Tài liệu Đổi mới hình thức ôn tập cuối kì cho môn học “Văn học Anh - Mĩ” nhằm phát huy tính tự chủ cho sinh viên khoa tiếng anh trường Đại học Sư phạm Hà Nội - Đỗ Thị Phi Nga: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199
195
Email: phingadodhsp@gmail.com
ĐỔI MỚI HÌNH THỨC ÔN TẬP CUỐI KÌ CHO MÔN HỌC “VĂN HỌC ANH - MĨ”
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TỰ CHỦ CHO SINH VIÊN KHOA TIẾNG ANH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Đỗ Thị Phi Nga - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Ngày nhận bài: 15/5/2019; ngày chỉnh sửa: 22/5/2019; ngày duyệt đăng: 31/5/2019.
Abstract: Ways of revising knowledge for each subject effectively at the end of term is always
challenging for both students and lecturers at universities and colleges. This article discusses a new
way to revise knowledge at the end of term for the subject “British-American Literature” to
stimulate students’ autonomy of Faculty of English at Hanoi National University of Education
Keywords: Effectiveness, revise, renew, autonomy
1. Mở đầu
Sau mỗi một kì học, thời gian ôn tập cuối kì luôn mang
tới cho các sinh viên (SV) của các trường đại học và cao
đẳng nói chung một tâm lí lo lắng vì tr...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 612 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới hình thức ôn tập cuối kì cho môn học “Văn học Anh - Mĩ” nhằm phát huy tính tự chủ cho sinh viên khoa tiếng anh trường Đại học Sư phạm Hà Nội - Đỗ Thị Phi Nga, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199
195
Email: phingadodhsp@gmail.com
ĐỔI MỚI HÌNH THỨC ÔN TẬP CUỐI KÌ CHO MÔN HỌC “VĂN HỌC ANH - MĨ”
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TỰ CHỦ CHO SINH VIÊN KHOA TIẾNG ANH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Đỗ Thị Phi Nga - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Ngày nhận bài: 15/5/2019; ngày chỉnh sửa: 22/5/2019; ngày duyệt đăng: 31/5/2019.
Abstract: Ways of revising knowledge for each subject effectively at the end of term is always
challenging for both students and lecturers at universities and colleges. This article discusses a new
way to revise knowledge at the end of term for the subject “British-American Literature” to
stimulate students’ autonomy of Faculty of English at Hanoi National University of Education
Keywords: Effectiveness, revise, renew, autonomy
1. Mở đầu
Sau mỗi một kì học, thời gian ôn tập cuối kì luôn mang
tới cho các sinh viên (SV) của các trường đại học và cao
đẳng nói chung một tâm lí lo lắng vì trong một khoảng thời
gian ngắn từ 2 hoặc 3 tuần, các em phải ôn tập, rà soát lại tất
cả các kiến thức đã học của tất cả các môn học trong học kì.
SV của Khoa Tiếng Anh của Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội cũng không là một ngoại lệ. Cuối kì học, SV thường
phải ôn tập cho 6 hoặc 7 môn học với số lượng khoảng 25-
30 đơn vị tín chỉ với thời gian rất ngắn. Mỗi một môn học
tính cho tới cuối kì học đều có một lượng kiến thức tương
đối lớn. Làm thế nào để mỗi SV có thể tiếp thụ một lượng
kiến thức của 15 tuần học trong mỗi kì theo cách nhẹ nhàng
và hiệu quả nhất, không mang tính áp đặt? Đây chính là
những trăn trở của mỗi giảng viên Khoa Tiếng Anh của
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Sau một vài năm nghiên cứu, thử nghiệm và rút kinh
nghiệm, các giảng viên của Bộ môn Văn hóa văn minh Anh
- Mĩ của Khoa Tiếng Anh của Trường đã mạnh dạn đổi mới
và áp dụng cách ôn tập mới cho môn Văn học Anh - Mĩ cho
SV chuyên tiếng Anh thông qua buổi ôn tập có tên “Ngày
Sân khấu” (On the Stage Day). Buổi ôn tập là sự hội tụ của
một loạt các hoạt động khác nhau nhằm sinh động hóa cách
ôn tập môn học, khai thác triệt để tính tự chủ của tất cả các
SV, biến mỗi SV thực sự trở thành các diễn viên, nhà thơ
hay nhà văn trong một thời lượng nhất định và tự mình “hóa
thân” vào các tác phẩm văn học và theo chúng tôi thì đó
chính là cách ôn tập kiến thức khá hiệu quả cho môn học
Văn học Anh - Mĩ có đặc thù riêng này.
Bài viết nêu, phân tích một số hình thức đổi mới cho
cách ôn tập cuối kì môn Văn học Anh - Mĩ nhằm phát huy
tính tự chủ cho SV khối chuyên Anh tại Khoa Tiếng Anh,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm “Tự chủ trong học tập”
Theo các nhà sư phạm học thì tự học là quá trình mà
người học chủ động chiếm lĩnh kiến thức, không trông chờ,
dựa dẫm vào sự thúc ép, bắt buộc phải học hay lĩnh hội kiến
thức từ phía người thầy. Có rất nhiều định nghĩa về tự chủ
trong học tập. Nếu như Holmes & Ramos (1991) trích từ
James và Garret (trang 198) cho rằng tự chủ trong học tập
là “Để giúp người học có kiểm soát nhiều hơn về việc học
tập của chính mình thì điều quan trọng là phải giúp họ nhận
ra được và phát hiện ra được các chiến thuật học tập họ đã
sử dụng hoặc đã sử dụng một cách rất tiềm năng” [1] thì
cũng tương tự như thế, David Little đã cho rằng: “Tự chủ là
một vấn đề then chốt trong mối quan hệ về mặt tâm lí của
người học với quá trình và nội dung học tập”. Nhìn chung,
các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở quan điểm cho rằng tự
chủ trong học tập là sự tự giác chiếm lĩnh kiến thức và quá
trình này phải tạo ra từ động cơ học tập tích cực xuất phát từ
mong muốn tự nguyện của người học. Có sự tự chủ trong
học tập tức là nói về chủ thể của sự tự chủ này: đó chính là
người học tự chủ. Khái niệm “người học tự chủ” phụ thuộc
vào người đưa ra khái niệm, hoàn cảnh và mức độ của
những nhà giáo dục tranh luận với nhau và đây có thể coi là
một khái niệm mang đặc điểm của sinh vật ưu tú nhất trên
hành tinh trái đất đó là loài người; khái niệm “tự chủ” còn
được coi như là một “phép đo” về động cơ chính trị, hay
một động cơ của giáo dục. Những so sánh trên xuất phát từ
thực tế sự tự chủ trong học tập được coi như vừa là một
phương tiện cũng vừa là mục đích của giáo dục.
2.2. Tự chủ trong học ngoại ngữ
Henri Holec (1981) - người có định nghĩa gần như đầu
tiên về người học tự chủ đã đưa ra định nghĩa trong cuốn “Tự
chủ và việc học ngoại ngữ” thì “Tự chủ là khả năng chịu trách
nhiệm về việc học tập của chính mình”. Một trong những vấn
đề tối cần thiết là cách chúng ta nhìn nhận thế nào là người
học tự chủ. Chúng ta phải quán triệt hai lựa chọn không thể
loại trừ nhau là dạy ngoại ngữ cho người học đồng thời dạy
người học cách học và hai lựa chọn này cùng nhằm tới việc
học tập nói chung cũng như học ngoại ngữ nói riêng. Theo
như lí thuyết mới của tâm lí học Vygotsky vốn ủng hộ tinh
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199
196
thần học tập tự chủ thì sự trau dồi và phát triển các kĩ năng của
người học không bao giờ hoàn toàn tách biệt với nội dung học
tập coi việc học một thứ tiếng ngoại ngữ khác biệt với việc
học một môn học bất kì nào khác. Điều quan trọng là người
học phải tự mình phát hiện ra những vấn đề ngôn ngữ kèm
với sự chỉ dẫn khiêm tốn của người dạy để giúp họ hiểu thấu
đáo vấn đề. Người học phải biến quá trình học thành quá trình
tự học. Tác giả Thái Duy Tuyên (2003) đã đưa ra khái niệm
“tự học” trong bài giảng về chuyên đề Dạy tự học cho SV
trong các nhà trường trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng
tại Trường Đại học Huế: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm
lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ,
sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích,
tổng hợp) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm
lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh
nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu
của chính bản thân người học” [2; tr 5]. Như vậy, người học
tự chủ là người chủ động tự đào tạo mình theo sự chỉ dẫn, gợi
mở của người dạy.
2.3 Đổi mới phương pháp giảng dạy là kết hợp người học
tự chủ với người dạy tự chủ
Trong những năm gần đây, khái niệm “người dạy tự chủ”
được các nhà nghiên cứu cũng như các nhà sư phạm đều rất
quan tâm. Theo như tinh thần của bài báo “Người dạy tự chủ”
(2014) của trang web có tên “Từ điển về đổi mới giáo dục”
(The Glossary of Education Reform) thì người dạy tự chủ đề
cập tới sự độc lập trong chuyên môn của người dạy ở cơ sở
đào tạo đặc biệt ở mức độ họ có thể đưa ra những quyết định
tự chủ về việc dạy cái gì cho người học cũng như dạy người
học thế nào. Đây là vấn đề gây tranh cãi ở nhiều quốc gia và
vì hướng tới sự tự chủ của người dạy thì các chính sách về
giáo dục dường như hạn chế sự phát triển chuyên môn, tính
tự chủ, tính linh hoạt, sự sáng tạo cũng như sự hiệu quả của
người dạy rất nhiều. Các nhà nghiên cứu, các nhà sư phạm
phải làm sao để kết hợp sự tự chủ của cả người học lẫn người
dạy hoặc nói cách khác là đổi mới phương pháp giảng dạy để
kết hợp người học tự chủ với người dạy tự chủ để tạo ra sản
phẩm giáo dục tối ưu nhất.
Ở Việt Nam, sự kết hợp người học tự chủ với người dạy
tự chủ là việc phải làm sao tìm ra phương pháp dạy và học
phù hợp với các chính sách giáo dục và đạt được các mục
tiêu giáo dục đề ra. Cụ thể sự đổi mới phương pháp giảng
dạy phải nhằm tới hiện thức hóa Nghị Quyết Trung ương 4
khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(12/1996) và như trong Luật Giáo dục sửa đổi ban hành
ngày 27/6/2005, điều 2.4, đã xác định rõ ràng: “Phương
pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
tư duy sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho người học
năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập
và ý chí vươn lên”. Để khơi nguồn và phát huy tính tự chủ
của người học thì người dạy phải hướng dẫn các kĩ năng mà
người học phải rèn luyện để tự mình xây dựng kế hoạch học
tập, tự tìm kiếm và xây dựng thời gian biểu để ôn luyện kiến
thức đã học, dựa trên cơ sở của những vấn đề đã biết để tiếp
tục chinh phục những vấn đề mới hoặc áp dụng những kiến
thức đã học để bắc cầu phát triển kiến thức từ tầm gần vươn
tới tầm cao.
2.4. Đổi mới cách thức ôn tập môn Văn học Anh - Mĩ đối
với sinh viên chuyên Anh tại Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội
2.4.1. Thực trạng yêu cầu ôn tập môn Văn học Anh - Mĩ
đối với sinh viên chuyên Anh tại Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội
Theo như phân bổ chương trình đào tạo cử nhân tiếng
Anh tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thì các SV Khoa
Tiếng Anh sẽ học môn Văn học Anh - Mĩ vào học kì 5, tức
là môn học được học khi SV là năm thứ ba của chương trình
đào tạo cử nhân 4 năm với thời lượng theo yêu cầu là: trên
lớp: gồm 4 đơn vị học trình hay 4 tín chỉ; tự học: gồm 8 đơn
vị học trình hay 8 tín chỉ. Với chương trình học của 15 tuần
của học kì thì khi kết thúc môn học, SV ôn luyện toàn bộ
chương trình học để đạt được yêu cầu về kiến thức cụ thể là:
1) Nắm được nền tảng cơ bản và sự phát triển của hai nền
văn học Anh và Mĩ qua tất cả các giai đoạn hay các trào lưu
văn học khác nhau theo chiều dài lịch sử hai quốc gia;
2) Đọc được các nguyên tác và đưa ra được bình luận và sự
phân tích của chính mình về các tác phẩm văn học của hai
nền văn học; 3) Viết được tóm tắt hay bài bình luận hoặc
cảm nghĩ về các tác phẩm văn học của hai nền văn học;
4) Phát triển những kĩ năng ngôn ngữ có sẵn để nâng cao kiến
thức về về việc học ngoại ngữ từ việc nghiên cứu, khảo sát
ngôn ngữ đích thông qua các văn bản thật của ngôn ngữ đó.
Yêu cầu của bài thi hết môn học thường có ba câu hỏi:
1) Tóm tắt về cuộc đời và sự nghiệp của một tác giả yêu
thích trong hai nền văn học; 2) Bình luận hay phân tích về
một tác phẩm của văn học Anh; 3) Bình luận hay phân tích
về một tác phẩm của văn học Mĩ.
Từ yêu cầu trên của bài thi hết môn học, SV phải rà soát
lại toàn bộ kiến thức về hai nền văn học Anh và Mĩ. Cùng
lúc các SV phải ôn lại lịch sử phát triển của hai nền văn học
trái qua các thời kì khác nhau là gì, trong mỗi giai đoạn phát
triển thì có những đặc điểm gì về bối cảnh kinh tế, chính trị,
văn hóa, khoa học kĩ thuật dẫn tới sự ra đời của trào lưu văn
học và trong mỗi gia đoạn có những tác giả, tác phẩm nào
tiêu biểu nhất. Khi phân tích một tác phẩm văn học, các SV
phải nắm được hoàn cảnh, xuất xứ của tác phẩm cũng như
tư tưởng sáng tác của tác giả. Sự phân tích cảm nhận về mỗi
tác phẩm phải toát lên lăng kính và văn phong của tác giả
cũng như phải nêu được sự thống nhất của tác phẩm nằm
trong một giai đoạn văn học riêng biệt hoặc một trào lưu văn
học cụ thể được minh họa qua ngòi bút của tác giả để vừa
có cái chung vừa có cái riêng mang dấu ấn của từng tác giả.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199
197
2.4.2. Những thuận lợi và khó khăn khi ôn tập môn Văn học
Anh - Mĩ đối với sinh viên chuyên Anh tại Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội
Khi ôn tập cho kì thi cuối kì SV chuyên Anh tại trường
có nhiều thuận lợi nói chung với tất cả các môn học trong
học kì cũng như với môn học Văn học Anh - Mĩ nói riêng.
Thứ nhất, chương trình học được thống nhất ngay từ đầu
học kì với sự phân chia thời lượng cũng như nội dung cụ thể
của từng tuần học và kèm theo cả nội dung ôn tập trên lớp,
yêu cầu về kiến thức khi hoàn thành môn học một cách rất
rõ ràng. Do vậy, SV có thể lên kế hoạch học tập khoa học
cho cả kì học, không rơi vào tình trạng lúng túng với nội
dung học cái gì hay học thế nào cho đủ lượng kiến thức yêu
cầu. Thứ hai, chương trình học đã nêu rõ tỉ trọng của các
thành tố tạo nên điểm hết học phần của môn học trong cả
học phần bằng hệ thống kiểm tra liên tục trong quá trình học.
Cụ thể: tỉ trọng chuyên cần: 10%, điểm kiểm tra giữa kì
(gồm 02 bài thuyết trình theo nhóm - 01 bài thuyết trình về
nền văn học Anh - 01 bài thuyết trình về nền văn học),
chiếm tỉ trọng 30% và bài thi cuối học phần chiếm tỉ trọng
60%. Thuận lợi lớn nhất khi SV ôn tập môn Văn học Anh -
Mĩ đó là sự chăm chỉ, nhiệt tình và tình yêu dành cho môn
học của các SV.
Bên cạnh các thuận lợi trên, SV chuyên Anh của
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cũng gặp không ít khó
khăn khi ôn tập môn học văn học Anh - Mĩ cuối học kì.
Trước hết, đó là sự eo hẹp về thời gian. Với thời gian học
trên lớp là 15 tuần và thời gian ôn thi khoảng 2 tuần cho rất
nhiều môn học cùng học trong học kì thường là 6-7 môn
học với tổng số khoảng 25-30 tín chỉ, việc ôn tập cả một
chương trình của 15 tuần học trong một thời gian ngắn như
thế là một thách thức không nhỏ cho tất cả các SV. Thứ hai,
với môn học có đặc thù này thì bài thi hết môn luôn đòi hỏi
SV phải có sự chuẩn bị khá nhiều ở nhà vì đó là sự thẩm
thấu kiến thức về các tác giả, tác phẩm cũng như khả năng
ngôn ngữ trong việc viết các cảm nhận, tóm tắt hay bình
luận của cá nhân.
2.4.3. Những đổi mới về cách thức ôn tập môn Văn học Anh
- Mĩ đối với sinh viên chuyên Anh tại Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội
Với nội dung ôn tập nhiều và có thể nói không đơn giản
cho SV theo đặc thù môn học, nếu giảng viên chỉ yêu cầu
SV ôn tập bằng cách học vẹt về cuộc đời, sự nghiệp của các
tác giả trong hai nền văn học hay học thuộc lòng những đặc
điểm của các giai đoạn hay các trào lưu văn học thì thời gian
ôn tập sẽ vô cùng căng thẳng cho SV và kết quả của thời
gian ôn tập cũng không thể tốt vì SV không tương tác với
thầy, cô cũng như với các bạn trong lớp và quá trình ôn tập
sẽ chỉ là quá trình ghi nhớ kiến thức một cách thụ động. Từ
những trăn trở làm thế nào để giúp SV giảm thiểu sự căng
thẳng khi ôn tập kiến thức cho môn học văn học Anh - Mĩ
này và làm thế nào để biến quá trình ôn tập trở thành một
chuỗi các hoạt động sinh động và giúp người học ghi nhớ
kiến thức một cách chủ động, hào hứng, các giảng viên của
Bộ môn Văn hóa Văn minh Anh - Mĩ thuộc Khoa Tiếng
Anh của Trường đã xây dựng chương trình ôn tập với các
nội dung ôn tập đều được “sân khấu hóa” nhằm biến các nội
dung ôn tập cho môn học trở thành các phần thi sôi động và
phát huy tối đa khả năng sáng tạo, tự chủ của các SV.
2.4.3.1. Xây dựng chương trình ôn tập hiệu quả với các hoạt
động sinh động, đa dạng
Chương trình ôn tập được gửi cho SV ngay từ đầu học
kì để mỗi SV đều có thể tự nguyện tham gia vào hoạt đông
mà mình yêu thích và cảm thấy có khả năng nhất. Buổi ôn
tập được mang tên “Ngày sân khấu” đã trở thành một sự
kiện được SV mong chờ nhất trong kì học. Cụ thể trong
chương trình, 6 hoạt động lớn được nối tiếp nhau:
- Thi làm người kể chuyện (Story-teller contest): SV sẽ
chọn một tác phẩm trong hai nền văn học Anh hoặc Mĩ và
chủ động vào vai của các nhân vật trong tác phẩm. Tác
phẩm SV có thể chọn tác phẩm là trích đoạn của một vở
kịch, tiểu thuyết hay truyện ngắn mà mình yêu thích và thời
lượng 5 phút trên sân khấu thực sự là sự hội tụ của một thời
gian chuẩn bị rất công phu từ lời thoại, trang phục, bối cảnh
của SV dành cho tác phẩm mà mình yêu thích.
- Thi làm người đọc tài năng (Reader’s contest): SV sẽ
thi theo đội 4 người - trong thời gian 2 phút mỗi đội sẽ trả
lời 10 câu hỏi gồm vừa câu hỏi mở, câu hỏi lựa chọn A, B,
C, D và câu hỏi phải điền từ vào chỗ trống để hoàn thành
câu. Nội dung của tất cả các câu hỏi đều liên quan tới tác
giả, tác phẩm, trào lưu văn học hoặc các khái niệm hay các
thủ pháp nghệ thuật cơ bản trong chuyên ngành văn học như
phép lặp từ (alliteration), phép nhân cách hóa
(personification)
- Thi làm người ứng tác thơ (Improvisator’s contest):
các SV theo đội 4 người sẽ ứng tác một bài thơ theo thể bình
hành (diamante), hoặc thơ vui (limerick)
- Thi tìm thông thái (Wisdom contest): một truyện ngụ
ngôn được giáo viên lựa chọn và chia làm nhiều đoạn văn
ngắn rồi xáo trộn trình tự. Trong thời gian 2 phút, các đôi
SV dự thi phải sắp lại được trình tự đúng và tự viết bài học
về đạo đức hay ứng xử sau câu chuyện ngụ ngôn.
- Thi làm nhà văn (Writer’s contest): SV sẽ hoàn thành
phần giữa một câu chuyện đã cho các phần đầu và cuối hoặc
hoàn thành phần kết của một câu chuyện đã cho phần đầu.
- Thi minh họa tranh (Illustrator’s contest): SV sẽ phác
họa một bức tranh theo nội dung của một tác phẩm văn học.
2.4.3.2. Phát huy tối đa tính tự chủ và sáng tạo của sinh viên
Ở mỗi phần thi là sự phát huy tối đa tính tự chủ, sáng tạo
của SV. Điều này thể hiện ở sự tự chủ tìm tòi kiến thức về
các lĩnh vực khác nhau như thời đại văn học, trào lưu văn
học, trang phục của con người thời đại đó, tiếng Anh được
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199
198
nói hay dùng phổ biến của thời gian đó. Để chuẩn bị cho
mỗi phần thi cũng chính là các nội dung ôn tập cho môn học
cuối kì, mỗi SV đều phải tự tìm kiếm thời gian ngoài lớp
học cũng như sự tự chủ của mình để chuẩn bị kĩ càng cho
phần dự thi. Chẳng hạn, nếu chọn tham gia phần “Thi làm
người kể chuyện” (Story-teller contest), SV phải chủ động
chọn tác phẩm, hiểu được mỗi nhân vật trong tác phẩm,
thuộc lời thoại, diễn theo tâm lí và vai trò nhân vật trong tác
phẩm. Một phần nữa là khi trình bày tác phẩm, đội thi phải
kết hợp 3 yếu tố tạo nên thành công của phần dự thi: kết hợp
khéo léo giữa lời thoại, bối cảnh và trang phục. Mỗi phần
dự thi là cả một sự nỗ lực không nhỏ của mỗi SV để thực
hiện tròn vai mình chọn và cho dù là phần làm thơ, vẽ tranh
minh họa hay sáng tác một phần tác phẩm thì yếu tố chính
tạo nên thành công chính là sự tự chủ và sáng tạo của SV
trong học tập được phát huy ở mức cao nhất.
2.4.3.3. Áp dụng nhiều hình thức khen thưởng tại chỗ
Để động viên kịp thời những nỗ lực học tập của SV, đặc
biệt cho những kết quả rất đáng trân trọng của mỗi SV tham
gia vào các phần thi khác nhau, các giảng viên bộ môn Văn
hóa văn minh Anh - Mĩ đã có những hình thức khen thưởng
tại chỗ cho các SV ngay tại sự kiện “Ngày sân khấu”. Các
phần thưởng tuy không lớn về giá trị vật chất nhưng thiết
thực như các món quà là đồ dùng học tập hàng ngày như
bút nhớ dòng, phiếu ghi nhớ, bút viết, ghim cài giấy
nhưng là những sự ghi nhận sự tự chủ, sáng tạo và đầu tư
nghiêm túc của các SV dành cho môn học. Các hình thức
khen thưởng cũng đa dạng như có thể là lời khen của giáo
viên, lời nhận xét tích cực về một phần thể hiện nội dung
trong phần thi từ phía ban giám khảo, một món quà văn
phòng phẩm hay một túi đồ ăn dành cho đội chiến thắng hay
chính là sự trao tặng chính sản phẩm của phần thi như là các
bài thơ trong phần ứng tác thơ, các bức tranh sau phần minh
họa cho tác phẩm nhưng đều có tác dụng động viên tại chỗ
những SV đã hoàn thành tốt nhiệm vụ ôn tập của mình
thông qua phần thể hiện ở phần thi.
2.4.3.4. Rút kinh nghiệm và liên tục hoàn thiện chương trình
ôn tập
Sau mỗi một buổi tổ chức ôn tập có tên “Ngày Sân
khấu” nhóm giảng viên của Bộ môn Văn hóa văn minh Anh
- Mĩ thuộc Khoa tiếng Anh của Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội lại cùng rà soát lại chương trình của buổi ôn tập để
rút kinh nghiệm cho những lần sau có được chương trình có
các hoạt đông đặc sắc về nội dung cần ôn tập với thời lượng
của từng hoạt động phù hợp với những điều kiện về cơ sở,
vật chất của lớp học, độ thẩm thấu của SV với môn học cũng
như đảm bảo phát huy cao nhất sự tự chủ, sáng tạo của SV.
Chương trình ôn tập đã trải qua một số năm thử nghiệm và
sau mỗi lần thực hiện chương trình, những hoạt động thể
hiện những ưu điểm được giữ lại để phát huy và những bất
cập được thay thế bằng những hoạt động mới hợp lí hơn và
tối ưu hơn. Trong mỗi hoạt động, các nội dung cụ thể cũng
được rà soát lại kĩ hơn sao cho sát với nội dung SV cần phải
ghi nhớ và thể hiện ra bằng các kênh giao tiếp sinh động
khác nhau. Ví dụ, khi mới thực hiện chương trình ở phần
“Thi làm người kể chuyện” (Story-teller contest), lúc đầu
chương trình chỉ yêu cầu SV thể hiện đúng kịch bản từ
nguyên tác, sau đó yêu cầu đã thay đổi vì cho phép SV có
thể thay đổi kịch bản từ nguyên tác sao cho sự thay đổi phải
thể hiện được sự sáng tạo của người kể chuyện, các yếu tố
mới hài hước, hoặc dí dỏm được đan xen giúp cả người kể
chuyện lúc này đã trong vai của các nhân vật trong tác phẩm
thấy vui hơn vì được thỏa sức sáng tạo mà cả người nghe kể
chuyện cũng vô cùng hào hứng theo dõi. Hoặc như ở phần
“Thi làm người ứng tác thơ” (Improvisator’s contest) đã
tăng thêm nội dung cũng như thời lượng cho hoạt động này
từ việc SV có 7 phút để ứng tác một bài thơ hình bình hành
(diamante) theo thể lệ đã cho nhưng sau đó có thêm 3 phút
để viết 2 câu sử dụng phép ẩn dụ (metaphor) rồi có 1 phút
để thuyết trình về phép ẩn dụ đã thể hiện ở 2 câu mà cả nhóm
đã đưa ra thông qua sản phẩm là bài thơ. Sau khi đã dùng
phép ẩn dụ đặt được 2 câu và giải thích được ý nghĩa của 2
câu thơ đó thì chắc chắn các SV sẽ nắm chắc được thủ pháp
nghệ thuật này trong văn học.
3. Kết luận
Phát huy tính tự chủ, sáng tạo của SV để biến quá trình
đào tạo thành quá trình tự đào tạo, chủ động chiếm lĩnh tri
thức là yêu cầu tối cần thiết cho các SV ở các trường cao
đẳng và đại học. Trong thực tế, muốn quá trình tự đào tạo
của SV thực sự đạt kết quả tốt cũng như có tác dụng trong
việc xây dựng thói quen học tốt thì yếu tố cốt lõi là nhờ
vào sự hướng dẫn, định hướng của giảng viên và sự tự nỗ
lực của SV. Ý thức xây dựng thói quen chủ động chiếm
lĩnh tri thức, tự khám phá các môn học, tiếp thu kiến thức
một cách chủ động luôn là chìa khóa thành công cho mọi
người học. Trong quá trình học tập, sự định hướng, giúp
đỡ của giảng viên đóng vai trò quan trọng để sự tự chủ học
tập của người học được phát triển đúng hướng, vừa tiết
kiệm thời gian học cũng như khơi dậy được tiềm năng, thế
mạnh của người học; và quan trọng là giúp người học
trong thời gian ngắn nhất đi tới đích nhanh nhất. Để góp
phần cho người học tới đích trong thời gian ngắn nhất thì
việc đưa ra các chiến thuật học tập, ôn luyện kiến thức đã
học để kiến thức thực sự không phải “dừng chân” chỗ
người thầy hoặc trong sách vở mà thực sự biến thành kiến
thức của người học là cả một nghệ thuật của khoa học, của
việc liên tục đổi mới các phương pháp học cũng như ôn
luyện kiến thức đã học phù hợp rất quan trọng. Chỉ có sự
nỗ lực không ngừng của người thầy “lấy người học làm
trung tâm” nhằm tìm ra những biện pháp nhằm đổi mới
phương pháp ôn luyện kiến thức cuối môn học cộng
hưởng với sự ham mê học hỏi, sáng tạo và chủ động tiếp
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199
199
thu tri thức của người học sẽ mang lại những kết quả tốt
đẹp trong quá trình dạy và học.
Tài liệu tham khảo
[1] Little, D. (1991). Learner Autonomy and second/
foreign Language Learning. Dublin: Authentik.
[2] Thái Duy Tuyên (2003). Dạy tự học cho sinh viên
trong các nhà trường cao đẳng, đại học chuyên
nghiệp. Chuyên đề Phương pháp dạy học cho học
viên cao học, Đại học Huế.
[3] Rindley, G. (1989). Assessing achievement in the
learner-centered curriculum. Sydney: National
Center for English Language Teaching and
Research.
[4] Đặng Xuân Hải (2007). Tính tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của giảng viên và của sinh viên trong đào tạo
theo hệ thống tín chỉ. Tạp chí Giáo dục, số 175, tr 5-7.
[5] Dominique Rabine-Bucknor (2010). Adult
Teaching and Learning: Self Directed Learning,
Application Paper, Colorado State University.
[6] Henri Holec (1979). Autonomy and Foreign
Language Learning, Council for Cultural
Cooperation, Strasbourg (France).
[7] Lâm Quang Thiệp (2008). Về việc áp dụng học chế
tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam. Kỉ yếu Hội thảo
khoa học, Trường Đại học Vinh.
[8] Leslie Dickinson (1992). Learner Autonomy:
Learner Training for Language Learning
(Volume 2). Paperback - November.
[9] Lưu Xuân Mới (2000). Lí luận dạy học đại học.
NXB Giáo dục.
[10] Nguyễn Thị Thu Huyền (4/2016). Vai trò của kĩ
năng tự học (ngoài lớp học). Cổng thông tin điện tử
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
[11] Phil Banson (2005). Autonomy in language
learning, Longman.
[12] The glossary of Education Reform (2014).
https://www.edglossary.org/teacher-autonomy/.
[13] Vygotsky S.L.(2004). Imagination and Creativity in
Childhood. Journal of Russian and East European
Psychology, Vol. 42, No. 1, January-February,
pp. 7-97, M.E. Sharpe, Inc.
[14] Chính phủ (2012). Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày
13/6/2012 về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển
giáo dục 2011-2020.
[15] Citation: Huitt, W. (1998). Critical thinking: An
overview. Educational Psychology Interactive.
Valdosta, GA: Valdosta State University.
[16] De Bono, E. (1970). Lateral thinking: creativity step
by step. Harper & Row, pp. 300. ISBN 0-14-
021978-1.
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
(Tiếp theo trang 179)
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Thanh niên trường học (2007). Định hướng giá
trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. NXB
Thanh niên.
[2] Nguyễn Thanh Bình (2007). Giáo trình Giáo dục kĩ
năng sống (dành cho sinh viên cao đẳng sư phạm).
NXB Đại học Sư phạm.
[3] Tăng Bình - Thu Huyền - Ái Phương (2012). Ứng
xử sư phạm và giáo dục kĩ năng mềm trong nền giáo
dục hiện nay. NXB Hồng Đức.
[4] Lê Văn Chiến (2006). Kĩ năng sống dành cho bạn
trẻ. NXB Trẻ.
[5] Chu Văn Đức (2005). Giáo trình kĩ năng giao tiếp.
NXB Hà Nội.
[6] Hoàng Thị Hiền (2014). Giáo trình kĩ năng mềm
- Tiếp cận theo hướng sư phạm tương tác. NXB Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
[7] Huỳnh Văn Sơn (2013). Thử nghiệm một vài biện
pháp phát triển kĩ năng mềm cho sinh viên đại học
Sư phạm. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 50, tr 68-77.
THỰC TRẠNG GIÁO VIÊN MẦM NON
(Tiếp theo trang 146)
Tài liệu tham khảo
[1] Phạm Thị Mai Chi - Bùi Kim Tuyến - Lương Thị
Bình - Phan Lan Anh (2005). Hướng dẫn hoạt động
cho trẻ 1-3 tuổi. NXB Giáo dục TP. Hồ Chí Minh.
[2] Ngọc Thị Thu Hằng (2014). Giới thiệu phương pháp
giáo dục Montessori. Tạp chí Khoa học, Trường Đại
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 57, tr 125-139.
[3] Ngô Hiểu Huy (2013). Phương pháp giáo dục
Montessori - Phương pháp giáo dục tối ưu dành cho
trẻ 0-6 tuổi. NXB Văn hóa - Thông tin.
[4] Lý Lợi (2014). Phương pháp Giáo dục Montessori
- Thời kì nhạy cảm của trẻ. NXB Đại học Sư phạm.
[5] Maria Montessori (2008). Dạy con trước tuổi lên 3.
NXB Lao động.
[6] Patricia Giardiello (2014). Pioneers in early
childhood education. Routledge, London and New
York.
[7] Rambusch Nancy Mccormick (1988). Dr. Montessori's
own handbook. Schocken books, New York.
[8] Aline D. Wolf. (1995). A parents' guide to the
Montesssori classroom. Parent child press.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 40do_thi_phi_nga_4829_2148392.pdf