Tài liệu Đổi mới phương pháp dạy - Học môn giao tiếp liên văn hóa theo hướng đa ngành - Đàm Minh Thủy: 43KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc
độ mạnh mẽ. Các hoạt động di cư, buôn bán, du
lịch giữa các quốc gia, các công ty đa quốc gia
không ngừng phát triển. Các yếu tố này đã tạo
ra nhu cầu giao tiếp ngày càng lớn giữa các tổ
chức, cá nhân đến từ các quốc gia, các nền văn
hóa khác nhau. Trong bối cảnh văn hóa-kinh tế
như vậy, để hội nhập và giao lưu với thế giới bên
ngoài, sự hiểu biết cũng như năng lực giao tiếp
trở thành nhu cầu của mỗi cá nhân.
Tại một số trường và khoa ngoại ngữ ở Việt
Nam, Giao tiếp liên văn hóa được đưa vào giảng
ĐÀM MINH THỦY*
*Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, ✉ dmthuy@gmail.com
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY-HỌC
MÔN GIAO TIẾP LIÊN VĂN HÓA
THEO HƯỚNG ĐA NGÀNH
TÓM TẮT
Giao tiếp liên văn hóa là một lĩnh vực nghiên cứu mang tính đa ngành. Tại các nước tiên
tiến trên thế giới, Giao tiếp liên văn hóa không chỉ được giảng dạy và nghiên cứu trong giáo dục,...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 508 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới phương pháp dạy - Học môn giao tiếp liên văn hóa theo hướng đa ngành - Đàm Minh Thủy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc
độ mạnh mẽ. Các hoạt động di cư, buôn bán, du
lịch giữa các quốc gia, các công ty đa quốc gia
không ngừng phát triển. Các yếu tố này đã tạo
ra nhu cầu giao tiếp ngày càng lớn giữa các tổ
chức, cá nhân đến từ các quốc gia, các nền văn
hóa khác nhau. Trong bối cảnh văn hóa-kinh tế
như vậy, để hội nhập và giao lưu với thế giới bên
ngoài, sự hiểu biết cũng như năng lực giao tiếp
trở thành nhu cầu của mỗi cá nhân.
Tại một số trường và khoa ngoại ngữ ở Việt
Nam, Giao tiếp liên văn hóa được đưa vào giảng
ĐÀM MINH THỦY*
*Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, ✉ dmthuy@gmail.com
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY-HỌC
MÔN GIAO TIẾP LIÊN VĂN HÓA
THEO HƯỚNG ĐA NGÀNH
TÓM TẮT
Giao tiếp liên văn hóa là một lĩnh vực nghiên cứu mang tính đa ngành. Tại các nước tiên
tiến trên thế giới, Giao tiếp liên văn hóa không chỉ được giảng dạy và nghiên cứu trong giáo dục,
du lịch mà nó còn đóng vai trò quan trọng trong các ngành kinh tế, chính trị và trong các doanh
nghiệp đa quốc gia. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa, những cuộc trao đổi, tiếp xúc và hợp
tác diễn ra trong mọi lĩnh vực, làm nảy sinh nhiều vấn đề do văn hóa khác biệt, thậm chí dẫn đến
xung đột văn hóa và gây cản trở hiệu quả công việc. Cung cấp cho sinh viên kiến thức ngôn ngữ
và các kỹ năng giao tiếp liên văn hóa phù hợp với ngành nghề của mình sẽ là chìa khóa thành công
giúp họ tự tin bước vào môi trường làm việc quốc tế. Điều này đòi hỏi môn Giao tiếp liên văn hóa
phải có những chương trình học, giáo trình và phương pháp dạy-học cô đọng, thiết thực, bám sát
ngành nghề tương lai của sinh viên. Từ lý do đó, chúng tôi mong muốn đổi mới chương trình và
phương pháp dạy-học môn Giao tiếp liên văn hoá theo hướng đa ngành.
Từ khóa: cá thể hóa, đa dạng hóa, đa ngành, giao tiếp liên văn hóa.
dạy với tư cách là một môn học độc lập. Chương
trình và giáo trình cung cấp cho sinh viên những
kiến thức cơ bản, mang tính khái quát, không
gắn kết với một chuyên ngành cụ thể. Trong khi
đó, với một xã hội ngày càng thực dụng, người
học đòi hỏi cần có những chương trình học và
phương pháp dạy-học mang tính cô đọng, thiết
thực, bám sát ngành nghề tương lai của họ, cung
cấp không chỉ kiến thức mà còn các kỹ năng
giao tiếp liên văn hoá phù hợp với từng chuyên
ngành cụ thể, từ đó mới có thể tạo hứng thú cho
người học.
Chính vì vậy, đổi mới chương trình và phương
pháp dạy-học môn Giao tiếp liên văn hóa theo
44 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
hướng đa ngành một mặt khiến cho môn học trở
nên phong phú sống động hơn, mặt khác sẽ phát
triển được mô hình cá thể hóa trong giảng dạy
ngoại ngữ.
2. NỘI DUNG
2.1. Giao tiếp liên văn hóa
2.1.1. Văn hóa
Khái niệm văn hóa được nhiều nhà nghiên
cứu trên thế giới định nghĩa. Đây là một khái
niệm rộng và có hàng trăm định nghĩa khác nhau.
Tuy nhiên, khái niệm được vận dụng nhiều là
định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào năm
1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo
hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa
rộng, “Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc
trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và
tình cảm khắc họa nên bản sắc của một cộng
đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia,
xã hội. Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật,
văn chương mà còn cả lối sống, những quyền
cơ bản của con người, những hệ thống giá trị,
những truyền thống, tín ngưỡng”. Theo nghĩa
hẹp, “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu
trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp
trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù
riêng”. Văn hóa tạo cho con người một môi
trường hành động, từ mục tiêu, thể chế, tư tưởng
hay giá trị. Văn hóa ảnh hưởng đến nhân cách,
tư duy và lối sống của mỗi cá nhân, đồng thời
mỗi cá nhân sống trong một nền văn hóa nhất
định đều góp phần phát triển nền văn hóa đó.
Theo PGS.TS. Phạm Quang Minh, “văn hóa là
một “hệ thống định hướng” (orientation system)
đặc biệt của một nhóm người hay một xã hội, hệ
thống này tác động vào tư duy và hành động cũng
như có ý nghĩa đối với các thành viên của xã hội
đó”1. Chính vì vậy, mỗi cộng đồng hay một xã
hội sẽ có những “chuẩn mực văn hóa”(culture
standards) của riêng mình. Những chuẩn mực về
nhận thức, suy nghĩ, hành động sẽ hình thành và
là thước đo để đánh giá thái độ, hành vi của các
cá nhân trong nền văn hóa đó.
2.1.2. Giao tiếp liên văn hóa
Giao tiếp liên văn hóa chính là sự giao tiếp
giữa các nền văn hóa, giữa các cộng đồng văn
hóa khác nhau với những phương thức sống và
thế giới quan khác nhau. Giao tiếp liên văn hóa là
một hiện tượng mang tính lịch sử hàng ngàn năm,
gắn liền với tất cả các dân tộc, các cộng đồng
người trên thế giới. Đặc biệt, trong thế kỷ XXI,
với những thành tựu to lớn về khoa học và công
nghệ, nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại,
cơ hội giao lưu, giao tiếp đối thoại, học hỏi lẫn
nhau giữa các nền văn hóa và các cộng đồng văn
hóa trên khắp hành tinh ngày càng gia tăng mạnh
mẽ. Do vậy, giao tiếp liên văn hóa trở thành một
vấn đề có ý nghĩa toàn cầu, một bộ phận không
thể tách rời của đời sống xã hội đương đại, một
lĩnh vực được nhiều ngành khoa học quan tâm
nghiên cứu, như nhân học, văn hóa học, sử học,
xã hội học, tâm lý học, kinh tế....
Nhà nhân chủng học Hall (1958) được xem là
tác giả đầu tiên đưa ra khái niệm “giao tiếp liên
văn hoá” (intercultural communication), nghĩa
là giao tiếp giữa các thành viên đến từ các nền
văn hoá khác nhau, đối lập với khái niệm “giao
tiếp nội văn hoá” (intracultural communication)
- giao tiếp giữa các thành viên trong cùng một
nền văn hoá. Theo Satoshi Ishii (2006), “giao
tiếp liên văn hoá là một quá trình hoạt động
nhận thức, hành vi, xúc cảm có quan hệ về mặt
văn hoá bao gồm việc thu và gửi các thông điệp
ngôn ngữ và phi ngôn ngữ giữa các cá nhân
thuộc các nền văn hoá khác nhau, trong một
ngữ cảnh giao tiếp gồm nhiều cá nhân, nhóm, tổ
chức hay cộng đồng”. Mỗi cá nhân tham gia giao
tiếp đại diện cho nền văn hóa của mình, mang
trong mình những chuẩn mực văn hóa của đất
nước, dân tộc mình. Những khác biệt về văn hóa
sẽ dẫn đến những bất đồng, thậm chí xung đột
trong giao tiếp, làm ảnh hưởng hay khiến cho
các mối quan hệ bị đổ vỡ hoặc thất bại. Chính
vì vậy, Toomey (1999) cho rằng, trong giao tiếp
liên văn hóa, hai cá nhân hay hai nhóm người
thuộc những nền văn hóa khác nhau phải tương
tác với nhau và cùng nhau thống nhất một thông
45KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
điệp chung trong quá trình giao tiếp, nói cách
khác họ phải cố gắng, không chỉ để giao tiếp mà
còn để hiểu nhau. Như vậy, trong quá trình giao
tiếp liên văn hóa luôn diễn ra những tác động
qua lại giữa các cá nhân hay nhóm người đại
diện cho các nền văn hóa khác nhau. Nguyên tắc
cơ bản của giao tiếp liên văn hóa là các nền văn
hóa đều bình đẳng như nhau, cùng tôn trọng sự
khác biệt của nhau, các cá nhân cùng ảnh hưởng
lẫn nhau, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa của
riêng mình.
Sự thành công trong giao tiếp liên văn hóa
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: hoàn cảnh giao
tiếp, năng lực giao tiếp,... trong đó, năng lực giao
tiếp liên văn hóa đóng vai trò then chốt. Năng
lực giao tiếp liên văn hóa bao gồm những yếu tố
như kiến thức về các nền văn hóa tham gia giao
tiếp, năng lực về lý trí và tình cảm, hay nói cách
khác có thái độ đúng mực và có khả năng xử lý
các tình huống thực tế trong quá trình giao tiếp
liên văn hóa.
Theo Abdallah Preitceille, giao tiếp liên văn
hóa là một quá trình xây dựng cho phép hiểu hơn
về các vấn đề xã hội và giáo dục liên quan đến đa
dạng văn hóa. Hướng tiếp cận liên văn hóa là một
lựa chọn phù hợp với những xã hội đa văn hóa
đương đại. Nó cho phép các cộng đồng văn hóa
trong một quốc gia xây dựng các phương thức
đàm phán và cùng nhau đi đến thống nhất, từ đó
cho phép giải quyết những vấn đề liên quan đến
mối quan hệ giữa các nền văn hóa. Mục đích của
đường hướng tiếp cận liên văn hóa không phải
là tìm hiểu chủ thể giao tiếp bằng cách khóa anh
ta trong một hệ thống các đặc điểm hay so sánh
đối chiếu các nền văn hóa theo quan điểm của
chủ nghĩa dân tộc. Trái lại, nghiên cứu liên văn
hóa nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa các thực
thể, trong đó sự khác biệt không còn là khách thể
nghiên cứu mà là động lực để các thực thể trao
đổi và bổ sung cho nhau. Do đó, cách tiếp cận
liên văn hóa có thể được coi là một giải pháp hữu
hiệu cho những thách thức nảy sinh do quá trình
toàn cầu hóa.
2.1.3. Giao tiếp liên văn hóa – bộ môn khoa
học liên ngành
Ngày nay, nghiên cứu liên văn hóa đã trở
thành một môn khoa học liên ngành, được xây
dựng bởi nhiều công trình nghiên cứu, thu hút
một số lượng đông đảo các nhà khoa học trên
thế giới. Có thể thấy trong Giao tiếp liên văn
hóa, một tập hợp các phương thức tiếp cận thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng cùng chung một
đối tượng nghiên cứu là văn hóa.
Trong lĩnh vực Giáo dục
Trong những năm 70 ở Pháp và sau đó ở
Cộng đồng chung châu Âu, giao tiếp liên văn
hóa bắt đầu xuất hiện trong ngành giáo dục và
chủ yếu dành cho đối tượng là học sinh thuộc gia
đình nhập cư. Mục đích của chương trình là kêu
gọi các trường học công nhận quyền được khác
biệt của học sinh tiểu học và trung học, đồng thời
cho phép học sinh, sinh viên có nguồn gốc nước
ngoài được giữ gìn bản sắc văn hóa của mình
nhằm phát huy tính đa dạng văn hóa.
Đường hướng tiếp cận liên văn hóa cho phép
phối hợp hài hòa nền tảng văn hóa của tất cả mọi
người, tôn trọng sự khác biệt và coi đó như là
một kho tàng phong phú tạo nên sự đa dạng. Để
thực hiện được mục tiêu trên, giáo viên cần phải
được đào tạo về giao tiếp liên văn hóa, nâng cao
ý thức về tính đa dạng văn hóa trong một xã hội;
mỗi cá nhân cần nhận thức được rằng, dân tộc
chủ nghĩa hay những định kiến có thể làm sai
lệch nhận thức và cần chống lại những biểu hiện
tiêu cực đó.
Trong môi trường đa văn hóa, giáo viên phải
nhận thức được vai trò của mình trong việc nâng
cao năng lực giao tiếp liên văn hóa của học sinh,
phát triển hài hòa các mối quan hệ của học sinh
với những nền văn hóa khác, đồng thời phát huy
được bản sắc dân tộc của mỗi cá nhân, giúp họ tự
tin trong học tập và trong giao tiếp.
Ngôn ngữ vừa là thành phần cấu thành văn
hóa, vừa là kho tàng chứa đựng, lưu giữ và truyền
46 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
bá văn hóa. Do đó, học ngoại ngữ ngày nay cần
được định hướng như là học giao tiếp bằng ngoại
ngữ, dạy ngoại ngữ trong văn hóa, kết hợp với
văn hóa. Giáo viên ngoại ngữ chính là những
người có điều kiện nhất trong việc tiến hành
nghiên cứu, giảng dạy giao tiếp liên văn hóa.
Trong lĩnh vực Du lịch
Du lịch là ngành dịch vụ phát triển. Chất
lượng cuộc sống nâng cao, nhu cầu du lịch, khám
phá những vùng đất mới, những nền văn hóa mới
ngày càng tăng. Thêm vào đó, nhiều quốc gia
trên thế giới chú trọng phát triển ngành du lịch
dịch vụ, chất lượng ngày càng hoàn thiện. Tuy
nhiên, khách du lịch khi đến một vùng đất mới
sẽ gặp phải không ít khó khăn, do bất đồng ngôn
ngữ, do giá trị văn hóa, phong tục tập quán, lối
sống, phong cách giao tiếp khác nhau. Hiểu được
những nền tảng cơ bản trong giao tiếp liên văn
hóa sẽ giúp khách du lịch vượt qua khó khăn.
Mặt khác, với mục đích phát triển “ngành
công nghiệp không khói”, chính phủ, các công ty
du lịch và dịch vụ không ngừng đầu tư về cơ sở
hạ tầng, nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô
các hoạt động dịch vụ và loại hình du lịch. Để sản
phẩm du lịch của một quốc gia đến gần hơn với
du khách quốc tế, rất cần phải chú trọng đến yếu
tố văn hóa như phong cách giao tiếp của nhân
viên, chiến lược quảng cáo, chiến lược vận động
khách du lịch tiềm năng, mô hình dịch vụ... phải
dựa trên yếu tố văn hóa, phát huy được bản sắc
văn hóa của quốc gia mà vẫn phù hợp với văn hóa
của du khách. Việc phát triển kỹ năng giao tiếp
liên văn hóa cho nhân viên các cấp, cùng với các
sản phẩm du lịch và dịch vụ đáp ứng được tiêu
chuẩn quốc tế, phù hợp với văn hóa của khách du
lịch là những yếu tố quan trọng tạo nên một nền
du lịch hiện đại, thành công trong việc thu hút du
khách, nâng cao doanh thu du lịch của đất nước.
Trong lĩnh vực Kinh tế
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, trao đổi kinh tế
giữa các quốc gia phát triển nhanh chóng. Các
công ty lớn phương Tây thực hiện chiến dịch
phi tập trung hóa, mở rộng địa bàn trên toàn thế
giới, đặc biệt xây dựng các nhà máy gia công hay
sản xuất tại các nước đang phát triển để tận dụng
nhân công và nguyên liệu rẻ. Xuất khẩu, nhập
khẩu cũng phát triển mạnh mẽ. Giao tiếp liên văn
hóa được đưa vào kinh tế nhằm mục đích nghiên
cứu những rủi ro do xung đột văn hóa gây nên,
tìm hiểu lý do dẫn đến những xung đột nhóm,
từ đó tìm ra các biện pháp để phòng chống hay
khắc phục, tạo nên sự gắn bó liên kết trong doanh
nghiệp có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, các doanh
nghiệp muốn đưa sản phẩm của mình sang một
thị trường mới, phải nghiên cứu, khảo sát nhu
cầu, đặc điểm của người dân, tìm hiểu tư duy,
phong cách giao tiếp hay giá trị văn hóa của khu
vực đó để có thể đưa ra một sản phẩm phù hợp
cùng với chiến dịch quảng cáo hiệu quả. Chính vì
vậy, Giao tiếp liên văn hóa được sử dụng rộng rãi
trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp và marketing.
Văn hóa phương Đông và phương Tây, văn
hóa giữa các nền văn hóa khác nhau trong khu
vực, tạo ra sự khác nhau về cơ cấu tổ chức doanh
nghiệp, về tư duy, lối sống, phong cách giao tiếp,
phong cách làm việc (tính tập thể hay độc lập,
coi trọng thứ bậc hay bình đẳng, thẳng thắn hay
vòng vo, trực tiếp hay gián tiếp...),.... Có thể nói
văn hóa là một rào cản rất lớn trong những cuộc
đàm phán có sự tham dự của các đối tác đến từ
nhiều nền văn hóa. Do đó, nắm vững những nét
khác biệt văn hóa của các khu vực trên thế giới
sẽ giúp doanh nghiệp thành công hơn trong đàm
phán với đối tác nước ngoài, trong việc quản lý
nhân sự, tạo ra môi trường làm việc thuận lợi cho
người lao động, giúp họ có thể phát huy năng lực
của bản thân.
Như vậy có thể thấy, Giao tiếp liên văn hóa
cần thiết cho tất cả các ngành nghề và đối tượng
có tiếp xúc với yếu tố nước ngoài.
2.2. Mô hình đào tạo theo hướng cá thể hóa
2.2.1.Triết lý sư phạm: lấy người học làm
trung tâm
47KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Đến cuối thế kỷ XX, quan điểm “lấy người
học làm trung tâm” đã định hình một cách rõ
ràng trong giáo dục của thế giới và dần thay thế
cho quan điểm “lấy giáo viên làm trung tâm”.
Quá trình dạy học lấy người học làm trung
tâm gồm 4 điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, việc dạy học phải xuất phát từ đầu
vào của người học, tức là từ nhu cầu, động cơ,
đặc điểm và điều kiện của người học. Phải tiến
hành việc học tập trên cơ sở hiểu biết năng lực đã
có của người học.
Thứ hai, người học phải tham gia tích cực
vào quá trình học tập, không tiếp thu một cách
thụ động mà tích cực suy nghĩ, tích cực tự giác
trong hoạt động.
Thứ ba, thực hiện phân hóa, chú ý đến tư duy
của từng người học, không gò bó theo cách suy
nghĩ đã định trước của người dạy.
Thứ tư, động viên, khuyến khích và tạo điều
kiện để người học tự kiểm tra, tự đánh giá quá
trình học tập của mình tiến tới tự đào tạo và giải
quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn một cách
độc lập, sáng tạo.
Để thực hiện các mục tiêu này, đường hướng
sư phạm lấy người học làm trung tâm yêu cầu
chương trình đào tạo phải gắn liền với thực tế;
giáo trình và giáo án có nhiều kiểu phân nhánh
linh hoạt, có thể được điều chỉnh, đồng thời chú
trọng các kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức,
năng lực để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Theo
mô hình này, bài giảng dựa trên cơ sở khám phá
và giải quyết vấn đề, giúp người học chủ động,
tích cực tham gia. Người dạy đóng vai trò điều
khiển, thúc đẩy sự tìm tòi. Chính vì vậy, so với
các mô hình dạy học truyền thống, trình độ phát
triển nhận thức, tình cảm và hành vi của người
học cao hơn, người học tự tin hơn và tự giác chịu
trách nhiệm về kết quả học tập của mình.
Trên thực tế, sự phát triển của quan điểm “lấy
người học làm trung tâm” không hề phủ nhận vai
trò của người dạy học đối với quá trình học tập
của người học. Người dạy giữ vai trò tổ chức,
điều khiển hoạt động học của người học, đảm
bảo cho người học thực hiện đầy đủ và có chất
lượng cao những yêu cầu đã được quy định phù
hợp với mục đích dạy học ở đại học. Vai trò chủ
đạo của người dạy được thực hiện thông qua việc
lựa chọn nội dung dạy học, lựa chọn phương
pháp, lựa chọn cách thức tổ chức lớp học trong
quá trình đào tạo. Người học một mặt là đối
tượng của hoạt động dạy, mặt khác là chủ thể
chính trong quá trình đào tạo. Dưới sự tổ chức,
điều khiển của người dạy, người học chiếm lĩnh
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo bằng chính hành động
học tập của mình.
2.2.2. Phương pháp dạy học theo hướng cá
thể hóa
Dạy học theo hướng cá thể hóa là dạy theo
năng lực của từng đối tượng, nhằm giúp người học
học tập tốt hơn, phát huy hết khả năng của mình.
Theo phương pháp này, các tài liệu, hoạt động
và phương pháp giảng dạy được lựa chọn sao
cho phù hợp với trình độ, năng lực, sở thích khác
nhau của người học để có thể đạt được các mục
tiêu đào tạo chung. Đặc biệt giúp người học phát
huy tối đa tính chủ động sáng tạo trong học tập.
Đây là một đường hướng sư phạm hết sức
cần thiết vì trong một lớp học, trình độ và khả
năng tiếp thu của người học không đồng đều,
phương pháp và động cơ học tập không giống
nhau. Người dạy cần hiểu rõ, nắm vững đặc điểm
cũng như năng lực học tập và thái độ của người
học đối với môn học; đánh giá hiện trạng kết quả
học tập của người học, từ đó đưa ra những giải
pháp cụ thể đối với mỗi cá nhân hay mỗi nhóm
cá nhân. Để làm được điều này, nội dung học
tập cũng phải phù hợp với đối tượng người học,
phương pháp phải phong phú, linh hoạt, sáng tạo,
hấp dẫn và nhất là dễ tiếp thu tương ứng với từng
đối tượng. Nhờ đó, người học được học tập trong
một điều kiện tốt nhất, học theo khả năng và đặc
điểm của mình, tạo được hứng thú học tập, từ
đó có thể phát huy được nội lực, chủ động sáng
48 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
tạo trong học tập. Trong giờ học sẽ không còn
một khuôn mẫu, một trình tự lên lớp, một giáo án
chuẩn và duy nhất để làm theo, mà thay đổi tùy
theo từng lớp, từng nhóm hay từng cá nhân trong
lớp, tùy vào nội dung kiến thức cần truyền đạt
của từng bài học.
Như vậy có thể thấy, đường hướng học tập cá
thể hóa nằm trong triết lý sư phạm lấy người học
làm trung tâm, chương trình, giáo trình, phương
pháp giảng dạy của giảng viên đều được xây
dựng phù hợp với đặc điểm của sinh viên.
2.3. Đổi mới phương pháp dạy-học môn
Giao tiếp liên văn hóa theo hướng đa ngành
2.3.1. Cơ sở thực tiễn
Để phù hợp với sự phát triển của xã hội,
ngoại ngữ là môn học được đầu tư và chú trọng
trong tất cả các trường đại học trong cả nước.
Ngoại ngữ có thể là một chuyên ngành, cũng
có thể là một công cụ bổ trợ cho chuyên ngành
chính của sinh viên. Ngay cả trong các trường và
khoa chuyên về ngoại ngữ như trường Đại học
ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, trường Đại học Hà
Nội, sinh viên không chỉ được đào tạo về chuyên
ngành sư phạm, ngôn ngữ mà còn theo các định
hướng biên, phiên dịch, kinh tế và du lịch.... Sau
khi tốt nghiệp, sinh viên có thể giảng dạy ngoại
ngữ tại các trường Đại học, Cao đẳng và THPT,
nghiên cứu trong các trung tâm nghiên cứu văn
hóa, ngôn ngữ, làm biên dịch tài liệu và ấn phẩm,
phiên dịch cho các cuộc gặp gỡ tiếp xúc song
phương và đa phương, làm thư ký văn phòng,
trợ lý đối ngoại trong các văn phòng các công ty
nước ngoài, liên doanh hoặc công ty Việt Nam,
phụ trách các mảng công việc liên quan đến đối
ngoại, hợp tác, tham gia đàm phán, giao dịch, ký
kết hợp đồng kinh doanh, xuất nhập khẩu; làm
hướng dẫn viên, nhân viên điều hành du lịch có
khả năng làm việc với các đối tác nước ngoài ...
Có thể thấy, các ngành nghề đào tạo ngoại ngữ
rất phong phú và đều liên quan đến môi trường
quốc tế. Năng lực giao tiếp liên văn hóa là vô
cùng cần thiết và trở thành nội dung bắt buộc
trong chương trình đào tạo cử nhân.
Ý thức được tầm quan trọng của Giao tiếp
liên văn hóa trong xã hội đa văn hóa và vai trò
của năng lực giao tiếp liên văn hóa đối với khả
năng thích nghi của sinh viên tốt nghiệp trong thị
trường lao động, các trường và các khoa ngoại
ngữ đã đưa môn học này vào chương trình giảng
dạy, có thể theo hình thức là một môn học độc
lập bắt buộc như trường Đại học Ngoại ngữ -
ĐHQG Hà Nội, hay dưới dạng lồng ghép trong
môn thực hành tiếng đối với các trường ngoại
ngữ không chuyên. Với tư cách là một môn học
bắt buộc, Giao tiếp liên văn hóa cung cấp cho
người học khái niệm cơ bản về văn hóa và giao
thoa văn hóa, về bản chất của một xã hội đa văn
hóa, các yếu tố cấu thành năng lực giao tiếp liên
văn hóa của mỗi cá thể trong quá trình hội nhập,
đồng thời giúp người học bổ sung, củng cố và
hoàn thiện các kỹ năng ngôn ngữ.
Khó khăn và thách thức
Môn Giao tiếp liên văn hóa đặt ra một số
khó khăn cho người dạy và người học. Khó khăn
nội tại của môn học ở chỗ các khái niệm mang
tính trừu tượng và tương đối rộng. Mặt khác,
qua khảo sát thực trạng giảng dạy môn Giao
tiếp liên văn hóa tại một số trường đại học trong
nước2, có thể nhận thấy, giáo trình và phương
pháp giảng đang sử dụng mang tính khái quát,
tương đối chung chung, lý thuyết được truyền
cho sinh viên mang tính áp đặt và khiên cưỡng,
ít ví dụ minh họa cụ thể, chưa gần gũi với sinh
viên, chưa bộc lộ được tầm quan trọng của môn
học với các chuyên ngành của người học. Tuy
nhiên, người học thuộc nhiều chuyên ngành và
định hướng khác nhau, phương pháp học, trình
độ cũng khác nhau. Họ cũng chưa có nhiều điều
kiện tiếp xúc thực tế, chưa có nhiều trải nghiệm
về giao tiếp liên văn hóa, vì vậy chưa hiểu được
tầm quan trọng của môn học. Trong trường hợp
này, người học trở thành đối tượng tác động
của nhà sư phạm. Họ sẽ tiếp thu bằng tri giác
một cách thụ động để lĩnh hội những tri thức có
sẵn từ bên ngoài. Người học cảm thấy xa lạ và
chưa thực sự thấy được hiệu quả của môn học.
49KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin
như hiện nay, người học có điều kiện tiếp xúc
nhiều với các nguồn thông tin và kiến thức khác
nhau, nhịp sống nhanh đòi hỏi nhà giáo dục phải
cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản,
cô đọng nhất và trong thời gian ngắn nhất. Tính
thực dụng được đưa lên hàng đầu. Chính vì vậy,
nhiệm vụ của môn Giao tiếp liên văn hóa là cung
cấp cho người học những kiến thức thiết thực
về văn hóa và giao tiếp liên văn hóa, cho người
học thấy được vai trò, tầm quan trọng của môn
đối với ngành nghề tương lai của mình, khiến
cho người học cảm thấy tính thiết thực của môn
học, từ đó xây dựng động cơ và hứng thú đối với
môn học.
Đổi mới chương trình và phương pháp dạy-
học môn Giao tiếp liên văn hoá theo hướng đa
ngành là giải pháp có thể coi là hiệu quả để đạt
được các mục tiêu trên, khiến cho môn học trở
nên phong phú sống động hơn, gắn liền với thực
tế và liên quan đến lĩnh vực chuyên ngành của
người học, phát triển được mô hình cá thể hóa
trong giảng dạy ngoại ngữ.
2.3.2. Đề xuất đổi mới
Mục tiêu của đổi mới hình thức dạy-học môn
Giao tiếp liên văn hóa là cuối khóa học, người
học sẽ nắm vững các khái niệm cơ bản của giao
tiếp liên văn hóa, hiểu được vai trò và ảnh hưởng
của các yếu tố văn hóa và liên văn hóa đối với
chuyên ngành của người học. Đồng thời, giúp
sinh viên phát triển các chiến lược và kỹ năng
giao tiếp liên văn hóa trong môi trường làm việc
tương lai.
Cách tiếp cận theo hướng đa ngành, cùng
với những phân tích và tổng hợp các tình huống
phong phú sẽ cho thấy sự phức tạp và những
thách thức trong các mối quan hệ và trao đổi
quốc tế.
Mục tiêu của môn học
Về kiến thức, người học cần nắm vững một số
khái niệm về văn hóa, giao tiếp liên văn hóa, định
kiến và biểu trưng, sốc văn hóa; củng cố vốn kiến
thức về đặc thù của các nền văn hóa, nắm được
những điểm tương đồng và dị biệt trong phong
cách giao tiếp, trong giao tiếp phi ngôn ngữ và
giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa các nền văn hóa khác
nhau; nắm được bản chất về bản sắc và sự khác
biệt của các cá thể trong một xã hội đa sắc tộc.
Về kỹ năng, người học có khả năng phân tích
và đánh giá một cách khách quan và khoa học
một số hiện tượng văn hóa, chính trị của xã hội
đương đại; có cách ứng xử thích hợp trong các
hoàn cảnh đa văn hóa; có khả năng chấp nhận
sự khác biệt để vươn tới xây dựng một xã hội
đa văn hóa trong khi vẫn giữ gìn được bản sắc
văn hóa của dân tộc mình. Ngoài ra, người học
còn được nâng cao các kỹ năng ngôn ngữ đặc
biệt là kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và rèn luyện
các kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng làm
powerpoint, thuyết trình.
Về thái độ, người học xác định được tầm
quan trọng của môn học; phát huy tối đa tinh thần
tự học thông qua nghiên cứu sách lý thuyết, đọc
thêm các tài liệu trên mạng Internet; phát huy
tối đa khả năng sáng tạo khi thực hiện các hoạt
động trong lớp cũng như tự học; tham gia tích
cực vào các hoạt động trên lớp....
Những kiến thức, kỹ năng và thái độ trên
cần thiết cho tất cả các chuyên ngành bởi lẽ đó
là những mục tiêu cơ bản mà người học cần
đạt được sau môn học. Tuy nhiên, những khái
niệm này đều gắn liền với các tình huống và môi
trường cụ thể thuộc các lĩnh vực giáo dục, kinh
tế, du lịch.... Đó là những tình huống mà người
học có thể phân tích, đánh giá và tìm kết luận
bằng cách huy động kiến thức và kỹ năng, từ đó
tìm hiểu vai trò, ảnh hưởng của giao tiếp liên văn
hóa đối với từng ngành nghề.
Chương trình
Môn Giao tiếp liên văn hóa được giảng dạy
gồm 3 tín chỉ, được dạy trong 45 tiết học, trong
đó có kiểm tra giữa kỳ và ôn tập cuối kỳ. Nội
50 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
dung môn học được chia thành bốn phần cơ bản:
khái niệm chung (văn hóa và giao tiếp liên văn
hóa), những vấn đề nảy sinh trong quá trình giao
tiếp liên văn hóa (sốc văn hóa, xung đột văn hóa),
lý giải những xung đột văn hóa bằng những yếu
tố như đa dạng văn hóa, phong cách giao tiếp,
giá trị văn hóa, hình ảnh biểu trưng, từ đó đi
đến xây dựng kỹ năng giao tiếp liên văn hóa.
Với mỗi nội dung, lý thuyết được kết hợp với
những tình huống thực tế, cho phép người học
hiểu sâu về môn học, có khả năng lý giải một số
hiện tượng thường gặp, các hoạt động thực hành
nhằm tiến tới chuyển biến các hành vi và cách tiếp
cận một nền văn hóa khác một cách tích cực hơn.
Giáo trình
Một chương trình tích hợp kiến thức liên
ngành cần một giáo trình tổng hợp dạng mở,
dưới hình thức hệ thống tài liệu theo chủ đề. Giáo
trình gồm nhiều bài học, mỗi bài sẽ có một phần
cơ sở lý thuyết chung và được phát triển theo ba
lĩnh vực (ngôn ngữ, kinh tế, du lịch). Tập hợp tất
cả các bài sẽ tạo thành một hệ thống giáo trình
với nhiều chủ đề khác nhau, dựa trên chương
trình và kiến thức chung về môn học.
Đặc thù của Giao tiếp liên văn hóa là lý
thuyết gắn liền với thực hành, do đó, ngoài giáo
trình viết, môn học còn sử dụng nhiều phương
tiện bổ trợ và các nguồn thông tin khác nhau như
video, báo chí, sách truyện.... Trong đó, phương
tiện nghe nhìn luôn được ưu tiên. Lấy ví dụ về
chủ đề “Sốc văn hóa”, tài liệu kích hoạt được sử
dụng với tất cả người học là một khung lý thuyết
chung về sốc văn hóa tập trung làm rõ một số
khái niệm cơ bản nhất. Từ tài liệu này, sinh viên
ngành Ngôn ngữ có thể tìm hiểu và phân tích bức
thư chia sẻ khó khăn khi đi du học của một sinh
viên châu Phi tại Pháp, sinh viên ngành Kinh tế
xem và bình luận bộ phim “Kinh hoàng và run
sợ”3, sinh viên ngành Du lịch tìm hiểu những chia
sẻ trên diễn đàn du lịch Routard.com, chuyên đề
Việt Nam với chủ đề “Sốc văn hóa”.
Mục đích của hệ thống tài liệu này là giúp
người học tiếp cận và nắm vững tri thức và các
kỹ năng giao tiếp liên văn hóa một cách có ý thức,
gắn với chuyên ngành mình đang học. Việc học
môn lý thuyết bằng những nội dung gần gũi với
bản thân khiến cho môn học linh hoạt, nhẹ nhàng
mà phong phú, người học chủ động chọn lựa tài
liệu và phương pháp học phù hớp với mình.
2.3.3. Phương pháp sư phạm
Việc giảng dạy được dựa trên triết lý sư phạm
lấy người học làm trung tâm, coi trọng tính chủ
động, đề cao khả năng khám phá của người học,
dạy lý thuyết kết hợp với thực hành. Theo đó,
kiến thức được lồng ghép trong các tình huống
có thực thuộc các lĩnh vực chuyên môn cụ thể,
sinh viên khám phá, phân tích và tổng hợp kiến
thức dưới sự hướng dẫn của người dạy, việc tiếp
thu kiến thức liên văn hóa trong hoàn cảnh cụ thể
trở nên hiệu quả hơn.
Cụ thể, một tiết học với chủ đề “Sốc văn hóa”
được tổ chức như sau:
Người học tìm hiểu phần lý thuyết để nắm
được định nghĩa về sốc văn hóa, nguyên nhân,
biểu hiện và những năng lực cần thiết để phòng
chống và xử lý khi gặp sốc văn hóa.
Người học lựa chọn tài liệu tiếp theo tùy theo
chuyên ngành của người học.
Sinh viên ngành ngôn ngữ tiến hành đọc hiểu
bức thư chia sẻ khó khăn khi đi du học của một
sinh viên châu Phi tại Pháp, đồng thời dựa vào
khung lý thuyết để xác định các giai đoạn mà
sinh viên đó đã phải trải qua, tìm hiểu những
biểu hiện của sốc văn hóa, những cố gắng và biện
pháp mà nhân vật đã sử dụng để vượt qua những
khó khăn do văn hóa khác biệt gây nên. Những
phân tích tình huống đều dựa trên nền tảng lý
thuyết đã học và dữ liệu ngôn ngữ được sử dụng
trong bức thư.
Sinh viên ngành Kinh tế thảo luận về bộ phim
“Kinh hoàng và run sợ” sau khi đã xem phim
51KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
trước ở nhà. Trong phim, sinh viên thấy được
những hy vọng, hứng khởi của cô gái người Bỉ
khi được tuyển vào làm tại một công ty lớn của
Nhật Bản, tiếp đó chứng kiến những khó khăn,
xung đột của cô với các lãnh đạo công ty, do
những khác biệt về tư duy, về giá trị văn hóa, về
phong cách làm việc khác nhau của hai nền văn
hóa Bỉ và Nhật Bản.... Sinh viên sẽ cùng nhau lý
giải những xung đột đó.
Còn đối với sinh viên ngành Du lịch, một
nhóm sinh viên sẽ thuyết trình về những thông
tin được chia sẻ về “Sốc văn hóa” đối với khách
du lịch người Pháp ở Việt Nam. Từ đó, thảo luận
về những khác biệt giữa văn hóa Việt Nam và
văn hóa Pháp để có thể hiểu được những nguyên
nhân dẫn đến sốc văn hóa.
Để kết thúc mỗi phần thảo luận, sinh viên và
giảng viên cùng nhau tìm ra những biện pháp,
tùy theo mỗi hoàn cảnh, để phòng tránh và giải
quyết xung đột. Như vậy, thông qua các hoạt
động tình huống cụ thể mà sinh viên thấy được
ảnh hưởng của sốc văn hóa đối với từng lĩnh vực,
hiểu được nguyên nhân và các biện pháp để xử
lý, kiến thức và nội dung của bài học sẽ được tiếp
thu một cách có hiệu quả.
Vì giáo trình là nguồn tài liệu mở, những sinh
viên có trình độ cao và ham học hỏi có thể chủ
động tìm hiểu thêm về khái niệm sốc văn hóa
bằng cách sử dụng tài liệu của chuyên ngành khác.
2.4. Đánh giá sơ bộ về hướng tiếp cận môn
Giao tiếp liên văn hóa theo hướng đa ngành
2.4.1. Ưu điểm
Về chương trình, giáo trình
Việc áp dụng cách tiếp cận đa ngành cho môn
Giao tiếp liên văn hóa đáp ứng được các mục
tiêu đề ra, đó là dạy học theo hướng cá thể hóa,
lấy người học làm trung tâm, cho phép các sinh
viên thuộc các chuyên ngành khác nhau cùng đạt
được những kiến thức, kỹ năng, và thái độ cần
thiết về giao tiếp liên văn hóa thông qua những
tình huống cụ thể chuyên ngành của mình. Mô
hình dạy học này có một số đặc điểm nổi bật sau:
Tính đa dạng: Cùng một chủ đề nghiên cứu
có thể được tiếp cận theo những cách khác nhau,
với những phương tiện dạy-học khác nhau. Nội
dung của bài học được giới thiệu một cách phong
phú, sâu sắc và mang tính tổng hợp cao.
Khả năng thích nghi: Phương pháp này có thể
phù hợp với nhiều ngành đào tạo khác nhau. Các
khái niệm trừu tượng được đặt trong hoàn cảnh
thực tế, gắn với chuyên ngành của sinh viên, kiến
thức nhờ đó được nắm bắt một cách dễ dàng hơn.
Tính linh hoạt: Sinh viên và giảng viên có thể
tự do lựa chọn nhiều nguồn học liệu và phương
pháp sư phạm y theo đặc điểm của mỗi cá nhân
hay nhóm sinh viên.
Dễ đổi mới: Các nguồn tài liệu, học liệu dễ
dàng được cập nhật, đổi mới theo tình hình thực
tế và theo đặc điểm của sinh viên.
Đối với sinh viên
Hệ thống giáo trình “mở” và linh hoạt cho
phép sinh viên có điều kiện tự học, tự nghiên cứu,
phát huy được tính ham học hỏi và sáng tạo của
cả thầy và trò. Việc đưa phim ảnh, video hay các
hoạt động trên Internet thu hút được sự chú ý của
sinh viên. Ngoài ra, nhờ vào những bài tập lớn
theo nhóm, thảo luận nhóm, thuyết trình trước
lớp, sinh viên có điều kiện mở rộng, đào sâu kiến
thức, học phương pháp nghiên cứu khoa học. Với
những đặc điểm trên, hệ thống tài liệu theo chủ
đề cho phép tiến hành phương pháp dạy-học theo
hướng cá thể hóa.
Đối với giảng viên
Với giáo trình này và với phương pháp dạy
học mới, giảng viên có nhiều chủ động sáng tạo và
có trách nhiệm cao hơn. Đồng thời, công tác làm
việc theo nhóm giữa giảng viên với giảngviên,
giữa giảng viên với sinh viên được nâng cao.
52 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
2.4.2. Những hạn chế và khó khăn
Để dạy-học môn Giao tiếp liên văn hóa theo
hướng đa ngành có hai khó khăn cơ bản: khó
khăn trong khâu xây dựng chương trình, giáo
trình và khó khăn trong quá trình áp dụng giáo
trình vào thực tế.
Thực vậy, hệ thống học liệu theo chủ đề đòi hỏi
phải đầu tư nhiều thời gian và tư duy hơn để soạn
giáo trình, giáo án và chọn lựa nội dung học cho
các đối tượng sinh viên. Việc tìm nguồn tài liệu,
học liệu thuộc các chuyên ngành khác nhau đòi
hỏi phải có kiến thức, kinh nghiệm cả trong môn
giao tiếp liên văn hóa, cả trong chuyên ngành.
Và dù giáo trình có hay bao nhiêu thì kết quả
của việc dạy và học vẫn phụ thuộc rất nhiều vào
tổ chức giờ dạy của người dạy và phương pháp
học tập của người học. Giảng viên cần có phương
pháp sư phạm nhịp nhàng, khéo léo và năng động
hơn. Sinh viên cũng cần phải chủ động hơn trong
học tập, tư duy, bày tỏ quan điểm và làm việc
nhóm nhiều hơn. Điều này thật không dễ khi sự
thụ động trong cách học của trò, sự lệ thuộc vào
giáo trình và sách hướng dẫn của giảng viên đã
ăn sâu từ lâu.
3. KẾT LUẬN
Đặc điểm nổi bật của phương pháp giảng dạy
môn Giao tiếp liên văn hóa theo hướng đa ngành
là xây dựng được môi trường học tập phong phú,
đa dạng, gần với thực tế, tạo điều kiện cho sinh
viên tiếp xúc với những vấn đề nảy sinh trong
môi trường đa văn hóa, để họ chứng kiến và tìm
cách giải thích những xung đột, từ đó hình thành
kiến thức, kỹ năng và thái độ phù hợp cho bản
thân. Phương pháp này phù hợp với xu hướng
phát triển của giáo học pháp hiện đại, phù hợp với
bối cảnh đổi mới đào tạo đại học ở Việt Nam./.
Chú thích:
1. < 1291353-bao-
cao-van-hoa-chuan-muc-van-hoa-va-giao-tiep-
lien-van-hoa-truong-hop-chlb-duc-pptx.htm>.
2. Tiến hành trong khuôn khổ Hội thảo Pháp
ngữ khu vực châu Á Thái Bình Dương năm 2015.
3. Bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết
cùng tên “Terreur et tremblement”, Amélie
Nothomb (2010).
Tài liệu tham khảo:
1. Béacco J-C., (2000), Les dimensions
culturelles des enseignements de langue,
Hachette.
2. Carlo M. (1998), L’interculturel, CLE
International.
3. Hall E.T. (1959), The silent language, New
York: Doubleday.
4. Huu Ngoc (1996-1997), Esquisse pour un
portrait de la culture vietnamienne, NXB The Gioi.
5. Ishii S. (2006), Complementing
contemporary intercultural communication
research with East Asian sociocultural
perspectives and practices in China Media
Research, 2(1)
6. Kerbrat-Orecchioni C. (1996), La
conversation, Seuil.
7. Lazar I., Huber-Kriegler M., Lussier
D., Matei G. S. et Peck P. (2007), Développer
et évaluer la compétence en communication
interculturelle, Editions du Conseil de l’Europe.
8. Legendre R. (1988), Dictionnaire actuel
de l’éducation, Larousse.
9. Lussier D et al. (2007), Centre européen
pour les langues vivantes, Conseil de l’Europe
10. Nguyen Van Dung (2008), Cours
“Introduction à l’Interculturel”, Département de
Français – ESLE – UNH.
11. Nguyễn Vân Dung (2005), “Les influences
culturelles sur l’apprentissage du français: le
53KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
IDIVERSIFICATION OF TEACHING METHODS OF INTERCULTURAL
COMMUNICATION IN THE DIRECTION OF INTERDISCIPLINARY EDUCATION
DAM MINH THUY
Abstract: Intercultural communication is a multidisciplinary science. In advanced countries, it
is studied and taught not only in education, in tourism but also in economics, political science
and business sectors. In the context of globalization, exchanges, contacts and collaborations take
place in all areas, provoke several problems, even cultural conflicts, which prevents intercultural
communication. Equipping students with intercultural competencies in line with their specialty
professionals will be the key to success, to getting them into the international working environment.
This requires the Intercultural Communication adopt a concise, pragmatic curricular program,
manual and pedagogy related to the students’s career. So, we want to revise the program and the
teaching methodology of linking courses in a multidisciplinary manner.
Keywords: personalization, diversification, multidisciplinary, Intercultural communication.
Received: 23/5/2017; Revised: 05/6/2017; Accepted for publication:28/6/2017
cas des étudiants vietnamiens”, in Diversités
culturelles et apprentissage du français, Les
Editions de l’école polytechnique, Paris, France.
13. Schoeffel V. & Thompson P. (2007),
Communication interculturelle 1, Cinfo.
14. Smircich L. (1983), Concepts of Culture
and Organizational Analysis in Administratice
Science Quarterty, 28 (3), Johnson Graduate
School of Management, Cornell University.
15. Ting-Toomey S. (1999), Communicating
across cultures, The Guilford Press.
16. Zarate G. (1986), Enseigner une culture
étrangère, Hachette.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 73_2262_2137258.pdf