Gãy xương hàm mặt và đội mũ bảo hiểm ở trẻ em tại bệnh viện nhi đồng 1

Tài liệu Gãy xương hàm mặt và đội mũ bảo hiểm ở trẻ em tại bệnh viện nhi đồng 1: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 197 GÃY XƯƠNG HÀM MẶT VÀ ĐỘI MŨ BẢO HIỂM Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 Tạ Thị Ngọc Hà*, Nguyễn Văn Đẩu* TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định nguyên nhân, đặc điểm vị trí gãy xương hàm mặt ở trẻ em. Tìm hiểu thực trạng đội mũ bảo hiểm cho trẻ em và so sánh mức độ nghiêm trọng về gãy xương hàm mặt giữa nhóm có đội mũ bảo hiểm và nhóm không đội mũ bảo hiểm tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca, tất cả các bệnh nhi dưới 16 tuổi có chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng gãy xương vùng hàm mặt nhập Bệnh viện Nhi Đồng 1 trong thời gian từ 1/1/2019 đến 31/05/2019. Kết quả: Ghi nhận 24 trường hợp gãy xương hàm mặt, tuổi trung bình là 10,1 tuổi. Tỉ lệ Nam: Nữ là 2:1. Trong đó có 22 trường hợp do tai nạn giao thông (chiếm 91,6%). Và chỉ có 5 trường hợp đội mũ bảo hiểm (chiếm 26,3%), trong đó có 13 trường hợp...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gãy xương hàm mặt và đội mũ bảo hiểm ở trẻ em tại bệnh viện nhi đồng 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 197 GÃY XƯƠNG HÀM MẶT VÀ ĐỘI MŨ BẢO HIỂM Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 Tạ Thị Ngọc Hà*, Nguyễn Văn Đẩu* TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định nguyên nhân, đặc điểm vị trí gãy xương hàm mặt ở trẻ em. Tìm hiểu thực trạng đội mũ bảo hiểm cho trẻ em và so sánh mức độ nghiêm trọng về gãy xương hàm mặt giữa nhóm có đội mũ bảo hiểm và nhóm không đội mũ bảo hiểm tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca, tất cả các bệnh nhi dưới 16 tuổi có chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng gãy xương vùng hàm mặt nhập Bệnh viện Nhi Đồng 1 trong thời gian từ 1/1/2019 đến 31/05/2019. Kết quả: Ghi nhận 24 trường hợp gãy xương hàm mặt, tuổi trung bình là 10,1 tuổi. Tỉ lệ Nam: Nữ là 2:1. Trong đó có 22 trường hợp do tai nạn giao thông (chiếm 91,6%). Và chỉ có 5 trường hợp đội mũ bảo hiểm (chiếm 26,3%), trong đó có 13 trường hợp gãy xương tầng mặt giữa, 8 trường hợp gãy xương hàm dưới, 3 trường hợp gãy xương kết hợp.Vị trí gãy xương thường gặp là gãy tầng mặt giữa. Và không có sự khác biệt nhiều về mức độ nghiêm trọng gãy xương hàm mặt giữa nhóm có đội mũ bảo hiểm và nhóm không đội mũ bảo hiểm. Kết luận: Tỉ lệ gãy xương hàm mặt ở trẻ em ngày càng gia tăng đáng kể, nguyên nhân chủ yếu là do tai nạn giao thông và vị trí gãy xương thường gặp là gãy tầng mặt giữa. Vấn đề đội mũ bảo hiểm cho trẻ chưa được các bậc phụ huynh quan tâm đúng mức và loại mũ bảo hiểm chúng ta đang sử dụng đa số là loại mũ bảo hiểm hở mặt, chỉ có tác dụng che chắn vùng đầu không có tác dụng bảo vệ vùng hàm mặt. Do đó, nên ban hành luật sử dụng mũ bảo hiểm bắt buộc cho trẻ và cần có loại mũ bảo hiểm phù hợp hơn để thay thế. Từ khóa: gãy xương hàm mặt, vai trò của mũ bảo hiểm ABSTRACT MAXILLOFACIAL FRACTURE AND HELMET FOR MAXILLOFACIAL REGION IN CHILDREN AT THE CHILDREN HOSPITAL 1 Ta Thi Ngoc Ha, Nguyen Van Dau * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 197 – 201 Objective: To define the cause, characteristics of the position of the maxillofacial fracture in children. The situation of helmet wearing for children and compare the severity of maxillofacial fracture between the helmet and unhelmet wearing at Children's Hospital 1. Methods: Prospective case series study. All patients under 16 years old with clinical and subclinical diagnosis of maxillofacial fracture admitted to Children's Hospital 1 from January 1, 2019 to May 31, 2019. Results: There were 24 cases of maxillofacial fracture, the average age was 10.1 years old. The male to female ratio was 2:1. In which there are 22 cases due to traffic accidents (91.6%). And there are only 5 cases of helmet wearing (22.7%). There were 12 cases of middle third fractures, 7 cases of mandibular fractures and 3 combined fractures. Middle third fractures occurred most frequently (60%). And there is not much difference in the severity of maxillofacial fractures between the helmeted and non-helmeted using. Conclusions: The rate of maxillofacial fracture in children is increasing significantly, mainly due to traffic *Bệnh viện Nhi Đồng 1 Tác giả liên lạc: BS. Tạ Thị Ngọc Hà ĐT: 0978584422 Email: ha_ngoc192@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 198 accidents and middle third fractures is the most common positions. The problem of wearing helmets for children has not been properly concerned by parents. And what kind of helmet we are using most of them are open-face helmets, only have the effect of covering the head area without protecting the maxillofacial area. Therefore, it is advisable to enact a law to use helmets for children and to have a more suitable helmet to replace. Key words: maxillofacial fracture in children, role of helmet ĐẶT VẤN ĐỀ Chấn thương nói chung và chấn thương hàm mặt nói riêng đang là một vấn đề nóng bỏng trong hoàn cảnh của nước ta hiện nay, nơi mà phương tiện giao thông chủ yếu là xe 2 bánh. Và có lẽ không có tổn thương nào mà bệnh nhân quan tâm và lo lắng hơn tổn thương vùng hàm mặt. Chấn thương hàm mặt gây nhiều tổn thương đa dạng, nếu những tổn thương này không được điều trị sớm và đúng mức sẽ ảnh hưởng nhiều đến giải phẫu, chức năng, thẩm mỹ, tâm lý và sự phát triển toàn diện của người bệnh(1,3). Đã có nhiều nghiên cứu về gãy xương hàm mặt được khảo sát ở đối tượng người lớn, còn ở trẻ em thì rất ít. Gãy xương hàm mặt ở trẻ em nói chung hiếm gặp hơn so với người lớn. Tuy nhiên, trong những tháng đầu năm 2019, theo tình hình bệnh nhân nhập viện vì chấn thương hàm mặt tại bệnh viện Nhi Đồng 1, cho thấy tỉ lệ các trẻ bị chấn thương hàm mặt ngày càng gia tăng đáng kể. Nguyên nhân chính gây chấn thương là do tai nạn giao thông. Điều đặc biệt, trong số những trẻ bị chấn thương này, đa số là không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không đúng quy cách khi xảy ra tai nạn. Nhiều bậc phụ huynh còn thờ ơ, hoặc chưa quan tâm đúng mức đến việc đội mũ bảo hiểm cho trẻ. Và có rất nhiều trẻ tự điều khiển xe máy, xe đạp điện khi chưa đủ tuổi cho phép. Một vấn đề nữa là: loại mũ bảo hiểm mà chúng ta đang sử dụng là loại mũ bảo hiểm hở mặt (mũ bảo hiểm nửa đầu) có thể bảo vệ vùng hàm mặt khi xảy ra tai nạn hay không? Tác dụng bảo vệ vùng đầu, giảm nguy cơ chấn thương sọ não của mũ bảo hiểm đã được làm rõ qua nhiều nghiên cứu trước đây, nhưng vai trò của mũ bảo hiểm đối với vùng hàm mặt chưa được nghiên cứu nhiều, đặc biệt là đối tượng trẻ em. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhi chấn thương hàm mặt nhập viện điều trị tại bệnh viện Nhi Đồng 1. Tiêu chí chọn mẫu Tất cả các bệnh nhi dưới 16 tuổi có chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng gãy xương vùng hàm mặt. Tiêu chí loại trừ Các bệnh trên 16 tuổi có gãy xương hàm mặt và các bệnh dưới 16 tuổi chấn thương những vị trí khác không có gãy xương hàm mặt. Cỡ mẫu Lấy trọn mẫu. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Từ 01/01/2019 đến 31/05/2019 tại khoa Răng Hàm Mặt Bệnh Viện Nhi Đồng 1. Biến số nghiên cứu Tuổi, giới tính, nguyên nhân gây chấn thương, vị trí gãy xương, có đội mũ bảo hiểm, không đội mũ bảo hiểm. Thu thập và xử lý số liệu Số liệu được thu thập qua khai thác bệnh sử, thăm khám lâm sàng, các kết quả cận lâm sàng và hồ sơ bệnh án. Dân số nghiên cứu được chia thành 2 nhóm: nhóm có đội mũ bảo hiểm và nhóm không có đội mũ bảo hiểm, ghi nhận sự khác biệt về mức độ chấn thương giữa 2 nhóm. Các số liệu được mã hóa, sau đó được nhập và phân tích bằng phần mềm stata 10.0. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 199 Các biến số định lượng được trình bày dưới dạng trung bình và độ lệch chuẩn. Các biến số định tính: tính tỉ lệ phần trăm. KẾT QUẢ Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Qua nghiên cứu 24 trường hợp gãy xương hàm mặt tại bệnh viện Nhi Đồng 1, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ Nam/Nữ là: 2/1, lớn nhất là 16 tuổi, nhỏ nhất là 2 tuổi, tuổi trung bình là 10,1 tuổi. Đa số các trường hợp gãy xương là do tai nạn giao thông. Và điều đặc biệt là có đến 14 phần lớn trẻ không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không đạt yêu cầu. Bảng 1. Phân bố bệnh theo giới tính Giới N=24 % Nam 16 66,7 Nữ 8 33,3 Nguyên nhân gãy xương hàm mặt ở trẻ em Bảng 2. Phân bố nguyên nhân Nguyên nhân N=24 % Tai nạn giao thông 22 91,6 Té ngã 2 8,4 Trong 24 trường hợp nghiên cứu, có 22 trường hợp do tai nạn giao thông, 1 trường hợp do té lầu, 1 trường hợp do té cây. Nguyên nhân chính gây gãy xương hàm mặt là do tai nạn giao thông, chiếm 91,6% (Bảng 2). Sự phân bố vị trí gãy xương Bảng 3. Phân bố vị trí gãy xương Vị trí N = 24 % Gãy tầng mặt giữa 13 54,2 Gãy xương hàm dưới 8 33,3 Gãy kết hợp 3 12,5 Qua nghiên cứu cho thấy gãy xương hàm mặt ở trẻ em gặp nhiều nhất là gãy xương tầng mặt giữa. Trong 24 trường hợp chấn thương, ghi nhận 13 trường hợp gãy tầng mặt giữa, 8 trường hợp gãy xương hàm dưới và 3 trường hợp gãy xương kết hợp: gãy tầng mặt giữa kết hợp với gãy xương hàm dưới (Bảng 3). Thực trạng đội mũ bảo hiểm cho trẻ Trong 22 trường hợp gãy xương do tai nạn giao thông, có 19 trường hợp tham gia giao thông, được bố mẹ chở bằng xe máy hoặc tự điều khiển xe máy, xe điện. Trong đó chỉ có 5 ca có đội mũ bảo hiểm, còn 14 ca không có đội mũ bảo hiểm (Bảng 4, 5). Bảng 4. Hoàn cảnh chấn thương Hoàn cảnh chấn thương n=22 % Đi, chạy bộ 3 13,6 Được chở bằng xe máy 9 40,9 Tự điều khiển xe máy, xe điện 10 45,5 Bảng 5. Tỉ lệ sử dụng mũ bảo hiểm n=19 % Đội mũ bảo hiểm 5 26,3 Không đội mũ bảo hiểm 14 73,7 (tổng 22 ca, loại ra 3 ca đi , chạy bộ thì không đội mũ bảo hiểm nên chỉ khảo sát 19 ca tham gia phương tiện giao thông) Sự khác nhau về mức độ chấn thương giữa nhóm có đội mũ bảo hiểm và nhóm không đội mũ bảo hiểm Bảng 6. Mức độ chấn thương n= 19 Chấn thương sọ não Chấn thương hàm mặt Đội mũ bảo hiểm 5 0 5 Không đội mũ bảo hiểm 14 3 14 Chúng tôi khảo sát 19 trường hợp tham gia giao thông , được chia làm 2 nhóm, nhóm có sử dụng mũ bảo hiểm (5 trẻ) và nhóm không có sử dụng mũ bảo hiểm (14 trẻ). Qua thăm khám lâm sàng và các kết quả cận lâm sàng: ghi nhận có 3 trẻ bị chấn thương sọ não trong 14 trẻ không đội mũ, không có trẻ nào bị chấn thương sọ não trong nhóm 5 trẻ có đội mũ bảo hiểm. Về chấn thương hàm mặt: trong 14 trẻ không đội mũ bảo hiểm ghi nhận có gãy xương hàm dưới và gãy xương tầng mặt giữa khá nghiêm trọng. Trong 5 trẻ có đội mũ bảo hiểm ghi nhận có gãy xương hàm dưới và gãy xương tầng mặt giữa cũng khá nặng nề không kém so với nhóm trẻ không đội mũ bảo hiểm. Chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt nhiều về mức độ chấn thương hàm mặt giữa 2 nhóm này (Bảng 6). Tuy nhiên về chấn thương hàm mặt thì giữa trẻ có đội mũ hay không đội mũ đều có mức độ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 200 chấn thương tương tự nhau, không có sự khác biệt nhiều. Điều đó có nghĩa việc sử dụng loại mũ bảo hiểm như chúng ta hiện nay là không phù hợp. BÀN LUẬN Qua nhiên cứu, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ gãy xương hàm mặt ở trẻ em điều trị tại khoa Răng hàm mặt (RHM) bệnh viện Nhi Đồng 1 ngày càng gia tăng. Cùng thời điểm của nghiên cứu này năm 2018, chúng tôi thống kê được 15 ca gãy xương. Năm 2019 là 24 ca tăng 9 ca so với năm trước. Chấn thương gãy xương hàm mặt xảy ra ở nam nhiều hơn nữ, với tỉ lệ nam:nữ là 2:1. Nguyên nhân gây gãy xương hàm mặt phổ biến nhất là do tai nạn giao thông, chiếm đến 91,6%, chiếm tỉ lệ khá cao. Kết quả về nguyên nhân gây gãy xương hàm mặt trong nghiên cứu này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây khảo sát trên đối tượng người lớn ở Việt Nam và các nước đang phát triển trên thế giới. Theo số liệu nghiên cứu của viện Răng Hàm Mặt Hà Nội năm 2010: 80% do tai nạn giao thông và 20% do các nguyên nhân khác như té ngã, tai nạn sinh hoạt, tai nạn lao động. Một nghiên cứu ở Ấn Độ được đăng trên tạp chí Hàn Quốc năm 2016, cho thấy chấn thương hàm mặt do tai nạn giao thông chiếm 73,8% và 26,2% do các nguyên nhân khác(6). Việc chẩn đoán gãy xương hàm mặt ở trẻ em khó khăn hơn nhiều so với người lớn và thường bị bỏ sót, đặc biệt là ở những trẻ quá nhỏ, những trẻ không hợp tác. Do đó để có một chẩn đoán xác định chính xác cần phải dựa vào nhiều yếu tố: khai thác bệnh sử, khám lâm sàng, các kết quả cận lâm sàng. Trong đó phim CT scanner là cận lâm sàng có giá trị nhất cho chẩn đoán. Mức độ nghiêm trọng của gãy xương hàm mặt phụ thuộc vào nguyên nhân, cơ chế xảy ra chấn thương, hoàn cảnh xảy ra chấn thương. Qua nghiên cứu này cho thấy gãy xương hàm mặt ở trẻ em gặp nhiều ở gãy xương tầng mặt giữa hơn là gãy xương hàm dưới. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Lê Phong Vũ - Lê Đức Lánh (2006 – 2010), gãy tầng mặt giữa chiếm 71,5%, gãy xương hàm dưới là 28,5%(2). Nhưng kết quả này trái ngược với các nghiên cứu của thế giới. Gãy xương hàm dưới chiếm tỉ lệ cao hơn gãy tầng mặt giữa, theo Galas: Gãy XHD chiếm 60%, theo Ortakoglu là 72,2% “Phân tích gãy xương hàm mặt trong 5 năm khảo sát trên 157 bệnh nhân”(4). Về thực trạng sử dụng mũ bảo hiểm cho trẻ em Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy tỉ lệ đội mũ bảo hiểm cho trẻ em còn rất thấp, chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều bậc phụ huynh còn thờ ơ với việc trang bị mũ bảo hiểm cho con em mình. Có lẽ do luật sử dụng mũ bảo hiểm cho trẻ em ở nước ta chưa được ban hành nghiêm ngặt và các bậc phụ huynh chưa lường trước được các nguy cơ, các rủi ro đối với vùng đầu mặt của trẻ khi xảy ra tai nạn. Và với vai trò của mũ bảo hiểm Tác dụng bảo vệ vùng đầu, giảm nguy cơ chấn thương sọ não của mũ bảo hiểm đã được làm rõ qua nhiều nghiên cứu trước đây. Theo Cochrane năm 2009 “Mũ bảo hiểm giảm 42% nguy cơ tử vong và giảm 69% nguy cơ chấn thương sọ não”. Qua kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy mức độ nghiêm trọng về gãy xương hàm mặt giữa nhóm có bảo hiểm và nhóm không có bảo hiểm là như nhau, không có sự khác biệt nhiều. Theo cảm nhận của chúng tôi loại mũ bảo hiểm mà chúng ta đang sử dụng là loại mũ bảo hiểm hở mặt (mũ bảo hiểm nửa đầu) chỉ bảo vệ phần đầu, sọ não không có che chắn được vùng mặt khi xảy ra tai nạn. Loại mũ kín mặt Loại mũ bảo hiểm mà chúng ta đang sử dụng là loại mũ bảo hiểm hở mặt chỉ có tác dụng bảo vệ được vùng đầu, không có tác dụng che chắn vùng hàm mặt. Do đó cần phải có một loại mũ bảo hiểm phù hợp hơn để thay thế, loại mũ bảo hiểm kín mặt vừa có tác dụng bảo vệ vùng đầu, vừa có tác dụng bảo vệ vùng hàm mặt. Cần khuyến khích mọi người sử dụng loại mũ bảo hiểm kín mặt để giảm thiểu tối đa nguy cơ, mức Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 201 độ nghiêm trọng về chấn thương hàm mặt khi xảy ra tai nạn(5) (Hình 1). Hình 1. Mũ bảo hiểm hở mặt và mũ bảo hiểm kín mặt KẾT LUẬN Gãy xương hàm mặt ở trẻ em ngày càng gia tăng đáng kể, nguyên nhân chủ yếu là do tai nạn giao thông và vị trí gãy xương thường gặp là gãy tầng mặt giữa. Vấn đề đội mũ bảo hiểm cho trẻ nói chung chưa được các bậc phụ huynh quan tâm đúng mức. Và loại mũ bảo hiểm chúng ta đang sử dụng đa số là loại mũ bảo hiểm hở mặt, chỉ có tác dụng che chắn vùng đầu không có tác dụng bảo vệ vùng hàm mặt. Do đó để giảm thiểu tỉ lệ gãy xương hàm mặt, giảm thiểu mức độ nghiêm trọng gãy xương hàm mặt, ngoài việc tuyên truyền, giáo dục đến mọi người chấp hành nghiêm chỉnh luật an toàn giao thông, còn phải ban hành luật sử dụng mũ bảo hiểm bắt buộc cho trẻ em. Đề xuất nên có loại mũ bảo hiểm kín mặt có kết cấu vừa che chắn phần đầu, vừa che chắn phần mặt để thay thế loại mũ bảo hiểm chúng ta đang sử dụng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Borle RM (2014). “Maxilofacial trauma”, in: Borle RM, Textbook of oral and maxillofacial surgery, 2th, pp.423. Elsevier India. 2. Lê Phong Vũ, Lê Đức Lánh (2011). “Dịch tễ lâm sàng và điều trị gãy xương hàm dưới tại bệnh viện đa khoa trung tâm Tiền Giang từ năm 2006 đến 2010”. Y học TP. Hồ Chí Minh, 15(2):208- 212. 3. Nguyễn Bắc Hùng (2000). Chấn thương vùng hàm mặt - Bài giảng phẫu thuật tạo hình. Bộ môn Phẫu thuật tạo hình, Trường Đại Học Y Hà Nội. 4. Ortakoglu K, et al (2004). “An analysis of maxilofacial fracture: A 5-year survey of 157 patients”. Mil Med, 169(9):723-727. 5. Ruslin M, et al (2018). “The influence of helmet on the prevention of maxillofacial fractures sustained during motorcycle accidents”. Cogent Engineering, 5(1):e1-7. 6. Singaram M, et al (2016). “Prevalence, pattern, etiology, and management of maxillofacial trauma in a developing country: a retrospective study”. J Korean Assoc Oral Maxillofac Surg, 42(4):174–181. Ngày nhận bài báo: 20/07/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2019 Ngày bài báo được đăng: 05/09/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf197_5144_2213323.pdf
Tài liệu liên quan