Tài liệu Dược lý học - Bài 23: Nhiễm độc, chất độc hóa học chiến tranh và cách dự phòng, cấp cứu, điều trị: BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG
NHIỄM ĐỘC CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
VÀ CÁCH DỰ PHÒNG, CẤP CỨU, ĐIỀU TRỊ (NỘI KHOA DÃ CHIẾN)
202
BÀI 23
NHIỄM ĐỘC, CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
VÀ CÁCH DỰ PHÒNG, CẤP CỨU, ĐIỀU TRỊ
Trong chiến tranh hiện đại, vũ khí hóa học có thể được sử dụng và lúc đó
có nhiều vấn đề phức tạp sẽ xảy ra, việc cứu chữa thương binh bị nhiễm độc trở
nên đặc biệt khó khăn vì:
- Số lượng thương binh bị nhiễm độc về các trạm quân y rất lớn và hết sức
dồn dập.
- Tỷ lệ thương binh bị nhiễm độc nặng đòi hỏi phải cứu chữa bước đầu sẽ
cao. Người ta dự tính rằng đối với chất độc thần kinh tỷ lệ này lên tới 70%.
- Số lượng thương binh bị tổn thương hỗn hợp nhiều, sẽ gây khó khăn, phức
tạp thêm cho công tác xử trí cấp cứu.
- Trong trường hợp trạm quân y ở vùng bị nhiễm chất độc thì thuốc men,
dụng cụ y tế, trang bị có thể bị ô nhiễm chất độc, lúc đó việc tổ chức cứu
chữa sẽ trở nên đặc biệt khó khăn.
- Nếu trạm quân y ở...
7 trang |
Chia sẻ: khanh88 | Lượt xem: 936 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dược lý học - Bài 23: Nhiễm độc, chất độc hóa học chiến tranh và cách dự phòng, cấp cứu, điều trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG
NHIỄM ĐỘC CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
VÀ CÁCH DỰ PHÒNG, CẤP CỨU, ĐIỀU TRỊ (NỘI KHOA DÃ CHIẾN)
202
BÀI 23
NHIỄM ĐỘC, CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
VÀ CÁCH DỰ PHÒNG, CẤP CỨU, ĐIỀU TRỊ
Trong chiến tranh hiện đại, vũ khí hóa học có thể được sử dụng và lúc đó
có nhiều vấn đề phức tạp sẽ xảy ra, việc cứu chữa thương binh bị nhiễm độc trở
nên đặc biệt khó khăn vì:
- Số lượng thương binh bị nhiễm độc về các trạm quân y rất lớn và hết sức
dồn dập.
- Tỷ lệ thương binh bị nhiễm độc nặng đòi hỏi phải cứu chữa bước đầu sẽ
cao. Người ta dự tính rằng đối với chất độc thần kinh tỷ lệ này lên tới 70%.
- Số lượng thương binh bị tổn thương hỗn hợp nhiều, sẽ gây khó khăn, phức
tạp thêm cho công tác xử trí cấp cứu.
- Trong trường hợp trạm quân y ở vùng bị nhiễm chất độc thì thuốc men,
dụng cụ y tế, trang bị có thể bị ô nhiễm chất độc, lúc đó việc tổ chức cứu
chữa sẽ trở nên đặc biệt khó khăn.
- Nếu trạm quân y ở ngoài vùng nhiễm độc, nhân viên quân y vẫn có thể bị
nhiễm độc do thương binh mang chất độc qua trạm.
Với những đặc điểm như vậy nên mặc dù trong thời bình nhưng cán bộ,
nhân viên quân y vẫn phải chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với một cuộc chiến
tranh mà đối phương có thể sử dụng vũ khí hóa học, phải nắm vững một số mặt
công tác sau đây:
I. CÔNG TÁC DỰ PHÒNG
Thực chất đây là công tác chuẩn bị. Làm tốt công tác này sẽ trực tiếp góp
phần làm giảm tỷ lệ tử vong, tàn phế cho bộ đội.
1.1. Đối với các nhân viên quân y
Các nhân viên quân y phải được học tập, huấn luyện để có kiến thức toàn
diện về vũ khí hóa học, về những nguyên tắc và biện pháp cụ thể phòng chống
chiến tranh hóa học. phải hiểu rõ tính chất phức tạp của công tác bảo đảm quân
y trong điều kiện chiến tranh, mà địch có thể sử dụng chất độc hóa học.
1.2. Đối với các phân đội quân y
Các phân đội quân y từ tuyến trung đoàn trở lên phải xây dựng phương án
bảo đảm quân y trong tình huống địch sử dụng vũ khí hủy diệt lớn, trong đó có
vũ khí hóa học, phải thực hành diễn tập theo phương án đó một cách linh hoạt
trong điều kiện cụ thể của quân đội ta.
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG
NHIỄM ĐỘC CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
VÀ CÁCH DỰ PHÒNG, CẤP CỨU, ĐIỀU TRỊ (NỘI KHOA DÃ CHIẾN)
203
1.3. Đối với bộ đội
Huấn luyện bộ đội biết tự cấp cứu và cứu chữa lẫn nhau, sử dụng thành
thạo và bảo quản tốt các trang bị phòng hóa các nhân.
1.4. Chuẩn bị thuốc men
1.4.1. Các thuốc tiêu độc. Được chia làm 2 nhóm chính:
- Nhóm kiềm gồm có: Natrihydroxyt (NaOH), dung dịch Amoniac (NH3);
Canxihydroxyt Ca(OH)2; Natribicacbonat NaHCO3; Natricacbonat Na2CO3;
nước xà phòng Dùng để tiêu độc: Photgien; Diphotgien; Lơvizit; chất độc
thần kinh loại G
- Nhóm oxy hóa gồm có:
Canxi Clorua: 4 CaCl (CCl).4 H2O; Canxihypoclorit; Monocloramin
CHSO NaCl, Dicloramin: C6H5SO2Cl2; Canxihypoclorit có 2/3 phân tử kiềm 3
Ca (CCl)2; 2Ca(OH)2; nước oxy già H2O2; dung dịch thuốc tím Được dùng để
tiêu độc Yperit Nitơ, Lơvizit, chất độc thần kinh loại V
Cách sử dụng:
- Tiêu độc ở da: Natricacbonat 6%; Natricacbonat 3%, thuốc tím 2 – 5%,
Monocloramin 2 – 5%; Mỡ Unithiol 30% (chỉ dùng với Lơvizit)
- Tiêu độc ở niêm mạc: Natricacbonat 2%; Cloramin 0,25 – 0,5%; thuốc
tím 1 – 2 %...
- Tiêu độc quân trang: Nước xà phòng 10%; Natricacbonat 12 – 25%;
Natricacbonat 10%; thuốc tím 1%; Amoniac 12 – 25%...
- Tiêu độc dụng cụ y tế: Natrihydroxyt 10%; Canxihydrosulfat
1.4.2. Các thuốc chống độc đặc hiệu: (Antidot)
Là thuốc có tác dụng làm giảm, hoặc hết nhanh các triệu chứng nhiễm
độc. cần chú ý là có nhiều loại chất độc chiến tranh nhưng vẫn không có thuốc
điều trị đặc hiệu.
- Đối với chất độc thần kinh: Atropin, 2PAM.
- Đối với HCN và các hợp chất của nó: Amylnitrit, Natrinitrit,
Xanhmetylen, Natrithiosulfat (Na2S2O3), Glucoza
- Đối với Asen, thủy ngân và hợp chất: BAL, Unithiol.
1.4.3. Các thuốc điều trị triệu chứng:
- Dịch thể để truyền tĩnh mạch: Glucoza 5%, 10%, 30%; Natriclorua 9%,
Natribicacbonat 14%; Ringerlactat; Manitol 10 – 15%; Dextran
- Thuốc trợ tim mạch: Uabain; Spactein; Coramin; long não; Adrenalin;
Noadrenalin; Aramin
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG
NHIỄM ĐỘC CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
VÀ CÁCH DỰ PHÒNG, CẤP CỨU, ĐIỀU TRỊ (NỘI KHOA DÃ CHIẾN)
204
- Thuốc kích thích trung tâm hô hấp: Lobelin; Xytiton; Corazon; Bemegrit;
Cafein và một số thuốc khác để điều trị rối loạn hô hấp; thuốc giãn phế quản
(Amynophilin, Ephedrin); thuốc giảm tiết phế quản (Atropin) oxy.
- Các thuốc lợi tiểu: Lasix, Hypothiazid
- Các thuốc chống co giật, an thần: Sedusen; Amynazin; Gacdenan;
Cloranhydrat
- Các thuốc kháng sinh.
- Các thuốc giảm đau: Mocphin; Promedol; Dolacgan.
- Thuốc hấp thụ: Than hoạt tính.
- Thuốc gây nôn: Apomocphin; bột ypeca
- Thuốc tẩy muối: Magnesium sulfat; Natrisulfat.
- Các thuốc khác: thuốc chống dị ứng (Dimedron, Canxi clorua, Corticoit,
pypolphen); thuốc chống tạo bọt (cồn)
1.4.4. Chuẩn bị trang bị
- Phương tiện phòng hóa cá nhân: Mặt nạ, quần áo phòng hóa, túi phòng độc
cá nhân.
- Phương tiện phát hiện chất độc.
- Cùng với công binh xây dựng phương tiện phòng hóa tập thể.
II. CÔNG TÁC CẤP CỨU ĐIỀU TRỊ
2.1. Những vấn đề chung và điều trị nhiễm độc.
2.1.1. Ngăn chặn sự xâm nhập của chất độc và loại bỏ chúng ra khỏi cơ
thể.
- Khi chất độc chưa xâm nhập vào máu, gồm các biện pháp cụ thể sau:
+ Đeo mặt nạ phòng độc, nếu không có thì dùng phương tiện ứng dụng: khẩu
trang, khặn mặt dấp nước để che mũi, miệng đối với chất độc thể khí, aerosol,
bụi khói. Các biện pháp này được tiến hành nhanh tại nơi bị rải chất độc.
- Mặc quần áo phòng độc và phương tiện thay thế như tấm nilon, vải bạt để
che chắn chất độc thể bột, thể giọt sương, thể hơi khác có thể qua da trực tiếp
(như chất độc thần kinh).
+ Đi ngược chiều gió ra khỏi vùng bị rải chất độc (điều kiện cho phép).
- Chất độc rơi lên da: lập tức dùng bông, giẻ sạch hoặc gạc lau thật gọn từ
ngoài vào trong, sau đó dùng dung dịch tiêu độc (ở túi phòng độc cá nhân) tiêu
độc ngay. Trường hợp không có dung dịch tiêu độc thì dùng nước sạch rửa
nhiều lần, hoặc tắm (nếu có điều kiện).
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG
NHIỄM ĐỘC CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
VÀ CÁCH DỰ PHÒNG, CẤP CỨU, ĐIỀU TRỊ (NỘI KHOA DÃ CHIẾN)
205
Nếu tiêu độc muộn sau 30 phút từ khi chất độc rơi vào sẽ không có kết
quả.
- Chất độc rơi vào mắt, mũi, họng (thể giọt, bột, khí): rửa bằng dung
dịch Natribicacbonat 5% hoặc thuốc tím 0,2% hay Cloramin 25%. Phải rửa
nhanh, kỳ đến sạch, phải xúc kỹ họng, miệng nước muối, nếu không có các dung
dịch trên thì dùng nước sạch thay thế.
Chú ý: tất cả các trang bị, quần áo, vũ khí bị ô nhiễm chất độc hóa học phải
xử lý tiêu độc tốt mới được sử dụng lại.
- Chất độc vào đường tiêu hóa:
+ Gây nôn (tiến hành sớm) như ngoáy họng bằng ngón tay, lông sau khi đã
uống 500 – 1000ml nước hoặc nước muối đặc ấm, có thể tiêm Apomocphin
dưới da để gây nôn.
+ Rửa dạ dày (tốt hơn cả): các dung dịch rửa là nước sạch, Nabica 2%, thuốc
tím 1%, nước muố 9%. Rửa cho đến lúc sạch (trung bình từ 10 – 12 lít).
* Chống chỉ định khi bệnh nhân trụy tim mạch, co giật, phù phổi cấp, hôn mê
mà không đặt được nội khí quản (hoặc không có khả năng này).
+ Cho uống 5 – 7 gam than hoạt tính bằng cách hòa tan trong 150ml nước rồi
đưa vào qua ống rửa dạ dày (sau khi rửa dạ dày xong).
+ Uống thuốc tẩy 30 gam (Magiesulfat hoặc Natrisulfat) cũng bằng cách tán
nhỏ thuốc này rồi hòa tan trong 200 ml nước và đưa vào qua ống rửa dạ dày
trong khi rút bỏ ống.
+ Thụt tháo: có tác dụng tốt.
- Khi chất độc đã vào máu:
+ Đào thải chất độc qua đường thận: truyền dịch thể Glucoza 30%, Manitol
(lợi tiểu, thẩm thấu) Natribicacbonat 14%, các dịch thể khác (bảo đảm số lượng
ít nhất 3000ml/ngày). Kết hợp với thuốc lợi tiểu Lasix, Hypothiazid (theo dõi
lượng nước đào thải). lọc ngoài thận (khi có điều kiện) có chỉ định khi: nhiễm
độc quá nặng mà thận không đủ sức thải trừ.
+ Lọc màng bụng.
+ Thận nhân tạo.
+ Tăng thông khí phổi nếu chất độc đào thải qua đường hô hấp.
+ Thay máu: chỉ định trong một số trường hợp đặc biệt như ngộ độc quá
nặng (cồn Metylic); hoặc các biện pháp khác như lọc màng bụng, thận nhân tạo
không đạt hiệu quả, vì kỹ thuật này cần sử dụng một lượng máu lớn.
2.1.2. Điều trị chống độc đặc hiệu:
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG
NHIỄM ĐỘC CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
VÀ CÁCH DỰ PHÒNG, CẤP CỨU, ĐIỀU TRỊ (NỘI KHOA DÃ CHIẾN)
206
Thuốc điều trị đặc hiệu phải sử dụng đúng chỉ định sau khi đã xác định rõ
loại chất độc. tuy nhiên có thể dùng liều nhỏ để điều trị nhằm mục đích chẩn
đoán.
- Đối với chất độc thần kinh:
+ Atropin: dùng để điều trị cấp cứu theo nguyên tắc: Dùng sớm, liều cao
ngay từ đầu, phải nhanh chóng đạt được liều thấm Atropin và duy trì liều thấm
đó dài hay ngắn tùy theo mức độ nặng hay nhẹ, phối hợp với thuốc hồi phục
men như 2-PAM
+ Các Oxim (2-PAM, TMB-4): phải dùng sớm đủ liều tác dụng phối hợp
với Atropin. Sử dụng muộn sau 20 giờ kể từ khi bị nhiễm độc ít có kết quả, trừ
chất độc qua đường tiêu hóa.
- Đối với chất độc HCN:
+ Thuốc tạo Methemoglobin, Amylnitrit, Natrinitrit, xanh Metylen phải theo
dõi thận trọng, không tạo nên tỷ lệ Methemoglobin trong máu quá cao, vì khi tỷ
lệ này chiếm 40% trong máu sẽ gây tử vong. Riêng xanh metylen dùng liều cao
sẽ gây tan máu.
+ Natrithiosulfat (Na2S2O3): có tác dụng tốt để dung hòa chất độc, dùng kết
hợp với thuốc tạo Methemoglobin sẽ làm tăng hiệu quả chống độc rõ rệt.
+ Đối với Asen, thủy ngân và các hợp chất của chúng dùng: BAL, Unithiol,
sử dụng phải thận trọng. dùng sớm có hiệu quả cao, nhưng gây độc nhiều với
thận, khi dùng phải theo dõi chức năng thận (Albumin, hồng cầu niệu).
Nếu chức năng thận bị rối loạn, liều lượng phải giảm đi ½ hoặc ngừng, sử
dụng từng đợt ngắt quãng.
2.1.3. Điều trị triệu chứng, dự phòng biến chứng.
Trong nhiễm độc chức năng sinh lý của các cơ quan, tổ chức bị rối loạn
nghiêm trọng. Đặc biệt, sự rối loạn của hệ thống tuần hoàn và hô hấp thường là
nguyên nhân chủ yếu gây tử vong. Khắc phục những rối loạn đó là một trong
những biện pháp chính để cứu sống người bệnh. Điều trị triệu chứng thực chất là
phương pháp hồi sức nội khoa tích cực nhằm duy trì hai chức năng sống quan
trọng nhất là hô hấp và tuần hoàn. Các biện pháp phải tích cực, toàn diện.
- Chống suy hô hấp, gồm nhiều biện pháp tổng hợp:
+ Đảm bỏa thông suốt khí đạo: hút đờm, dãi, phải cố định lưỡi khi bệnh nhân
hôn mê sâu, nếu co thắt thanh quản phải đặt nội khí quản hoặc mở khí quản (nếu
cần thiết), khi co thắt phế quản, dùng thuốc giãn phế quản như: Aminophylin,
Atropin hoặc Ephedrin.
Trong trường hợp phù nề thanh quản, khí quản đe dọc làm tắc đường thở:
mở khí quản, tiêm tĩnh mạch Depersolon và Vitamin C liều cao.
+ Sử dụng thuốc kích thích trung tâm hô hấp khi bị ức chế: Lobelin, Xytiton..
sử dụng thuốc này phải thận trọng, vì chính nó có thể gây suy hô hấp nhanh hơn.
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG
NHIỄM ĐỘC CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
VÀ CÁCH DỰ PHÒNG, CẤP CỨU, ĐIỀU TRỊ (NỘI KHOA DÃ CHIẾN)
207
Chống chỉ định trong trường hợp: bệnh nhân ở trạng thái kích thích thần
kinh trung ương, co giật
+ Hô hấp nhân tạo, thở máy: khi bị liệt hô hấp.
+ Thở oxy có tác dụng tốt trong mọi trường hợp nhiễm độc nặng. Thở oxy áp
lực cao khi có điều kiện và trong trường hợp nhiễm độc chất độc gây ngạt,
nhiễm độc CO thở cacbongen (hỗn hợp oxy và CO2) khi giảm CO2 máu.
- Chống trụy tim mạch:
+ Phải bảo đảm tốt lưu lượng tuần hoàn bằng truyền các dịch thể.
+ Thuốc trợ tim: Uabain pha trong dịch truyền nhỏ giọt tĩnh mạch.
+ Khi tụt huyết áp: Dùng Aramin, Noadrenalin (nếu huyết áp trung tâm còn
ổn định), kết hợp với Prednisolon liều cao.
+ Ngừng tim: xoa bóp tim ngoài lồng ngực, tiêm Adenalin tĩnh mạch.
- Giảm độc, chống toan hóa huyết thanh, phù não:
+ Glucoza 5%, 30% dung dịch Nabica 14%, Manitol.
+ Magiesulfat: số lượng, thời gian sử dụng tùy trường hợp cụ thể.
- Chống co giật: ngoài các thuốc điều trị đặc hiệu, khi cần có thể dùng:
Hexenan, Bacbamil, Cloranhydrat (thụt trực tràng).
- Phòng chống nhiễm khuẩn: dùng kháng sinh.
- Khi suy thận cấp: truyền dịch thể kết hợp với lợi tiểu mạnh: Lasix, cần lưu
ý trường hợp này dịch thể truyền vào phải thận trọng, phải tương ứng với lượng
nước đào thải ra.
- Thăng bằng kiềm toan: chủ yếu trong nhiễm độc cấp là chống toan hóa
huyết tương: truyền dung dịch Nabica 14%.
- Cân bằng điện giải: bổ sung Kali, Natri và Clo dưới dạng tiêm truyền tĩnh
mạch. Nếu có điều kiện truyền dung dịch Ringer lactat là tốt nhất.
2.2. Cấp cứu điều trị theo tuyến.
Việc cấp cứu, điều trị những thương binh bị nhiễm độc chất độc hóa học
đòi hỏi phải khẩn trương, thống nhất, liên tục (cả trên đường vận chuyển).
Nhưng phải linh hoạt dựa vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Điều trị theo
tuyến không nhất thiết tuần tự, mà lúc nào có điều kiện, có thể vượt tuyến để
bảo đảm tính nhanh chóng và tranh thủ được khả năng điều trị tối ưu.
Các tuyến quân y phía sau ngoài việc chuẩn bị triển khai đón nhận thương
binh bị nhiễm độc từ tuyến trước chuyển về, cần phải tổ chức những đội cấp cứu
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG
NHIỄM ĐỘC CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
VÀ CÁCH DỰ PHÒNG, CẤP CỨU, ĐIỀU TRỊ (NỘI KHOA DÃ CHIẾN)
208
có trang bị gọn nhẹ, cơ động đến tận ổ nhiễm độc để tiến hành cấp cứu bộ đội,
có như vậy mới góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong.
2.2.1. Cấp cứu đầu tiên và bổ sung cấp cứu:
Bộ đội tự cứu chữa và cứu chữa lẫn nhau là chính, nhưng có sự tham gia
của quân y.
- Phải nhanh chóng ngăn chặn sự xậm nhập tiếp tục của chất độc vào cơ thể,
tìm cách loại bỏ chúng một phần.
+ Sử dụng các phương tiện bảo vệ đường hô hấp, da, niêm mạc.
+ Tiêu độc da, niêm mạc.
+ Đưa thương binh ra khỏi vùng nhiễm độc.
- Sử dụng thuốc chóng độc đặc hiệu (nếu có).
- Hô hấp nhân tạo: nếu liệt hô hấp.
- Chuyển thương binh bị nhiễm độc về tuyến sau
2.2.2. Cấp cứu bước đầu:
- Phân loại thương binh thường được chia thành 3 loại:
+ Loại nhẹ: triệu chứng toàn thân, tại chỗ nhẹ.
+ Loại xử trí không trì hoãn, bao gồm: các thương binh có triệu chứng nhiễm
độc toàn thân nặng, đe dọa tính mạng như suy hô hấp, trụy tim mạch, co giật
+ Loại xử trí có thể trì hoãn.
- Cấp cứu điều trị:
+ Xử lý vệ sinh bổ sung cho tất cả các thương binh nhiễm độc qua trạm (nếu
thấy cần thiết).
+ Tiến hành rửa dạ dày, hoặc gây nôn, nếu chất độc qua đường tiêu hóa.
+ Chống suy hô hấp, trụy tim mạch, co giật bằng các phương tiện có trong
tay.
+ Tiếp tục dùng thuốc đặc hiệu.
+ Tiêm kháng sinh phòng nhiễm khuẩn.
+ Giữ lại những thương binh nhẹ có thể điều trị khỏi trong vòng 5 ngày. Các
thương binh khác chuyển về tuyến sau theo thứ tự ưu tiên.
2.2.3. Cấp cứu cơ bản:
Điều trị tổng hợp: bổ sung thuốc giải độc, trợ tim mạch, trợ hô hấp, chống
co giật, trấn tĩnh tâm thần
* * * * *
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_23_1756.pdf