Tài liệu Đối thoại trong truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai đoạn sau 1977 - Hà Thị Hải: 11
TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 5 (6/2016), tr 10 - 20
ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN SAU 1977
Hà Thị Hải
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Từ khi Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách, mở cửa, đối thoại trong truyện ngắn hiện đại
Trung Quốc có sự đổi mới, ngày càng trở thành trụ cột của truyện ngắn và gần gũi đối thoại trong kịch. Trong khi
mở rộng tầm bao quát các vấn đề của cuộc sống, đối thoại trong truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai đoạn sau
1977 ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thể nội dung tư tưởng của tác phẩm, mang dáng dấp của đối thoại
ngoài đời nên có được tính chất tự nhiên, tươi tắn, góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Từ khóa: đối thoại, đối thoại trong truyện ngắn, truyện ngắn hiện đại Trung Quốc
1. Đặt vấn đề
Kể từ khi Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách, mở cửa vào năm 1977, nền văn học
nghệ thuật của nước này có nhiều biến chuyển, cùng với tiểu thuyết và truyện vừa...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 402 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đối thoại trong truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai đoạn sau 1977 - Hà Thị Hải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11
TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 5 (6/2016), tr 10 - 20
ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN SAU 1977
Hà Thị Hải
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Từ khi Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách, mở cửa, đối thoại trong truyện ngắn hiện đại
Trung Quốc có sự đổi mới, ngày càng trở thành trụ cột của truyện ngắn và gần gũi đối thoại trong kịch. Trong khi
mở rộng tầm bao quát các vấn đề của cuộc sống, đối thoại trong truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai đoạn sau
1977 ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thể nội dung tư tưởng của tác phẩm, mang dáng dấp của đối thoại
ngoài đời nên có được tính chất tự nhiên, tươi tắn, góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Từ khóa: đối thoại, đối thoại trong truyện ngắn, truyện ngắn hiện đại Trung Quốc
1. Đặt vấn đề
Kể từ khi Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách, mở cửa vào năm 1977, nền văn học
nghệ thuật của nước này có nhiều biến chuyển, cùng với tiểu thuyết và truyện vừa, thể loại
truyện ngắn đặc biệt phát triển mạnh, đạt được nhiều thành tựu về cả nội dung và nghệ thuật,
trong đó có rất nhiều những hình thức biểu hiện mới được thể nghiệm. Trong những sáng tạo
mà các nhà văn viết truyện ngắn trong thời kì mới (sau 1977) ở Trung Quốc đóng góp cho thành
tựu nghệ thuật của văn học đương đại không thể không kể đến nghệ thuật đối thoại.
Đối thoại là “nói chuyện qua lại giữa hai hay nhiều người với nhau” và lời đối thoại luôn
“gắn liền với việc những người nói hướng vào nhau và tác động vào nhau” [4, 31], khác với lời
độc thoại là lời không nhằm hướng đến người khác và không tác động qua lại giữa người với
người. Trong văn học, đối thoại có thể hiểu là lời nói chuyện qua lại của các nhân vật với nhau.
Nghệ thuật đối thoại trong văn chương là vấn đề hết sức phức tạp. Ở bài viết này, chúng tôi
chỉ tìm hiểu đối thoại của các nhân vật - một thành phần ngôn ngữ trực tiếp, một trong những
phương tiện nghệ thuật để các nhà văn xây dựng nhân vật trong truyện ngắn hiện đại Trung
Quốc giai đoạn sau 1977.
2. Đặc điểm của đối thoại trong truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai đoạn sau 1977
2.1. Nhường lời cho nhân vật, đối thoại trở thành trụ cột của truyện ngắn
Đối thoại ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong hệ thống ngôn từ của truyện ngắn hiện đại Trung
Quốc giai đoạn sau 1977. Không thể phủ nhận vai trò của đối thoại trong việc xây dựng nhân
vật. Các đoạn đối thoại giữa các nhân vật trong tác phẩm có một ý nghĩa quan trọng. Muốn hiểu
được nghệ thuật đối thoại trong xây dựng nhân vật, bên cạnh việc xem xét bản thân nó, chúng ta
phải xem xét cả lời kể chuyện của tác giả, những gì không thuộc về đối thoại.
Khảo sát hơn 200 truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai đoạn sau 1977 đã được dịch và giới
thiệu ở Việt Nam (qua những tuyển tập: Truyện ngắn hiện đại Trung Quốc, Nhiều tác giả (Hà
Phạm Phú, Lê Bầu dịch) (1997), NXB Hội nhà văn, Hà Nội; 100 truyện ngắn hay Trung Quốc,
Nhiều tác giả (Ngô Văn Phú, Vũ Đình Bình, Phạm Sông Hồng tuyển chọn) (1998), NXB Hội
Ngày nhận bài: 28/4/2016. Ngày nhận đăng: 20/7/2016
Liên lạc: Hà Thị Hải- mail: hathihai0265@gmail.com
12
nhà văn, Hà Nội; Tuyển tập truyện ngắn hiện đại Trung Quốc, Nhiều tác giả (Lương Duy Thứ
tuyển chọn) (1996), NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh...), chúng tôi thấy những truyện ngắn
sau đây, đối thoại chiếm tỷ lệ lớn, thậm chí toàn bộ hệ thống ngôn từ của tác phẩm: Sinh và tử
(Tô Thúc Dương), Bối cảnh đặc biệt (Sa Miên Nông), Bệnh hùng biện (Vương Mông), Đất say
(Bành Thuỵ Cao), Cuộc đối thoại không tiêu đề (Sa Diệp Tân), Rượu (Đặng Nhất Quang), Thuỷ
Mẫu (Văn Bình), Đường rẽ quanh co (Vương Mặc Nhân)...
Nhân vật văn học là con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện
văn học. Để xây dựng nhân vật, nhà văn đã sử dụng hệ thống các phương tiện nghệ thuật khá
phong phú, trong đó đối thoại là một biện pháp nghệ thuật hữu hiệu để bộc lộ tâm lý, tính cách,
thế giới tâm hồn của nhân vật. Có thể thấy, việc xây dựng các cuộc đối thoại trong các truyện
ngắn không phải là ngẫu nhiên mà là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Xem xét những tác
phẩm sử dụng nhiều đoạn đối thoại ở trên, chúng ta thấy rằng đối thoại chủ yếu có vai trò xây
dựng nhân vật. Mỗi từ ngữ đều thể hiện sâu sắc trạng thái tâm hồn con người. Các nhà văn đều
rất tài ghi nhận những giọng và lời nói đặc biệt của từng người, vì thế họ có thể tạo ra những
nhân vật rất sống động.
Trong các phương tiện nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngoài thành phần ngôn ngữ trực tiếp
tự nhân vật nói lên mình là người như thế nào, còn những thành phần như ngoại hình, hành
động, sự kiện, mâu thuẫn, môi trường thiên nhiên... đều do tác giả dùng ngôn ngữ miêu tả, kể
chuyện, giải thích, phân tích, bình luận của mình để thể hiện nhân vật. Những truyện ngắn hiện
đại Trung Quốc sáng tác trước năm 1977 mà tiêu biểu là những truyện ngắn của Lỗ Tấn, Diệp
Thánh Đào, Triệu Thụ Lý, Quách Mạt Nhược... có sử dụng ngôn ngữ đối thoại nhưng về cơ bản
các tác giả vẫn dùng rất nhiều ngôn ngữ miêu tả, kể chuyện, giải thích, bình luận... để xây dựng
nhân vật. Nhưng, trong truyện ngắn hiện đại Trung Quốc sau năm 1977 như Bệnh hùng hiện
(Vương Mông), Đất say (Bành Thuỵ Cao), Cuộc đối thoại không tiêu đề (Sa Diệp Tân), Nỗi
đau buồn cùa người thành đạt (Âu Dương Sơn), Thủy Mẫu (Văn Bình)... rất ít khi tác giả đứng
ra phân tích, bình luận về diễn biến nội tâm nhân vật mà trong tác phẩm chủ yếu là ngôn ngữ đối
thoại của nhân vật. Ví dụ đoạn đối thoại sau của hai anh em Bách Sâm và Bách Lâm trong Đất
say của Bành Thuỵ Cao:
“Người anh ngồi xuống chiếc ghế nhỏ, cảm thấy nóng, bèn phanh cổ áo nói:
- Hừ, vừa mới qua lập hạ mà nóng không chịu nổi.
Người em nói:
- Nóng dữ thật, năm nay nóng sớm.
Người anh nói:
- Trời bắt đầu nóng, sâu bọ cũng ra nhiều. Tuần sau tôi bắt con rắn làm thịt mời chú ăn.
Người em nói:
- Thịt rắn em cũng đã ăn rồi. Hôm trước đội chăn nuôi mời, nhưng chúng nó nấu kém, thịt
không mềm lại không tươi.
Người anh nói:
- Hỏng bét rồi. Giết và thịt rắn tuyệt đối không được dùng dao hoặc các vật sắc bằng sắt.
Phải dùng mảnh sành hoặc thuỷ tinh sắc” [1, 18].
13
Có đến tám đoạn đối thoại như trên ở trong truyện ngắn này. Hai anh em đối thoại trao đổi
về thời tiết và món ăn. Đây là những trao đổi thông thường, nhiều khi mang tính chất xã giao,
chưa phải là đối thoại trao đổi tư tưởng quan điểm như những đoạn đối thoại sau. Những lời nói
về thời tỉết, mùa màng của Bách Sâm và Bách Lâm như là những lời vô thưởng vô phạt, để cho
thời gian trôi qua. Nhưng nếu xâu chuỗi tất cả những đoạn đối thoại của hai anh em Bách Sâm
lại với nhau, ta có thể thấy dụng ý nghệ thuật của tác giả khi sắp xếp các đoạn đối thoại. Sự thân
ái cùng những câu nói vô thưởng vô phạt chỉ là vẻ bề ngoài để che giấu sự thật phũ phàng: Họ
không quý trọng nhau. Sự hoà thuận chỉ do họ cố tạo ra còn thực chất giữa hai anh em có một
bức tường ngăn cách sâu thẳm: Đó là sự đối lập về quan điểm sống, về cách sống, về tư tưởng...
Dường như tác giả cố ý sắp xếp để cho những cuộc đối thoại thân ái giữa hai anh em xuất hiện
trước những đối thoại mâu thuẫn để mọi người nhìn vào và tin rằng họ thực sự hoà thuận. Và
như thế khi đưa vào những đối thoại đối lập sẽ tạo nên sự bất ngờ ở độc giả, gây nên ấn tượng sự
giả dối rồi sẽ đến lúc phải bộc lộ - một điểm tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Sau những đối
thoại mâu thuẫn nảy lửa, đối thoại thân ái cuối tác phẩm như khép lại màn kịch mà hai anh em
cố dàn dựng trước khán giả - dân làng, vì “bảo vệ danh dự của gia tộc cũng là sứ mệnh mà anh
em họ ngầm thỏa ước với nhau” [1, 20]. Mỗi lần anh em họ ngồi ăn uống với nhau, nói những
lời chẳng ăn nhập (thậm chí mâu thuẫn cực độ - nhưng không để ai biết), chính là mỗi lần họ
hoàn thành sứ mệnh đó. Những biểu hiện của trạng thái tâm lý trong hai anh em Bách Sâm đã
được Bành Thụy Cao thể hiện một cách sâu sắc qua những đoạn đối thoại.
Truyện ngắn Đất say gồm 13 trang trong đó 9 trang có đốí thoại. Bệnh hùng biện của
Vương Mông gồm 2 trang nhưng cả hai đều chủ yếu là đối thoại giữa nhân vật bác sĩ với người
bệnh. Thành phần đan xen, lời bình luận, dẫn dắt của tác giả rất hiếm hoi trong truyện ngắn cực
ngắn này. Truyện ngắn Cuộc đối thoại không tiêu đề của Sa Diệp Tân gồm 13 trang, cả 13 trang
đều có đối thoại. Trong đó 8 trang hoàn toàn là đối thoại giữa các nhân vật...
Qua những truyện ngắn nói trên, chúng tôi nhận thấy các tác giả rất hạn chế dùng ngôn ngữ
miêu tả, kể chuyện, giải thích, phân tích, bình luận của mình để nói lên nhân vật của mình là
người như thế nào. Nhân vật thể hiện mình chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của họ. Những lời
đối thoại dài luận bàn về một số vấn đề, bề ngoài có vẻ logic nhưng thực chất lại là những lời
luận bàn ngớ ngẩn, phi lý của người bệnh đã bộc lộ rõ căn bệnh trầm kha trong anh ta - bệnh
hùng biện, mà không cần đến những lời thuyết minh bình luận của tác giả trong truyện ngắn
Bệnh hùng biện của nhà văn nổi tiếng Trung Quốc - Vương Mông. Đối thoại của nhân vật và sự
sắp xếp các đoạn đối thoại trong tác phẩm đã thể hiện tư tưởng chủ đề của các truyện ngắn nói
trên.
Nét độc đáo, mới mẻ của truyện ngắn hiện đại Trung Quốc từ 1977 đến nay trong nghệ
thuật đối thoại không phải chỉ bộc lộ ở việc tăng đối thoại, hạn chế đến mức tối đa lời thuyết
minh, bình luận của tác giả mà cao hơn nữa trong tác phẩm Rượu (Đặng Nhất Quang), Bối cảnh
đặc biệt (Sa Miên Nông), Sinh và tử (Tô Thúc Dương), Đường rẽ quanh co (Vương Mặc
Nhân)... chúng ta nhận thấy tác giả đã hoàn toàn nhường lời cho nhân vật mà không có một lời
nào diễn giải, đánh giá, bình luận về nhân vật hoặc miêu tả cảnh vật, sự kiện, mâu thuẫn, xung
đột... Nghĩa là ở những truyện ngắn này chỉ có một loại ngôn ngữ duy nhất - ngôn ngữ đối thoại
14
của nhân vật. Trong những truyện ngắn hiện đại của Trung Quốc trước 1977 mà chúng tôi bao
quát được, chưa thấy xuất hiện loại đối thoại này. Chúng ta phân tích đối thoại sau trong Bối
cảnh đặc biệt của Sa Miên Nông:
“Chú nhà báo! Thực tình em chẳng có chuyện gì để nói. Mong chú đừng ghi âm, cũng đừng
chép...”
“Hôm đó, em đâu nghĩ tới tình hữu nghị quốc tế... Thật, em không hề nghĩ.”
“Sự tình hết sức đơn giản, trên đường đi làm về, em nhặt được một cái bao, có rất nhiều
ngoại tệ. Trời đã tối, em không dám đứng đợi người đánh mất, vội đến bốt công an. Chú công
an đếm hơn một vạn đôla...”
“Xem ra, chú muốn biết chút ít về lai lịch của em... Được, em kể cho chú nghe một điều bí
mật mà từ trước đến nay em chưa hề kể cho ai hay”.
“Chà! Nói gì bây giờ, thôi em không nói đâu... mà thôi nói thì nói... nhưng chú đừng ghi âm
đó nghe...”
“Mẹ em là một công nhân quét đường, làm từ ngày mới giải phóng tới nay, quét rác không
nổi nên mẹ em xin về hưu. Bốn mươi năm quét rác của mẹ em, rác dồn lại chất thành núi, nhặt
được không biết bao nhiêu thứ. Đơn vị mẹ em làm có một quyển sổ ghi lại công nhân nhặt của
rơi đem nộp. Mẹ em đã nộp 148 đồng hồ đeo tay, 17 dây chuyền vàng, 36 nhẫn vàng, 266 bóp
đựng tiền... có một lần... ối! Đợi em kể tiếp...”
“Có một lần, mẹ em nhặt được một cái bao to, trong đó có một đứa bé mới sinh... Đứa bé
đó... chính là em đây...”
“Em rất thương mẹ, nhưng có lúc... Thôi, em không kể nữa đâu” [3, 272].
Đây là hiện tượng đối thoại “một chiều”. Thực chất đối thoại trên là đối thoại giữa hai
người: Nhân vật “em” và nhà báo. Nhân vật nhà báo không xuất hiện, tiếng nói của anh ta cũng
vô hình, nhưng dấu vết lời nói của anh ta lại quy định tất cả những lời nói của nhân vật hữu hình.
Mặc dù chỉ có một nhân vật nói, chúng ta vẫn cảm thấy rằng đây là một cuộc chuyện trò, bởi vì
mỗi lời nói của “em” đều nhằm đáp lại người tiếp chuyên vô hình “nhà báo”. Qua đối thoại một
chiều (chỉ có duy nhất lời nói của một nhân vật) ta hiểu rằng nhà báo nói tới tình hữu nghị quốc
tế trong hành động nhặt được tiền và trả lại tiền cho một thương nhân người Malaixia của “em”
và cũng chính nhà báo đã hỏi về lai lịch cậu bé. Những lời đối đáp của nhân vật “em” đã cho ta
thấy điều đó mà không cần đến lời kể chuyện, miêu tả của tác giả hay bản thân ngôn ngữ trực
tiếp của nhân vật nhà báo.
Ở truyện ngắn trên, lời đối thoại một chiều đã nhắc lại lời nói của nhân vật “nhà báo”. Tuy
nhiên sự “chồng” đối thoại lên nhau ở đây khá tách bạch, chưa có sự hoà trộn. Lời đối thoại của
nhân vật nhà báo được nhắc lại dưới dạng câu hỏi, câu kể mà không hoà lẫn nhau như ở truyện
ngắn Rượu.
Nhường lời hoàn toàn cho nhân vật, đối thoại trong truyện ngắn Rượu của Đặng Nhất
Quang có những điểm gần gũi với đối thoại trong Bối cảnh đặc biệt. Ví dụ :
“Chủ nhiệm Lưu, thế này là thế nào? Hội nghị vừa mới khai mạc, sao lại đến giờ ăn rồi?
Tại sao lại có rượu ở đây? Thế này là thế nào? Chủ nhiệm Lưu, anh làm cái gì thế này? Lúc nãy
tôi nói thế nào? Tôi đã nói, không được uống rượu... chủ nhiệm Lưu anh đừng có giải thích.
15
Giải thích mà làm gì. Khỉ thì giấu sao được đuôi...
Chào anh Âu Dương! Không phải tôi không nhận ra anh, chỉ vì lúc đó vừa mới khai mạc,
không khí còn đang nghiêm túc. Sức khoẻ anh vẫn tốt chứ?... Đúng, anh nói rất phải, có lúc
chúng ta đã lãng phí khá lớn nguồn vốn này, kho vốn của chúng ta khá lớn mà. Chủ nhiệm Lưu,
anh ghi nhớ lời anh Âu Dương. Tôi thay mặt lãnh đạo cảm ơn lời góp ý thẳng thắn của anh.
Việc đó chúng tôi đang nghiên cứu, nghiên cứu cẩn thận...
Anh là người mới về cơ quan à? Đó là một bộ phận rất quan trọng. Chúng tôi luôn luôn
quan tâm đến nó. Đã gặp hai lần rồi à? Tôi bận lắm, phải phụ trách toàn diện mà...
Con trai của bộ trưởng Triệu à? Cậu tên là gì? Hình như tôi nhớ câu học ở Anh về? Ở
Pháp à? Cũng vậy thôi, cũng là nhà nước tư bản chủ nghĩa” [2, 243].
Đối thoại trong truyện ngắn Rượu có thể gọi là đối thoại một chiều vì trong tác phẩm cũng
chỉ có duy nhất lời của một nhân vật. Tuy nhiên dấu vết lời nói của các nhân vật có tên gọi chủ
nhiệm Lưu, anh Âu Dương, cậu Cao, cô Khiết, con trai Bộ trưởng Triệu... lại in dấu đậm nét
trong lời nói của nhân vật hữu hình. Ta hãy hình dung hai lời đối đáp của một đối thoại - chẳng
hạn nhân vật đối thoại với anh Âu Dương - đáng lẽ chúng nối tiếp nhau và phát ra ở hai cửa
miệng khác nhau thì ở đây chúng lại chồng lên nhau và hoà hợp lại thành một phát ngôn, từ một
cửa miệng. Tất cả những lời tự phát ngôn của nhân vật hữu hình chúng ta đều có thể triển khai
thành những cuộc đối thoại tưởng tượng, bởi vì tất cả chúng dường như đều nảy sinh từ hai lời
đối đáp hoà trộn vào nhau. Có thể tưởng tượng ra cuộc đối thoại giữa nhân vật với Âu Dương
như sau: Âu Dương trách nhân vật không nhận ra anh ta. Nhân vật thanh minh và hỏi thăm sức
khoẻ của Âu Dương. Âu Dương nói tới sự lãng phí nguồn vốn. Nhân vật nhắc chủ nhiệm Lưu
ghi nhớ lời góp ý của Âu Dương... Dĩ nhiên, đối thoại tưởng tượng này còn thô thiển, nhưng đó
chính là nội dung đối thoại giữa nhân vật với Âu Dương. Chúng ta có thể tưởng tượng ra tất cả
những cuộc đối thoại của nhân vật với hàng loạt nhân vật khác nhau như với chủ nhiệm Lưu,
với cô Khiết, với cậu Cao... Chính nhờ chồng chất và hoà trộn các lời đối đáp của cuộc đối thoại
mà ta có được lời phát ngôn một chiều trong truyện ngắn Rượu. Việc hoà trộn và chồng chất các
lượt lời của cuộc đối thoại trong Rượu đậm nét hơn trong Bối cảnh đặc biệt.
Dạng đối thoại một chiều (chồng chất và hoà trộn các lời trong đối thoại) ở truyện ngắn
đương đại Trung Quốc có thể bắt gặp trong sáng tác của Đôxtôiepxki. Tuy nhiên, ta không thể
phủ nhận tính chất mới mẻ của nó trong truyện ngắn Trung Quốc đương đại so với truyện ngắn
các giai đoạn trước.
Nếu như thế mạnh của độc thoại nội tâm là cho phép nhà văn biểu hiện một cách chân thực
nhất thế giới tinh thần và tâm lý phức tạp của con người, vì ở đó không tồn tại những quan hệ xã
hội cụ thể, trực tiếp như trong đối thoại khiến nhân vật có thể trung thành tuyệt đối với cá nhân
mình, thì thế mạnh của đối thoại lại chính là ở chỗ thể hiện được sinh động và sâu sắc nhất mối
quan hệ phong phú của nhân vật với thế giới. Mối quan hệ này là cái mà các nhà văn chú ý khám
phá.
Chính những đoạn đối thoại của nhân vật trong các tác phẩm Rượu, Bối cảnh đặc biệt, Đất
say, Cuộc đối thoại không tiêu đề, Đường rẽ quanh co, Nỗi đau buồn của người thành đạt, Sinh
và tử... đã thể hiện được sâu sắc mối quan hệ giữa nhân vật với thế giới chứ không phải hoàn
16
cảnh xã hội lịch sử bao quanh nhân vật. Ở những tác phẩm nói trên, phương diện sự kiện rất đơn
gỉản, nhân vật chỉ được thể hiện trong một thời điểm, vấn đề lai lịch, tiểu sử, các chặng đường
số phận hoặc những chi tiết cụ thể trong một đoạn đời không còn thật sự thiết yếu. Riêng trong
truyện ngắn Rượu, Bối cảnh đặc biệt, Sinh và tử, thời gian, không gian, sự kiện, các mối quan
hệ xã hội, đề tài, chủ đề, tư tưởng tác phẩm đều được thể hiện qua đối thoại một chiều.
Một điểm đặc biệt, trong truyện ngắn Sinh và tử, Bối cảnh đặc biệt nhân vật làm người kể
chuyện và như vậy, đối thoại của nhân vật trở thành đối thoại - kể chuyện. Đối thoại - kể chuyện
trong truyện ngắn Bối cảnh đặc biệt không chỉ cho ta thấy hành động trung thực của nhân vật
“em”: Nhặt được và trả lại số tiền lớn hơn một vạn đôla cho người mất mà còn cho thấy thái độ,
tình cảm cùng lai lịch của cậu bé. Xâu chuỗi đối thoại kể chuyện của cậu, ta hình dung được
cuộc đời và con người tình cảm trong “em”. Đối thoại - kể chuyện trong tác phẩm gắn bó với
điểm nhìn của nhân vật, thấm đẫm cảm xúc chủ quan của “em”. Nguyên nhân hành động trung
thực qua đối thoại - kể chuyện của “em” không phải do những điều to tát như “tình hữu nghị
quốc tế” mà nó nằm sâu trong truyền thống gia đình, trong mối liên hệ với quá khứ nguồn gốc
của “em”, trong tình cảm sâu nặng với bà mẹ nuôi nhân hậu, trung thực. Đối thoại - kể chuyện
trong truyện ngắn Bối cảnh đặc biệt lùi về quá khứ và làm “rộng” ra cái hiện tại mà hành động
trung thực của cậu bé đóng vai trò trung tâm. Như vậy, vấn đề thời gian và không gian nghệ
thuật của tác phẩm đã được đối thoại - kể chuyện xử lý một cách hoàn hảo.
Tóm lại, trong truyện ngắn hiện đại Trung Quốc, đối thoại ngày càng có một địa vị lớn lao
hơn. Nhường lời cho nhân vật, đối thoại trở thành trụ cột của truyện ngắn đang là vấn đề được
các nhà văn hiện đại Trung Quốc giai đoạn sau 1977 quan tâm. Trong khi mở rộng tầm bao quát
các vấn đề của cuộc sống, đối thoại ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nhân vật
và nội dung tư tưởng của tác phẩm. Nhường lời cho nhân vật còn làm cho những vấn đề được
phản ánh trong tác phẩm hiện lên vừa chân thực, vừa tự nhiên như “tự nó phải thế”. Đây là một
phương tiện nghệ thuật để xây dựng tác phẩm đã có từ xưa, mang tính truyền thống. Tuy nhiên
tỷ lệ đối thoại xuất hiện nhiều, thậm chí chiếm toàn bộ truyện ngắn vẫn là điều mới mẻ trong
văn học hiện đại Trung Quốc thời kì mới.
2.2. Đối thoại gần với kịch
Đối thoại trong truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai đoạn sau 1977 không chỉ ngày càng
trở thành trụ cột của truyện ngắn mà còn rất gần gũi với đối thoại trong kịch.
Trong kịch không có nhân vật chuyên kể chuyện cho nên sẽ không có ngôn ngữ của người
kể chuyện. Tuy nhiên, trong kịch bản văn học vẫn có những lời chú thích trực tiếp của tác giả,
trước hết là nhằm “nêu rõ thời gian, địa điểm, bối cảnh của câu chuyện, hoặc để nói rõ những
hành động không lời của nhân vật” [4, 257). Những lời chú thích như gợi ý cho trang trí, ánh
sáng, âm nhạc... chỉ có tác dụng hướng dẫn người đọc, đạo diễn, diễn viên, còn lúc trình diễn
trên sân khấu chỉ còn lại duy nhất ngôn ngữ nhân vật. Ở phương diện này, đối thoại trong Cuộc
đối thoại không tiêu đề của Sa Diệp Tân đặc biệt gần gũi với đối thoại trong kịch:
“Họ nói gì vậy? Tôi lim dim mắt lắng nghe.
Bên trái:
Cô gái: “Anh có thích ngồi cùng em không?”
17
Chàng trai: “Thích nhất là phút cuối cùng!”
Cô gái: “Sao lại thế?”
Chàng trai: “Bởi vì phút cuối cùng, em đối với anh rất khảng khái”...
Bên phải:
Ông già: “Bà nói gì cơ chứ?”
Bà già: “Tôi có nói gì đâu?”
Ông già: “Ngồi cả buổi, bà không nói với tôi được một câu”.
Bà già: “Những câu cần nói hồi trẻ đã nói hết rồi” [3, 56]...
Xét về mặt hình thức, hai đối thoại trên có nét gần gũi rất dễ nhận thấy với đối thoại trong
tác phẩm kịch. Thành phần đan xen ở trong truyện ngắn vô cùng ít, gần giống với thành phần
chú thích trong kịch. Hầu như chỉ có đối thoại và đối thoại giữa các nhân vật với nhau. Sa Diệp
Tân chỉ viết “Cô gái”, “Chàng trai”, “Ông già”, “Bà già” mà không kèm thêm một lời nào giải
nghĩa lời đối đáp giữa các nhân vật. Trong truyện ngắn gồm 13 trang, có đến 13 đoạn đối thoại
như trên. Về hình thức những đoạn đối thoại này thật gần gũi với đối thoại trong tác phẩm kịch.
Bên cạnh Sa Diệp Tân, những đối thoại trong truyện ngắn Đất say của Bành Thụy Cao và
Bệnh hùng biện của Vương Mông về hình thức cũng có điểm gần gũi với đối thoại trong kịch.
Các tác giả trong hai truyện ngắn trên, trong các đối thoại thường chỉ viết: “Người anh nói”,
“Người em nói”, “Bác sĩ nói”, “Người bệnh nói” và sau đó là lời đối thoại giữa các nhân vật mà
rất ít lời dẫn giải. Tính độc lập bên trong các đối thoại chính là điểm gần gũi giữa đối thoại nhân
vật trong truyện ngắn với đối thoại nhân vật trong kịch.
Nhưng nếu chỉ xét tính kịch ở góc độ hình thức như trên thì chưa đủ. Belinxki nói: “Tính
kịch không phải là do có nói qua lại mà tạo nên được, nó phải do hành động giao lưu sinh động
giữa hai người mà tạo thành. Nếu cả hai bên tranh luận đều muốn đè bẹp đối phương, đều
muốn cải biến một phương diện nào đó trong hành động của đối phương hoặc tấn công vào
nhược điểm nào đó trong tâm tư của đối phương, nếu thông qua cuộc tranh luận đó đưa hai
người tới một quan hệ mới, thì lúc đó mới là kịch” [DT 4, 258]. Và như vậy, đối thoại trong kịch
không chỉ đơn thuần là có lời nói qua lại với nhau mà chúng phải mang nội dung tấn công - phản
công, thăm dò - lảng tránh, cầu xin - từ chối, đe doạ - coi thường...
Khảo sát đối thoại trong các truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai đoạn sau 1977, chúng
tôi thấy rất nhiều đoạn thoại mang tính kịch rõ rệt. Đoạn thoại sau đây trong Đất say của Bành
Thụy Cao là một ví dụ tiêu biểu:
"... hai anh em bắt đầu to tiếng.
Người em nói:
- Bách Sâm, anh nên bớt đi lại với cái mụ goá ngoài xóm, dân làng bàn tán ồn cả
lên.
Người anh nói:
- Chú nói lăng nhăng cái gì đấy. Tôi chỉ những lúc đi đưa củi, đi gánh nước mới vào
ngồi nghỉ, chồng người ta đi làm cho xã, ngã từ tầng sáu xuống chết, chú không hỏi
han giúp đỡ lại còn vấy bùn, có là người hay không?
Người em nói:
18
- Ai vấy bùn anh. Người dân có thư tố cáo gửi lên xã kia kìa.
Người anh nói:
- Thư của người dân nào, chú cứ thử nói tên ra coi, tôi thì vặn đầu nó đằng trước
ngược ra đằng sau.
Người em nói:
- Người ta sợ anh báo thù, mới không ký tên. Mà dù có ký tôi cũng không nói với
anh. Đó là kỷ luật Đảng.
Người anh nói:
- Thôi thôi! Kỷ luật Đảng, chú bôi xấu Đảng thì có. Người ta cưới nhau, chú đến
đánh chén. Người ta mừng đầy tuổi con, chú đến đánh chén... Đều tay không đi ăn chạc,
lại còn nói đến Đảng.
Mặt người em càng đỏ tợn:
- Anh đừng nói bừa.
Ngược lại, mặt người anh trắng bệch:
- Ai nói bừa?
Người em nói:
- Tóm lại anh đừng dan díu với người đàn bà goá ngoài xóm nữa. Bấy nhiêu tuổi
đầu rồi, cứ tiếp tục thì chỉ thân bại danh liệt mà thôi.
Người anh nói:
- Thôi thôi, chú cũng đừng ăn Đảng nữa, thật đấy” [1, 25].
Tính chất căng thẳng của đối thoại giữa hai anh em Bách Sâm và Bách Lâm cứ tăng dần.
Nếu như trong những đối thoại ở truyện ngắn Cuộc đối thoại không tiêu đề biểu hiện rõ nét nhất
ở hình thức ngôn ngữ gần với kịch, còn nội dung đối thoại giữa chàng trai với cô gái, giữa ông
già với bà già chỉ là những đối thoại thông thường, chủ yếu bộc lộ tình cảm, không mang tính
xung đột, thì những đối thoại của hai anh em Bách Sâm lại mang tính xung đột rõ rệt. Giáo sư
G.N. Pospelov cho rằng: “Những mâu thuẫn kịch tính của đời sống trong nước và những xúc
cảm nảy sinh từ cuộc sống đó không phải bao giờ cũng thể hiện một cách trực tiếp ở xung đột
công khai giữa các thế lực xã hội. Chúng thường được tạo ra do các đặc tính tính cách xã hội
thể hiện trong các quan hệ của đời sống riêng tư, sinh hoạt - xã hội, đời sống gia đình và cá
nhân. Tính kịch căng thẳng của các tình huống và cảm xúc của một cá nhân, khi đó sẽ có vẻ như
là “triệu chứng” của các mâu thuẫn xã hội và chính trị được tái hiện một cách sáng tạo trong
văn học” [6, 181]. Và như vậy, những mâu thuẫn kịch tính trong quan hệ của hai anh em Bách
Sâm qua các đoạn đối thoại người em khuyên người anh cai rượu, người anh khuyên người em
bỏ thuốc, đối thoại - cãi vã rồi đi đến thống nhất không ai khuyên ai bỏ cái gì và đối thoại xung
quanh quan hệ của người anh với người đàn bà goá như vừa trích dẫn ở trên, về cơ bản vẫn là
những tình huống kịch tính nảy sinh trong các quan hệ của đời sống riêng tư, đời sống gia đình
và cá nhân. Song, bên cạnh những vấn đề của đời sống riêng tư, tính căng thẳng của đối thoại
giữa hai anh em đã bộc lộ những mâu thuẫn trong nhận thức, đánh giá các vấn đề chính trị xã
hội, đụng chạm đến những vấn đề mà xưa nay ít người dám đụng tới: Vấn đề lợi dụng danh
nghĩa Đảng để tư lợi, làm điều xằng bậy; sự “láo toét” của báo chí và đài phát thanh... Tính căng
19
thẳng trong đối thoại của hai anh em Bách Sâm đã đạt đến điểm đỉnh của mâu thuẫn. Gần như
cả hai, người nào cũng muốn “đè bẹp”, muốn “cải biến” đối phương... Điều đó làm cho đối
thoại trong tác phẩm gần gũi với đối thoại trong kịch. Đối thoại trong Đường rẽ quanh co của
Vương Mặc Nhân cũng mang tính kịch căng thẳng.
Trong sáng tạo nghệ thuật, bản thân đối thoại trực tiếp chứa nhiều yếu tố của kịch, ngôn
ngữ đối thoại đời thường ở chỗ nghĩa của lời thoại đầy ẩn ý và tất cả lời thoại đều nằm trong ý
đồ của nhà văn. Nhân vật nói đấy, phát ngôn đấy nhưng cũng là tác giả. Song, tính căng thẳng
của các mâu thuẫn trong đối thoại vẫn là một đặc điểm quan trọng để đánh giá tính kịch hay sự
gần gũi với ngôn ngữ kịch của các tác phẩm tự sự. Ta có thể gặp loại đối thoại gần với kịch
trong tác phẩm Bà Bôvary của Flaubert, trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp...
Một điểm rất dễ nhận thấy về sự gần gũi giữa ngôn ngữ đối thoại trong một số truyện ngắn
đương đại Trung Quốc những năm qua với đối thoại trong kịch, đó là sự ngắn gọn súc tích, gần
gũi với tiếng nói thường ngày. Ví dụ:
“Em còn cười được. Phải phá thai gấp.
- Không.
- Thế thì anh phải lên xã nhận tội.
- Cũng chẳng bắt anh nhận tội.
- Vậy em muốn gì? Chả lẽ anh phải cưới em?
- Con của em. Em sẽ nuôi nó.
- Thế còn anh?
- Không phiền đến anh...” [1, 57]
Đối thoại trên trong Thủy Mẫu của Văn Bình nương tựa vào ngữ cảnh đã ngắn gọn, cô đúc
đến mức tối đa. Ở ví dụ trên là ngữ cảnh Thủy Mẫu thông báo với anh chàng Râu quặp cô đã có
thai trong khi anh ta đã có vợ... Cho nên những đối đáp nhiều khi không trọn vẹn ở trên vẫn
được người đọc hiểu một cách đầy đủ.
Những đối thoại ngắn gọn, thậm chí không trọn vẹn trên rất gần với ngôn ngữ thường ngày
mang tính khẩu ngữ. Về điểm này khảo sát được tác phẩm trong nguyên bản là tốt nhất, song
trong điều kiện chưa cho phép, chúng tôi làm việc với bản dịch cũng có thể thấy được vài nét về
sự gần gũi với khẩu ngữ - gần gũi với ngôn ngữ kịch của các truyện ngắn Trung Quốc những
năm qua (đã được dịch và giới thiệu ở Việt Nam). Đây là đặc điểm khá nổi bật trong các đoạn
thoại trực tiếp. Lời đối thoại gần với ngôn ngữ trong “đối thoại ngày thường” (Diệp Quang Ban)
về phong cách, tất nhiên về bản chất nó đã được tinh luyện qua khối óc của nhà văn. Ví dụ sau
sẽ chứng minh những câu thông tục cũng được đưa vào tác phẩm nhằm khắc hoạ hình ảnh
người lao động trong Tướng quân trên thị trấn của Trần Thế Húc:
“Những người lao động ở thị trấn nói với tướng quân:
- Nếu bọn nó nấp ở sau nhà ông mà hôn nhau, ông nhìn thấy thì ông đừng lấy gậy
gỗ chè mà đánh vào mông đít chúng nó nhé” [3, 151].
Như vậy, thể loại truyện ngắn đòi hỏi đối thoại đáp ứng tính chất ngắn gọn nhất mà biểu
hiện được nhiều nhất. Chiếm một liều lượng đáng kể so với dung lượng truyện, hầu hết đối
thoại trong truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai đoạn sau 1977 thuộc dạng cuộc trao đổi (một
20
phần là đối thoại kể chuyện) và đều gần gũi đối thoại trong kịch, mang dáng dấp của đối thoại
ngoài đời nên có được tính chất tự nhiên, tươi tắn, góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Tất nhiên, tính chất kịch trong đối thoại đã có trong truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai đoạn
trước 1977 nhưng còn mờ nhạt, không đậm và rõ nét như giai đoạn sau 1977.
3.Kết luận
Đối thoại ngày càng trở thành trụ cột của truyện ngắn và gần gũi đối thoại trong kịch là đặc
điểm nổi bật và cũng là nét đổi mới của đối thoại trong truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai
đoạn sau 1977. Cũng cần thấy rằng, một số nét đổi mới trong đối thoại ở truyện ngắn hiện đại
Trung Quốc giai đoạn sau 1977 đã có một mối liên hệ mới trong toàn bộ hệ thống tư tưởng và
nghệ thuật của nhà văn và văn cảnh ở thời kỳ mới. Không thể phủ nhận có sự ảnh hưởng của các
khuynh hướng, trào lưu văn học phương Tây tới truyện ngắn hiện đại Trung Quốc giai đoạn sau
1977, đồng thời, quốc sách cải cách, mở cửa cùng đường lối giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị
trong thời kì mới ở Trung Quốc đã tạo những điều kiện chưa từng có và mở ra con đường rộng
lớn cho sự phát triển, đổi mới truyện ngắn nói riêng, văn học nói chung trong thời kì này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nhiều tác giả (Hà Phạm Phú, Lê Bầu dịch) (1997), Truyện ngắn hiện đại Trung Quốc,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[2]. Nhiều tác giả (Ngô Văn Phú, Vũ Đình Bình, Phạm Sông Hồng tuyển chọn) (1998), 100
truyện ngắn hay Trung Quốc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[3]. Nhiều tác giả (Lương Duy Thứ tuyển chọn) (1996), Tuyển tập truyện ngắn hiện đại
Trung Quốc, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[4]. Phương Lựu, Trần Đình Sử (2005), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[5]. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[6]. G.N. Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[7]. Lê Huy Tiêu (2011), Văn học Trung Quốc thời kì cải cách mở cửa, Nxb Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
DIALOGUES IN MODERN CHINESE SHORT STORIES AFTER
1977
Ha Thi Hai
Faculty of Literature, Tay Bac University
Abstract: Since China performed the reformation and open - door policy, the dialogues in modern
Chinese short stories have become the main part of the stories and been closed to the dialogues in plays. While
widening the view of some problems of the real life, the dialogues in modern Chinese short stories after 1977 have
become more and more important in conveying the content of stories and the author’s ways of thinking. They also
share similarities to daily dialogues. The dialogues are, therefore, natural, cheerful and make the stories
attractive.
Keywords: Dialogue, dialogue in short story, modern Chinese short stories.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20_4723_2136067.pdf