Tài liệu Gãy xương hàm mặt và đội mũ bảo hiểm ở trẻ em tại bệnh viện nhi đồng 1: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 197
GÃY XƯƠNG HÀM MẶT VÀ ĐỘI MŨ BẢO HIỂM Ở TRẺ EM
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1
Tạ Thị Ngọc Hà*, Nguyễn Văn Đẩu*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định nguyên nhân, đặc điểm vị trí gãy xương hàm mặt ở trẻ em. Tìm hiểu thực trạng đội mũ
bảo hiểm cho trẻ em và so sánh mức độ nghiêm trọng về gãy xương hàm mặt giữa nhóm có đội mũ bảo hiểm và
nhóm không đội mũ bảo hiểm tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca, tất cả các bệnh nhi dưới
16 tuổi có chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng gãy xương vùng hàm mặt nhập Bệnh viện Nhi Đồng 1 trong thời
gian từ 1/1/2019 đến 31/05/2019.
Kết quả: Ghi nhận 24 trường hợp gãy xương hàm mặt, tuổi trung bình là 10,1 tuổi. Tỉ lệ Nam: Nữ là 2:1.
Trong đó có 22 trường hợp do tai nạn giao thông (chiếm 91,6%). Và chỉ có 5 trường hợp đội mũ bảo hiểm (chiếm
26,3%), trong đó có 13 trường hợp...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gãy xương hàm mặt và đội mũ bảo hiểm ở trẻ em tại bệnh viện nhi đồng 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 197
GÃY XƯƠNG HÀM MẶT VÀ ĐỘI MŨ BẢO HIỂM Ở TRẺ EM
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1
Tạ Thị Ngọc Hà*, Nguyễn Văn Đẩu*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định nguyên nhân, đặc điểm vị trí gãy xương hàm mặt ở trẻ em. Tìm hiểu thực trạng đội mũ
bảo hiểm cho trẻ em và so sánh mức độ nghiêm trọng về gãy xương hàm mặt giữa nhóm có đội mũ bảo hiểm và
nhóm không đội mũ bảo hiểm tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca, tất cả các bệnh nhi dưới
16 tuổi có chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng gãy xương vùng hàm mặt nhập Bệnh viện Nhi Đồng 1 trong thời
gian từ 1/1/2019 đến 31/05/2019.
Kết quả: Ghi nhận 24 trường hợp gãy xương hàm mặt, tuổi trung bình là 10,1 tuổi. Tỉ lệ Nam: Nữ là 2:1.
Trong đó có 22 trường hợp do tai nạn giao thông (chiếm 91,6%). Và chỉ có 5 trường hợp đội mũ bảo hiểm (chiếm
26,3%), trong đó có 13 trường hợp gãy xương tầng mặt giữa, 8 trường hợp gãy xương hàm dưới, 3 trường hợp
gãy xương kết hợp.Vị trí gãy xương thường gặp là gãy tầng mặt giữa. Và không có sự khác biệt nhiều về mức độ
nghiêm trọng gãy xương hàm mặt giữa nhóm có đội mũ bảo hiểm và nhóm không đội mũ bảo hiểm.
Kết luận: Tỉ lệ gãy xương hàm mặt ở trẻ em ngày càng gia tăng đáng kể, nguyên nhân chủ yếu là do tai nạn
giao thông và vị trí gãy xương thường gặp là gãy tầng mặt giữa. Vấn đề đội mũ bảo hiểm cho trẻ chưa được các
bậc phụ huynh quan tâm đúng mức và loại mũ bảo hiểm chúng ta đang sử dụng đa số là loại mũ bảo hiểm hở
mặt, chỉ có tác dụng che chắn vùng đầu không có tác dụng bảo vệ vùng hàm mặt. Do đó, nên ban hành luật sử
dụng mũ bảo hiểm bắt buộc cho trẻ và cần có loại mũ bảo hiểm phù hợp hơn để thay thế.
Từ khóa: gãy xương hàm mặt, vai trò của mũ bảo hiểm
ABSTRACT
MAXILLOFACIAL FRACTURE AND HELMET FOR MAXILLOFACIAL REGION IN CHILDREN
AT THE CHILDREN HOSPITAL 1
Ta Thi Ngoc Ha, Nguyen Van Dau
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 197 – 201
Objective: To define the cause, characteristics of the position of the maxillofacial fracture in children. The
situation of helmet wearing for children and compare the severity of maxillofacial fracture between the helmet and
unhelmet wearing at Children's Hospital 1.
Methods: Prospective case series study. All patients under 16 years old with clinical and subclinical
diagnosis of maxillofacial fracture admitted to Children's Hospital 1 from January 1, 2019 to May 31, 2019.
Results: There were 24 cases of maxillofacial fracture, the average age was 10.1 years old. The male to female
ratio was 2:1. In which there are 22 cases due to traffic accidents (91.6%). And there are only 5 cases of helmet
wearing (22.7%). There were 12 cases of middle third fractures, 7 cases of mandibular fractures and 3 combined
fractures. Middle third fractures occurred most frequently (60%). And there is not much difference in the severity
of maxillofacial fractures between the helmeted and non-helmeted using.
Conclusions: The rate of maxillofacial fracture in children is increasing significantly, mainly due to traffic
*Bệnh viện Nhi Đồng 1
Tác giả liên lạc: BS. Tạ Thị Ngọc Hà ĐT: 0978584422 Email: ha_ngoc192@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 198
accidents and middle third fractures is the most common positions. The problem of wearing helmets for children
has not been properly concerned by parents. And what kind of helmet we are using most of them are open-face
helmets, only have the effect of covering the head area without protecting the maxillofacial area. Therefore, it is
advisable to enact a law to use helmets for children and to have a more suitable helmet to replace.
Key words: maxillofacial fracture in children, role of helmet
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương nói chung và chấn thương
hàm mặt nói riêng đang là một vấn đề nóng
bỏng trong hoàn cảnh của nước ta hiện nay,
nơi mà phương tiện giao thông chủ yếu là xe 2
bánh. Và có lẽ không có tổn thương nào mà
bệnh nhân quan tâm và lo lắng hơn tổn
thương vùng hàm mặt. Chấn thương hàm mặt
gây nhiều tổn thương đa dạng, nếu những tổn
thương này không được điều trị sớm và đúng
mức sẽ ảnh hưởng nhiều đến giải phẫu, chức
năng, thẩm mỹ, tâm lý và sự phát triển toàn
diện của người bệnh(1,3).
Đã có nhiều nghiên cứu về gãy xương hàm
mặt được khảo sát ở đối tượng người lớn, còn ở
trẻ em thì rất ít. Gãy xương hàm mặt ở trẻ em
nói chung hiếm gặp hơn so với người lớn. Tuy
nhiên, trong những tháng đầu năm 2019, theo
tình hình bệnh nhân nhập viện vì chấn thương
hàm mặt tại bệnh viện Nhi Đồng 1, cho thấy tỉ lệ
các trẻ bị chấn thương hàm mặt ngày càng gia
tăng đáng kể. Nguyên nhân chính gây chấn
thương là do tai nạn giao thông. Điều đặc biệt,
trong số những trẻ bị chấn thương này, đa số là
không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm
không đúng quy cách khi xảy ra tai nạn. Nhiều
bậc phụ huynh còn thờ ơ, hoặc chưa quan tâm
đúng mức đến việc đội mũ bảo hiểm cho trẻ. Và
có rất nhiều trẻ tự điều khiển xe máy, xe đạp
điện khi chưa đủ tuổi cho phép.
Một vấn đề nữa là: loại mũ bảo hiểm mà
chúng ta đang sử dụng là loại mũ bảo hiểm hở
mặt (mũ bảo hiểm nửa đầu) có thể bảo vệ vùng
hàm mặt khi xảy ra tai nạn hay không? Tác dụng
bảo vệ vùng đầu, giảm nguy cơ chấn thương sọ
não của mũ bảo hiểm đã được làm rõ qua nhiều
nghiên cứu trước đây, nhưng vai trò của mũ bảo
hiểm đối với vùng hàm mặt chưa được nghiên
cứu nhiều, đặc biệt là đối tượng trẻ em.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhi chấn thương hàm mặt nhập viện
điều trị tại bệnh viện Nhi Đồng 1.
Tiêu chí chọn mẫu
Tất cả các bệnh nhi dưới 16 tuổi có chẩn
đoán lâm sàng và cận lâm sàng gãy xương vùng
hàm mặt.
Tiêu chí loại trừ
Các bệnh trên 16 tuổi có gãy xương hàm mặt
và các bệnh dưới 16 tuổi chấn thương những vị
trí khác không có gãy xương hàm mặt.
Cỡ mẫu
Lấy trọn mẫu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Từ 01/01/2019 đến 31/05/2019 tại khoa Răng
Hàm Mặt Bệnh Viện Nhi Đồng 1.
Biến số nghiên cứu
Tuổi, giới tính, nguyên nhân gây chấn
thương, vị trí gãy xương, có đội mũ bảo hiểm,
không đội mũ bảo hiểm.
Thu thập và xử lý số liệu
Số liệu được thu thập qua khai thác bệnh sử,
thăm khám lâm sàng, các kết quả cận lâm sàng
và hồ sơ bệnh án.
Dân số nghiên cứu được chia thành 2 nhóm:
nhóm có đội mũ bảo hiểm và nhóm không có
đội mũ bảo hiểm, ghi nhận sự khác biệt về mức
độ chấn thương giữa 2 nhóm.
Các số liệu được mã hóa, sau đó được nhập
và phân tích bằng phần mềm stata 10.0.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 199
Các biến số định lượng được trình bày dưới
dạng trung bình và độ lệch chuẩn.
Các biến số định tính: tính tỉ lệ phần trăm.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Qua nghiên cứu 24 trường hợp gãy xương
hàm mặt tại bệnh viện Nhi Đồng 1, chúng tôi
nhận thấy tỷ lệ Nam/Nữ là: 2/1, lớn nhất là 16
tuổi, nhỏ nhất là 2 tuổi, tuổi trung bình là 10,1
tuổi. Đa số các trường hợp gãy xương là do tai
nạn giao thông. Và điều đặc biệt là có đến 14
phần lớn trẻ không đội mũ bảo hiểm hoặc đội
mũ bảo hiểm không đạt yêu cầu.
Bảng 1. Phân bố bệnh theo giới tính
Giới N=24 %
Nam 16 66,7
Nữ 8 33,3
Nguyên nhân gãy xương hàm mặt ở trẻ em
Bảng 2. Phân bố nguyên nhân
Nguyên nhân N=24 %
Tai nạn giao thông 22 91,6
Té ngã 2 8,4
Trong 24 trường hợp nghiên cứu, có 22
trường hợp do tai nạn giao thông, 1 trường hợp
do té lầu, 1 trường hợp do té cây. Nguyên nhân
chính gây gãy xương hàm mặt là do tai nạn giao
thông, chiếm 91,6% (Bảng 2).
Sự phân bố vị trí gãy xương
Bảng 3. Phân bố vị trí gãy xương
Vị trí N = 24 %
Gãy tầng mặt giữa 13 54,2
Gãy xương hàm dưới 8 33,3
Gãy kết hợp 3 12,5
Qua nghiên cứu cho thấy gãy xương hàm
mặt ở trẻ em gặp nhiều nhất là gãy xương tầng
mặt giữa. Trong 24 trường hợp chấn thương, ghi
nhận 13 trường hợp gãy tầng mặt giữa, 8 trường
hợp gãy xương hàm dưới và 3 trường hợp gãy
xương kết hợp: gãy tầng mặt giữa kết hợp với
gãy xương hàm dưới (Bảng 3).
Thực trạng đội mũ bảo hiểm cho trẻ
Trong 22 trường hợp gãy xương do tai nạn
giao thông, có 19 trường hợp tham gia giao
thông, được bố mẹ chở bằng xe máy hoặc tự
điều khiển xe máy, xe điện. Trong đó chỉ có 5 ca
có đội mũ bảo hiểm, còn 14 ca không có đội mũ
bảo hiểm (Bảng 4, 5).
Bảng 4. Hoàn cảnh chấn thương
Hoàn cảnh chấn thương n=22 %
Đi, chạy bộ 3 13,6
Được chở bằng xe máy 9 40,9
Tự điều khiển xe máy, xe điện 10 45,5
Bảng 5. Tỉ lệ sử dụng mũ bảo hiểm
n=19 %
Đội mũ bảo hiểm 5 26,3
Không đội mũ bảo hiểm 14 73,7
(tổng 22 ca, loại ra 3 ca đi , chạy bộ thì không đội mũ bảo hiểm
nên chỉ khảo sát 19 ca tham gia phương tiện giao thông)
Sự khác nhau về mức độ chấn thương giữa
nhóm có đội mũ bảo hiểm và nhóm không đội
mũ bảo hiểm
Bảng 6. Mức độ chấn thương
n= 19 Chấn thương
sọ não
Chấn thương
hàm mặt
Đội mũ bảo hiểm 5 0 5
Không đội mũ bảo
hiểm
14 3 14
Chúng tôi khảo sát 19 trường hợp tham gia
giao thông , được chia làm 2 nhóm, nhóm có sử
dụng mũ bảo hiểm (5 trẻ) và nhóm không có sử
dụng mũ bảo hiểm (14 trẻ).
Qua thăm khám lâm sàng và các kết quả cận
lâm sàng: ghi nhận có 3 trẻ bị chấn thương sọ
não trong 14 trẻ không đội mũ, không có trẻ nào
bị chấn thương sọ não trong nhóm 5 trẻ có đội
mũ bảo hiểm.
Về chấn thương hàm mặt: trong 14 trẻ
không đội mũ bảo hiểm ghi nhận có gãy
xương hàm dưới và gãy xương tầng mặt giữa
khá nghiêm trọng.
Trong 5 trẻ có đội mũ bảo hiểm ghi nhận có
gãy xương hàm dưới và gãy xương tầng mặt
giữa cũng khá nặng nề không kém so với nhóm
trẻ không đội mũ bảo hiểm. Chúng tôi nhận thấy
không có sự khác biệt nhiều về mức độ chấn
thương hàm mặt giữa 2 nhóm này (Bảng 6).
Tuy nhiên về chấn thương hàm mặt thì giữa
trẻ có đội mũ hay không đội mũ đều có mức độ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 200
chấn thương tương tự nhau, không có sự khác
biệt nhiều. Điều đó có nghĩa việc sử dụng loại
mũ bảo hiểm như chúng ta hiện nay là không
phù hợp.
BÀN LUẬN
Qua nhiên cứu, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ gãy
xương hàm mặt ở trẻ em điều trị tại khoa Răng
hàm mặt (RHM) bệnh viện Nhi Đồng 1 ngày
càng gia tăng. Cùng thời điểm của nghiên cứu
này năm 2018, chúng tôi thống kê được 15 ca
gãy xương. Năm 2019 là 24 ca tăng 9 ca so với
năm trước. Chấn thương gãy xương hàm mặt
xảy ra ở nam nhiều hơn nữ, với tỉ lệ nam:nữ là
2:1. Nguyên nhân gây gãy xương hàm mặt phổ
biến nhất là do tai nạn giao thông, chiếm đến
91,6%, chiếm tỉ lệ khá cao. Kết quả về nguyên
nhân gây gãy xương hàm mặt trong nghiên cứu
này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây
khảo sát trên đối tượng người lớn ở Việt Nam và
các nước đang phát triển trên thế giới.
Theo số liệu nghiên cứu của viện Răng Hàm
Mặt Hà Nội năm 2010: 80% do tai nạn giao
thông và 20% do các nguyên nhân khác như té
ngã, tai nạn sinh hoạt, tai nạn lao động. Một
nghiên cứu ở Ấn Độ được đăng trên tạp chí Hàn
Quốc năm 2016, cho thấy chấn thương hàm mặt
do tai nạn giao thông chiếm 73,8% và 26,2% do
các nguyên nhân khác(6).
Việc chẩn đoán gãy xương hàm mặt ở trẻ em
khó khăn hơn nhiều so với người lớn và thường
bị bỏ sót, đặc biệt là ở những trẻ quá nhỏ, những
trẻ không hợp tác. Do đó để có một chẩn đoán
xác định chính xác cần phải dựa vào nhiều yếu
tố: khai thác bệnh sử, khám lâm sàng, các kết
quả cận lâm sàng. Trong đó phim CT scanner là
cận lâm sàng có giá trị nhất cho chẩn đoán.
Mức độ nghiêm trọng của gãy xương hàm
mặt phụ thuộc vào nguyên nhân, cơ chế xảy ra
chấn thương, hoàn cảnh xảy ra chấn thương.
Qua nghiên cứu này cho thấy gãy xương hàm
mặt ở trẻ em gặp nhiều ở gãy xương tầng mặt
giữa hơn là gãy xương hàm dưới. Kết quả này
cũng phù hợp với nghiên cứu của Lê Phong Vũ -
Lê Đức Lánh (2006 – 2010), gãy tầng mặt giữa
chiếm 71,5%, gãy xương hàm dưới là 28,5%(2).
Nhưng kết quả này trái ngược với các nghiên
cứu của thế giới. Gãy xương hàm dưới chiếm tỉ
lệ cao hơn gãy tầng mặt giữa, theo Galas: Gãy
XHD chiếm 60%, theo Ortakoglu là 72,2% “Phân
tích gãy xương hàm mặt trong 5 năm khảo sát
trên 157 bệnh nhân”(4).
Về thực trạng sử dụng mũ bảo hiểm cho trẻ em
Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy tỉ
lệ đội mũ bảo hiểm cho trẻ em còn rất thấp, chưa
được quan tâm đúng mức. Nhiều bậc phụ
huynh còn thờ ơ với việc trang bị mũ bảo hiểm
cho con em mình. Có lẽ do luật sử dụng mũ bảo
hiểm cho trẻ em ở nước ta chưa được ban hành
nghiêm ngặt và các bậc phụ huynh chưa lường
trước được các nguy cơ, các rủi ro đối với vùng
đầu mặt của trẻ khi xảy ra tai nạn.
Và với vai trò của mũ bảo hiểm
Tác dụng bảo vệ vùng đầu, giảm nguy cơ
chấn thương sọ não của mũ bảo hiểm đã được
làm rõ qua nhiều nghiên cứu trước đây. Theo
Cochrane năm 2009 “Mũ bảo hiểm giảm 42%
nguy cơ tử vong và giảm 69% nguy cơ chấn
thương sọ não”. Qua kết quả nghiên cứu trên,
chúng tôi nhận thấy mức độ nghiêm trọng về
gãy xương hàm mặt giữa nhóm có bảo hiểm và
nhóm không có bảo hiểm là như nhau, không có
sự khác biệt nhiều. Theo cảm nhận của chúng tôi
loại mũ bảo hiểm mà chúng ta đang sử dụng là
loại mũ bảo hiểm hở mặt (mũ bảo hiểm nửa
đầu) chỉ bảo vệ phần đầu, sọ não không có che
chắn được vùng mặt khi xảy ra tai nạn.
Loại mũ kín mặt
Loại mũ bảo hiểm mà chúng ta đang sử
dụng là loại mũ bảo hiểm hở mặt chỉ có tác dụng
bảo vệ được vùng đầu, không có tác dụng che
chắn vùng hàm mặt. Do đó cần phải có một loại
mũ bảo hiểm phù hợp hơn để thay thế, loại mũ
bảo hiểm kín mặt vừa có tác dụng bảo vệ vùng
đầu, vừa có tác dụng bảo vệ vùng hàm mặt. Cần
khuyến khích mọi người sử dụng loại mũ bảo
hiểm kín mặt để giảm thiểu tối đa nguy cơ, mức
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 201
độ nghiêm trọng về chấn thương hàm mặt khi
xảy ra tai nạn(5) (Hình 1).
Hình 1. Mũ bảo hiểm hở mặt và mũ bảo hiểm kín mặt
KẾT LUẬN
Gãy xương hàm mặt ở trẻ em ngày càng gia
tăng đáng kể, nguyên nhân chủ yếu là do tai nạn
giao thông và vị trí gãy xương thường gặp là gãy
tầng mặt giữa. Vấn đề đội mũ bảo hiểm cho trẻ
nói chung chưa được các bậc phụ huynh quan
tâm đúng mức. Và loại mũ bảo hiểm chúng ta
đang sử dụng đa số là loại mũ bảo hiểm hở mặt,
chỉ có tác dụng che chắn vùng đầu không có tác
dụng bảo vệ vùng hàm mặt. Do đó để giảm
thiểu tỉ lệ gãy xương hàm mặt, giảm thiểu mức
độ nghiêm trọng gãy xương hàm mặt, ngoài việc
tuyên truyền, giáo dục đến mọi người chấp hành
nghiêm chỉnh luật an toàn giao thông, còn phải
ban hành luật sử dụng mũ bảo hiểm bắt buộc
cho trẻ em. Đề xuất nên có loại mũ bảo hiểm kín
mặt có kết cấu vừa che chắn phần đầu, vừa che
chắn phần mặt để thay thế loại mũ bảo hiểm
chúng ta đang sử dụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Borle RM (2014). “Maxilofacial trauma”, in: Borle RM, Textbook
of oral and maxillofacial surgery, 2th, pp.423. Elsevier India.
2. Lê Phong Vũ, Lê Đức Lánh (2011). “Dịch tễ lâm sàng và điều trị
gãy xương hàm dưới tại bệnh viện đa khoa trung tâm Tiền
Giang từ năm 2006 đến 2010”. Y học TP. Hồ Chí Minh, 15(2):208-
212.
3. Nguyễn Bắc Hùng (2000). Chấn thương vùng hàm mặt - Bài
giảng phẫu thuật tạo hình. Bộ môn Phẫu thuật tạo hình, Trường
Đại Học Y Hà Nội.
4. Ortakoglu K, et al (2004). “An analysis of maxilofacial fracture:
A 5-year survey of 157 patients”. Mil Med, 169(9):723-727.
5. Ruslin M, et al (2018). “The influence of helmet on the
prevention of maxillofacial fractures sustained during
motorcycle accidents”. Cogent Engineering, 5(1):e1-7.
6. Singaram M, et al (2016). “Prevalence, pattern, etiology, and
management of maxillofacial trauma in a developing country: a
retrospective study”. J Korean Assoc Oral Maxillofac Surg,
42(4):174–181.
Ngày nhận bài báo: 20/07/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2019
Ngày bài báo được đăng: 05/09/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 197_5144_2213323.pdf