Tài liệu Đối chiếu cách thể hiện ý nghĩa công cụ Nga - Việt nhìn từ góc độ ngôn ngữ học ứng dụng - Đoàn Hữu Dũng: 31KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chức năng của khoa học là đi tìm bản chất,
thuộc tính và quy luật của các hiện tượng và tiến
hành các ứng dụng nhằm phục vụ cho lợi ích của
con người. Như vậy, khoa học có hai phương diện
là lý thuyết và ứng dụng. Lý thuyết là đối tượng
của khoa học cơ bản còn ứng dụng lại gắn với kỹ
thuật và công nghệ. Theo đó, phương pháp tiếp cận,
cũng được chia thành hai nhánh là lý thuyết và ứng
dụng. Ngôn ngữ học là khoa học về ngôn ngữ nên
cũng có hai hướng tiếp cận nghiên cứu như vậy.
Trong ngôn ngữ học, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ
là một ý nghĩa mang tính phổ quát, và tiếng Nga
với tiếng Việt không phải là những trường hợp
ĐOÀN HỮU DŨNG*
*Học viện Khoa học Quân sự, doandung8782@gmail.com
Ngày nhận bài: 13/6/2018; ngày sửa chữa: 12/7/2018; ngày duyệt đăng: 30/8/2018
ĐỐI CHIẾU CÁCH THỂ HIỆN Ý NGHĨA
CÔNG CỤ NGA - VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
NGÔN NGỮ HỌC ỨNG DỤNG
TÓM TẮT
Mặc dù Ngôn ngữ ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 656 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đối chiếu cách thể hiện ý nghĩa công cụ Nga - Việt nhìn từ góc độ ngôn ngữ học ứng dụng - Đoàn Hữu Dũng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chức năng của khoa học là đi tìm bản chất,
thuộc tính và quy luật của các hiện tượng và tiến
hành các ứng dụng nhằm phục vụ cho lợi ích của
con người. Như vậy, khoa học có hai phương diện
là lý thuyết và ứng dụng. Lý thuyết là đối tượng
của khoa học cơ bản còn ứng dụng lại gắn với kỹ
thuật và công nghệ. Theo đó, phương pháp tiếp cận,
cũng được chia thành hai nhánh là lý thuyết và ứng
dụng. Ngôn ngữ học là khoa học về ngôn ngữ nên
cũng có hai hướng tiếp cận nghiên cứu như vậy.
Trong ngôn ngữ học, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ
là một ý nghĩa mang tính phổ quát, và tiếng Nga
với tiếng Việt không phải là những trường hợp
ĐOÀN HỮU DŨNG*
*Học viện Khoa học Quân sự, doandung8782@gmail.com
Ngày nhận bài: 13/6/2018; ngày sửa chữa: 12/7/2018; ngày duyệt đăng: 30/8/2018
ĐỐI CHIẾU CÁCH THỂ HIỆN Ý NGHĨA
CÔNG CỤ NGA - VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
NGÔN NGỮ HỌC ỨNG DỤNG
TÓM TẮT
Mặc dù Ngôn ngữ học ứng dụng đã từng được đề cập từ rất lâu nhưng phải đến thế kỷ XX mới thực
sự là một địa hạt được chú ý nghiên cứu, phát triển và trở thành một phân ngành quan trọng trong
nghiên cứu ngôn ngữ. Ngôn ngữ học ứng dụng ra đời sau nên đã thừa hưởng những thành tựu của
việc áp dụng lý thuyết ngôn ngữ học vào đời sống ngôn ngữ, đã tạo ra những sản phẩm, những dịch
vụ liên quan đến ngôn ngữ. Trong khuôn khổ của bài viết này chúng tôi trình bày một số vấn đề cơ
bản như sau: 1) làm rõ khái niệm ngôn ngữ học ứng dụng; 2) kiến giải ngôn ngữ học đối chiếu có thể
coi là thuộc ngôn ngữ học ứng dụng; 3) phân tích đối chiếu ý nghĩa công cụ và phương thức thể hiện
ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga và tiếng Việt.
Từ khoá: ngôn ngữ học ứng dụng, ngôn ngữ học đối chiếu, công cụ, ý nghĩa ngữ pháp, lỗi
ngoại lệ. Tuy nhiên, do đặc điểm loại hình ngôn
ngữ khác nhau nên việc thể hiện ý nghĩa ngữ pháp
này trong hai ngôn ngữ Nga – Việt vừa có điểm
giống nhau vừa có điểm khác biệt. Việc nghiên
cứu đối chiếu cách thể hiện ý nghĩa ngữ pháp chỉ
công cụ giữa hai ngôn ngữ Nga – Việt có tính hữu
dụng rất lớn trong nghiên cứu lí thuyết và ứng
dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn dạy – học.
2. NỘI DUNG
2.1. Ngôn ngữ học ứng dụng là gì?
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất và là công cụ của tư duy. Nghiên cứu ngôn
ngữ là phải nghiên cứu cả ba phương diện: bản
32 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
chất, hệ thống và hoạt động của nó trong tiến trình
lịch sử và đồng đại (Đinh Văn Đức, 2012, tr.526).
Đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học là
bản chất và chức năng của ngôn ngữ, hệ thống và
cấu trúc của ngôn ngữ, cơ chế của ngôn ngữ và
các hoạt động của ngôn ngữ trong sự tương tác
của xã hội (Đinh Văn Đức, 2012, tr.526). Nếu như
việc nghiên cứu bản chất, chức năng, hệ thống, cấu
trúc, cơ chế của ngôn ngữ chỉ dừng lại ở việc miêu
tả ngôn ngữ trên phương diện lí thuyết thì việc
nghiên cứu các hoạt động của ngôn ngữ trong sự
tương tác của xã hội được coi là những nghiên cứu
triển khai để tiếp cận các ứng dụng của ngôn ngữ
trong đời sống hàng ngày và trong sự phát triển
của khoa học như các sáng chế về font chữ trên
máy tính, các lĩnh vực điều khiển học, lý thuyết
hệ thống và thông tin ứng dụng, dạy và học ngoại
ngữ, làm từ điển điện tử, Việc đưa những thành
tựu của lí thuyết ngôn ngữ học vào đời sống để tạo
ra các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến sử dụng
ngôn ngữ đã hình thành một nhánh chuyên môn
gọi là ngôn ngữ học ứng dụng.
Ngôn ngữ học ứng dụng nên được hiểu là một
hệ thống học thuật về ngôn ngữ, có đối tượng và
phương pháp riêng, nhằm tới kết quả của việc áp
dụng những kiến thức và phương pháp ngôn ngữ
học vốn có vào các vấn đề của đời sống ngôn ngữ
thực tế, thực tại (thông qua các sản phẩm và các
dịch vụ) (Đinh Văn Đức, 2012, tr.529). Ngôn ngữ
học ứng dụng là một hoạt động khoa học thực tiễn
đặc biệt có mục đích hoàn thiện các tiếp xúc ngôn
ngữ trong xã hội. Ngày nay, thuật ngữ ngôn ngữ
học ứng dụng tiếp tục được sử dụng để chỉ toàn
bộ chuỗi các hoạt động ngôn ngữ dùng các tri thức
của ngôn ngữ học để tạo ra các dạng sản phẩm
ngôn từ có lợi cho mọi lĩnh vực có sự tham gia
của ngôn ngữ. Việc nghiên cứu ngôn ngữ học ứng
dụng thường tập trung vào một số mảng nội dung
lớn là: 1) kí hiệu học ngôn ngữ; 2) giáo dục ngôn
ngữ; 3) các dịch vụ thông tin ngôn ngữ; 4) quản trị
và tiếp thị các sản phẩm ngôn ngữ (Đinh Văn Đức,
2012, tr.530). Các địa hạt mới của ngôn ngữ học
ứng dụng hiện nay cũng đang tiếp tục tăng nhanh
nhằm đáp ứng với sự thay đổi của công nghệ và
trình độ phát triển của xã hội, đặc biệt là cuộc cách
mạng 4.0 đang diễn ra rộng khắp trên toàn thế giới.
Mục tiêu của ngôn ngữ học ứng dụng là phải
đạt đến một sự hiểu biết tối ưu, cung cấp một hệ
thống tri thức và kỹ năng cơ sở để xử lý các công
việc hiện có liên quan đến ngôn ngữ. Không có
một địa hạt đơn lẻ nào của ngôn ngữ học ứng dụng
có thể bao hàm cho mọi tri thức ứng dụng ngôn
ngữ. (Đinh Văn Đức, 2012, tr.532). Hơn thế nữa,
trong ngôn ngữ học ứng dụng, mỗi lĩnh vực đều có
sự tham chiếu các lĩnh vực khác trong nghiên cứu
ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ học ứng dụng, tính liên
ngành khá đa dạng bao gồm từ khoa học xã hội,
nhân văn, nghệ thuật, xã hội học, đến toán học ứng
dụng, vật lí, điều khiển học, điện tử tin học, công
nghệ thông tin,
2.2. Ngôn ngữ học đối chiếu cũng có thể coi
là thuộc ngôn ngữ học ứng dụng
Ngôn ngữ học đối chiếu là một phân ngành
ngôn ngữ học nghiên cứu so sánh hai hoặc nhiều
hơn hai ngôn ngữ bất kì để xác định những điểm
giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ đó
(Bùi Mạnh Hùng, 2008, tr.9). Như vậy, nhiệm vụ
của ngôn ngữ học đối chiếu là phát hiện những nét
giống nhau về cấu trúc, chức năng, hoạt động của
các phương tiện ngôn ngữ được nghiên cứu, đồng
thời nó cũng còn chú ý cả cái khác nhau, xác định
và nhận diện chúng, không tính đến vấn đề các
ngôn ngữ được so sánh có quan hệ cội nguồn hay
thuộc cùng một loại hình hay không. Điều này tạo
thành cái đặc trưng của ngôn ngữ học đối chiếu
so với các phân ngành ngôn ngữ học khác. Mục
đích của việc thực hiện các nhiệm vụ và nội dung
nghiên cứu ấy là nhằm phục vụ cho yêu cầu dạy
– học ngoại ngữ, phiên dịch, soạn sách dạy tiếng,
từ điển, lý thuyết ngôn ngữ nên tính thực tiễn, tính
ứng dụng của ngôn ngữ học đối chiếu là rất cao.
Trong việc dạy – học ngoại ngữ, người học
bao giờ cũng có xu thế áp đặt các thói quen của
tiếng mẹ đẻ cho tiếng nước ngoài (Bùi Hiền, 1997,
33KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
tr.47). Hệ quả là sẽ tạo ra lỗi dùng ngoại ngữ do
chuyển di. Dạy – học ngoại ngữ đương nhiên bao
giờ cũng tạo ra sự tiếp xúc trực tiếp giữa ngoại ngữ
với tiếng mẹ đẻ của người học. Trong sự tiếp xúc
ấy luôn luôn bọc lộ sự tương đồng và khác biệt của
hai ngôn ngữ; và chúng thường xuyên tác động lẫn
nhau trong suốt cả quá trình hình thành các kỹ năng
giao tiếp bằng tiếng nước ngoài. Người học có thể
tự giác hoặc không tự giác nhận thấy những chỗ
giống nhau hoặc khác nhau trong hai ngôn ngữ,
nhưng bao giờ họ cũng tự cảm thấy được sự dễ
dàng hoặc khó khăn trong việc học tập từng hiện
tượng, từng thao tác của tiếng nước ngoài. Nghiên
cứu đối chiếu có thể giúp xác định chính xác
những thuận lợi và khó khăn mà những học viên
có cùng tiếng mẹ đẻ gặp phải khi học một ngoại
ngữ nào đó bằng cách phát hiện những điểm tương
đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Sự phân tích
đối chiếu giúp người ta giải thích nhanh hơn và
đơn giản hơn những lỗi do ảnh hưởng của tiếng
mẹ đẻ, nhờ đó tìm ra những cách thức khắc phục
lỗi có hiệu quả. Đây được coi là vấn đề trung tâm
của ngôn ngữ học đối chiếu theo hướng ứng dụng.
Một mảng ứng dụng lớn nữa của ngôn ngữ
học đối chiếu có liên quan đến hoạt động phiên
dịch, vì công việc phiên dịch cũng cùng một lúc
phải quan hệ với ít nhất hai ngôn ngữ. Lý luận dịch
ngôn ngữ xem xét việc dịch như là một sự chuyển
mã, là một sự cải biến giữa các ngôn ngữ, là một
hoạt động sáng tạo ngôn ngữ từ văn bản gốc ra
bản dịch (Lê Quang Thiêm, 2008, tr.57). Quá trình
dịch được xem là quá trình cải biến giữa hai ngôn
ngữ, trong đó nội dung của bản gốc và bản dịch
hoàn toàn giống nhau mặc dù phương tiện biểu đạt
của hai ngôn ngữ có khác nhau. Quá trình so sánh
đối chiếu bản dịch với bản gốc là cơ sở để đánh giá
kết quả dịch. Quá trình này giúp chỉ ra cách thức
để đạt được cách dịch, xác lập những tương ứng
mang tính quy luật giữa các yếu tố của hai ngôn
ngữ. Đây là những yếu tố rất thiết thực đối với hoạt
động thực tiễn dịch thuật.
Ngôn ngữ học ứng dụng luôn chú ý đến các
loại sản phẩm công cụ hỗ trợ, và một trong đó là
việc biên soạn từ điển. Từ điển là sản phẩm ngôn
ngữ của ngôn ngữ học; là công cụ để tra cứu, tìm
kiếm để giúp đỡ chúng ta lấy những thông tin khác
nhau về ngữ nghĩa, khoa học, (Đinh Văn Đức,
Nguyễn Văn Chính, Đinh Kiều Châu, 2016, tr.51).
Đối với từ điển song ngữ, do phải giải thích nghĩa
và cách dùng của một số lượng rất lớn các đơn vị
từ vựng nên những thông tin về các điểm tương
đồng và dị biệt của những đơn vị được coi là tương
đương trong hai ngôn ngữ thường chưa được chi
tiết và đầy đủ nhưng đó cũng là những đóng góp
hữu dụng rất lớn của ngôn ngữ học đối chiếu.
Như vậy, các phạm vi ứng dụng của ngôn ngữ
học đối chiếu rất rộng lớn và đa dạng, trong đó
ứng dụng vào lĩnh vực dạy-học ngôn ngữ, biên
soạn từ điển hay dịch thuật chỉ là một số hướng
cơ bản và chiếm vị trí khá khiêm tốn trong tương
quan với các hướng ứng dụng nói chung của lĩnh
vực nghiên cứu này. Dưới đây, để làm sáng tỏ hơn
vấn đề hữu quan, chúng tôi sẽ phân tích một vài
khía cạnh có tính chất ứng dụng của ngôn ngữ học
đối chiếu trong khi đối chiếu ý nghĩa công cụ và
phương thức thể hiện nghĩa công cụ trong tiếng
Nga và tiếng Việt.
2.3. Ý nghĩa công cụ và phương thức thể
hiện trong tiếng Nga và tiếng Việt dưới góc độ
ngôn ngữ học ứng dụng
Việc nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ có thể
thực hiện ở tất cả các bình diện: ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp (hình thái học và cú pháp); ở tất cả các
đơn vị thuộc các cấp độ khác nhau của cấu trúc
ngôn ngữ: âm vị, hình vị, từ và các đơn vị của lời
nói: ngữ đoạn và câu. Nghĩa là bình diện nào, cấp
độ nào của hệ thống ngôn ngữ và của lời nói có
thể miêu tả thì cũng có thể nghiên cứu đối chiếu.
Trong tất cả các bình diện trên, so với đối chiếu
ngữ âm và từ vựng thì việc nghiên cứu đối chiếu ở
bình diện ngữ pháp phong phú và đa dạng hơn, nó
có thể là các đơn vị, các lớp ngữ pháp, các cấu trúc
ngữ pháp, các quan hệ và phạm trù ngữ pháp cũng
như những phương tiện biểu hiện các quan hệ và
phạm trù này. Để làm rõ hơn những điểm trên đây,
34 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
chúng ta có thể phân tích một đối chiếu cụ thể để
làm minh chứng: đó là đối chiếu ý nghĩa ngữ pháp
chỉ công cụ và phương thức thể hiện trong tiếng
Nga và tiếng Việt.
Ý nghĩa công cụ trong ngữ pháp gần như một
phổ niệm ngôn ngữ gặp trong hầu khắp mọi thứ
tiếng. Nhưng cách biểu hiện ý nghĩa công cụ trong
mỗi ngôn ngữ có thể khác nhau, do đặc điểm loại
hình và cấu trúc ngữ pháp cụ thể của chúng quy
định. Theo chúng tôi, ý nghĩa ngữ pháp công cụ là
một loại ý nghĩa ngữ pháp của phạm trù ngữ pháp
công cụ, biểu thị cách thức, phương thức, phương
tiện để thực hiện một hành động nào đó nhằm một
mục đích nào đó và được thể hiện chủ yếu bằng
phương thức hư từ, phụ tố và trật tự từ.
Tiếng Nga thuộc loại hình ngôn ngữ hoà kết
nên ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ chủ yếu được
thể hiện bằng phương thức phụ tố và phương thức
sử dụng hư từ. Phương thức phụ tố là phương thức
hoặc là liên kết vào căn tố một hoặc một vài phụ
tố, hoặc là biến đổi hậu tố từ hình thức này sang
hình thức khác để biểu hiện một ý nghĩa ngữ pháp
nhất định. Trong tiếng Nga, phương thức phụ tố
thể hiện ý nghĩa ngữ pháp chỉ “công cụ” và các
quan hệ ngữ pháp hữu quan nằm ở việc biến đổi
hình thức của danh từ để nó có hình thức của danh
từ ở cách công cụ (thường quen gọi tắt là cách
5) mà không cần sử dụng giới từ. Ví dụ: danh từ
giống đực và giống trung, số ít sẽ mang các hậu tố:
-ом, -ем; danh từ giống cái, số ít sẽ mang các hậu
tố: -ой, -ей; danh từ số nhiều sẽ mang các hậu tố:
-ами, -ями.
Ví dụ:
Ученик пишет на доске мелом, вытирает
доску тряпкой. (Cậu học sinh viết trên bảng bằng
phấn, lau bảng bằng giẻ.)
Отец рубит топором дрова. (Bố chẻ củi
bằng rìu.)
Женщина разрезала ножницами кусок
ткани. (Người phụ nữ cắt mảnh vải bằng kéo.)
Các danh động từ:
Рубка топором (chẻ, chặt bằng rìu)
Размахивание руками (khoa chân múa tay)
(Các ví dụ dẫn theo I.M. Punkina, 1983, tr.98)
Ngoài phương thức phụ tố, trong tiếng Nga, ý
nghĩa ngữ pháp chỉ “công cụ” còn được thể hiện
thông qua các giới từ ở hầu hết các cách, tức là, thể
hiện bằng cách kết hợp cả hai phương thức hư từ
và phương thức phụ tố:
- giới từ из và с + cách 2: кормить ребенка
с ложечки (кашей), пить из стакана воду,
- giới từ по + cách 3: разговаривать по
телефону,
- giới từ в, на, через, о + cách 4: закутаться
в одеяло, ловить рыбу на удочку, говорить
через микрофон, разбить яйцо о стол,
- giới từ с và под + cách 5: идти под зонтом,
идти с палкой,
- giới từ в và на + cách 6: читать книгу в
очках, ехать на параходе,
Các hậu tố của danh từ sẽ được biến đổi theo
quy luật biến đổi chung của các danh từ ở các cách
tương ứng mà giới từ đó quy định. Mặc dù có rất
nhiều giới từ thể hiện ý nghĩa ngữ pháp chỉ công
cụ nhưng giới từ с + cách 5 và giới từ в/на + cách
6 là được sử dụng với tần suất cao hơn cả.
Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập,
các ý nghĩa ngữ pháp không biểu hiện ở bên trong
từ mà bên ngoài từ, nên việc thể hiện ý nghĩa ngữ
pháp chỉ công cụ chủ yếu được thể hiện bằng
phương thức hư từ và phương thức trật tự từ. Một
số hư từ chủ yếu có chức năng biểu hiện quan hệ
ngữ pháp và/hoặc ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ,
phương tiện trong tiếng Việt là: bằng, qua, nhờ,
với, dựa vào, dựa, thông qua,
35KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
- bằng: ăn bằng đũa, đi bằng nạng, đào bằng
cuốc, làm bằng tay, đá bóng bằng chân, đỡ bóng
bằng ngực, ghi bàn bằng đầu,
- qua: biết tin qua báo đài, trao đổi thông tin
qua email, gửi ảnh qua zalo, gửi lời chúc qua thầy
đến gia đình,
- nhờ: đi học nhờ xe buýt, cầu vững nhờ dây
cáp, lên núi nhờ cáp treo, nhờ giời mà mùa màng
bội thu,
- thông qua: làm việc thông qua internet, hội
đàm thông qua phiên dịch, thể hiện lập trường
thông qua người phát ngôn,
- dựa/dựa vào: sống dựa vào lương hưu, thăng
tiến dựa vào quan hệ, sống dựa con cháu
- tựa/nương tựa: tuổi già nương tựa con cháu,
đứng tựa cửa,
Các hư từ trên biểu hiện ý nghĩa quan hệ về
mặt công cụ giữa vị từ hành động và các bổ ngữ.
Công cụ ở đây có thể là một sự vật, một vật thể
cụ thể (đũa, nạng, cuốc, báo đài, xe buýt, cáp
treo,), đó cũng có thể là những sự vật mang tính
trừu tượng (zalo, internet, email, lương hưu, quan
hệ, giời,), đó cũng có thể là chính con người
hoặc một bộ phận cơ thể con người (phiên dịch,
thầy, chân, tay, ngực, đầu,)
Một trong những đặc điểm bản chất của tín
hiệu ngôn ngữ là tính hình tuyến, nghĩa là các tín
hiệu ngôn ngữ không thể đồng thời xuất hiện, mà
phải lần lượt kế tiếp nhau trong chuỗi lời nói (Đỗ
Hữu Châu, Bùi Minh Toán, 2011, tr.87). Điều này
có nghĩa là, trật tự sắp xếp các tín hiệu cũng có vai
trò là một phương tiện biểu hiện, và để biểu hiện
ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ, trật tự sắp xếp các
từ cũng được sử dụng với tư cách là một phương
thức. Phương thức trật tự từ biểu đạt ý nghĩa ngữ
pháp chỉ công cụ được sử dụng chủ yếu trong ngôn
ngữ đơn lập như tiếng Việt mà rất hiếm khi được
sử dụng trong ngôn ngữ có biến đổi hình thái như
tiếng Nga.
Xét một số ví dụ sau:
(1) Cầu thủ số 10 đỡ bóng bằng ngực.
(2) Con tôi cắt giấy bằng kéo.
(3) Hắn giết người bằng dao.
(4) Cô ấy viết báo cáo bằng máy tính bảng.
(5) Nó che miệng bằng tay.
(6) Ông ta tố cáo cấp trên bằng thư nặc danh.
Ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ trong các câu
trên được thể hiện bằng phương thức sử dụng hư từ
bằng kết hợp với các danh từ biểu đạt ý nghĩa công
cụ để thực hiện các hành động của vị từ. Các hư từ
đó luôn đứng sau vị từ. Tuy nhiên, nếu đảo danh
từ mang ý nghĩa chỉ công cụ lên trước vị từ và kết
hợp với một thực từ (chủ yếu là hai vị từ dùng và
lấy) chúng ta sẽ tạo ra được một cấu trúc câu mới
vẫn mang ý nghĩa chỉ công cụ mà lại không cần sử
dụng đến hư từ bằng. Đó là:
(1’) Cầu thủ số 10 lấy ngực đỡ bóng.
(2’) Con tôi dùng kéo cắt giấy.
(3’) Hắn dùng dao giết người.
(4’) Cô ấy sử dụng máy tính bảng viết báo cáo.
(5’) Nó dùng/lấy tay che miệng.
(6’) Ông ta dùng thư nặc danh tố cáo cấp trên.
Các câu (1), (2), (3), (4), (5), (6) và (1’), (2’),
(3’), (4’), (5’), (6’) có thể áp dụng để kiểm chứng
lẫn nhau trong việc xác định ý nghĩa ngữ pháp chỉ
công cụ trong câu. Chúng đều có giá trị về nghĩa
và ngữ pháp, do đó có thể khẳng định, việc thay
đổi trật tự từ (bằng cách đảo vị từ trung tâm ra
sau danh từ chỉ công cụ và không cần sử dụng hư
từ chỉ công cụ) là một phương thức ngữ pháp thể
hiện ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ trong tiếng Việt.
Có thể, việc đảo này chỉ áp dụng được cho nhóm
những vị từ động có tiền giả định nét nghĩa đỏi
36 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
hỏi công cụ mà hai vị từ dùng và lấy là điển hình.
Phương thức đảo như này hoàn toàn không xảy ra
trong tiếng Nga.
Như vậy, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ trong
tiếng Nga và tiếng Việt có điểm tương đồng và
cũng có điểm dị biệt. Tiếng Nga và tiếng Việt là
hai ngôn ngữ điển hình cho hai loại hình khác nhau
là loại hình ngôn ngữ hoà kết và loại hình ngôn
ngữ đơn lập. Điều này lí giải một cách hiển nhiên
về các điểm khác biệt trong các phương thức ngữ
pháp nói chung và trong các phương thức thể hiện
ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ nói riêng. Phương
thức phụ tố chủ yếu được sử dụng trong các ngôn
ngữ có biến đổi hình thái, mà tiếng Nga là điển
hình, do vậy, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ trong
tiếng Nga cũng chủ yếu được thể hiện bằng phương
thức phụ tố. Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ
đơn lập, từ không biến đổi hình thái. Mối quan hệ
giữa các từ ở trong câu, chức năng cú pháp của các
từ trong câu không được biểu hiện bằng hình thái
của từ. Chính vì thế, trong tiếng Việt sẽ không tồn
tại phương thức phụ tố với tư cách là một phương
thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa chỉ công cụ.
Trong tiếng Nga “trật tự từ trước hết có vai trò
về tu từ, chứ không phải về ngữ pháp” (Đỗ Hữu
Châu, Bùi Minh Toán, 2011, tr.87), trái lại, trong
tiếng Việt, nếu ta thay đổi trật tự sắp xếp của các
từ trong một câu thì trước hết là ý nghĩa ngữ pháp
của các từ đó thay đổi; sau đó mới có thể là những
chức năng phong cách học, tu từ học nào đó. Như
vậy, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ thể hiện bằng
phương thức trật tự từ sẽ chủ yếu xảy ra trong tiếng
Việt mà không tồn tại trong tiếng Nga với tư cách
là một phương thức ngữ pháp.
Phương thức hư từ được sử dụng rộng rãi ở cả
ngôn ngữ biến hình lẫn ngôn ngữ đơn lập, tức là
hiện diện cả trong tiếng Nga lẫn tiếng Việt, cho dù
đây là hai ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau về loại
hình, về ngữ hệ, Đây được coi là điểm tương
đồng về phương thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp
chỉ công cụ trong cả hai ngôn ngữ, tuy nhiên, mỗi
ngôn ngữ lại có cách sử dụng hư từ riêng trong
việc biểu đạt. Việc dùng hư từ để biểu đạt ý nghĩa
ngữ pháp chỉ công cụ là một phương thức chung
mà cả tiếng Nga lẫn tiếng Việt đều sử dụng với tần
suất cao, còn việc dùng hư từ nào là chính để phục
vụ cho biểu đạt ý nghĩa này lại là điểm khác biệt
nhỏ giữa hai ngôn ngữ.
Tóm lại, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ là sự
phản ánh những kết quả của nhận thức và tư duy
vào ngôn ngữ, ở đây là hai ngôn ngữ khác loại
hình là tiếng Nga và tiếng Việt. Trong cả hai ngôn
ngữ Nga và Việt, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ đều
được diễn đạt bằng những hình thức chung có tính
đồng loạt. Phương thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp
chỉ công cụ trong tiếng Nga chủ yếu là phương
thức phụ tố, do đây là loại hình ngôn ngữ có biến
đổi hình thái, còn phương thức thể hiện ý nghĩa ngữ
pháp chỉ công cụ chỉ có trong tiếng Việt mà không
xuất hiện trong tiếng Nga là phương thức trật tự từ.
Tuy nhiên, trong cả tiếng Nga lẫn tiếng Việt vẫn có
chung một phương thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp
chỉ công cụ, là phương thức hư từ. Tiếng Nga chủ
yếu là dùng các giới từ ở các cách, tiếng Việt dùng
các hư từ mang ý nghĩa chỉ công cụ của hành động.
Ứng dụng của việc nghiên cứu đối chiếu ý nghĩa
ngữ pháp “công cụ” và các phương thức thể hiện
chúng trong tiếng Nga và tiếng Việt là để phát hiện
những sự giống nhau và khác nhau, các điểm khác
biệt và tương đồng, làm cơ sở nghiên cứu các lỗi
thường gặp trong việc dạy-học tiếng Nga và tiếng
Việt như một ngoại ngữ.
Theo Nguyễn Thiện Nam (2001), trong quá
trình học một ngoại ngữ thường phát sinh một số
dạng lỗi như: lỗi các yếu tố thuộc ngữ đoạn danh
từ, lỗi các yếu tố thuộc ngữ đoạn vị từ, lỗi thuộc
một số hiện tượng ngữ pháp, lỗi giao thoa, lỗi dùng
từ loại, lỗi trật tự từ, lỗi dùng giới từ, lỗi dùng từ
do giao thoa, Trong số đó, lỗi thường xuyên mắc
phải của người Việt học tiếng Nga là lỗi về sử dụng
giới từ chỉ công cụ. Đây là lỗi rất cơ bản, thường
xuyên xảy ra đối với người mới học do hiện tượng
trực dịch (literal translation), có nghĩa là: người
học dịch từng từ theo ngữ pháp tiếng mẹ đẻ (dựa
vào hiện tượng chuyển di). Khi học và dịch một
câu, một cụm từ có giới từ từ tiếng Nga sang tiếng
Việt, người học thường dịch quá sát nghĩa, hiểu
37KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
quá sát nghĩa nên dẫn tới những cách hiểu và sử
dụng chưa chuẩn do giới từ chỉ công cụ trong tiếng
Nga có mặt ở tất cả các cách. Ngược lại, khi học và
chuyển dịch từ tiếng Việt sang tiếng Nga, việc dùng
hay không dùng giới từ cũng là điều mà người Nga
học tiếng Việt thường xuyên mắc phải và tạo ra
những lệch chuẩn không đáng có. Trên thực tế đã
có rất nhiều trường hợp vì hiểu và dịch sát nghĩa
quá nên tạo ra những phương án dịch ngây thơ
kiểu như: стрелять из ружья (пулями) => bắn
từ súng, кормить ребенка с ложечки (кашей) =>
cho bé ăn cháo từ thìa, играть пьесу по нотам
=> đánh đàn theo ngón tay, разговаривать
по телефону => nói chuyện theo điện thoại,
ловить рыбу на удочку => câu cá đến cần câu,
закутаться в одеяло => quấn người vào chăn,
говорить через микрофон => nói chuyện thông
qua tai nghe, вытирать руки о полотенце => lau
tay về khăn, идти под зонтом => đi dưới ô, идти
с палкой => đi với nạng, ехать в автобусе => đi
trong xe buýt, спускаться на парашюте => nhảy
trên dù, читать книгу в очках => đọc sách trong
kính, плавать в ластах => bơi trong áo phao
(Муравенко Е.В., 1988, tr.77). Nguyên nhân của
các hiện tượng lệch chuẩn trên là: thông thường
trong tiếng Nga, các giới từ из và с ở cách 2 (sinh
cách) có ý nghĩa chỉ nguồn xuất phát hành đồng;
giới từ по ở cách 3 (tặng cách) có ý nghĩa chỉ sự
vỗ, đập, đánh vào một vật nào đó; giới từ на và в
ở cách 4 (tân cách) thường có ý nghĩa chỉ hướng
hành động; giới từ через ở cách 4 mang ý nghĩa
thông qua ai, nhờ vào cái gì đó; giới từ о ở cách 6
(giới cách) chỉ đối tượng của suy nghĩ; giới từ под
ở cách 5 (công cụ cách) chỉ địa điểm; giới từ с ở
cách 5 chỉ sự cùng hành động; các giới từ в và на
ở cách 6 thường mang ý nghĩa chỉ địa điểm; Khi
học người học đã không căn cứ vào các văn cảnh,
tình huống giao tiếp cụ thể để có phương án dịch
phù hợp, trái lại, chỉ căn cứ vào các ý nghĩa thông
dụng của từng giới từ ở từng cách để dịch nên dẫn
đến các hiện tượng lệch chuẩn như trên.
Vậy khắc phục hiện tượng này như nào? Hiện
nay, theo quan điểm của chúng tôi, việc xuất hiện
lỗi như trên là một hiện tượng hoàn toàn tự nhiên
trong quá trình học ngoại ngữ và người dạy cần
chấp nhận phần nào đó các câu lệch chuẩn của
người học ngoại ngữ. Vì vậy, người dạy không nên
quá sa đà vào việc tạo chuẩn cho người học trong
quá trình học thực hành tiếng, như thế sẽ làm mất
đi tính tự nhiên trong giao tiếp bằng ngoại ngữ,
ảnh hưởng đến năng lực sử dụng ngoại ngữ trong
quá trình thực hành. Việc tự khắc phục lỗi sử dụng
lệch chuẩn (ở đây là giới từ chỉ công cụ) nên để
cho người học tự tìm hiểu qua từ điển và các sách
tra cứu ngữ pháp trong thời gian tự học ở nhà hay
trên thư viện, để cho người học tự nhận biết, sửa
và hoàn thiện trong quá trình dịch (đặc biệt là biên
dịch vì gần như người biên dịch sẽ phải đọc lại bản
thảo lần cuối để chỉnh sửa, trau chuốt câu từ).
3. KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ của bài viết này, dưới góc
độ nghiên cứu đối chiếu một hiện tượng ngữ pháp
trong tiếng Nga và tiếng Việt, chúng tôi cố gắng
nhận diện một số nét cơ bản của việc ứng dụng
kết quả nghiên cứu trong dạy và học ý nghĩa ngữ
pháp chỉ công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga,
phát triển tri thức ngữ pháp, rèn luyện kỹ năng
ngôn ngữ, ngăn ngừa và sửa lỗi trong quá trình
học, trong dịch thuật cũng như biên soạn từ điển.
Việc có thể ứng dụng những vấn đề về đối chiếu
ngôn ngữ, cụ thể là đối chiếu ý nghĩa ngữ pháp
chỉ công cụ trong hai ngôn ngữ như chúng tôi đã
trình bày trên đây, là rõ ràng. Còn ứng dụng như
thế nào, ứng dụng cho địa hạt nghiên cứu nào là
việc lựa chọn theo nhu cầu, nhiệm vụ và mục đích
cụ thể của các nhà nghiên cứu, nhà sư phạm, của
những người tham gia xây dựng từ điển và của
chính những người học hai ngôn ngữ Nga và Việt.
Tài liệu tham khảo:
Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2011), Đại cương ngôn
ngữ học (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
Đoàn Hữu Dũng (2018), “Sự thể hiện ý nghĩa ngữ pháp
chỉ công cụ trong tiếng Nga và tiếng Việt”, Tạp chí
Khoa học Ngoại ngữ Quân sự, số 13, tr.23-28.
Đinh Văn Đức (2012), Ngôn ngữ học đại cương - Những
nội dung quan yếu, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
38 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
Đinh Văn Đức, Nguyễn Văn Chính, Đinh Kiều Châu
(2016), Ngôn ngữ học ứng dụng (giáo trình), NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh
Thuyết (2014), Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội.
Bùi Hiền (1997), Phương pháp hiện đại dạy học ngoại
ngữ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Thiện Nam (2001), “Khảo sát lỗi ngữ pháp
tiếng Việt của người nước ngoài và những vấn đề
liên quan”, Luận án Tiến sĩ, trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Lê Quang Thiêm (2008), Nghiên cứu đối chiếu các
ngôn ngữ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
I. M. Punkina (1983), Tóm lược ngữ pháp tiếng Nga,
(Bùi Hiền dịch), NXB Tiếng Nga, Mát-xcơ-va.
Муравенко Е.В. (1988). Выражение
инструментального значения падежными
и предложно-падежными формами//
Идеографические аспекты русской грамматики/
Под. ред. В.А. Белошапковой и И.Г.
Милославского. - М.: Изд-в МГУ, С. 75-94.
A COMPARATIVE STUDY ON EXPRESSIONS OF INSTRUMENTAL MEANING
IN RUSSIAN AND VIETNAMESE FROM THE PERSPECTIVE
OF APPLIED LINGUISTICS
DOAN HUU DUNG
Abstract: Applied linguistics had already been discussed for many years. However, not until the 20th
century was it studied, developed and expanded to become an important topic of research. Thanks to
its late emergence, applied linguistics inherits various achievements in applying linguistic theory into
reality, creating spoken and written produts and other related services. Within its limited framework,
this article aims to: 1) clarify the definition of applied linguistics; 2) discuss whether contrastive
linguistics could be regarded as an aspect of applied linguistics; 3) analyze instrumental meaning and
its expression in Russian and Vietnamese
Keywords: Applied lingguistics, contrastive linguistics, instruments, grammatical meaning, errors
Received: 02/3/2018; Revised: 11/4/2018; Accepted for publication: 20/4/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tckhnnqs_15_9_2018_doan_huu_dung_31_38_7514_2136124.pdf