Đo lường kiến thức, thái độ và thực hành tự chăm sóc của người bệnh có hậu môn nhân tạo tại Bệnh viện Miền Nam Việt Nam

Tài liệu Đo lường kiến thức, thái độ và thực hành tự chăm sóc của người bệnh có hậu môn nhân tạo tại Bệnh viện Miền Nam Việt Nam: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 218 ĐO LƯỜNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH TỰ CHĂM SÓC CỦA NGƯỜI BỆNH CÓ HẬU MÔN NHÂN TẠO TẠI BỆNH VIỆN MIỀN NAM VIỆT NAM Võ Thị Thanh Tuyền* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hậu môn nhân tạo (HMNT) thường gặp sau mổ ung thư đại - trực tràng giai đoạn muộn. Việc chăm sóc HMNT đòi hỏi phải có kiến thức, thái độ và thực hành đúng để phòng tránh những biến chứng khi chăm sóc HMNT. Mục tiêu: Đo lường kiến thức, thái độ và thực hành của bệnh nhân về chăm sóc HMNT, mối liên quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc HMNT. Phương pháp: Cắt ngang mô tả với 118 bệnh nhân có HMNT sau phẫu thuật. Tần suất, tỷ lệ phần trăm, phép kiểm chi bình phương, T-test được sử dụng với phần mềm SPSS16.0 được sử dụng nhằm mô tả, đánh giá mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành tự chăm sóc HMNT của người bệnh. Kết quả: Kiến thức đúng về tự chăm sóc HMNT là 26,3% (31/118), t...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 28/06/2023 | Lượt xem: 526 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đo lường kiến thức, thái độ và thực hành tự chăm sóc của người bệnh có hậu môn nhân tạo tại Bệnh viện Miền Nam Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 218 ĐO LƯỜNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH TỰ CHĂM SÓC CỦA NGƯỜI BỆNH CÓ HẬU MÔN NHÂN TẠO TẠI BỆNH VIỆN MIỀN NAM VIỆT NAM Võ Thị Thanh Tuyền* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hậu môn nhân tạo (HMNT) thường gặp sau mổ ung thư đại - trực tràng giai đoạn muộn. Việc chăm sóc HMNT đòi hỏi phải có kiến thức, thái độ và thực hành đúng để phòng tránh những biến chứng khi chăm sóc HMNT. Mục tiêu: Đo lường kiến thức, thái độ và thực hành của bệnh nhân về chăm sóc HMNT, mối liên quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc HMNT. Phương pháp: Cắt ngang mô tả với 118 bệnh nhân có HMNT sau phẫu thuật. Tần suất, tỷ lệ phần trăm, phép kiểm chi bình phương, T-test được sử dụng với phần mềm SPSS16.0 được sử dụng nhằm mô tả, đánh giá mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành tự chăm sóc HMNT của người bệnh. Kết quả: Kiến thức đúng về tự chăm sóc HMNT là 26,3% (31/118), thái độ đúng là 28,8% (34/118) và thực hành đúng là 16,1%. Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc HMNT của người bệnh (p>0.05). Kết luận: Kiến thức, thái độ và thực hành đúng về chăm sóc HMNT của NB còn thấp. Chưa tìm thấy sự liên quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành tự chăm sóc HMNT. Cần thiết phải có một chương trình giáo dục sức khỏe về chăm sóc HMNT phù hợp cho người bệnh và cộng đồng. Từ khóa: người bệnh, hậu môn nhân tạo ABSTRACT ASSESSMENT THE KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PRACTICE OF PATIENT SELF-CARE ON STOMA AT HOSPITALS IN SOUTHERN VIETNAM Vo Thi Thanh Tuyen * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 218 – 223 Background: Stoma usually occur after late step colorectal cancer surgery. Patient stomal self-management requires the approriate knowledge, attitudes and practices to prevent peristomal skin complications. Objective: Assess and find out the relationship between the knowledge, attitudes and practices of stoma patients. Methods: This is a cross-sectional study with 118 patients who have the stoma. Frequency, percentage, Chi squared, T-test with SPSS16.0 software were used to describe and evaluate the relationship between knowledge, attitude and practice self-care of stoma. Results: The correct knowledge, attitudes and practices of stoma patients who could take care themself were 26.3% (31/118 cases), 28.8% (34/118 cases) and 16.1% (respectively). No significant difference between the knowledge, attitudes and practices was found (p >0.05). Evaluate the influence of the demographic features, the research’s result points out that the influence of these features on the knowledge, attitudes and practices of the artificial anuses self-care doesn’t have any statistical meaning (p >0.05). Conclusion: Knowledge, attitudes and proper practice of patient about stoma seft care was still low. *Khoa Ngoại Tiêu hóa, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: CN. Võ Thị Thanh Tuyền ĐT: 0989776274 Email: tuyen.vtt@umc.edu.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 219 The relationship between knowledge, attitude and self-care practice of stoma has not been found. It is necessary to have an appropriate stoma care education program for patients and the community. Keywords: patient, stoma ĐẶT VẤN ĐỀ Hậu môn nhân tạo (HMNT) tạo thành nhằm để bảo vệ thương tổn đoạn đại- trực tràng phía dưới hoặc bảo vệ đường khâu sau phẫu thuật. Người bệnh thường lo lắng và có nhiều câu hỏi cần được nhân viên y tế tư vấn và hướng dẫn. Điều quan trọng nhất trong chăm sóc hậu môn nhân tạo là bảo vệ da khỏi phân, nước tiểu và hóa chất bằng cách xử lý da nhẹ nhàng và sử dụng các sản phẩm hỗ trợ đúng cách. Điều này sẽ làm giảm cơ hội cho các vấn đề về da(1). Việc cung cấp tạm thời hoặc vĩnh viễn hậu môn nhân tạo có thể gây ra nhiều khó khăn cho bệnh nhân khi nhập viện và sau khi xuất viện. Vấn đề là cung cấp kiến thức và thực hành chăm sóc hậu môn nhân tạo cho bệnh nhân nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân, đặc biệt là đối với những bệnh nhân phải mang hậu môn nhân tạo vĩnh viễn(5). Hiện nay, tại Việt Nam nói chung và nhiều bệnh viện đã phẫu thuật điều trị bệnh đại trực tràng nói riêng, chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân trước và sau phẫu thuật có hậu môn nhân tạo. Chưa có nghiên cứu nào về chăm sóc hậu môn nhân tạo tại nhà cho bệnh nhân được báo cáo. Năm 2013, nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc bản thân của bệnh nhân có hậu môn nhân tạo của tác giả Lê Thị Hoàn cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có kiến thức không chính xác: kiến thức về hậu môn nhân tạo (34,9%), tự chăm sóc (55,7%), quản lý biến chứng (59,4%) và dinh dưỡng (25,5%). Hàng năm, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 260 trường hợp hậu môn nhân tạo tạm thời và vĩnh viễn. Bệnh viện đã triển khai “phòng tư vấn chăm sóc hậu môn nhân tạo cho người bệnh”. Nhóm tư vấn là một đội ngũ điều dưỡng thuộc khoa Ngoại Tiêu hóa. Đối tượng tư vấn chính là bệnh nhân và người thân có hậu môn nhân tạo sau phẫu thuật trong toàn bệnh viện cũng như các bệnh viện khác có nhu cầu. Để cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và ngăn ngừa các biến chứng sau mở hậu môn nhân tạo đòi hỏi bệnh nhân phải có kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc đúng cách. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu này. Mục tiêu của nghiên cứu Xác định tỷ lệ kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh về chăm sóc HMNT. Xác định mối liên quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh, thân nhân người bệnh. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả người bệnh có chỉ định phẫu thuật đại trực tràng, sau phẫu thuật có hậu môn nhân tạo, có hậu môn nhân tạo, hậu phẫu ngày thứ 6 trở đi, có thể đọc, hiểu và đồng ý tham gia nghiên cứu. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Từ 25/2/2019 đến 30/4/2019 tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu định lượng, mô tả cắt ngang. Công cụ thu thập dữ liệu Nhập dữ liệu bằng phần mềm Dữ liệu Epi 3.1. Phân tích dữ liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. KẾT QUẢ Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Đa số đối tượng trong nghiên cứu là nam (52,5%), tuổi trung bình là 55,55 tuổi, nhỏ nhất là 25 tuổi và cao nhất là 71. Dân tộc Kinh chiếm 94,9%. Người bệnh không có tôn giáo chiếm 50%. Người bệnh có trình độ trung học phổ thông (12/12) là 56,8%, một lượng nhỏ người bệnh có trình độ từ cao đẳng trở lên (19,5%) và không có người bệnh nào mù chữ (0%). Về tình trạng hôn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 220 nhân, đối tượng nghiên cứu đa số đã lập gia đình (93,2%). Nghề nghiệp lao động chân tay và nghỉ hưu chiếm tỷ lệ lần lượt là 29,7% và 25,4%, bên cạnh đó cũng có 1 lượng nhỏ (2,5%) người bệnh đang trong tình trạng thất nghiệp phải sống phụ thuộc người thân. Nguồn thông tin chủ yếu người bệnh nhận được từ nhân viên y tế chiếm 50,8% (60/118) (Bảng 1). Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Đặc điểm Số lượng Tỉ lệ % Giới tính Nam 62 52,5 Nữ 56 47,5 Tuổi TB ± ĐLC 55,55 ± 10,57, 25 – 71 Dân tộc Kinh 112 94,9 Hoa 03 2,50 Khác 03 2,50 Tôn giáo Không 59 50,0 Phật giáo 41 34,7 Thiên chúa giáo 15 12,7 Khác 3 2,5 Trình độ Không biết chữ 0 0,00 Tiểu học 28 23,7 Trung học phổ thông 67 56,8 Cao đẳng, đại học, sau đại học 23 19,5 Tình trạng hôn nhân Chưa lập gia đình 4 3,4 Đã lập gia đình 110 93,2 Ly hôn/ Góa bụa 4 3,4 Nghề nghiệp Nội trợ 25 21,2 Lao động trí óc 17 14,4 Lao động chân tay 35 29,7 Nghỉ hưu 30 25,4 Thất nghiệp 3 2,5 Khác 8 6,8 Nguồn tiếp nhận thông tin chủ yếu Thân nhân và các bệnh nhân khác 19 16,1 Sách, báo, tờ rơi, ti vi 21 17,8 Nhân viên y tế 60 50,8 Khác 18 15,3 Loại HMNT Hồi tràng 30 25,4 Đại tràng 88 74,6 Thời gian mang HMNT Tạm thời 101 85,6 Vĩnh viễn 17 14,4 Người chăm sóc chính Bản thân 24 20,3 Vợ/ chồng 44 37,3 Con 47 39,8 Khác 3 2,5 Loại hậu môn nhân tạo của đối tượng nghiên cứu chủ yếu là hậu môn nhân tạo đại tràng chiếm 74,6% (88/118), còn lại 25,4% là hậu môn nhân tạo hồi tràng. Về thời gian mang hậu môn nhân tạo, đa số người bệnh mở hậu môn nhân tạo chỉ mang tạm thời chiếm 85,6% (101/118), trong khi đó tỷ lệ này ở hậu môn nhân tạo vĩnh viễn là 14,4%. Người chăm sóc chính cho người bệnh sau phẫu thuật là con cái (39,8%) và vợ/chồng (37,3%), có 20,3% bản thân người bệnh tự chăm sóc, chỉ 1 lượng nhỏ 2,5% là đối tượng khác chăm sóc người bệnh như cha/ mẹ, bạn bè, họ hàng. Kết quả kiến thức và thái độ của người bệnh Bảng 2. Kết quả kiến thức của người bệnh Kiến thức Số lượng (n) Tỷ lệ % Kiến thức không đúng 87 73,7 Kiến thức đúng 31 26,3 Tổng 118 100,0 Có 73,7% người bệnh có kiến thức chưa đúng (87/118) (Bảng 2). Bảng 3. Kết quả thái độ của người bệnh Thái độ Số lượng (n) Tỷ lệ % Thái độ chưa đúng 84 71,2 Thái độ đúng 34 28,8 Tổng 118 100,0 Có 71,2% NB có thái độ chưa đúng về chăm sóc hậu môn nhân tạo (Bảng 3). Bảng 4. Kết quả về thực hành tự chăm sóc hậu môn nhân tạo Thực hành Số lượng (n) Tỷ lệ % Không đạt 99 83,9 Đạt 19 16,1 Tổng 118 100,0 Kết quả khảo sát cho thấy có đến 83,9% người bệnh thực hành tự chăm sóc hậu môn nhân tạo không đạt (Bảng 4). Mối liên quan giữa kiến thức và thái độ của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo Như vậy kiến thức liên quan không có ý nghĩa thống kê đến thái độ của người bệnh có hậu môn nhân tạo. (p=0,975>0,05) (Bảng 5). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 221 Bảng 5. Mối liên quan giữa kiến thức và thái độ của người bệnh Thái độ Tổng p Sai Đúng Kiến thức Không 62 25 87 0,975 Có 22 9 31 Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo Bảng 6. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành của người bệnh Thực hành Tổng p Sai Đúng Kiến thức Không 73 14 87 0,996 có 26 5 31 Tổng 99 19 118 Như vậy, kiến thức liên quan không có ý nghĩa thống kê đến thực hành của người bệnh có hậu môn nhân tạo. (p=0,996>0,05) (Bảng 6). Mối liên quan giữa thái độ và thực hành của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo Bảng 7. Mối liên quan giữa thái độ và thực hành của người bệnh Thực hành Tổng p Không Có Thái độ Không 67 17 84 0,055 Có 32 2 34 Tổng 99 19 118 Như vậy, thái độ liên quan không có ý nghĩa thống kê đến thực hành của người bệnh có hậu môn nhân tạo. (p=0,055>0,05). Tuy nhiên, p=0,055 nằm trong ngưỡng có thể chấp nhận được, vì vậy tác giả khuyến cáo nên xem xét mối quan hệ này và có thể chấp nhận rằng thái độ đúng có thể ảnh hưởng đến thực hành chăm sóc hậu môn đúng của người bệnh (Bảng 7). BÀN LUẬN Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Kết quả khảo sát về đặc điểm người bệnh tương tự và một số khác biệt nhỏ so với kết quả của tác giả Lê Thị Hoan nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy (2013)(3). Điều này phù hợp với đặc điểm người bệnh khác nhau của từng bệnh viện. Kiến thức của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo Khảo sát 118 người bệnh có hậu môn nhân tạo đang nằm viện qua 29 câu hỏi đánh giá kiến thức tự chăm sóc hậu môn nhân tạo, chúng tôi nhận thấy: đa số người bệnh chưa có kiến thức đúng về hậu môn nhân tạo (73,7%). Phần lớn người bệnh tham gia nghiên cứu đều biết hậu môn nhân tạo là lỗ mở chủ động ở ruột già, để thoát phân, thay thế hậu môn thật. Giải thích về điều này, tác giả cho rằng người bệnh trước khi được phẫu thuật đã được bác sĩ giải thích kỹ về tình trạng hậu môn trước và sau mổ, đồng thời giải đáp thắc mắc của người bệnh. Tỷ lệ người bệnh không có kiến thức đúng về hậu môn nhân tạo tương đồng kết quả nghiên cứu của Lê Thị Hoan(3) (48,1%). Đây là vấn đề chúng ta cần quan tâm trong thời gian tới, vì tại sao người bệnh đã được nhân viên y tế giải thích những lợi ích và nguy cơ có thể xảy ra trong và sau mổ nhưng sao kiến thức của người bệnh về chăm sóc hậu môn nhân tạo chưa đạt vẫn chiếm tỷ lệ cao. Điều này được giải thích rằng, do người giải thích trước phẫu thuật chủ yếu là về điều trị, trong khi đó vai trò của điều dưỡng chưa được phát huy khi chuẩn bị người bệnh trước phẫu thuật. Một số điều dưỡng, đặc biệt là những điều dưỡng trẻ còn thiếu tự tin, e ngại và rụt rè khi giải thích cho người bệnh, điều dưỡng mới chỉ thực hiện chức năng phụ thuộc còn chức năng độc lập và phối hợp chưa được phát huy triệt để. Giáo dục sức khỏe cho người bệnh trước và sau phẫu thuật rất quan trọng, cần thiết cho sự phục hồi và thành công của người bệnh có hậu môn nhân tạo(2). Mục tiêu cuối cùng của nhân viên y tế là giúp cho người bệnh có kỹ năng thực hành tốt(7). Để có thể thực hiện được điều này, nhân viên y tế đặc biệt là điều dưỡng rất quan trọng. Tuy nhiên để có thể thực hiện được nhiệm vụ truyền tải thông tin đến cho người bệnh, điều dưỡng cần có kiến thức đúng. Thực tế, một nghiên cứu được tiến hành tại Đài Loan trên hai Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 222 trăm năm mươi điều dưỡng làm việc trong một trung tâm y tế ở miền trung đã được chọn bằng cách lấy mẫu ngẫu nhiên. 248 câu hỏi đã hình thành cơ sở phân tích dữ liệu. Những phát hiện chính của nghiên cứu này là: 258 điều dưỡng (94,2%) có kinh nghiệm chăm sóc hậu môn nhân tạo, chỉ có 2,5% điều dưỡng đã tham gia các khóa học về chăm sóc hậu môn nhân tạo với tổng số hơn tám giờ(6). Thái độ của người bệnh về hậu môn nhân tạo Hậu môn nhân tạo là một phẫu thuật nhằm giảm triệu chứng tiêu hóa và ngăn ngừa tiến triển bệnh, nhưng những thay đổi không thể tránh khỏi về ngoại hình dẫn đến rối loạn chức năng cơ thể và sự gián đoạn một số khía cạnh cuộc sống người bệnh. Người bệnh có hậu môn nhân tạo thường có tâm lý tự ti, mặc cảm và muốn cách ly khỏi mọi người xung quan nếu không có thái độ đúng. Nhân viên y tế cần đưa ra lời khuyên liên quan đến việc giữ gìn phẩm giá và nếu có thể thì tự chăm sóc độc lập. Cũng cần hỗ trợ tâm lý và cảm xúc cho người bệnh có hậu môn nhân tạo, có thể giới thiệu người bệnh đến chuyên gia tâm lý để trị liệu nếu nhận thấy thái độ của người bệnh quá tiêu cực đến tình trạng của họ nhằm tăng cường khả năng quản lý phân một cách chuyên nghiệp, tránh để người bệnh rơi vào trạng thái căng thẳng dẫn đến trầm cảm(2). Kết quả nghiên cứu của tôi cho thấy tỷ lệ điều dưỡng có thái độ đúng đạt 28,8% (34/118) trường hợp, thái độ chưa đạt là 84/118 (71,2%). Trong khi kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Thị Hoan thấp hơn ở thái độ chưa đúng (41,5%) và cao hơn ở thái độ đúng (58,5%)(3). Sự chênh lệch này được giải thích do cách chọn mẫu, tác giả chọn mẫu toàn bộ tất cả người bệnh có chỉ định mở hậu môn nhân tạo ngày thứ 6, còn tác giả Lê Thị Hoan chọn mẫu thuận tiện tức là có cả những người bệnh đã có hậu môn nhân tạo và được tái khám cũng đưa vào đề tài nghiên cứu. Sự giao tiếp trong xã hội là nhu cầu tất yếu của con người, đối với những người có hậu môn nhân tạo họ trải qua các giai đoạn cảm xúc nặng nề từ không chấp nhận sự thật, đến chấp nhận nhưng mặc cảm và từ chối giao tiếp(4). Vì vậy, nhân viên y tế đặc biệt là điều dưỡng cần gần gũi, quan tâm và hướng dẫn giúp đỡ người bệnh tự tin để hòa nhập xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Vì vậy, tại bệnh viện nghiên cứu đã thành lập câu lạc bộ những người có hậu môn nhân tạo nhằm tạo điều kiện cho họ được tiếp xúc, giao lưu với những bệnh nhân cùng cảnh ngộ để có thể dễ dàng chia sẻ kinh nghiệm và từ đó có thái độ đúng hơn, đồng thời cũng thay đổi thái độ của những người xung quanh đối với đối tượng bệnh nhân này. Thực hành tự chăm sóc của người bệnh có hậu môn nhân tạo Trong nghiên cứu này, tỷ lệ người bệnh thực hành đúng chiếm tỷ lệ thấp (16,1%), chỉ có 19/118 bệnh nhân thực hành tự chăm sóc hậu môn nhân tạo đạt, còn lại 99 người bệnh trong nhóm nghiên cứu thực hành không đạt (83,9%). Tỷ lệ người bệnh thực hành đúng trong nghiên cứu của tác giả tương đối thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả Lê Thị Hoan 3,3 lần. Điều này được giải thích do người bệnh sau mở hậu môn nhân tạo mệt mỏi thậm chí một số người bệnh còn đau nhiều nên khi thực hiện kỹ thuật chưa tập trung. Đồng thời, người bệnh còn cảm giác lo lắng sau phẫu thuật nên khi thực hiện kỹ thuật sẽ quên nhiều bước trong bảng kiểm. Mối quan hệ giữa kiến thức, thái độ và thực hành tự chăm sóc hậu môn nhân tạo Liên quan giữa kiến thức và thái độ của người bệnh, giả thuyết cho rằng khi người bệnh có kiến thức đúng thì thái độ sẽ thay đổi theo xu hướng tích cực. Từ kết quả nghiên cứu của mình tác giả Lê Thị Hoan đã kết luận rằng khi người bệnh có kiến thức đúng thì thái độ của người bệnh sẽ tăng gấp 1,89 lần so với kiến thức không đúng với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,002). Tuy nhiên trong nghiên cứu này chúng tôi thấy không có sự khác biệt với điểm trung bình 2 nhóm kiến thức đúng và không đúng lần lượt là 0,29±0,46, 0,287±0,455. Sự khác biệt trong kết quả nghiên cứu được tác giả giải Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 223 thích do đối tượng chọn mẫu của mỗi nghiên cứu khác nhau nên sẽ cho kết quả khác nhau. Liên quan giữa kiến thức và thực hành, trong nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác biệt. Mặc dù không có ý nghĩa về mặt thống kê, nhưng chúng ta cũng cần khuyến khích người bệnh luôn tìm hiểu thông tin về hậu môn nhân tạo để có thể tiếp cận với những dụng cụ tiên tiến sẽ giúp thực hành tốt hơn và phòng ngừa được biến chứng trong chăm sóc hậu môn. Liên quan giữa thái độ và thực hành, trong nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác biệt. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với một số kết quả nghiên cứu công bố trong nước(3). Mặc dù trong nghiên cứu của chúng tôi, chưa tìm thấy mối liên quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành tự chăm sóc hậu môn nhân tạo của người bệnh, nhưng chúng tôi vẫn luôn khuyến khích người bệnh cần cập nhập kiến thức, có thái độ tích cực và tuân thủ thực hành nhằm giúp cho người bệnh chăm sóc hậu môn nhân tạo tốt hơn, tự tin hơn, giảm các biến chứng, giảm khả năng nhập viện và giảm chi phí điều trị, nâng cao chất lượng cuộc sống và hòa nhập cộng đồng. KẾT LUẬN Đầu tiên, khẳng định rằng nghiên cứu đã đưa ra những kết quả đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh tương đồng với các tác giả khác. Tỷ lệ người bệnh có kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc hậu môn nhân tạo thấp tương ứng như sau 26,3% (31/118 NB), 28,8% (34/118 NB) và 16,1% (19/118). Nghiên cứu cho thấy rằng nhân viên y tế cần cung cấp thông tin một cách hiệu quả cho người bệnh bằng các hình thức khác nhau. Mặc dù nghiên cứu chưa tìm ra mối tương quan giữa nhân khẩu học và kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc hậu môn nhân tạo cùng một lúc. Tuy nhiên có một số yếu tố cần cân nhắc như dân tộc, tuổi và nghiề nghiệp có thể ảnh hưởng đến thực hành của người bệnh. Nghiên cứu có thể là cơ sở khoa học để chúng tôi lựa chọn giải pháp cung cấp thông tin sức khỏe phù hợp cho đối tượng người bệnh có hậu môn nhân tạo nhằm giảm biến chứng, nâng cao chất lượng sống và hòa nhập với xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Danielsen AK, Burcharth J, Rosenberg J (2013). Patient education has a positive effect in patients with a stoma: A systematic review. Colorectal Disease, 15(6):276–284. 2. Junkin J, Beitz JM (2005). Sexuality and the Person with a Stoma. Journal of Wound, Ostomy and Continence Nursing, 32(2):121–128. 3. Lê Thị Hoan (2013). Kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 4(17):209–216. 4. Lo SF, Wang YT, Wu LY, Hsu MY, Chang SC, Hayter M (2011). Multimedia education programme for patients with a stoma: Effectiveness evaluation. Journal of Advanced Nursing, 67(1):68– 76. 5. Mansour EA, Alenezi AN (2016). Impact of Stoma Care Education in Minimizing the Incidence of Stoma Skin Complications. Bahrain Medical Bulletin, 38(3):151–153. 6. Martins LM, Sonobe HM, Vieira FDS, De Oliveira MS, Lenza NDFB, Da Silva Teles AA (2015). Rehabilitation of individuals with intestinal ostomy. British Journal of Nursing, 24(S22):S4–S11. 7. Wasserman MA, McGee MF (2017). Preoperative Considerations for the Ostomate. Clinics in Colon and Rectal Surgery, 30(3):157–161. Ngày nhận bài báo: 30/07/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdo_luong_kien_thuc_thai_do_va_thuc_hanh_tu_cham_soc_cua_nguo.pdf
Tài liệu liên quan