩa
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019)
32
biểu tượng của nó: “Đèn treo trước mũi
ghe lồng/ Thấy em còn nhỏ chưa chồng
anh thương”; “Gió thổi lao xao khúc sông
nào sóng nấy/ Xuồng em đi giữa dòng anh
thấy anh thương”; “Ví dầu cầu ván đóng
đinh/ Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi/ Khó
đi anh dắt em luôn/ Em đi có té anh bơi
xuồng vớt em”; “Ghe anh bóng loáng
mỏng ván nhẹ chèo/ Xin anh bớt mái buông
chèo chờ em”. Đến khi chia tay trở về với
công việc thường nhật, họ quyến luyến, bịn
rịn, không đành rời xa, ghe xuồng, lúc ấy,
lại trở thành chứng nhân cho những điều
thầm kín: "Bước xuống ghe ba lần không
dứt/ Khuyên em vào chỗ khuất anh
lui”;“Ghe lui em chẳng dám cầm/ Hai tay
áo lụa ướt dầm như mưa”; “Biển cạn láng
khô ghe vô không được/ Phải trở lề đi
ngược lòng em”; “Ghe lui khỏi bến còn
dầm/ Người thương đâu vắng, chỗ nằm còn
đây”; “Gió năm non thổi lòn hang chuột/
Thấy em bơi xuồng, đứt ruột đứt gan”.
Đến lúc tỏ tình, có khi cần nói đẩy đưa
“vòng vo tam quốc”, hay lúc cần bộc trực
nói thẳng “nói huỵch tẹc”, ghe xuồng cũng
làm rất tốt công việc “đóng thế”. Ý nghĩa
biểu tượng của ghe xuồng, lúc này, hàm
chứa trong lời tỏ tình vừa chân chất, bộc
trực, vừa mạnh bạo, kiên quyết: “Chèo ghe
mái nổi, mái chìm/ Thương con thợ lưới
mới tìm tới đây/ Tới đây dây vắn gàu thưa/
Hỏi người cố hữu giếng xưa ai đào”;
“Chiếc tàu Nam Vang chạy ngang cồn cát/
Chiếc xuồng câu tôm đậu sát đống chà/
Anh thấy em có một mẹ già/ Muốn vô phụng
dưỡng biết là đặng không?”; “Em bán
giống chi, em đi xuồng ba lá/ Em ghé lại
đây, anh gửi thư về thăm má cùng ba”;
“Anh cất tiếng kêu cho thấu vô buồng/ Cho
em thức dậy bơi xuồng với anh/ Theo anh
thời cũng muốn theo/ Tôi sợ anh nghèo anh
bán tôi đi”; “Tàu Nam Vang mũi đỏ/ Ghe Sa
Đéc mũi đen/ Em ở chi nước rẫy nước phèn/
Theo anh về chợ đốt đèn măng-xông”.
Lời tỏ tình ấy, đôi khi mang dáng dấp
của một lời thề nguyền: “Mái chèo có cột
nơi nao/ Xuồng anh thương nhớ cắm sào
ngàn năm”. Hiểu được thâm ý tuy lém lỉnh
dễ thương nhưng cũng khá vội vàng này của
chàng trai, trong vai của chiếc ghe xuồng,
cô gái đã rất tài tình, khôn khéo hóa giải:
“Không cho ghe vội cắm sào/ Vườn quê mới
lập, lựu với đào còn non”; “Kiếm nơi nước
vận cắm sào/ Đợi cha mẹ định, cắm xuồng
nào em cũng chơi”. Tính cách người miền
Tây là vậy, rõ ràng, dứt khoát. Nhưng có
khi “nói dzậy mà không phải dzậy”, “ghe
cá, ghe tôm” kiếm cớ than trách: “Nào khi
anh dỗ chẳng nghe/ Bây giờ xách nón chèo
ghe đi tìm”; “Trách ai nỡ đốn cây bần/
Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm”.
Tình yêu là vậy, khi nở hoa, kết trái,
cô gái miệt quê nghèo có cơ may được
sánh duyên cùng chàng trai trong sự hóa
thân của chiếc ghe bầu – mang ý nghĩa
biểu tượng cho sự giàu có: “Chị kia búi tóc
cánh tiên/ Ghe bầu lại cưới một thiên cá
mòi/ Không tin giở hộp ra coi/ Cây trâm ở
dưới tiền bồi ở trên”; “Ghe bầu trở lái về
đông/ Làm thân con gái theo chồng nuôi
con”. Và khi đã là vợ chồng, ghe xuồng lại
là câu chuyện của đạo nghĩa. Ý nghĩa biểu
tượng của ghe xuồng lúc này, lại khoác
một màu sắc mới, một ẩn ý nhắc nhở: “Ai
chèo ghe bí qua sông /Đạo nghĩa vợ chồng
nặng lắm anh ơi’". Và đây cũng là ý nghĩa
biểu tượng ghe xuồng xuất hiện trong mô
hình thứ chín- mô hình biểu hiện cuối cùng
trong số ngữ liệu 2462 câu ca dao mà
chúng tôi khảo sát:
Ý nghĩa biểu tượng GHE/XUỒNG = Hình ảnh sự vật tự nhiên + Yếu tố tĩnh/động biểu
hiện sự giàu có trong đạo nghĩa vợ chồng của con người xứ sông nước miền Tây
NGUYỄN ĐĂNG KHÁNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
33
Như vậy, thông qua ý nghĩa biểu tượng
của ghe xuồng kể trên, chúng ta có thể lập
thức được một mô hình đầy đủ về ngôn ngữ
biểu tượng của ghe/xuồng như sau:
Ngôn ngữ biểu tượng
GHE/XUỒNG
= X (ý nghĩa ước định hiển nhiên, trực tiếp biểu thị hình ảnh
sự vật tự nhiên) + Y1; 2; 3;- n-1 (yếu tố tĩnh/động kết hợp biểu
thị các ý nghĩa bổ sung)
Với mô hình khái quát này, chúng ta
dễ dàng hình dung cách mà ngôn ngữ biểu
tượng hình thành, cách con người lập mã
và giải mã, “đọc”, diễn giải một biểu
tượng, và xa hơn, cách nhận thức, cách tư
duy về một biểu tượng nhằm hiểu đúng,
nhận thức đúng đặc tính vượt thời gian,
không gian mà con người ưu ái dành tặng
cho nó.
3.3. Về tần suất xuất hiện
Khảo sát trên 2462 câu ca dao mà
chúng tôi thu thập, có 218 câu ca dao sử
dụng tên gọi ghe/xuồng(2) (chưa kể các bộ
phận và những hoạt động liên quan như
mái, dầm, sào, bơi, chèo. Theo đó, tần suất
và tỉ lệ của tên gọi ghe xuồng gắn với chín
ý nghĩa biểu tượng cụ thể được chúng tôi
biểu diễn trong biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ về tần suất và ý nghĩa biểu tượng của ghe xuồng trong ca dao Nam Bộ
Biểu đồ trên cho thấy, ý nghĩa biểu
tượng cho cuộc sống thanh bình, yên ả có
tần suất là khá cao, (với 35/218 câu ca dao,
chiếm tỉ lệ 16%) trong khi ý nghĩa biểu
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019)
34
tượng cho miệt vườn sông nước miền Tây
trù phú lại có tần suất và tỉ lệ khá thấp
(6/218 câu, chiếm 3%). Điều này không hề
mâu thuẫn mà trái lại, nó cho thấy, đây là
vùng đất lành, vùng đất nên thơ, vùng đất
đầy ý nghĩa. Nhưng trong tổng số đó, cao
nhất vẫn là tần suất và tỉ lệ áp đảo của ý
nghĩa biểu tượng cho tình yêu đôi lứa đằm
thắm, dịu dàng, hồn nhiên, bộc trực (với
93/218 câu, chiếm 43%). Điều ấy cho thấy,
đời sống tinh thần, tình cảm của những
chàng trai và cô gái miền sông nước là hết
sức đẹp đẽ, trong sáng. Không những thế, ý
nghĩa biểu tượng cho tình cảm hồn hậu,
chân chất, dung dị (với 39/218 câu, chiếm
18%) càng khẳng định bản chất phóng
khoáng của con người xứ miệt vườn. Bên
cạnh đó, ý nghĩa biểu tượng về tình yêu
quê hương đất nước hào sảng với tần suất
15/218 câu, chiếm tỉ lệ 7% cũng là một sự
khẳng định khác vẻ đẹp của con người
vùng đất tận cùng phía nam Tổ quốc. Hơn
nữa, ý nghĩa biểu tượng về tính cách con
người miền Tây hào hiệp, phóng khoáng
cũng được thể hiện qua tần suất 10/218 câu
ca dao, chiếm 6% cũng góp phần tô đậm
hình ảnh đất và người Nam Bộ. Mặt khác,
tần suất và tỉ lệ của ý nghĩa biểu tượng cho
một thiên nhiên hoang sơ, khắc nghiệt, dữ
dằn, ám ảnh (với 6/218 câu, chiếm 3%) và
tần suất của ý nghĩa biểu tượng cho thân
phận khách thương hồ lênh đênh chìm nổi,
nhiều bất trắc theo dòng nước, con nước,
(với 8/218 câu, chiếm 4%) càng làm nổi
bật quá trình sống, quá trình chinh phục
thiên nhiên của cư dân phương Nam trên
mảnh đất giàu tiềm năng phát triển như đã
thấy ở ngày hôm nay.
Từ sự diễn giải đó, chúng tôi rú ra mấy
nhận định quan trọng:
i/ Ghe xuồng là biểu tượng nổi bật và
là biểu tượng trung tâm của văn minh kinh
rạch, văn minh sông nước miền Tây;
ii/ Ghe xuồng vừa mang ý nghĩa biểu
tượng cho cuộc sống vật chất vừa mang ý
nghĩa biểu tượng cho cuộc sống tinh thần
phong phú và đẹp đẽ của cư dân miền sông
nước.
iii/ Với tổng số 9 ý nghĩa, tuy khác
nhau về tần suất và tỉ lệ nhưng mỗi ý nghĩa
là một giá trị lập thành một hệ biểu tượng
của ghe xuồng. Một điều khá thú vị, 9 ý
nghĩa biểu tượng ấy là kết quả của sự khảo
sát khách quan, khoa học của chúng tôi lại
có sự trùng hợp ngẫu nhiên với con số 9.
Trong văn hóa Đông phương, số 9 là con số
của sự viên mãn, tròn đầy, đồng nghĩa với
sự tiếp tục sinh sôi, phát triển. Với người
Việt, theo triết lí Âm Dương, số 9 là con số
lớn nhất trong dãy số dương, vừa báo hiệu
cho sự kết thúc, vừa báo hiệu cho sự bắt
đầu, nó chứa ý niệm về tái sinh và nảy mầm
nên nó hàm ý nghĩa tốt lành, biểu trưng cho
ước mơ trường thọ, trường tồn, vĩnh cửu
của con người. Vì vậy, có thể kết luận, biểu
tượng của ghe xuồng là biểu tượng của sự
viên mãn, trường tồn và ngôn ngữ biểu
tượng của nó cũng là là sự biểu hiện của sự
tốt lành, trường tồn và vĩnh cửu.
4. Kết luận
Kể từ ngày ông cha ta đi mở cõi, suốt
lịch sử hình thành và phát triển của Nam
Bộ nói chung và Tây Nam Bộ nói riêng,
ghe xuồng luôn giữ một vị trí quan trọng.
Nó không chỉ là vật gắn bó khắng khít với
người dân mà còn là “linh hồn” của một
vùng văn hóa, một cốt cách văn hóa được
tạo dựng trong hàng trăm năm qua, tạo nên
vẻ đẹp riêng có của văn minh miệt vườn
vùng Tây Nam Bộ. Từ cách nhận thức và
tư duy về ngôn ngữ biểu tượng, qua những
bài ca dao ân tình mộc mạc, sự đa sắc, đa
NGUYỄN ĐĂNG KHÁNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
35
dạng, sự phong phú về ý nghĩa biểu tượng
của ghe xuồng đã khẳng định nét đẹp về
đất và người của một vùng sông nước
phương Nam không chỉ về phương diện vật
chất mà còn về phương diện tinh thần.
Chín ý nghĩa biểu tượng của ghe xuồng là
chín sự thăng hoa của một biểu tượng, chín
sự giao cảm giữa trời-đất-người, chín sắc
thái văn hóa-ngôn ngữ làm nên tính giá trị,
tính độc đáo của một bản sắc, xứng đáng
với biểu tượng trung tâm mà vùng Đất
Chín Rồng hào phóng đã sản sinh.
Chú thích:
(1) Theo Phạm Đức Dương, trong cấu trúc địa danh Lào – Thái, các sông lớn đều gọi là
“sông mẹ”. Mekong, tiếng Lào là “Mè Khoóng”, nghĩa là “sông mẹ”. Từ “khoóng” hay
“kroong” để chỉ sông, gần như phổ biến khắp vùng Đông Nam Á, người Việt dùng tên
Hán Việt “Cửu Long” để phiên âm từ Kroong (Lê Anh Trà 1984, Mấy đặc điểm văn
hóa đồng bằng sông Cửu Long tr. 83).
(2) Một cuộc khảo sát khác với quy mô nhỏ hơn và với mục đích khẳng định vai trò của ghe
xuồng trong đời sống người dân Tây Nam Bộ, do Nguyễn Tuấn Anh thực hiện (dẫn theo
Trần Ngọc Thêm, Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, tr.424), thống kê đã chỉ ra,
trong số 1554 câu ca dao thì có 68 lần xuất hiện từ “ghe”, 46 lần xuất hiện từ “xuồng”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chevier Jean và Gheerbrant Alain (1997). Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. NXB Đà
Nẵng.
Trịnh Bá Đĩnh (2017). Từ kí hiệu đến biểu tượng. NXB Khoa học Xã hội.
Trịnh Hoài Đức (1998). Gia Định thành thông chí. Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh
dịch, Đào Duy Anh hiệu đính. NXB Giáo dục.
Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984). Ca dao dân ca
Nam Bộ. NXB Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đinh Hồng Hải (2015). Nghiên cứu biểu tượng- Một số hướng tiếp cận lí thuyết. NXB Thế Giới.
Nguyễn Thanh Lợi (2005). Ghe xuồng ở Nam Bộ. Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 1.
Nguyễn Thanh Lợi (2007). Tên ghe xuồng ở Nam Bộ. Tạp chí Nghiên cứu & Phát triển, số 62.
Iu.Lotman (2015). “Biểu tượng trong hệ thống văn hóa” (Trần Đình Sử dịch) trong Kí hiệu
học văn hóa. NXB ĐHQG Hà Nội.
Sơn Nam (1997). Đồng Bằng Sông Cửu Long- Nét sinh hoạt xưa và văn minh miệt vườn.
NXB Trẻ.
Trần Ngọc Thêm (2014). Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ. NXB Văn hóa-Văn nghệ.
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019)
36
Lê Anh Trà (1984). Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long. H: Viện Văn hóa.
Petit Larousse. 1993. tr. 978.
Ngày nhận bài: 02/6/2019 Biên tập xong: 15/6/2019 Duyệt đăng: 20/6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12_9527_2214917.pdf