Tài liệu Đổi mới phương pháp dạy học trong trường Đại học Sư phạm – yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0131
Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 8A, pp. 69-76
This paper is available online at
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM – YẾU TỐ QUAN TRỌNG GÓP PHẦN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
Trương Thị Bích
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Dạy học hướng vào người học, lấy người học làm trung tâm là luận điểm then
chốt của lí luận dạy học hiện đại và cũng chính là bản chất của đổi mới phương pháp dạy
học (PPDH). Theo đó, người học phải/(được) là trung tâm, là chủ thể của sự học. Người
học không chỉ được lĩnh hội tri thức chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp mà còn được cung
cấp một cách dạy – học sáng tạo. Qua đó, rèn luyện sự tự tin, phát huy tính độc lập, tự chủ
và quan trọng nhất là rèn luyện tư duy sáng tạo, tích cực cho người học. Những phẩm chất
này không chỉ có ích trong những năm tháng học đường mà còn có ý nghĩa lâu dài trong
suốt cuộc đời người học. Chính vì...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 540 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới phương pháp dạy học trong trường Đại học Sư phạm – yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0131
Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 8A, pp. 69-76
This paper is available online at
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM – YẾU TỐ QUAN TRỌNG GÓP PHẦN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
Trương Thị Bích
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Dạy học hướng vào người học, lấy người học làm trung tâm là luận điểm then
chốt của lí luận dạy học hiện đại và cũng chính là bản chất của đổi mới phương pháp dạy
học (PPDH). Theo đó, người học phải/(được) là trung tâm, là chủ thể của sự học. Người
học không chỉ được lĩnh hội tri thức chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp mà còn được cung
cấp một cách dạy – học sáng tạo. Qua đó, rèn luyện sự tự tin, phát huy tính độc lập, tự chủ
và quan trọng nhất là rèn luyện tư duy sáng tạo, tích cực cho người học. Những phẩm chất
này không chỉ có ích trong những năm tháng học đường mà còn có ý nghĩa lâu dài trong
suốt cuộc đời người học. Chính vì vậy mà việc triển khai các hoạt động đổi mới PPDH
trong nhà trường các bậc học rất được ngành giáo dục quan tâm. Tuy nhiên, thực tế, trong
các trường đại học sư phạm, vấn đề này chưa được triển khai đồng bộ và triệt để. Khẳng
định lại ý nghĩa của đổi mới PPDH, điểm qua vài nét thực trạng và nêu một số biện pháp
trong việc đổi mới cách học, đổi mới cách dạy học trong trường đại học sư phạm là mục
tiêu hướng tới của bài viết này.
Từ khóa: Đổi mới phương pháp dạy học, dạy học tích cực, dạy học hướng vào người học.
1. Mở đầu
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được
đặt ra trong ngành giáo dục Việt Nam từ những năm 60 của thế kỉ trước. Ở thời điểm này, các
trường sư phạm đã có khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Từ đó đến
nay, có rất nhiều cuộc cải cách giáo dục diễn ra nhằm phát huy tính tích cực, đào tạo những người
lao động sáng tạo, làm chủ đất nước. Theo đó, đã có nhiều công trình quan tâm nghiên cứu vấn đề
này cả trên thế giới và Việt Nam.
Những năm gần đây, nhiều học giả trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề này ở bậc
đại học. Tác giả Robert Marzano, Debra j. Pickering, Jane E. Pollock [1] trong cuốn Các phương
pháp dạy học hiệu quả (Classroom instruction that works) đã giới thiệu các phương pháp dạy học
hiệu quả được rút ra từ nhiều công trình nghiên cứu thực tế giảng dạy và lí thuyết tổng hợp với mục
đích phát huy cao độ khả năng học tập của người học, nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng
viên đứng lớp. SD. Brookfield [2], B.G. Erickson và D.W. Strommer [3], F. Marton, D. Hounsell
Ngày nhận bài: 15/7/2016. Ngày nhận đăng: 20/9/2016
Liên hệ: Trương Thị Bích, e-mail: bichnxbgd@gmail.com
69
Trương Thị Bích
và N. Entwistle [4], P. Ramsden [5] đã mang đến cho người đọc thông điệp đơn giản: để trở thành
một giáo viên giỏi, trước hết phải hiểu được những trải nghiệm trong học tập của sinh viên. Các
tác giả cho rằng giảng viên đại học có thể phát triển khả năng dạy học nếu họ áp dụng các kết quả
từ nghiên cứu vào việc học tập của sinh viên. Cuốn Những thủ thuật trong dạy học – Các chiến
lược nghiên cứu và lí thuyết về dạy học dành cho giảng viên đại học và cao đẳng [6] đã cung cấp
cho giảng viên những kĩ năng đơn giản nhưng có thể giúp sinh viên tham gia vào bài học để họ có
thể học và thực hành. Điều đó tạo không khí thoải mái cho môi trường dạy học. Và từ sự thoải mái
này, giảng viên có thể nghĩ sâu sắc hơn về các vấn đề khác lớn hơn.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về đổi mới PPDH trong trường sư phạm chưa nhiều.
Có chăng chỉ rải rác một số bài viết đăng tạp chí hay kỉ yếu hội thảo tại một số cơ sở đào tạo nhỏ,
lẻ, mang tính chất nội bộ. Tác giả Kiều Thế Hưng trong Kĩ năng dạy học trong những lời giải cho
bài toán nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên hiện nay [7] đã cho rằng là một trường đào tạo
nghề dạy học, ngoài các hoạt động chuyên môn, việc nghiên cứu để cho ra đời các công trình khoa
học về kĩ năng dạy học là đặc biệt quan trọng. Trong trường sư phạm, sinh viên phải được học
cách học, học cách dạy, học cách giáo dục, học cách ứng xử,. . . Tức là học được các thao tác, các
kĩ năng,. . . để đủ tự tin đứng trên bục giảng khi tốt nghiệp ra trường. Như vậy, có thể thấy, vấn đề
đổi mới phương pháp dạy học trong trường sư phạm đã được các nhà khoa học, các nhà giáo tâm
huyết quan tâm nghiên cứu. Các trường đại học nói chung và đại học sư phạm nói riêng không còn
là “tháp ngà” hàn lâm, kinh viện trong truyền đạt tri thức cho người học mà bắt đầu đón những làn
gió mới của PPDH hiện đại, tiên tiến, lấy người học làm trung tâm.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Vài nét về đổi mới phương pháp và tầm quan trọng của đổi mới phương
pháp dạy học trong trường đại học sư phạm
2.1.1. Về đổi mới PPDH
- Tích cực hoá hoạt động học tập của người học là tư tưởng, là mục đích của quá trình đổi
mới PPDH. Người học phải được đặt ở vị trí trung tâm của hoạt động dạy - học. Với PPDH truyền
thống, vị trí trung tâm là người thầy với vai trò truyền thụ tri thức, trình bày tri thức. Với PPDH
mới, người học được đặt trước không phải là những bài giảng, những kiến thức có sẵn mà là những
vấn đề, những tình huống của thực tế cuộc sống. Người học rèn luyện cách tự lực giải quyết vấn
đề, tự tìm ra cái chưa biết, tự tìm ra chân lí. "Người thầy bình thường chỉ biết truyền đạt chân lí.
Người thầy giỏi chủ yếu dạy cách tìm ra chân lí" [8]. Và "được học theo phương pháp tích cực, từ
năm học này đến năm học khác, qua biết bao nhiêu lần làm để học, tìm hiểu giải quyết vấn đề,
xử lí tình huống, chắc chắn HS làm, biết cách làm, cách học, cách giải quyết vấn đề, cách ứng xử
thích nghi với cuộc sống. "Làm" dần dần trở thành "biết làm" và cuối cùng muốn tồn tại và phát
triển trong cộng đồng như một con người tự chủ, năng động và sáng tạo" [8].
Với dạy học tích cực hoá, người học thực sự là nhân vật trung tâm trong quy trình dạy và
học. Một số tác giả đã nêu lên những dấu hiệu đặc trưng của tư tưởng "lấy người học làm trung
tâm" [9] như sau:
- Thừa nhận, tôn trọng, hiểu, đồng cảm với nhu cầu, mục đích, lợi ích cá nhân của người
học. Đạt được độ tin cậy, tạo sức thu hút, thuyết phục, kích thích động cơ bên trong của người học.
Điều này không xảy ra trong PPDH truyền thống: người học thụ động, tự ti, bé nhỏ trước
70
Đổi mới phương pháp dạy học trong trường đại học sư phạm – yếu tố quan trọng...
người dạy. Chính sự thừa nhận, tôn trọng này đã tạo được niềm tin, "tạo sức thu hút, thuyết phục,
kích thích động cơ bên trong” của người học.
- Dựa vào kinh nghiệm của người học, khai thác kinh nghiệm đó, dồn thành sức mạnh trong
quá trình tự khám phá.
Trong quá trình khám phá, chiếm lĩnh tri thức mới, người học không phải bắt đầu bằng con
số không. Kiến thức được hình thành từ trước, được thu nhận, tích luỹ từ các hoạt động bên ngoài
xã hội đã trở thành dạng tiềm năng. Đây chính là nền tảng, là cơ sở để người dạy hướng dẫn người
học một cách có hiệu quả nhất khi chiếm lĩnh một tri thức mới. Biết khai thác kinh nghiệm sẵn có
của người học, từ những kinh nghiệm đó để người học khám phá, chiếm lĩnh tri thức mới là cả một
tài năng của người dạy.
- Chống gò ép, ban phát, giáo điều; nuôi dưỡng tính sẵn sàng, tích cực của người học để
đạt mục đích học tập và phát triển cá nhân.
Dạy học gò ép, ban phát, giáo điều là kiểu dạy học quyền uy của người thầy và sự tiếp nhận
thụ động của người học. Kiến thức thầy đưa ra phải luôn đúng, người học chỉ biết chấp nhận và cố
mà hiểu. Cách học này đã làm thui chột tính độc lập, tích cực trong chiếm lĩnh tri thức mới của
người học. Người học không dám bày tỏ ý kiến riêng của mình. Giữa thầy và trò đã có một khoảng
cách tâm lí. Sự bình đẳng, đồng cảm không xuất hiện. Khi ấy kiến thức đến với người học là kiến
thức "sống", không phải là sản phẩm nhận thức của người học qua hoạt động tư duy. Chống gò ép,
ban phát, giáo điều cũng chính là nuôi dưỡng tính sẵn sàng, tính tích cực của người học.
- Phương thức hoạt động chỉ đạo là tự nhận thức, tự phát triển, tự thực hiện, tự kiểm tra,
đánh giá, tự hoàn thiện trong môi trường được bảo đảm quyền lựa chọn tối đa của người học.
Trong quá trình dạy học, phải đặt người học trong vai trò chủ động, tự lực và tự giác: tự lực,
tự giác trong nhận thức và trong kiểm tra đánh giá. Giúp người học ý thức được nhiệm vụ phải giải
quyết, cụ thể là phải tiếp nhận kiến thức mới, tự đánh giá được khả năng của bản thân đã là một
nửa thành công của quá trình dạy học.
- Tối đa hoá sự tham gia của người học, tối thiểu hoá sự can thiệp, áp đặt của người dạy.
Tối thiểu hoá sự can thiệp, áp đặt của người dạy không có nghĩa là hạ thấp vai trò của người
dạy, coi người dạy càng ít tham gia vào hoạt động dạy học càng tốt. Ở đây phải luôn xác định công
việc của người dạy là sự định hướng, tổ chức những thao tác dạy học để từ đó, bằng các hoạt động
của mình, người học sẽ tự lĩnh hội tri thức. Vai trò của người dạy tưởng như sẽ "khiêm nhường"
hơn nhưng thực ra đã được nâng cao rất nhiều để có thể đáp ứng yêu cầu cũng như nhu cầu của
người học.
Tối đa hoá sự tham gia của người học không đồng nghĩa với việc suốt cả giờ dạy học người
học phải làm việc liên tục. Không nên đánh giá hiệu quả giờ dạy học thông qua số lần giơ tay, số
lần phát biểu ý kiến của người học. Bởi những câu trả lời ấy còn phụ thuộc vào chất lượng câu hỏi
của người dạy. Nếu câu hỏi chỉ ở mức độ tái hiện, liệt kê thì câu trả lời cũng chỉ ở mức độ liệt kê.
Ngược lại, có những giờ dạy với những khoảng lặng nhất định vẫn là những giờ học khai thác rất
tốt tính độc lập, tích cực của người học.
- Tạo cho người học tính năng động cải biến hành động học tập, chủ động, tự tin.
Thực ra, đây là hệ quả tất yếu của các dấu hiệu trên, khi tạo ra vai trò bình đẳng trong quan
hệ dạy học giữa người dạy và người học, khi chống gò ép, ban phát, giáo điều, khi tối đa hoá sự
tham gia của người học, tối thiểu hoá sự áp đặt, can thiệp của người dạy có nghĩa là người dạy đã
tạo cho người học tính năng động cần thiết, tính chủ động, tự tin.
71
Trương Thị Bích
- Hết sức coi trọng vai trò to lớn của kĩ năng.
Từ những kiến thức được trang bị, người học có khả năng vận dụng chúng vào thực tế. Khả
năng vận dụng đó gọi là kĩ năng. Kĩ năng đạt đến mức thuần thục trở thành kĩ xảo. Năng lực được
hình thành trên cơ sở tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Giỏi kĩ năng để hiểu hơn lí thuyết, ngược lại, nắm
vững lí thuyết sẽ góp phần giỏi kĩ năng. Hình thành năng lực phải bắt đầu, phải xuất phát, phải coi
trọng vai trò cơ sở, nền tảng của tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.
Trên đây là các dấu hiệu đặc trưng cho tư tưởng "lấy người học làm trung tâm" trong giáo
dục. Thực chất đây là quá trình:
+ Tự tìm ra ý nghĩa, làm chủ các kĩ xảo, tạo ra các cầu nối nhận thức trong tình huống học.
+ Tự học, tự nghiên cứu thông qua sự hợp tác với bạn bè và sự hướng dẫn của người dạy.
Việc dạy học nói trên là dạy học tích cực, lấy việc học của người học làm trung tâm, đây là
quá trình "biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, biến quá trình dạy học thành quá
trình tự học". Bởi trong bất cứ một con người nào đều tiềm ẩn một nguồn lực quý giá, đó là năng
lực tự tìm tòi, nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề thực tiễn, đó là năng lực tự học sáng tạo.
2.1.2. Tầm quan trọng của đổi mới PPDH trong trường đại học sư phạm
Về vấn đề này, người viết không bàn luận, chỉ xin được trích nguyên văn một số ý kiến của
các nhà quản lí, các nhà khoa học hiện đang công tác trong các trường đại học:
- "Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, thiết nghĩ khâu đột phá phải bắt đầu từ
các trường sư phạm. Vai trò của các trường sư phạm phải là: máy cái cho sự đổi mới phương pháp
dạy học. . . Phương pháp dạy học ở các trường sư phạm có ảnh hưởng rất lớn, nếu không nói là
quyết định đến phương pháp dạy học ở trường PT. Nếu ở trường sư phạm, sinh viên có điều kiện
tiếp cận với phương pháp dạy học thích hợp thì đến lượt họ, khi là giáo viên PT mới có thể sử dụng
được các phương pháp đó vào công tác giảng dạy của mình" (Theo Tuổi trẻ, 2014).
- "Đổi mới phương pháp dạy học bậc đại học là một yêu cầu tất yếu, rất quan trọng để "chấn
hưng giáo dục theo mệnh lệnh cuộc sống" (Theo Việt báo – Tuổi trẻ, 2014).
- "Cần tiến hành một cuộc cách mạng thật sự về phương pháp dạy học ở các trường PT,
nhưng phải bắt đầu đổi mới từ các trường cao đẳng và đại học sư phạm" và "Chỉ khi thực hiện theo
hướng phát huy cao độ việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, xóa bỏ triệt để lối học cho sinh viên
"bú mớm" kiến thức của thầy, chúng ta mới có thể nói đến hiệu quả đổi mới phương pháp đào tạo
ở các trường sư phạm (GS.TS Phan Ngọc Liên – ĐHSP Hà Nội).
- "Nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, triển khai trong các trường
sư phạm và PT là vấn đề sống còn của ngành sư phạm" (PGS.TS Nguyễn Văn Bính – ĐHSP Hà
Nội). Từ ý kiến này, tác giả phân tích: chỉ có đổi mới phương pháp đào tạo từ các trường sư phạm
mới đào tạo ra những sinh viên có chất lượng cao cung cấp cho ngành giáo dục những người có
khả năng làm nòng cốt cho các trường PT về đổi mới phương pháp dạy học. Các trường sư phạm
cũng là nơi giữ vai trò nòng cốt trong việc đào tạo lại và bồi dưỡng giáo viên PT, nghiên cứu xuất
bản các tài liệu hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá chất lượng giáo dục PT.
2.2. Đôi nét thực trạng, nguyên nhân và một số giải pháp về đổi mới phương
pháp dạy học trong trường đại học
2.2.1. Đôi nét thực trạng
72
Đổi mới phương pháp dạy học trong trường đại học sư phạm – yếu tố quan trọng...
Đoàn khảo sát thực địa thuộc Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kì năm 2006 có phần nhận xét
về phương pháp dạy và học đại học của Việt Nam như sau:
- Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá phụ thuộc vào bài thuyết trình và ít sử dụng
các kĩ năng học tích cực, kết quả là ít có sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên trong và ngoài
lớp học.
- Quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc
học khái niệm hoặc ở cấp độ cao (như phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả là học hời hợt thay
vì học chuyên sâu.
- Sinh viên học một cách thụ động (nghe diễn thuyết, ghi chép, nhớ lại những thông tin đã
học thuộc lòng khi làm bài thi).
Tác giả Ngô Tứ Thành, Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông đã "bình luận" thêm:
"Giảng dạy đại học phổ biến nhất vẫn là sử dụng bảng viết phấn cỡ lớn, hoặc nếu sử dụng máy
tính sẽ là các slide đầy chữ trình chiếu để sinh viên ghi chép lại. Một thực tế là các trường PT hiện
nay đang phát động rầm rộ phong trào đổi mới phương pháp giảng dạy, còn các trường đại học vẫn
"án binh bất động". Do vậy, phương pháp dạy ở các trường đại học của ta hiện nay vẫn giống như
cách dạy ở các trường PT "cấp 4" (!). Sinh viên đại học chỉ là những "thợ chép": Thầy nói gì, viết
gì trên bảng thì cứ việc cặm cụi chép vào cuốn vở trở thành cẩm nang duy nhất cho thi cử và thậm
chí cả cho việc hành nghề sau này. Dĩ nhiên học thụ động sẽ sản sinh ra những nhà "trí thức" thụ
động, chỉ đâu đánh đấy cũng chưa xong chứ nói gì đến nghiên cứu, sáng tạo" [10].
Hầu hết các sinh viên khi được hỏi về cách dạy của các giảng viên trên lớp đều cho rằng các
thầy cô nói quá nhiều trên lớp, không có sự giao hòa, tương tác với sinh viên. Không khí tiết học
vì thế mà trở nên căng thẳng, nặng nề. Giữa sinh viên và giảng viên có khoảng cách, sinh viên rất
ngại phát biểu, ngại nói, ngại bộc lộ chính kiến, kể cả những em biết lẫn em không biết phương án
trả lời. Một số thầy cô dùng máy tính chỉ để thay thế cho việc sử dụng giáo án viết tay. Nếu có thầy
cô nào sử dụng máy chiếu thì sinh viên lại càng khó ghi chép, nhiều khi chỉ để nhìn cho vui mắt.
2.2.2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc chậm triển khai đổi mới phương pháp dạy học ở trường
sư phạm. Xin nêu ra một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nhà trường sư phạm chưa có một chủ trương lớn với những chế độ, chính sách cụ thể, phù
hợp cho hoạt động này. Vì vậy mà giảng viên chưa có động lực để cố gắng. Người làm tốt cũng
như người không làm.
- Đội ngũ giảng viên có năng lực, giàu kinh nghiệm sư phạm còn thiếu.
- "Hiện nay, các trường sư phạm không có tính cạnh tranh nên không có động lực phấn đấu,
các trường hoạt động còn mang nặng tính bao cấp, trường được cấp kinh phí tổ chức đào tạo còn
chất lượng sinh viên ra trường hầu như không phải chịu trách nhiệm" (PGS. TS Nguyễn Văn Bính
– ĐHSP Hà Nội).
- Giảng viên đại học dường như tự cho mình "quyền" không phải quan tâm đến đổi mới
phương pháp dạy học, cho đó là việc nhỏ, là công việc của giáo viên PT. Dạy đại học phải "nhiều
chữ", phải "hàn lâm", chỉ cần kiến thức uyên bác.
- Chất lượng dạy học của giảng viên trong trường sư phạm chưa được kiểm tra, đánh giá,
xếp loại.
- Một bộ phận sinh viên chưa bắt nhịp, chưa hào hứng hay có thể nói là còn rất ngại đổi
73
Trương Thị Bích
mới phương pháp học tập. Nguyên nhân là các bạn chưa thoát khỏi được phương pháp học truyền
thống đã bị gò ép vào khuôn mẫu từ hồi học PT nên thiếu khả năng độc lập tư duy, sáng tạo và kĩ
năng tiếp nhận tri thức. Điều các bạn lo lắng là thi cử và điểm số.
2.2.3. Một số giải pháp
- Giảm giờ học lí thuyết trên lớp, tăng cường các hoạt động: làm việc nhóm, thực hành, đọc
tài liệu, hoàn thành các bài tập lớn, bài thu hoạch,. . .
Phương pháp dạy học theo nhóm đáp ứng tốt mục tiêu phát huy cao độ tính tích cực học tập
của sinh viên; rèn luyện cho sinh viên khả năng phát biểu trước đám đông, biết sống trong tập thể,
biết nghe người khác nói.
- Giảm giờ học lí thuyết trên lớp không có nghĩa là giảng viên sẽ "nhàn" hơn. Ngược lại,
giảng viên phải chọn lọc kiến thức trọng tâm, biết tổ chức, hướng dẫn sinh viên phương pháp tự
học, tự nghiên cứu và tiếp cận tri thức, đồng thời giải đáp những vấn đề mà sinh viên đưa ra. Thực
tế, đây là công việc không phải giảng viên nào cũng làm được nếu không nỗ lực và tự tin. Phương
pháp này có ưu điểm: giảng viên tránh được kiểu đọc – chép, sinh viên được tôn trọng và được
thật sự đề cao vai trò chủ thể nhận thức khi các em được quyền hỏi, tranh luận bình đẳng với giảng
viên.
- Phải linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp dạy học. Chúng ta phê phán lối dạy
học đọc – chép nhưng cũng không ủng hộ kiểu dạy học chỉ phát vấn, hỏi – đáp trong suốt cả tiết
học một cách máy móc và cho đó là đổi mới phương pháp dạy học. Chúng ta kêu gọi phương pháp
dạy học gợi mở, trao đổi hai chiều giữa người học và người dạy nhưng cũng không nên nghĩ rằng
việc độc thoại một chiều là không đổi mới. Phải biết kết hợp các phương pháp tùy vào nội dung
bài học, tùy vào đối tượng người học, luôn gắn với mục đích đảm bảo tính hệ thống của bài học,
làm thế nào để khơi gợi hứng thú, sự tò mò, ham muốn đào sâu, suy nghĩ độc lập, phát triển óc
phê phán,. . . của người học.
- Ứng dụng công nghệ thông tin và các phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình đào tạo.
Không phủ nhận vai trò hỗ trợ quan trọng của các phương tiện dạy học hiện đại trong quá trình đào
tạo nói chung và quá trình đổi mới phương pháp dạy học nói riêng. Tuy nhiên, giảng viên không
nên lạm dụng điều này bởi nếu không sẽ rất dễ biến giờ học thành giờ "biểu diễn" kiến thức. Như
vậy, giảng viên tránh được lối dạy học đọc – chép nhưng lại "cung cấp" cho sinh viên một lối học
mới: lối học nhìn – chép.
- Trường đại học phải quan tâm nhiều hơn đến những đề tài nghiên cứu đổi mới phương
pháp dạy học. Những đề tài này phải xuất phát từ thực tế nhà trường Việt Nam với tình hình cơ sở
vật chất, trình độ, đặc điểm tâm lí của người dạy, người học Việt Nam. Có như vậy, các biện pháp
đưa ra mới có tính khả thi. Phải tìm cách đưa kết quả nghiên cứu ấy ứng dụng vào thực tế trường
học, từng bước thực hiện và rút kinh nghiệm.
- Phải gắn kết chặt chẽ giữa trường ĐHSP với trường PT, tạo điều kiện cho giảng viên nắm
được thực tế PT, nắm được đặc điểm tâm lí học sinh PT, để từ đó có định hướng trong việc chọn
lọc kiến thức cũng như phương pháp phù hợp cho bài giảng của mình. Muốn làm được điều này,
phải tăng cường thời gian thực tập sư phạm tại trường PT.
- Xây dựng các đơn vị chuyên trách đổi mới phương pháp dạy học trong trường đại học
nhằm hỗ trợ cho giảng viên đổi mới phương pháp giảng dạy hiệu quả. Đơn vị chuyên trách này sẽ
là đầu mối cho việc kiểm định và ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học về đổi mới phương
pháp dạy học, là đầu mối giúp nhà trường triển khai và đánh giá hoạt động đổi mới dạy học của
74
Đổi mới phương pháp dạy học trong trường đại học sư phạm – yếu tố quan trọng...
các giảng viên.
- Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá. Đổi mới cách dạy, cách học phải tiến hành song song
với việc đổi mới cách kiểm tra, đánh giá. Có như vậy, sinh viên mới "yên tâm" hào hứng ủng hộ
giảng viên trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Nếu như điều này ở bậc học PT
còn nhiều bất cập: đổi mới nội dung dạy học nhưng đề kiểm tra, đánh giá còn mang tính truyền
thống. Nguyên nhân là người ra đề chưa bắt nhịp kịp, chưa mạnh dạn với việc đổi mới khâu kiểm
tra, đánh giá. Ở trường đại học điều này thuận lợi hơn. Người dạy và người ra đề kiểm tra, đánh
giá là một. Giảng viên soạn nội dung dạy và cũng chính giảng viên ra đề. Đây là một ưu thế lớn
của giảng viên đại học nếu triển khai dạy học theo phương pháp đổi mới.
3. Kết luận
Từ bản chất của dạy học theo phương pháp đổi mới, từ bức tranh phác thảo về thực trạng
hoạt động này trong trường đại học, từ việc mạnh dạn chỉ ra một số nguyên nhân, có thể nói, vấn
đề đổi mới phương pháp dạy học trong các trường đại học nói chung và trường ĐHSP nói riêng
còn rất nhiều trăn trở. Thiết nghĩ, đã đến lúc, dẫu có muộn màng, các nhà quản lí giáo dục trong
các trường sư phạm phải "vào cuộc", phải bắt đầu cho việc khởi động công cuộc đổi mới phương
pháp dạy học một cách toàn diện và đồng bộ, để xứng với môi trường đại học giảng dạy và nghiên
cứu "nói" và "làm" luôn song hành với nhau, để trường sư phạm thực sự “đi trước” và “đi cùng
đường” với phổ thông, góp phần tháo gỡ những khó khăn của giáo viên khi thực hiện Chương trình
giáo dục phổ thông mới, để đến gần hơn với mục đích của công cuộc “đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Robert Marzano, Debra j. Pickering, Jane E. Pollock, 2012. Các phương pháp dạy học hiệu
quả (Classroom instruction that works), dịch giả Nguyễn Hồng Vân. Nxb Giáo dục Việt Nam.
[2] SD. Brookfield, 1995. Giảng viên dạy giỏi. San Francisco: Jossey – Bass.
[3] B.G. Erickson và D.W. Strommer, 1993. Dụng cụ giảng dạy. San Francisco: Jossey – Bass.
[4] F. Marton, D. Hounsell và N. Entwistle, 1997. Kinh nghiệm dạy học: Việc giảng dạy và học
tập tại trường đại học. Nxb Hàn lâm Sctottish, xuất bản lần thứ hai.
[5] P. Ramsden, 1992. Học để dạy học ở trường đại học. London: Routledge.
[6] Wilbet J. McKeachie, 1999. Những thủ thuật trong dạy học – Các chiến lược nghiên cứu
và lí thuyết về dạy học dành cho giảng viên đại học và cao đẳng. Editon, Hougton Miflin,
ISBN 0395903459, Copyrigh 1999, 379 pp. Dự án Việt – Bỉ: “Đào tạo giáo viên các trường
sư phạm 7 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam".
[7] Kiều Thế Hưng, Kĩ năng dạy học trong những lời giải cho bài toán nâng cao chất lượng đào
tạo giáo viên hiện nay. Hội thảo Thực trạng đào tạo giáo viên phổ thông ở Việt Nam. 7/2011.
[8] Nguyễn Kỳ, 1995. Đổi mới phương pháp dạy học ở trường Trung học phổ thông. Nxb Giáo
dục.
[9] Trần Kiều (chủ biên), 1997. Về rèn luyện cho học sinh năng lực cảm thụ văn học. Viện Khoa
học Giáo dục.
[10] Nguồn:
75
Trương Thị Bích
ABSTRACT
Innovating the teaching methods in pedegogical school
– A crucial factor in contributing the quality of teacher trainning
Truong Thi Bich
Institute for Educational Research, Hanoi National University of Education
Nowadays, learner-oriented and learner-centered teaching is the key point in many
modern teaching theory and this is also the essence of innovating the teaching methodology.
Accordingly, the learner must be the center and the subject of the study. Learners are not
provided with professional knowledge and professional skills, but also offered a creative way
of teaching-and-learning. Therefore, we have to enhance the confidence, the independence,
self-control of the students and most importantly train their minds in creative and positive ways.
These qualities are not only useful in school time, but also become a life-long meaningful tool
for students. Therefore, the deployment of launching innovative teaching methods in schools is
highly interested in the educational sector. However, in reality, in some pedagogical universities,
this issue has not been implemented comprehensively. Reaffirming the meaning of innovative
teaching methods, through several real situations and a number of measures in innovating teaching
methods, and the ways to innovate the teaching methods in pedagogical universities are the targets
of this article.
Keywords: Innovate teaching methods, active teaching, learner-oriented teaching.
76
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4454_ttbich_9833_2131868.pdf