Tài liệu Dụ ngôn trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
3
DỤ NGÔN TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
The parable in Nguyen Xuan Khanh’s historical novels
TS. Ngô Thanh Hải
Trường THPT Lạng Giang số 2, Lạng Giang, Bắc Giang
Tóm tắt
Trong tiểu thuyết lịch sử, yếu tố lịch sử chỉ là một ký hiệu để mã hóa, tạo sinh ý nghĩa. Việc mã hóa đó
tạo nên những mặt nạ ngôn ngữ đặc trưng, hình thành các loại hình, xu hướng khác nhau. Từ những
phân tích cụ thể về tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, chúng tôi đem đến một góc tiếp cận lý thuyết
khác về thể loại tiểu thuyết lịch sử, đi sâu nghiên cứu mô hình cấu trúc của ký hiệu học, thực hiện một
chiến lược giao tiếp riêng với sự tham gia của các yếu tố: Chủ thể phát ngôn – đối tượng tiếp nhận và
bức tranh thế giới riêng trong một hình thức ngôn ngữ ...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 476 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dụ ngôn trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
3
DỤ NGÔN TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
The parable in Nguyen Xuan Khanh’s historical novels
TS. Ngô Thanh Hải
Trường THPT Lạng Giang số 2, Lạng Giang, Bắc Giang
Tóm tắt
Trong tiểu thuyết lịch sử, yếu tố lịch sử chỉ là một ký hiệu để mã hóa, tạo sinh ý nghĩa. Việc mã hóa đó
tạo nên những mặt nạ ngôn ngữ đặc trưng, hình thành các loại hình, xu hướng khác nhau. Từ những
phân tích cụ thể về tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, chúng tôi đem đến một góc tiếp cận lý thuyết
khác về thể loại tiểu thuyết lịch sử, đi sâu nghiên cứu mô hình cấu trúc của ký hiệu học, thực hiện một
chiến lược giao tiếp riêng với sự tham gia của các yếu tố: Chủ thể phát ngôn – đối tượng tiếp nhận và
bức tranh thế giới riêng trong một hình thức ngôn ngữ đặc thù. Tiếp cận tiểu thuyết lịch sử như vậy sẽ
tránh được những tranh luận không đáng có về vấn đề sự thật và hư cấu. Bởi xét đến cùng, thể loại
chẳng qua là một sự thỏa thuận để thực hiện các quy ước trong chiến lược giao tiếp diễn ngôn giữa chủ
thể và đối tượng tiếp nhận.
Từ khóa: diễn ngôn, dụ ngôn, mô hình cấu trúc, Nguyễn Xuân Khánh, tiểu thuyết lịch sử
Abstract
In historical fiction, the historical element is just a symbol for coding and generating meaning. That
coding creates typical language masks, forming different genres and trends. From the detailed analysis
of Nguyen Xuan Khanh's novels, we provide another perspective on the theory of historical fiction,
undertaking in-depth research on the structure model of semiotics, using a particular communication
strategy with the involvement of those elements: subject, receiver and the private world picture in a
specific language form. Such approach will avoid unreasonable arguments on the truth and fiction. After
all, genre is only a deal to implement conventions in the communication strategy of discourse between
subject and the receiver.
Keywords: discourse, the parable, structure model, Nguyen Xuan Khanh, historical fiction
1. Mở đầu
Theo N.D.Tamarchenko, dụ ngôn
“tiếng Nga: “притча”; tiếng Pháp
“parabole” - ND) là thể tự sự cỡ nhỏ, mang
tính quá độ, chuyển từ folklore qua văn học
viết. Dụ ngôn khác với giai thoại (tiếng
Nga “анекдот”; tiếng Pháp “anecdote”.
- ND), nhưng giống với ngụ ngôn (tiếng
Nga “басня”, tiếng Pháp: “fable”. - ND).
Nó là câu chuyện bóng gió về một trường
hợp không phải là sự hiếu kì, minh chứng
hiển nhiên cho một quy luật phổ quát buộc
người ta phải tuân thủ, chứ không khiến
người ta kinh ngạc. Do đó, dụ ngôn bao giờ
Email: thanhhai.xeko@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (03/2019)
4
cũng nghiêm túc, có tính chất giáo huấn,
khác hẳn giọng bỡn cợt của giai thoại, còn
tính cách và giọng điệu của ngụ ngôn lại có
tính hai mặt (Tarmachenko, 2015).
Từ cơ sở thế giới quan phi truyền
thống này (trên nền văn hóa Kitô giáo thời
trung đại), dần dần hình thành hai nguyên
tắc và hai con đường sử dụng dụ ngôn
trong biến thể mở rộng của nó (nguyên thể
là truyện kể thử thách):
Thứ nhất, nó trở thành mô hình (mẫu
gốc) được dùng, hoặc là để tạo ra các dụ
ngôn mới, dụ ngôn có tác giả, nhất là trong
sáng tác của L. Tolstoi thời kì cuối (ví
như Ba dụ ngôn, Vua Esarhaddon của
Assyria), trong sáng tác của Franz Kafka
(Cây cầu), hoặc là để tăng cường tính chất
dụ ngôn cho các thể loại khác.
Thứ hai, dụ ngôn trở thành một trong
những thể loại lồng ghép hết sức phổ biến
trong truyện vừa (Người con gái viên đại
úy của Pushkin, Cây thập ác và Karma của
L. Tolstoi), trong tiểu thuyết (câu chuyện
về Kif Mokievich và Moki Kifovich
trong Những linh hồn chết của Gogol, về
Cổng Luật trong Vụ án của Kafka), cũng
như trong truyện ngắn (Sinh viên của
Chekhov, Trẻ và Già của Bunhin), trong
kịch (M. Gorki, Bertolt Brecht).
Đôi khi cả hai tuyến nói trên giao
cắt nhau: tác phẩm vừa có bản chất dụ
ngôn, vừa có DỤ NGÔN truyền thống
được lồng vào (Phục sinh của L. Tolstoi)”
(Tarmachenko, 2015).
Hiểu như vậy, dụ ngôn là một mô hình
cấu trúc nền móng, có cội nguồn từ ký ức
thể loại trong nền văn học xa xưa. Và mã
gen của thể loại này vẫn được duy trì, lưu
truyền lại trong quá trình phát triển, đổi
mới văn học. Hạt nhân cấu trúc thể loại vẫn
được giữ lại, thành những mã nghệ thuật,
quy định chiến lược giao tiếp, tạo nên
những đặc trưng riêng của loại hình diễn
ngôn – dụ ngôn. Truyện lịch sử dù là
những biến thể của tử số trong các thể tài
song vẫn mang mẫu số chung của mô hình
cấu trúc thể loại.
Với bộ ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly
(2000), Mẫu Thượng Ngàn (2008) và Đội
gạo lên chùa (2011), nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh thực sự đã tạo ra một hiện
tượng trong đời sống văn học, đặc biệt là
xu hướng khai thác về lịch sử. Tiểu thuyết
của ông đã thu hút được sự quan tâm của
đông đảo công chúng, của giới nghiên cứu,
phê bình văn học. Hàng trăm bài báo, công
trình, luận án, luận văn tiếp cận ba tác
phẩm này ở nhiều góc nhìn, phương pháp,
lý thuyết khác nhau. Ở bài viết này, chúng
tôi đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết của
Nguyễn Xuân Khánh từ lý thuyết diễn
ngôn, ký hiệu học văn hóa, trên một bình
diện nhỏ là tìm hạt nhân cấu trúc thể loại,
phân xuất thành mô hình cấu trúc đặc trưng
– kiểu dụ ngôn về lịch sử. Mô hình cấu trúc
ấy cũng chính là một mô hình ký hiệu học
lịch sử thực hiện một chiến lược giao tiếp
diễn ngôn riêng, thể hiện bản chất thể loại
qua bức tranh thế giới và ngôn ngữ nghệ
thuật đặc thù. Trong mô hình này, lịch sử
là một ký hiệu, một mã để tạo nghĩa, làm
phương tiện thực hiện chiến lược giao tiếp
thể loại/ diễn ngôn có sự thống nhất của ba
yếu tố chủ thể phát ngôn – đối tượng tiếp
nhận – cái được đề cập tới (Chiupa, 2013).
2. Nội dung
2.1. Sự đan cài, chồng xếp các lớp
truyện kể để chuyển tải bài học
Chủ thể trong diễn ngôn tiểu thuyết
lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh luôn luôn
là con người nhiều suy tư, luôn mang
những bài học muốn chia sẻ, truyền đạt lại
NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
5
cho người đọc. Chính vì thế, những tác
phẩm của ông, dù có dung lượng rất lớn,
chi tiết dày đặc thì ta vẫn nhận ra các lớp
bài học, chân lý được kết tụ lại từ những
chỉ dẫn lịch sử, những biến cố và số phận
của con người trong đó. Do đó, ở tiểu
thuyết của ông, chúng tôi nhận thấy chủ thể
đang kể câu chuyện về mình/ câu chuyện
của mình cho người khác nghe. Các tác
phẩm được tổ chức theo nguyên tắc nhiều
lớp, nhiều tầng truyện kể của tiểu thuyết,
còn lịch sử được tiểu thuyết hóa. Lịch sử
không còn là mục đích cuối cùng mà chỉ
được sử dụng như phương tiện, một mã
nghệ thuật chuyển tải bài học/ thông điệp.
Chủ thể của những câu chuyện như đang
đàm tâm, đối thoại, truyền lại những kinh
nghiệm/ bài học của mình cho đối tượng
người nghe về lịch sử, cuộc đời và lẽ xuất
xử của con người. Những bài học ấy có thể
được nêu ra ngay từ đầu, có thể dồn tụ, kết
đọng ở phần kết thúc hoặc ẩn sâu dưới tầng
tầng lớp lớp các câu chuyện được kể trong
tác phẩm. Dù tồn tại dưới dạng thức nào
chăng nữa thì những bài học luôn luôn
mang đến cho người đọc nhiều nhận thức
mới mẻ, như ngộ ra một chân lý, vỡ ra
những sự thực khác, có khi là đối lập với
nhận thức, với những điều đã được biết tới/
đã được mặc định là chân lý hay sự thật
tuyệt đối. Cho nên, mỗi tiểu thuyết của ông
bao chứa, chồng xếp nhiều câu chuyện
khác nhau. Những câu chuyện này khi tồn
tại song song, độc lập thành các tuyến, các
lớp riêng, khi thì hòa vào nhau, cùng
hướng tới bài học chung. Cốt truyện
thường được ông tổ chức theo nguyên tắc
“nhị phân”, tạo ra hai đối cực, hai mạch
truyện kể, hai trường nghĩa khác nhau với
ranh giới rõ rệt.
Khảo sát bộ ba tác phẩm Hồ Quý Ly,
Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa
chúng tôi nhận ra một điều là cả ba tác
phẩm đều có sự đan cài hai tuyến/ lớp
truyện song hành, hoặc tương tác với nhau:
lớp/ tuyến truyện lịch sử gắn với những
xung đột sử thi, vận mệnh dân tộc trong cái
nhìn kiểu tương quan chúng ta - chúng nó
và lớp/ tuyến truyện về số phận cá nhân
của đời tư gắn với những xung đột thế sự
trong những tương quan kiểu bề bậc (trên -
dưới, anh - tôi, quân - thần...), đạo đức, hệ
tư tưởng (thiện - ác, trung - gian, tiến bộ -
bảo thủ...), xã hội - giai cấp (người giữ
ngôi - kẻ tiếm vị, quan - dân, cán bộ - nhân
dân, giàu - nghèo...) v.v... Mỗi câu chuyện
đó đem đến cho người đọc những nhận
thức, suy tư và cảm xúc khác nhau để cùng
hướng tới/ minh họa, làm sáng rõ bài học
chung cục. Những truyện kể về lịch sử, dân
tộc tương tác với những truyện kể về phận
người, những cá nhân, lồng ghép với
những truyện kể về tôn giáo, tâm linh, tư
tưởng hệ, ý thức hệ tạo nên cái nhìn đa
chiều, mang tính lập thể. Từ đó những khả
năng bài học sâu sắc được thể hiện qua
hình tượng ám dụ và cách nói bằng những
ẩn ngữ lịch sử.
Để thực hiện mục đích giao tiếp diễn
ngôn của dụ ngôn lịch sử, Nguyễn Xuân
Khánh đã chọn cách thức tổ chức trần
thuật theo kiểu nhiều bè, nhiều giọng
của tiểu thuyết đa thanh, phức điệu mà
F.Dostoievski đã sáng tạo ra. Lý thuyết tiểu
thuyết này đã được M.Bakhtin chỉ rõ trong
các công trình nghiên cứu của mình. Tuy
nhiên cái đích của Nguyễn Xuân Khánh
không phải tạo ra tính đối thoại giữa các
giọng, hệ tư tưởng, mà lại hướng đến đồng
thanh phát ngôn bài học chung – một kiểu
bắt nhịp đồng ca cho nhiều giọng hay dạng
hát bè đệm cho một giọng chính. Sự đối
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (03/2019)
6
thoại nếu có là đối thoại về quan điểm lịch
sử trong tiểu thuyết với cái nhìn lịch sử cố
hữu trong các diễn ngôn chính sử. Cả ba
cuốn tiểu thuyết của ông đều được trần
thuật theo ngôi thứ ba, bằng một người kể
chuyện giấu mặt. Người kể chuyện đó như
sự hóa thân của chủ thể, mang sẵn bài học,
gửi bài học ấy bằng những câu chuyện khác
sẽ được kể trong tác phẩm. Những câu
chuyện khác đó được kể từ nhiều điểm nhìn
khác nhau của người kể, và của các nhân
vật – các nhân vật tự kể về mình và kể về
người khác. Điểm nhìn trần thuật được di
chuyển linh hoạt, được đặt ở những vị thế,
quan điểm rất khác nhau vừa song hành,
vừa tương tác đối thoại, để làm tường minh,
để chuyển tải bài học.
2.2. Nhân vật trung tâm - những chủ
thể lựa chọn
Đặc trưng quan trọng của mô hình cấu
trúc dụ ngôn là mỗi nhân vật được xây
dựng như một chủ thể lựa chọn trong bức
tranh thế giới mà nhà văn tạo nên. Việc
nhân vật ở nguyên tại một vị trí hay vượt
qua ranh giới của các không gian điểm, các
trường nghĩa biểu hiện những sự lựa chọn
khác nhau, tạo nên cấu trúc truyện kể đặc
thù trong vùng chức năng của các không
gian. Mỗi sự lựa chọn gắn với một không
gian nào đó đều tự mang trong nó một
thông điệp, chiêm nghiệm hay bài học.
Trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân
Khánh, chúng tôi nhận thấy ông chia thành
các không gian điểm và đặt nhân vật của
mình trong mối quan hệ mật thiết với các
không gian đó. Qua ba tác phẩm Hồ Quý
Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên
chùa, chúng tôi nhận thấy có ba nhóm chủ
thể lựa chọn gắn với những luận đề tư
tưởng, những bài học lịch sử, mà thực chất
đó là việc lựa chọn cách hành xử trước lịch
sử và biến cố thời đại: 1/ Những chủ thể
lựa chọn lối sống nhập thế; 2/ Những chủ
thể lựa chọn lối sống tùy duyên; 3/ Những
chủ thể lựa chọn hoặc buộc phải chọn lối
sống trung dung, chọn vị trí trung lập giữa
hai lối sống trên. Sự phân chia này mang
tính chất tương đối bởi một số chủ thể có
nhiều sự lựa chọn hoặc sự chuyển đổi lựa
chọn qua không gian và thời gian khá phức
tạp. Vậy, đây chỉ là một cách chia xuất
phát từ góc nhìn của chúng tôi về bức tranh
thế giới trong diễn ngôn.
2.1.1. Kiểu nhân vật/ chủ thể của lối
sống nhập thế
Con người nhập thế còn là con người
của khát vọng/ tham vọng, hoài bão, sẵn
sàng vượt qua tất cả để đến cái đích cuối
cùng là lập thân thì phải lập công, lập danh,
lập ngôn. Tác giả mượn lời của nhân vật
Đức trong Đội gạo lên chùa gọi đây là lối
sống “dương tính”. Lựa chọn lối hành xử
nhập thế - lối sống dương tính là những chủ
thể hành động, thường có cái nhìn cực
đoan, theo đuổi đến cùng mục đích của
mình. Họ chủ động hành động để hiện thực
hóa tất cả những hoài bão, tráng chí, lý
tưởng. Chúng ta có thể thấy điều đó rất rõ
trong Hồ Quý Ly qua những con người lựa
chọn thực hiện lý tưởng của Nho gia, muốn
làm những việc kinh bang tế thế, thực hiện
tráng chí, hoặc giữ trọn đạo của người quân
tử. Họ ứng xử dựa trên nền tảng những tín
điều bất di bất dịch ấy nên khó chấp nhận
lựa chọn, lý lẽ, tư tưởng của phe đối lập/
đối nghịch. Do vậy, họ sẽ không có bất cứ
đối thoại, thỏa hiệp nào. Đó là lựa chọn của
các nhân vật Trần Nghệ Tông, Duệ Tông,
Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Trần Khát
Chân, Trần Nguyên Hàng, Nguyễn Cẩn.
Nhưng chính từ trong nhóm nhân vật lựa
chọn lối sống nhập thế này lại phân hóa
NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
7
thành hai phe đối lập, xung đột gay gắt với
nhau trên quan điểm chính trị, tham vọng
quyền lực và lý tưởng đạo đức riêng. Bởi
hệ tư tưởng nền tảng chi phối lối sống, cách
hành xử của họ không phải là hướng nội mà
là hướng ngoại, đưa họ đến những hành
động quyết liệt và kết cục là sự tranh giành,
tước đoạt, chiến tranh đẫm máu.
Cho nên, các không gian kinh thành
Thăng Long hay Tây Đô, những cung vua
phủ chúa gắn liền với cuộc xung đột, tranh
đoạt này, trở thành bãi chiến trường. Cái
đẹp của lầu son gác tía, của cảnh sắc nguy
nga tự chứa trong nó bao cơ mưu, tội ác.
Những sự hủy hoại và xây dựng cứ nối
tiếp, đan xen tạo nên một bức tranh liên tục
trong loạn ly, biến động, chết chóc. Tất cả
các không gian dù rộng hay hẹp đều trở
thành những đấu trường để người ta đấu
trí, thử lòng, chinh chiến, giành giật bằng
sức mạnh, bằng bản năng ác của mình. Vì
vậy, sự lựa chọn của các chủ thể gắn với
không gian đặc thù ở đây đã cấu thành một
lớp truyện đặc thù, trong tổng thể cấu trúc
truyện kể Hồ Quý Ly nói riêng và các tiểu
thuyết của Nguyễn Xuân Khánh nói chung.
Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa
cũng có những chủ thể lựa chọn tương tự,
lựa chọn sống nhập thế, hành động đấu
tranh quyết liệt. Tuy nhiên, sự giành giật và
những mâu thuẫn ở đây không phải là
trong nội bộ của thế lực tiếm quyền và giữ
quyền, mà là xung đột của dân tộc, văn
hóa, ý thức hệ. Tất cả vẫn dẫn đến những
loạn ly, mạt vận và hủy diệt.
Như vậy, sự lựa chọn lối sống nhập thế
của các chủ thể hành động gắn với một
trường nghĩa, tạo nên một lớp truyện kể
đặc trưng trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân
Khánh. Nó khiến người ta thấm thía một
điều: lịch sử thấm đẫu máu và nước mắt
của chúng sinh, không chỉ là máu để lập
công mà còn là máu, nước mắt của những
sự trả giá, của những sự tiêu hủy từ lòng
tham và sự thù hận. Sự lựa chọn của những
cá nhân nhập thế, dù trực tiếp hay gián tiếp
sẽ thành một động lực tạo nên sự xoay
chuyển của xã hội và thời thế. Và để dựng
xây một cái mới, cái khác thì trước đó luôn
luôn diễn ra quá trình phá hoại, hủy diệt,
thậm chí là tận diệt kiệt cùng cái cũ. Cho
nên, chữ “biến” và “dịch” không phải của
riêng một thời kỳ nào, của một quốc gia
nào mà nó là quy luật chung của lịch sử
nhân loại.
2.2.2. Kiểu nhân vật/ chủ thể của lối
sống tùy duyên
Một đối cực khác của chủ thể nhập
thế, để cân bằng lại, làm hài hòa âm –
dương cho mạch truyện kể trong tiểu
thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, là sự lựa
chọn của những chủ thể với lối sống an
nhàn, tự tại – cách ứng xử “tùy duyên”. Họ
không hẳn quay lưng với cuộc đời, không
phải tất cả đều ẩn dật nhưng họ không
tham gia vào những mưu đồ chính trị,
những tranh chấp, không có những hành
động gây hấn, hoặc là tránh tất cả các cuộc
chiến ấy. Họ sống an nhiên và chấp nhận
nhiều điều, kể cả thiệt thòi về bản thân để
được làm điều mình mong muốn, được
sống hòa hợp, sống đúng là mình. Rất
nhiều chủ thể này đã tìm về với Phật, chọn
không gian của nhà Phật làm điểm tựa để
nuôi dưỡng Phật tính, nuôi dưỡng cho
mình lòng từ, bi, hỉ, xả.
Trong hai tác phẩm Hồ Quý Ly và Đội
gạo lên chùa, ta thấy nhà văn dành một sự
quan tâm đặc biệt cho Phật giáo, cho các
nhân vật sống theo nguyên tắc và tư tưởng
của nhà Phật mà điều cơ bản nhất ấy chính
là “Tùy duyên lạc đạo”. Đó là các nhân vật
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (03/2019)
8
như nhà sư Vô Trụ, Sử Văn Hoa trong Hồ
Quý Ly, sư Vô Úy, Khoan Độ, cậu An
trong Đội gạo lên chùa. Quan niệm “Tùy
duyên” đã đưa đến một quan niệm sống
khác, tích cực và nhân ái, quan niệm về
khổ và nghiệp. Người ta sinh ra trên đời đã
khổ (Đời là bể khổ), sinh ra để tạo nghiệp
và chịu nghiệp (có khi nghiệp từ kiếp trước
của mình). Sống tùy duyên, sống tìm về
với Phật tính tức là sống với phần căn tính
thiện của mình, vượt lên trên tất cả những
“tham”, “sân”, “si”, để lòng mình thanh
tịnh, trong sạch, bằng an. Cõi lòng ấy như
mặt nước phẳng lặng, không chút gợn sóng
trước mọi biến động của cuộc đời, xã hội.
Những con người này theo đến cùng việc
thực hiện lý tưởng sống từ bi, bác ái, sống
vì cái tốt, tình thương, tránh xa cái ác, cái
xấu và hành động gây đau thương. Đó là
những tâm hồn lớn lao, cao cả, luôn giang
rộng cánh tay mình để cứu nhân độ thế, để
làm việc nhân đức. Dường như cả cuộc đời
của họ dành để cứu khổ cứu nạn cho nhân
gian, để tìm ra hướng giải thoát cho con
người hết khổ, và bản thân họ có thể chấp
nhận hứng chịu nhiều tai ách.
Cho nên, không gian của những ngôi
chùa, nơi thanh tĩnh, tâm linh không cao xa
vời vợi, không vắng vẻ lánh đời mà lại ở
giữa nhân gian, ở trong cuộc đời. Không
gian ấy không chỉ gắn với những chủ thể
lựa chọn lối sống Phật tính, tùy duyên lạc
đạo, mà nó còn là nơi che chở, cứu rỗi tâm
hồn mỗi con người. Đó là nơi bình yên để
người ta nương náu, để con người bình
tâm, giải thoát khỏi bể khổ trần ai. Dường
như không gian chùa làng là nơi bất khả
xâm phạm, khiến cho bất cứ ai, bất cứ kẻ
thù nào trước khi tấn công cũng phải đắn
đo, suy nghĩ, hay kiêng dè. Ngôi chùa, từ
trong ý nghĩa của sự sống, như một đối cực
để cân bằng, kìm hãm dương khí ngùn ngụt
của thời đại, những chém giết, biến loạn
trên khắp các không gian ngoài kia. Nó níu
giữ con người lại, để mỗi người biết sống
bằng lòng nhân, tính nhân, bằng tính thiện
của mình. Và như thế, không gian của Phật
với lối sống Phật tính giống như một sự
hóa giải, tạo nên sự thăng bằng, ổn định lâu
dài cho đất nước, thế cục. Do vậy chùa
làng, lối sống chay tịnh, sống hướng về Phật
còn là một trong những cội nguồn, nhân tố
căn cốt nhất tạo nên tinh thần dân tộc, hồn
nước, cũng là cội nguồn.
Bên cạnh những chủ thể lựa chọn
đường về với Phật, chúng ta nhận thấy còn
những sự lựa chọn khác, hướng đến cuộc
sống an nhiên, tránh xa tục lụy, giành giật,
tranh đoạt – lối sống nhàn dật. Họ tìm cho
mình một không gian yên tĩnh tu tâm
dưỡng tính, tránh phải làm điều tàn nhẫn,
độc ác, để tâm hồn thanh thản. Mục đích
cuối cùng của các nhân vật này vẫn là
hướng thiện, giúp đời, cứu người. Họ cũng
đi tìm một không gian sống thoáng khí,
trong lành, tìm một điểm tựa tinh thần cho
bản thân được sống trong bình yên, sống
thật với chính mình. Đây là lối sống
“Nhàn” của các bậc trí thức bất gặp thời.
Đó là cụ lang Phạm – cha vợ Hồ Quý Ly –
suốt đời tránh xa lầu son gác tía, cung điện
nguy nga, sống với vườn thuốc, với niềm
say mê y thuật của mình; là quan tư đồ
Trần Nguyên Đán, tránh xa mọi thị phi,
tranh chấp, ẩn mình chốn Thanh Hư Động
trên núi Côn Sơn, nuôi dưỡng, dạy dỗ
người cháu mà sau này thành người anh
hùng lỗi lạc – Nguyễn Trãi. Sư Tề bỏ kinh
thành, bỏ nghề cung kiếm, bỏ lại tất cả, lên
núi làm ông già tiều phu cũng là một sự lựa
chọn như thế.
Một kiểu chủ thể tùy duyên khác là
NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
9
những con người tìm về với đạo Mẫu trong
Mẫu Thượng Ngàn. Tinh thần của Mẫu,
tấm lòng của Mẫu, không gian Mẫu luôn
tạo ra cho con người cảm giác an toàn, một
niềm tin, sức mạnh tinh thần để vượt qua
tất cả tai ách, hiểm họa. Nhìn từ một góc
độ nào đó, đây chính là cuốn tiểu thuyết
tập trung thể hiện, ngợi ca Mẫu tính trong
văn hóa, trong tâm hồn của con người Việt
Nam. Toàn bộ cuốn tiểu thuyết với nhiều
câu chuyện đan cài, cùng những biến cố,
biết bao số phận, để cuối cùng nhà văn rút
ra một tâm niệm (qua lời nhân vật Nhụ):
“Đã là người ta, con ơi, ai chẳng là con của
Mẫu” (Nguyễn Xuân Khánh, 2012, tr.807).
Cho nên, ai đi xa đâu, lưu lạc bao lâu rồi
cũng sẽ trở về, trở về làng Cổ Đình thân
thuộc, về với Mẫu, với những gì gắn bó,
yêu thương. Không phải ngẫu nhiên, tác
phẩm được bắt đầu bằng chương “Người
trở về” nói về cuộc hồi hương của Trịnh
Huyền và Nhụ. Họ trở về và lòng luôn
hướng về Mẫu, về một chốn bình yên cho
những khởi đầu mới. Trong tác phẩm này,
đền Mẫu bên sông có ý nghĩa tinh thần lớn
lao với người dân Cổ Đình và những cuộc
hầu đồng ở đền Mẫu luôn luôn được chờ
đợi trong niềm thành kính tuyệt đối.
Sự lựa chọn của những chủ thể hướng
về lối sống tĩnh tại, niềm tin tôn giáo của
Phật, đạo Mẫu tạo ra một tuyến truyện kể
thứ hai, lồng trong tuyến truyện của những
tao loạn, chiến tranh, giành đoạt. Chính
những con người âm thầm, lặng lẽ sống
“tùy duyên” này thể hiện cái nhìn sáng
suốt, trí tuệ, bản lĩnh và khí phách hơn
người. Họ kiến tạo, gìn giữ những khoảng
không bình yên, đem đến niềm tin, tinh
thần lạc quan sống cho con người trong
thời loạn, trong bão táp lịch sử. Sự lựa
chọn của họ hóa giải những lửa tang tóc và
thù hằn, hướng đến một sự cân bằng, duy
trì xã hội, đất nước phát triển, nhất là thiện
lương và cái tâm lành vững cho con người.
Qua đó, người đọc càng thấm thía được vẻ
đẹp văn hóa truyền thống, những giá trị
văn hiến đích thực của dân tộc, của đất
nước trải qua bao cuộc binh đao, chiến lửa.
2.2.3. Kiểu nhân vật/ chủ thể của lối
sống trung dung
Trong các tiểu thuyết của Nguyễn
Xuân Khánh, bức tranh thế giới được dựng
lên với hai nhóm chủ thể lựa chọn đối lập:
một bên là lối sống hành động, nhập thế
theo lý tưởng Nho gia, theo lý tưởng đấu
tranh và một bên là lối sống tự tại, an nhiên
theo tư tưởng “tùy duyên lạc đạo” của Phật
giáo, tìm về Mẫu tính, đã hình thành cấu
trúc truyện kể độc đáo, tạo ra những mã
nghĩa, trường nghĩa mới. Song, ở giữa hai
đối cực nêu trên, ta nhận thấy còn có một
sự lựa chọn nữa (cũng có những trường
hợp là buộc phải lựa chọn): con đường ở
giữa, lối sống trung dung, tư tưởng trung
lập. Số lượng nhân vật lựa chọn/ phải lựa
chọn chỗ đứng và lối sống này không
nhiều nhưng tự họ tách ra thành một lực
lượng, với hệ tư tưởng, những triết lý
riêng, để lại cho người đọc những thức
nhận khác về lịch sử, về thời đại, về những
gì đã được phân định mặc nhiên theo kiểu
tư duy nhị nguyên đúng/ sai; xấu/ tốt; tích
cực/ tiêu cực.v.v. Ở mỗi sự lựa chọn ấy, ta
thấy rõ hơn bi kịch lịch sử của những con
người bị mắc kẹt giữa những lằn đạn trong
cuộc chiến quyền lực, cuộc chiến trong tư
tưởng hệ và trong lẽ sống. Đại diện tiêu
biểu nhất cho sự lựa chọn này và cho bi
kịch này là nhân vật Hồ Nguyên Trừng
trong Hồ Quý Ly. Con người của Nguyên
Trừng giống như một sự hội tụ của nhiều
đối cực trong tư tưởng, trong lối sống và
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (03/2019)
10
cách hành xử, trong trạng thái hòa giải/
mâu thuẫn không thể hóa giải. Lối sống
của Pierre Messmer trong Mẫu Thượng
Ngàn, nếu nhìn từ góc độ của sự lựa chọn
thì ta cũng có thể xếp vào sự lựa chọn của
lối sống trung tính. Pierre là người ngoại
quốc nên không hiểu và chịu ảnh hưởng
của tư tưởng Nho hay Phật, nên lối sống
anh ta chọn đơn giản là sự lựa chọn một
cuộc sống theo ý thích của mình, khao khát
tìm kiếm những điều đẹp đẽ, mới lạ ở
mảnh đất và con người Bắc Kỳ.
Chủ thể trung dung luôn là những
người tỉnh táo, sáng suốt, nhận rõ thời
cuộc. Họ có cái nhìn, cách hành xử văn
hóa, theo quan niệm tôn trọng sự khác
biệt, sự lựa chọn của kẻ khác. Đó là căn
cốt của tư duy đa nguyên trong nhân cách
văn hóa. Nhưng cũng chính vì lẽ đó họ
sống giữa những ranh giới mong manh của
thiện - ác, của những lựa chọn khó khăn và
khốc liệt. Bản thân những chủ thể này, với
lựa chọn của mình, luôn sống trong dằn
vặt, bi kịch và đau thương. Họ di chuyển
qua các không gian, thời gian với biến
thiên, thăng trầm của lịch sử. Kết cục bi
đát từ trong tâm thức của họ nhói lên một
tuyến truyện khác trong tiểu thuyết lịch sử
của Nguyễn Xuân Khánh – tuyến về thân
phận con người.
Ba chủ thể lựa chọn trong bức tranh thế
giới mà Nguyễn Xuân Khánh tạo nên trong
tác phẩm của mình đã tạo nên ba tuyến
truyện kể đan lồng vào nhau. Các chủ thể
này vừa mang tính tương đối độc lập, vừa
tương tác qua lại, xung đột với nhau tạo nên
một bức tranh thế giới gồm nhiều mảng,
nhiều bè đan xen, chồng xếp. Do đó, bức
tranh thế giới mà Nguyễn Xuân Khánh tạo
dựng là mô hình tam vị nhất thể. Ba cụm
chủ thể lựa chọn tạo nên bộ xương vững
chắc như ba đỉnh của thế chân vạc trong
cấu trúc truyện kể lịch sử. Cái bài học sâu
sắc về sự hài hòa của âm – dương, của tiếp
nhận – bảo tồn, của cá nhân – cộng đồng,
biến động – tĩnh tại... đã được ông đúc rút
từ bao vật đổi sao dời, bao phen đất nước
nghiêng ngả, bao lẽ hưng phế.
2.3. Kết cấu – hình thức ngôn ngữ
độc đáo thể hiện bài học
Nếu chỉ nhìn bề mặt và về tổng thể thì
cả ba tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh
đều sử dụng lối viết truyền thống theo kết
cấu của tiểu thuyết cổ điển. Nó vẫn là
những đại tự sự với việc phân chia thành
các phần lớn, nhỏ, các chương, mục với
những tên gọi cụ thể. Chúng ta có thể dễ
dàng nhận ra điều đó khi đọc tác phẩm: Hồ
Quý Ly chia thành 13 phần và mỗi phần
này lại chia thành các mục đánh dấu bằng
các số theo thứ tự từ nhỏ đến lớn; Mẫu
Thượng Ngàn chia thành 15 chương và
được đặt tên gọi tương tự; Đội gạo lên
chùa chia thành 3 phần lớn: “Trôi sông”,
“Bão nổi can qua” và “Về cõi nhân gian”.
Mỗi phần lớn lại chia thành các mục, với
số lượng nhiều ít không đều nhau, nhưng
tất cả đều được đặt tiêu đề cụ thể. Việc bố
trí các phần, các mục như trên ở trong cả ba
cuốn tiểu thuyết đã tạo nên một đường viền,
một khung khổ bao chứa các sự kiện, biến
cố, các tình tiết của các câu chuyện được kể.
Các thành tố cấu tạo nên bộ khung đó liên
kết chặt chẽ hay lỏng lẻo là do sự lựa chọn
của tác giả, chuyển tải những thông điệp
nghệ thuật và bài học của mình.
Với Nguyễn Xuân Khánh, khung ông
tạo dựng cho kết cấu tác phẩm là cái khung
lớn, còn kết cấu chi tiết bên trong tương
đối linh hoạt, cơ động, hay nói theo cách
khác ông chỉ định dạng chứ không định
lượng cho tác phẩm của mình theo kết cấu
NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
11
truyền thống. Ta dễ nhận ra ông chọn bối
cảnh của một triều đại, một giai đoạn lịch
sử, với những điểm nút diễn biến chính
theo đúng sự thật trong diễn ngôn lịch sử
giống như những cái cột, cái kèo, tạo ra
những điểm tựa cho khung kết cấu. Kết cấu
tác phẩm của ông không có một truyện kể
trung tâm, hành động chính yếu, xuyên
suốt, chi phối các hành động, truyện kể
khác. Mỗi phần, mỗi mục trong tác phẩm
của ông kể một chuyện, dựng một chân
dung, miêu tả một khung cảnh tạo nên cấu
trúc nhiều bè, nhiều mảng, cấu trúc của
những mảnh ghép kiến tạo bức tranh
chung. Các tuyến/ lớp truyện kể, các phối
cảnh trong tác phẩm của ông thường soi
chiếu, tương tác trong thế đối thoại làm nới
rộng khung, theo kiểu kiến trúc nhiều tầng
bậc, chuyển tải những bài học đằng sau nó.
Như thế, những lớp phần của những truyện
kể sẽ tương ứng với các lớp, phần của
những bài học, những triết lý tương tự như
trong dụ ngôn và ngụ ngôn truyền thống.
Sáng tạo độc đáo của Nguyễn Xuân
Khánh khi viết tiểu thuyết lịch sử là việc
tạo ra “kết cấu thời gian lỏng”. Ông phá vỡ
trật tự thời gian biên niên, không đặt những
mốc thời gian, những sự kiện lịch sử cố
định trong mỗi tác phẩm. Ý niệm về lịch sử
trong những tác phẩm này chỉ là sự chuyển
giao: chuyển giao triều đại Trần sang Hồ
(Hồ Quý Ly); chuyển giao chế độ, văn hóa,
tư tưởng và hành động (Mẫu Thượng
Ngàn); chuyển giao thời đại, giai đoạn lịch
sử (Đội gạo lên chùa). Đặc biệt, cả ba tác
phẩm đều được kể theo một quy trình đảo
lộn trật tự thời gian tuyến tính, khởi đầu
bằng một sự kiện ở hiện tại, rồi ngược về
quá khứ, sau đến các sự kiện, tình tiết của
hiện tại nối tiếp đến một kết thúc. Quá khứ
và hiện tại tiếp diễn cứ lần lượt được tái
hiện qua lời của người kể chuyện, nhất là
qua lời của bản thân các nhân vật tự thuật.
Cho đến lúc kết thúc tác phẩm, những câu
chuyện đó vẫn không hết, không dừng mà
còn tiếp diễn. Chính điều đó khiến nhà văn
viết về lịch sử, về cái đã qua nhưng thực ra
là nói về hiện thực đang diễn ra, chưa hoàn
kết, thể hiện được những vấn đề của ngày
hôm nay, cả những vấn đề thời sự. Những
chuyện như cải cách, đổi mới đất nước,
tiếp thu và bảo tồn văn hóa truyền thống,
chuyện của cái thiện và ác... đâu chỉ là
chuyện của một thời, mà là chuyện của mọi
thời, mọi dân tộc trong tiến trình lịch sử
phát triển, tồn vong.
Liên quan mật thiết đến trình tự thời
gian truyện kể là cách thức mở đầu và kết
thúc mà tác giả lựa chọn cho tác phẩm. Các
chi tiết mở đầu và kết thúc tác phẩm được
Nguyễn Xuân Khánh gia công lựa chọn, xử
lý tinh tế. Chúng lặp lại nhưng không hoàn
toàn giống, trùng khít với nhau. Nhìn bề
ngoài, ta dễ lầm tưởng Nguyễn Xuân
Khánh kết cấu tác phẩm của mình theo
nguyên tắc hồi hoàn, đầu cuối tương ứng.
Song khi đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của các
mô hình mở đầu và kết thúc này trong cấu
trúc truyện kể, ta sẽ thấy chúng tương ứng
với một lớp truyện được đan cài, lồng xếp
vào tác phẩm. Về thực chất, theo chúng tôi
thì đây là “kiểu kết cấu đầu cuối song trùng
mà đối lập”. Song trùng vì cả hai giống
nhau ở cái hình thức bên ngoài – cùng một
típ truyện, còn đối lập là ở ý nghĩa thực của
chúng trong cấu trúc tác phẩm. Quan sát kỹ
chúng ta sẽ thấy, tất cả các mô hình mở
đầu đều mang ý nghĩa một cái kết cục đã
rồi, một kết quả đã hoàn thành và không
thể khác. Còn các mô hình kết thúc lại tạo
ra những sự bắt đầu, làm nảy sinh, tạo tác
một cái mới. Theo nhà nghiên cứu Lã
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (03/2019)
12
Nguyên thì đó là hai lớp truyện: lớp
“chung cục” ở trên cùng, tương ứng với
phần mở đầu và tiếp theo đó là lớp “khởi
nguyên” ứng với phần kết thúc (Lã
Nguyên, 2018, tr.268 - 269). Như thế mở
đầu tự nó mang trong mình một sự kết
thúc, một sự phá vỡ, hủy diệt, còn kết thúc
lại tạo ra những bắt đầu, những khởi
nguyên mới của sự vật.
Như vậy, Nguyễn Xuân Khánh đã lựa
chọn được một ngôn ngữ hữu dụng để
chuyển tải – ngôn ngữ kết cấu. Mỗi tác
phẩm của ông là sự đan xen, hòa quyện
nhiều lớp truyện, nhiều tuyến truyện, tạo ra
những mô hình kết cấu riêng có thể khái
quát như sau: Chủ thể (nhân vật) – Không
gian – sự kiện (biến cố truyện kể) gắn với
các lớp nghĩa của: Cái chung cục (hoàn
tất) – cái diễn tiến của sự kiện – cái khởi
đầu của những câu chuyện mới. Tất cả
được thể hiện bằng những mã truyện kể,
mã nghệ thuật riêng, mà nổi bật là mã lịch
sử - văn hóa, là những câu chuyện đời
những câu chuyện thế sự chen vào chuyện
của lịch sử, chính biến.
3. Kết luận
Với tư duy nghệ thuật, cách nhìn, xử
lý chất liệu lịch sử riêng, Nguyễn Xuân
Khánh đã tạo nên một mô hình cấu trúc
truyện lịch sử đặc thù – mô hình dụ ngôn
lịch sử. Trong mô hình đó, ta thấy một
chiến lược giao tiếp diễn ngôn được thực
hiện với những đặc điểm đặc trưng của
chủ thể sở đắc chân lý, mang sẵn những
bài học để chuyển tải, chia sẻ; bức tranh
thế giới được tạo nên bởi những chủ thể
lựa chọn; ngôn ngữ mang tính ám dụ, tạo
ra ẩn ngữ bằng các biểu tượng và kết cấu
đan xen nhiều lớp, nhiều tầng. Mô hình
cấu trúc này có cội nguồn sâu xa từ trong
kho tàng ký ức thể loại của văn học dân
gian, cũng là một loại hình diễn ngôn độc
đáo về lịch sử.
Cấu trúc dụ ngôn giúp nhà văn dung
hòa được nhiều yếu tố như lịch sử, văn
hóa, tôn giáo, tâm linh trong tác phẩm, đặt
ra những vấn đề thời sự và thời đại. Mục
đích cuối cùng của những dụ ngôn lịch sử
không phải là sử mà là các thông điệp, bài
học về lẽ sống, đạo lý, tư tưởng, ý thức hệ,
quy luật vận động của thời thế, xã hội. Do
đó, đằng sau bề mặt cấu trúc truyện kể
truyền thống là những vỉa tầng truyện kể
khác, nhiều khi mới mẻ, khác lạ về các
nhân vật, sự kiện lịch sử đã đóng khung,
thành chuẩn mực. Cho nên, các tiểu thuyết
của ông có ý nghĩa quan trọng trong việc
nhận thức về lịch sử và thực tại, hình thành
nhãn quan, tư tưởng riêng về các vấn đề
của thời đại, xã hội và con người.
Góc nhìn của ký hiệu học văn hóa và
lý thuyết diễn ngôn trên cơ sở đi tìm hạt
nhân cấu trúc thể loại, đưa ra những mô
hình ký hiệu học lịch sử sẽ tìm ra các mã,
các gen thể loại. Phương pháp này sẽ giúp
ta lý giải được những hiện tượng văn học
phức tạp, đưa ra góc nhìn mới về đặc trưng
các thể loại, chia ra từng xu hướng, phong
cách thể loại. Khi ấy, thể loại được quan
niệm như một sự thỏa thuận giữa chủ thể
và đối tượng tiếp nhận để thực hiện một
chiến lược giao tiếp diễn ngôn. Do đó, bình
diện lịch sử văn học cũng sẽ được tổng kết,
nhìn nhận lại từ quá trình vận động, tiếp
biến, làm mới những mô hình cấu trúc nền
móng cổ xưa.
NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chiupa, V.I. (2013). Diễn ngôn như là một phạm trù của tu từ học và thi pháp học hiện
đại. Phê bình văn học phiên bản điện tử đăng ngày 08/4/2013. Lã Nguyên dịch. Truy
xuất từ: http: //phebinhvanhoc.com.vn/
Nguyễn Xuân Khánh (2012). Mẫu Thượng Ngàn (In lần thứ 6). Hà Nội. NXB Phụ nữ.
Lã Nguyên (2018). Phê bình ký hiệu học: Đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn từ. Hà
Nội. NXB Phụ nữ.
Tamarchenko, N.D. (2015). Dụ ngôn. Phê bình văn học phiên bản điện tử đăng ngày
04/02/2015. Lã Nguyên dịch từ bản tiếng Nga Поэтика//Словарь актуальных
терминов и понятий.- Изд. Кулагиной, Intrada.- 2008. Cтр. 187-188. Truy xuất
từ: http: //phebinhvanhoc.com.vn/
TÀI LIỆU CÓ LIÊN QUAN
Bakhtin, M. (2003). Lý luận và thi pháp tiểu thuyết. Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn và dịch.
Hà Nội: NXB Hội Nhà văn.
Nguyễn Xuân Khánh. (2012). Hồ Quý Ly (In lần thứ 10). Hà Nội: NXB Phụ nữ.
Nguyễn Xuân Khánh. (2012). Đội gạo lên chùa (In lần thứ 3). Hà Nội: NXB Phụ nữ.
Lotman, Iu.M. (2016). Ký hiệu học văn hóa. Lã Nguyên – Đỗ Hải Phong – Trần Đình Sử
dịch. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Lã Nguyên. (2012). Lý luận văn học: Những vấn đề hiện đại. Hà Nội: NXB Đại học Sư
phạm Hà Nội.
Trần Đình Sử. (2005). Dẫn luận thi pháp học. Hà Nội: NXB Giáo dục.
Ngày nhận bài: 01/9/2017 Biên tập xong: 15/3/2019 Duyệt đăng: 20/3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 52_7524_2214957.pdf