Đồ án Thực trạng về vấn đề đưa kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được thành quả gì và còn những tồn tại, yếu kém nào cần khắc phục: Nguyên nhân của thực đó

Tài liệu Đồ án Thực trạng về vấn đề đưa kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được thành quả gì và còn những tồn tại, yếu kém nào cần khắc phục: Nguyên nhân của thực đó: MỞ ĐẦU Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và theo lý luận của Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ vận dụng vào kinh tế, có phải nó ý nghĩa là chế độ hiện nay có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản (CNTB) lẫn CNXH không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có, song cũng không phải bất cứ ai cũng thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội hiện có ở Nga là như thế nào mà tất cả then chốt cả vấn đề lại chính là ở đó. Áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển khách quan, bởi thông qua chủ trương này một nền kinh tế mới được mở ra,các thành kinh tế mới hình thành được lập ra từ chính nguồn vốn trước đây nằm phân tán trong các tầng lớp dân cư,do đó mà huy động được tối đa của cải vật chất trong xã hội để xây dựng đất nước. Từ khi có chính sách ...

doc30 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1017 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đồ án Thực trạng về vấn đề đưa kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được thành quả gì và còn những tồn tại, yếu kém nào cần khắc phục: Nguyên nhân của thực đó, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và theo lý luận của Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ vận dụng vào kinh tế, cĩ phải nĩ ý nghĩa là chế độ hiện nay cĩ những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản (CNTB) lẫn CNXH khơng? Bất cứ ai cũng thừa nhận là cĩ, song cũng khơng phải bất cứ ai cũng thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội hiện cĩ ở Nga là như thế nào mà tất cả then chốt cả vấn đề lại chính là ở đĩ. Áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng một nền kinh tế hàng hĩa nhiều thành phần cĩ sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đĩ là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển khách quan, bởi thơng qua chủ trương này một nền kinh tế mới được mở ra,các thành kinh tế mới hình thành được lập ra từ chính nguồn vốn trước đây nằm phân tán trong các tầng lớp dân cư,do đĩ mà huy động được tối đa của cải vật chất trong xã hội để xây dựng đất nước. Từ khi cĩ chính sách đổi mới (1986) đến nay, các thành phần kinh tế đã đĩng gĩp nhất định của mình vào xây dựng vào nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sự phát triển của đất nước,qua so sánh giữa hai thời kỳ kinh tế (Kinh tế cũ kế hoạch hố tập trung và kinh tế hàng hĩa) ta thấy một bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế nước ta . Tuy nhiên, theo lý luận Mac: ”Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng cĩ phương thức sản xuất (PTSX) giữ vị trí chi phối”. Cĩ nghĩa là trong mỗi chế độ xã hội cần cĩ một thành phần kinh tế giữ vai trị chủ đạo, cĩ nghĩa là trong mỗi chế độ XHCN cần cĩ một thành phần kinh tế giữ vai trị chủ đạo, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác đi theo một định hướng xã hội nhất định. Ngay từ đầu lập nước, đảng ta đã xác định đưa nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội, mà cơ sở hình thành nên CNXH đĩ chính là chế độ cơng hữu về tư liệu sản suất (TLSX), tức là TLSX thuộc sở hữu tồn dân. Kinh tế nhà nước (KTNN) là thành phần kinh tế được hình thành trên hình thức sở hữu tồn dân vì vậy một tất yếu khách quan là KTNN phải là thành phần kinh tế nắm vai trị chủ đạo nhằm hướng tồn bộ nền kinh tế đi theo định hướng XHCN. Đảng và nhà nước ta đã xác định rằng thời kỳ quá độ lên CNXH địi hỏi một thời gian rất lâu dài và sẽ gặp nhiều khĩ khăn thách thức đặc biệt Việt Nam lại đi lên từ chế độ phong kiến bỏ qua chế độ TBCN. Ta biết rằng “chính trị là tập trung của kinh tế”, do đĩ kinh tế là con đường để hình thành một thể chế chính trị. Ta định hướng xây dựng CNXH thì phải phát triển thành phần kinh tế nhà nước thật vững chắc ,làm sao để nĩ thể hiện vai trị chủ đạo của KTNN, nắm được quy luật vận động khách quan của kinh tế để từ đĩ cĩ cách tác động để KTNN thể hiện được vai trị trọng yếu của nĩ, để đất nước ta đi đúng theo định hướng đã chọn. Việc nhiên cứu (NC), tìm hiểu rồi đến nắm bắt bản chất cũng như vai trị của KTNN sẽ giúp mỗi chúng ta thấy được tầm quan trọng, tính thiết yếu phải phát triển KTNN ở nước ta hiện nay nhận thức được những đường lối, chính sách phát triển mà đảng và chính phủ đưa ra nhằm cải tổ và xây dựng nền kinh tế XHCN tiến kịp với thế giới, nhưng cũng đồng thời thơi thúc mỗi chúng ta cần phải gĩp sức mình vào cơng cuộc đất nước bằng cách dựa trên những gì mà ta đã đạt được và chưa làm được để đưa ra những giải pháp kiến nghị hữu ích cho việc đưa KTNN lên nắm vai trị chủ đạo cũng là để xây dựng nền kinh tế nước nhà ổn định, phát triển và bền vững. Đồ án của tơi sẽ đi sâu vào NC về một số vấn đề sau: Phần I: Khát quát về một số vấn đề lý luận về KTNN, vai trị chủ đạo của KTNN, giải thích vì sao sự hình thành KTNN là một tất yếu và sự cần thiết của vai trị chủ đạo của KTNN trong chế độ của chúng ta hiện nay. Phần II: Thực trạng về vấn đề đưa KTNN giữ vai trị chủ đạo trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được thành quả gì và cịn những tồn tại, yếu kém nào cần khắc phục - nguyên nhân của thực đĩ. Phần III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy những gì đã đạt được ,khắc phục những hạn chế ,thiếu sĩt trong việc đưa KTNN lên nắm vai trị chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do trình độ hiểu biết và lý luận cịn rẩt hạn chế , đề án NC của tơi cịn rất nhiều hạn chế và thiếu sĩt. Tơi rất mong nhận được sự thơng cảm cùng những ý kiến đĩng gĩp để mỗi chúng ta sẽ được nâng cao hơn tầm nhận thức hiểu biết nhằm phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Mai Hữu Thực đã giúp em rất nhiều từ khâu cung cấp những kiến thức cơ bản nhất cho đề tài, đến việc hướng dẫn tìm đọc những tài liệu bổ ích để từ đĩ em cĩ thể hồn thành được đề tài NC này. NỘI DUNG I. Một số vấn đề lý luận về KTNN: Một số khái quát chung về KTNN: Khái niệm chung về thành phần KTNN: Để hiểu đầy đủ về thành phần KTNN, trước hết ta phải tìm hiểu thành phần kinh tế nhà nước là gì và thành phần KTNN xuất hiện ở nước ta khi nào. Là một nước đi sau trong tiến trình xây dựng CNXH, chúng ta được học hỏi rất nhiều kinh nghiệm từ những nước đi trước mà tiên phong là Nga (Liên Xơ cũ). Từ luận điển Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ - đĩ phải là nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và nhà nước ta đã áp dụng vào thực tiển ở nước ta và đưa ra chủ trương xây dựng một nền kinh tế đa phần mang tính đặc trưng của thời kỳ giao thời giữa kinh tế TBCN và XHCN. Trước hết ta hiểu thế nào là một thành phần kinh tế? Thành phần kinh tế hay đơn vị kinh tế hay đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân là một kiểu tổ chức kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định cĩ quan hệ quản lý và quan hệ phân phối riêng của nĩ. Trong nền kinh tế nước ta cĩ ba hình thức sở hữu cơ bản là: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ đĩ mà hình thành nên các thành phần kinh tế khác nhau. Thành phần KTNN đã xuất hiện như thế nào trong nền kinh tế Việt Nam? Ta sẽ trở lại từ những ngày đầu giai cấp vơ sản giành được chính quyền và bắt tay vào xã hội mới với một nền kinh tế mới. Đảng ta đã lãnh đạo nhân xây dựng đất nước theo con đường XHCN, thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ và văn minh”. Để xây dựng nền chính trị XHCN thì địi hỏi phải cĩ nền kinh tế đặc trưng cho hình thái chính trị ấy - một nền kinh tế cĩ thành phần chính hình thành trên chế độ cơng hữu. Trong lúc bấy giờ, nền kinh tế Việt Nam dựa trên chế độ tư hữu, đĩ là sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ và sở hữu tư nhân của CNTB. Đối với hình thức này, Nhà nước đã tiến hành cải tổ, sắp xếp để phát triển thành phần kinh tế cá thể tiểu thủ cơng nghiệp và thành phần kinh tế tư bản tư nhân - là đại diện của quan hệ sản xuất cũ CNTB. Vậy để xây dựng một nền kinh tế mới XHCN, nhà nước đã đầu tư xây dựng các doanh nghiệp của mình trong các nghành kinh tế, kết quả là hình thành nên một thành phần kinh tế mới – KTNN. Từ đĩ ta khái niệm được thành phần KTNN là gì? Đĩ là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tồn dân (hay sở hữu nhà nước). Việc tổ chức kinh doanh tiến hành theo nguyên tắc hoạch tốn kinh tế và thực hiện phân phối theo lao động. Như vậy, đặc điểm cơ bản của thành phần KTNN với các thành phần kinh tế khác đĩ là hình thức sở hữu và nguồn vốn hình thành. Cĩ thể tồn bộ vốn đều thuộc sở hữu nhà nước hoặc cĩ thể phần vốn đĩng gĩp của nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế (>50% vốn). 1.2 Phân loại KTNN: KTNN bao gồm ba thành phần cơ bản đĩ là: các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), các tổ chức nhà nước, những tài sản thuộc sở hữu tồn dân. *Về Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) Khái niệm: DNNN là doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước hoặc Doanh nghiệp cổ phần trong đĩ vốn của nhà nước chiếm tỷ trọng chi phối. Trong ba nhân tố cấu thành KTNN ở trên thì DNNN là nhân tố (hay thành phần) giữ tỷ lệ cao nhất và vai trị quan trọng nhất trong việc đảm bảo cho KTNN giữ được vai trị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy khi đề cập đến vai trị chủ đạo của KTNN thì người ta thường đề cập đến DNNN là chủ yếu. Ngay trong nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành trung ương Đảng khĩa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Hội nghị đã khẳng định rõ quan điểm “KTNN cĩ vai trị quan trọng trong việc giữ vững định hướng XHCN. DNNN giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm cơng cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mơ, làm lực lượng nịng cốt, gĩp phần quan trọng để KTNN thực hiện vai trị chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. DNNN cũng được chia ra làm hai loại: Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và hoạt động cơng ích. Cả hai loại doanh nghiệp này đều mang các đặc điểm của các thành phần của KTNN và thơng thường chúng được chia làm hai loại nhỏ: các doanh nghiệp do nhà nước giữ 100% và một loại doanh nghiệp do nhà nước giữ cổ phần chi phối. Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh: Mục tiêu là nhằm thu lợi nhuận.Nhà nước sẽ giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực quan trọng đặc biệt và sẽ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh mà nhà nước cần nắm nhằm bảo đảm ổn định nền kinh tế. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thơng thường là những doanh nghiệp cĩ quy mơ lớn cĩ đĩng gĩp lớn cho ngân sách nhà nước, phải luơn luơn đi đầu trong ứng dụng kỹ thuật - cơng nghệ hiện đại, đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân. Cịn các doanh nghiệp hoạt động cơng ích là những doanh nghiệp hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận, cĩ thể khơng cĩ thu mà nhà nước cấp kinh phí - đĩ là những doanh nghiệp cung cấp các hàng hố cơng cộng, dịch vụ cơng như : An ninh, quốc phịng, giao thơng, giáo dục, ytế….. *Về các tổ chức KTNN: Các tổ chức KTNN là các tổ chức hoạt động gắn với chức năng quản lý (kiểm tra, kiểm sốt) như tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia…các tổ chức này cĩ thể do nhà nước cung cấp 100% vốn hoặc giữ một phần vốn cố định để đảm bảo sự hoạt động ổn định cho các tổ chức này. Thành phần này cũng cĩ nột vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. *Về các tài sản thuộc sở hữu nhà nước: Các tài sản thuộc sở hữu tồn dân (hay sở hữu nhà nước) được xem là thành phần của kinh tế nhà nước. Khi Nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do quuền sở mang lại như: đất đai, tài nguyên thiên nhiên,… 2. Sự cần thiết của kinh tế Nhà nước và vai trị chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế 2.1. Sự cần thiết cĩ kinh tế Nhà nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước. Với mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước từ ngày bắt tay vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cho đến hơm nay, kinh tế Nhà nước đã được hình thành, phát triển với những vcị trí khác nhau trong nền kinh tế nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh té nhất định của từng giai đoạn. Tuy vậy, trong suốt cả thời kỳ lịch sử ấy, kinh tế nhà nước luơn luơn là lực lượng chủ đạo, nịng cốt, là cơng cụ duy nhất để Nhà nước đưa đất nước đi lên theo con đường Xã hội chủ nghĩa(1955). Sau khi hồ bình lập lại ở miền Bắc(1955), đảng và nhà nước đã chủ trương xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc theo cơ chế kế hoạch hồ tập trung bao cấp để tạo cơ sở ban đầu cho một Nhà nước xã hội chủ nghĩa tương lai khi giải phĩng miền Nam và thống nhất nước nhà. Xuất phát điểm từ một nền kinh tế được xây dựng trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, vì vậy bước đầu tiên khi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa với nhiệm vụ thủ tiêu kinh tế tư nhân, xây dựng kinh tế quốc doanh (Kinh tế quốc dân) và kinh tế tập thể. Từ đây một loạt các xí nghiệp quốc doanh (XNQD) được ra đời bằng nhiều cách khác nhau: do Nhà nước đầu tư xây dựng mới, hoặc quốc hữu hố các xí nghiệp tư nhân. Đến cuối thời kỳ cải tạo và khơi phục kinh tế, XNQD đã chiếm ưu thế tuyệt đối trên nền kinh tế quốc dân. Kết quả là kinh tế tư bản tư nhân bị xĩa bỏ để chuyển sang một nền kinh tế mà kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể giữ vị trí độc tơn. Đến năm 1960, kinh tế quốc doanh vươn lên trở thành lực lượng kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân nước ta lúc bấy giờ. Và với chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi lên xã hội chủ nghĩa, kinh tế quốc doanh được giao cho vai trị chủ đạo của nền kinh tế từ đây. Giai đoạn 1960 đến 1985: Đây là giai đoạn khá dài mà lịch sử đất nước đã trải qua những bước thăng trầm về chính trị, xã hội và kinh tế. Từ 1960 đến 1975: Vẫn là cơ chế kế hoạch hố tập trung bao cấp, ở giai đoạn này Đảng ta chủ trương cơng nghiệp hố hiện đại hố xã hội chủ nghĩa miền Bắc và đấu tranh giảu phĩng miền Nam. Để tiến hành cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương “ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng một cách hợp lý”, và do đĩ các xí nghiệp quốc doanh càng được đầu tư nhiều hơn và phát triển hơn cả về số lượng và quy mơ, đặc biệt là trong ngành cơng nghiệp nặng. Một loạt các khu cơng nghiệp mới được hình thành như: Việt Trì, Thái Nguyên, Vinh, Đơng Anh(Hà Nội)… đây là cơ sở để kinh tế quốc doanh được mở rộng và phân bổ được khắp các vùng kinh tế lớn, nĩ sẽ làm hạt nhân, là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các vùng. Kinh Tế quốc doanh trong giai đoạng này cĩ vai trị vừa là cơng cụ quan trọng để nhà nước tiến hành cơng nghiệp hố XHCN ở miền Bắc nhưng lại vừa là tấm gương phản ánh sự hành cơng của quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, nĩ khẳng định con đường mà Đảng ta đã lựa chọn là đúng đắn.Trên phương diện chính trị xã hội, thì KTQD luơn là lực lượng tiến bộ xã hội, là đội quân tiên phong trong việc mở rộng QHSX XHCN. Từ năm 1975 đến 1980: Cơ chế kế hoạch hố tập trung thuần tuý vẫn được duy trị. Sau khi thống nhất đất nước. với định hướng đưa cả nước đi lên XHCN, nhưng cĩ sự chênh lệch giữa hai miền Nam-Bắc, vì vậy Đảng ta chủ trương tiếp tục mở rộng QHSX XHCN và cơng nghiệp hố XHCN ở miền Bắc, đồng thời tiến hành cơng cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam. Thi hành chủ trương đĩ số lượng các XNQD trên tất cả các lĩnh vực kinh tế (Cơng nghiệp, nơng nghiệp, thương nghiệp) tăng lên một cách nhanh chĩng trên khắp cả nước. Mặc dù so với giai đoạn trước đĩ sức đĩng gĩp của KTQD trong giai đọan này đã giảm sút, song KTQD vẫn đĩng vai trị chủ đạo, tuyệt đối quan trọng cơng cuộc xây dựng và phát triển QHSX mới CNXH. Từ 1980-1985: Giai đoạn này nền kinh tế gặp rất nhiều khĩ khăn, năng lực sản xuất của KTQD khơng được sử dụng tối đa do thiếu vật tư một cách nghiêm trọng. Với quan điểm định hướng xây dựng CNXH nên KTQD vẫn được nhà nước rất chú trọng tìm giải pháp tháo gỡ giai đoạn này cơ chế kế hoạch hố tập trung đã cải tiến dần sang phi tập trung hố trong quản lý kinh tế, tuy vậy KTQD vẫn giữ vai trị quan trọng tuyệt đối, trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thể hiện ở chỗ các XNQD vẫn nắm giữ các ngành then chốt như điện, hố chất, luyện kim, xi măng… Giai đoạn từ1986 đến nay: Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đưa ra chính sách kinh tế mới làm nên một bước ngoặt trong lịch sử phát triển kinh tế ở nước ta, đĩ là chính sách đổi mới cơ chế kinh tế : xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Trong quá trình hình thành cơ chế kinh tế mới, cơng tác quản lý KTQD vẫn cịn tiếp tục được cải tiến theo hướng phi tập trung hố, kế hoạch hố và quản lý và quản lý đối với KTQD, đồng thời các thành phần kinh tế khác được hình thành và chú trọng phát triển, đĩ là kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và các thành phần khác. Từ đây KTQD mất vị trí độc tơn trong nền kinh tế quốc dân. Song khơng cĩ nghĩa là nĩ khơng cịn giữ vai trị chủ đạo nữa, mà ngược lại hơn bao giờ hết vai trị chủ đạo của kinh tế quốc doanh – đã đổi thành kinh tế nhà nước - được xem là quan trọng và cần thiết nhất. Trên giác độ kinh tế thì KTNN luơn nắm giữ những lĩnh vực then chốt, những ngành trọng yếu của nền kinh tế như: CN năng lượng (dầu mỏ, than, điện), cơng nghiệp luyện kim, cơng nghiệp vật liệu xây dựng… Như vậy cùng với tiến trình lịch sử xây dựng và phát triển QHSX mới XHCN của nước ta, KTNN đã khẳng định được vai trị chủ đạo mà chỉ cĩ nĩ mới thực hiện được những nhiệm vụ mà lịch sử phát triển đưa ra KTNN đã nắm được những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, đĩng vai trị mở đường hướng dẫn nền kinh tế phát triển đúng định hướng đã chọn suốt cả một thời kỳ lịch sử phát triển kinh tế. 2.2 Kinh tế nhà nước và vai trị chủ đạo của nĩ trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Để hiểu đúng vai trị của một thành phần kinh tế trong một cơ chế kinh tế nhất định thì ta phải hiểu được cơ chế vận hành và đặc trưng cơ bản của cơ chế kinh tế đĩ. Vì vậy ở đây ta nghiên cứu về kinh tế nhà nước trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thì trước hết ta sẽ tìm hiểu qua về cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Ta cĩ thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hố do sự tác động của các quy luật vốn cĩ của nĩ (đĩ là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thơng tiền tê…), cơ chế đĩ giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường. Vậy nền kinh tế thị trường cĩ sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN mà nước ta đang vận dụng là gì? Đĩ là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, tức là bất kể thành phần kinh tế nào (hay đơn vị kinh tế nào) của nền kinh tế cũng phải chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường, nhưng đồng thời phải tuân thủ các nguyên tắc của chế độ XHCN dưới sự quản lý của nhà nước XHCN. Từ khái niệm này ta cĩ thể hiểu nơm na rằng, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tức là xây đựng một nền kinh tế thị trường hướng tới chế độ XHCN, hướng tới thực hiện mục tiêu của XHCN đĩ là mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ văn minh. Đặc điểm cơ bản của cơ chế thị trường là cơ chế tự phát, các nhân tố kinh tế của cơ chế đĩ tự tác động qua lại theo quy luật kinh tế khách quan mà dẫn đến sự biến đổi, phát triển của nền kinh tế. Đặc điểm đĩ vừa là ưu điểm, vừa là hạn chế của cơ chế này. Nĩ cĩ thể mang lại một nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, nhưng đồng thời mang lại những khuyết tật về xã hội đĩ là phân biệt giàu nghèo, bất cơng, tệ nạn xã hội gia tăng… Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước tức là muốn dựa trên ưu điểm của cơ chế thị trường để khắc phục những khĩ khăn của nền kinh tế kém phát triển của nước ta, đồng thời đảm bảo tiến được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ ,văn minh. Ở các phần trên ta đã rút ra được rằng để xây dựng một nền kinh tế theo chế độ XHCN thì nhất định kinh tế nhà nước phải luơn nắm vai trị chủ đạo, bởi nĩ là lực lượng kinh tế đại diện cho quan hệ sản xuất mới XHCN, nĩ là cơng cụ để nhà nước dẫn dắt tồn bộ nền kinh tế đi đúng hướng đã chọn, nĩ đĩng vai trị quan trọng trong việc mở đường và hướng đẫn cho nền kinh tế phát triển. Cịn trong cơ chế kinh tế thị trường thì sao? Nếu nền kinh tế thị trường được để phát triển một cách tự do, khơng sự quản lý của nhà nước thì sẽ bộc lộ rõ ngay những hạn chế, yếu kém, những khuyết tật vốn cĩ của nĩ. Bởi vậy với định hướng xã hội chủ nghĩa cĩ sự quản lý của nhà nước thì nền kinh tế thị trường của chúng ta đạt được thành quả cả về mặt xã hội và kinh tế. Muốn như vậy, mối quan hệ mới XHCN càng phải được củng cố và phát triển hơn nữa – mà đại diện của nĩ là thành phần kinh tế nhà nước phải được tổ chức làm sao ngày càng hồn thiện và nắm được vai trị chủ đạo của nĩ trong nền kinh tế thị trường. Đĩ là địi hỏi khách quan do những đặc điểm của cơ chế kinh tế mới. Thứ nhất, kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, theo xu hướng hội nhập với khu vực và quốc tế, nhưng để cĩ thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới địi hỏi các doanh nghiệp phải cĩ cơ sở vật chất, kỹ thuật cĩ quy mơ, cơng nghệ hiện đại ngang tầm với các nước khác trên thế giới. Bởi cĩ như vậy Việt Nam mới cĩ thể phát huy được những lợi thế so sánh so với các nước khác và đứng vững để cạnh tranh được với nền kinh tế vốn lớn mạnh của các nước trong khu vực và thế giới. Nhưng một đặc điểm rất nổi bật của các thành phần kinh tế cá thể và tư bản tư nhân là quy mơ sản xuất của chúng rất nhỏ bé, lượng vốn đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất ban đầu rất nhỏ chúng chỉ đủ khả năng tham gia vào một số ngành, lĩnh vực mà cĩ khả năng tạo lợi nhuận nhiều nhất, đầu tư ít vốn nhưng chu kì quay vịng vốn nhanh và chỉ cĩ thể cạnh trong nước, hơn một lý do rất đơn giản là quy mơ quá nhỏ hep, vốn quá ít khơng đủ điều kiện để hội nhập với các nước bạn. Trong điều kiện đĩ thì kinh tế nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước cĩ quy mơ lớn và vừa mới cĩ khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế với các nước trên thế giới. Bởi chỉ cĩ Nhà nước mới cĩ đủ nguồn vốn để xây dựng được các doanh nghiệp nhà nước đủ lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt, các ngành kinh doanh mà Việt Nam cĩ lợi thế so sánh so với các nước khác. Do đĩ mà kinh tế nhà nước trở thành lực lượng giữ vai trị dẫn dắt, làm hạt nhân để các danh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân dân cĩ thể tham gia vào nền kinh tế hội nhập. Một lý do thứ hai khiến kinh tế nhà nước trở thành lực lượng đầu tàu trong việc dẫn dắt nền kinh tế nước ta hiện nay là vì trong nền kinh tế luơn luơn cĩ những ngành, lĩnh vực rất khĩ cĩ khả năng sinh lời hoặc cịn rất nhiều vùng kinh tế cĩ cơ sở hạ tầng thấp kém khĩ đầu tư sản cuất, do đĩ mà các thành phần kinh tế khác khơng muốn hoặc khơng cĩ khả năng kinh doanh thì kinh tế nhà nước phải tham gia vào hoạt động trong các ngành kinh tế hay các vùng kinh tế để tạo dựng được những cơ sở vật chất ban đầu, thu hút dần các phần tử kinh tế khác cùng tham gia vào hoạt động. Cĩ như thế thì mới hình thành nên một cơ chế kinh tế hợp lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đĩ là tạo nên một nề kinh tế cĩ các ngành, lĩnh vực được đầu tư, phát triển một cách cân bằng, cĩ các vùng kinh tế phát triển song song với nhau. Thứ ba, để xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng XHCN thì địi hỏi phải cĩ sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế bằng pháp luật. Những nhà hoạt động sản xuất kinh doanh luơn hướng tới mục tiêu quan trọng nhất đĩ là làm sao tối đa hố được lợi nhuận. Nhưng tình hình nước ta hiện nay, các chủ thể kinh hoanh cĩ thể cĩ trình độ hiểu biết về ý thức, về quản trị kinh doanh rất khác nhau, cĩ người tham gia vào kinh doanh chỉ vì họ cĩ vốn nhưng lại thiếu hẳn các ý thức và kiến thức cần thiết, điều đĩ dễ dẫn đến những sai phạm về pháp luật và thường chỉ vì lợi nhuận các nhân mà quyên mất lợi ích của xã hội. Kinh tế nhà nước với lực lượng kinh tế luơn được nhà nước chú trọn về khâu đào tạo cán bộ cĩ ý thức pháp luật, do đĩ trong giai đoạn hiện nay đương nhiên kinh tế nhà nước phải là thành phần gương mẫu để các thành phần kinh tế khác học tập để hoạt động cĩ hiệu quả hơn. Từ ba lý do trên mà ta thấy kinh tế nhà nước đương nhiên phải là thành phần kinh tế nắm vai trị chủ đạo trong nền kinh tế với tư cách là lực lượng đi đầu trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, là đội quân mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo một cơ cấu kinh tế phát triển cân đối hợp lý, là lực lượng gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện pháp luật, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác cùng thực hiện theo luật pháp trong cơ chế kinh tế mới đảm bảo phát triển một nền kinh tế thị trường lớn mạnh với một xã hội phát triển đúng định hướng đã chọn của Đảng. 3. Nội dung vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Để đảm bảo thực hiện được vai trị là thành phần kinh tế chủ lực của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay thì kinh tế nhà nước phải thực hiện được bốn nội dung hay là bốn chức năng của nĩ trong kinh tế nhiều thành phần của nước ta hiện nay. * Thứ nhất, kinh tế nhà nước mà thành phần chính là các doanh nghiệp nhà nước, phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Là lực lượng kinh tế được nhà nước chú trọng đầu tư, phát triển, do Nhà nước nắm giữ nguồn vốn chi phối do đĩ quy mơ hoạt động của các kinh tế nhà nước và đặc biệt là thành phần doanh nghiệp nhà nước rất rộng lớn, và đang ngày càng được tổ chức sắp xếp lại theo hướng hiện đại nhằm hoạt động cĩ hiệu quả hơn. Bởi nguồn vốn đầu tư lớn, chủ yếu trong các doanh nghiệp nhà nước cĩ 100% vốn của nhà nước hoặc nhà nước giữ cổ phần chi phối) nên các doanh nghiệp nhà nước cĩ điều kiện đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, cơng nghệ hiện đại. Cĩ khả năng tạo ra năng xuất, chất lượng các loại hàng hố, dịch vụ cao, sử dụng tối đa và tận dụng được các nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tiết kiệm được chi phí sản xuất nhưng mang lại hiệu quả sản xuất cao, đĩng gĩp ngân sách lớn. Chỉ cĩ doanh nghiệp nhà nước mới cĩ khả năng đi đầu trong việc việc ứng dụng ác cơng nghệ mũi nhọn, cơng nghệ cao để cĩ thể đưa kinh tế đất nước theo kịp với nền kinh tế thế giới. Kinh tế nhà nước phải tạo được động lực thúc đẩy, tạo đà và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác mà cơ bản nhất là thành phần kinh tế tư bản tư nhân và thành phần kinh tế cá thể (mà chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh) cũng đĩng gĩp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Muốn thực hiện được chức năng này thì kinh tế nhà nước phải cần được chú trọng tron các ngành lĩnh vực then chốt của nền kinh tế - bởi chỉ khi các ngành kinh tế này được phát triển thì mới đủ khả năng đưa nền kinh tế phát triển theo. Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ phát triển các lĩnh vực, ngành then chốt sẽ cĩ sự thanh đổi, luân chuyển từ ngành này sang ngành khác, do đĩ việc xác định ngành lĩnh vực then chốt cho từng thời kỳ mà phải tính đến cả xu hướng hội nhập cũng như tiềm năng kinh tế của đất nước là quan trọng. Khi nhà nước đầu tư phát triển đúng hướng thì kinh tế nhà nước sẽ hoạt động cĩ hiệu quả, thu hút dần các thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào – như thế là kinh tế nhà nước đã tạo đà và dẫn dắt được các thành phần kinh tế phát triển, cùng gĩp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Để tạo động lực, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển thì kinh tế nhà nước phải đi đầu trong việc chuyển giao cơng nghệ, áp dụng cơng hiện đại và sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các lĩnh vực mà trước đây ít được đầu tư do ít cĩ khả năng sinh lời, nhưng là lực lượng duy nhất cĩ đủ điều kiện về vốn, lao động nên doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu về cải tiến kỹ thuật cơng nghệ sản xuất để từđĩ mở đờng cho các doanh nghiệp dân doanh mạnh dạn cùng tham gia đầu tư phát triển. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày nay cịn gắn liền với việc bảo vệ mơi trường hạn chế việc gây ơ nhiễm mơi trường, do đĩ đay cũng là mọt tiêu thức của phát triển mà doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu, làm gương để các thành phần kinh té khác đi theo. Việc giảm thiểu ơ nhiễm mơi trườngcĩ liên quan đến vấn đề cơng nghệ và vấn đề lợi nhuận của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dân doanh thường với số vốn ít ỏi thì cơng nghệ cũng lạc hậu, tuy nhiên vì mục đích tối đa hố lợi nhuận mà các doanh nghiệp bỏ qua vấnđề mơi trường. Doanh nghiệp nhà nước cũng phải thể hiện vai trị chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề này đĩ là khi nhạp và cung cấp các thiết bị cơng nghệ cho các doanh nghiệp dân doanh thì doanh nghiệp nhà nước phải chú trọng đến các thiết bị bảo đảm chống ơ nhiễm mơi trường và doanh nghiệp nhà nước phải luơn đi đầu trong việc thực hiện luật bảo vệ mơi trường để các doanh nghiệp khác đi theo. * Thứ hai, bằng nhiều hình thức, kinh tế nhà nước hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Muốn xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN đương nhiên phải xây dựng một lực lượng kinh tế đĩng vai trị chủ đạo, làm tâm điểm ảnh hưởng tới các lực lượng khác của nền kinh tế, hướng dẫn, hỗ trợ các lực lượng kinh tế khác cùng phát triển theo cùng một định hướng đã chọn và đĩ chính là KTNN. Trên cơ sở xác định, khơng một nền kinh tế nào phát triển mà chỉ dựa trên một thành phần kinh tế mà đĩ phải là sự phát triển đồng bộ của nhiều thành phần kinh tế cĩ thể phát huy được mọi tiềm năng của đất nước. Tuy nhiên như đã phân tích ở các phần trên chúng ta biết rằng quy mơ của các thành phần kinh tế tư nhân của nước ta cịn rất nhỏ hẹp, mặt khác thời gian phát triển cịn ngắn nên các doanh nghiệp dân doanh chưa thể tích luỹ để mở rộng quy mơ lớn hơn đẻ làm nguồn cốt cho việc phát triển kinh tế nước ta. Trong điều kiện đĩ, chỉ các doanh nghiệp nhà nước cĩ đủ điều kiện để trở thành lực lượng nguồn cốt, tạo chõ dạ cững chắc cho để dẫn dắt các doanh nghiệp dân doanh cùng phát triển. Muốn làm được điể đĩ thì kinh tế nhà nước phải xác định được cơ cấu thành phần kinh tế của mình một cách hợp lý. Luơn giữ được vị trí, vai trị xứng đáng, phát huy được lợi thế, khai thác được khả năng đĩng gốp thiết thực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, kinh tế nhà nước phải tích luỹ được vốn để phát triển trong các lĩnh vực then chốt, chi phối nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân, để từ đĩ các thành phân kinh tế khác cĩ được chỗ dựa vững mà cùng phát triển, đi lên. Mặt khác, trong cơ chế thị trường, lợi nhuận luơn là mục tiêu mà các doanh nghiệp theo đuổi, do đĩ các thành phần khác thường tập trung kinh doanh ở những ngành kinh tế hoặc những vùng cĩ khả năng đưa đến lợi nhuận cao một cách nhanh chĩng mà ít rủi ro nhất, do đĩ sẽ tạo ra lỗ hổng là những ngành và vùng kinh tế kém tiềm năng hoặc địi hỏi đầu tư lớn: đĩ là các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển cĩ cơ sở hạ tầng thấp kém. Để khắc phục tình trạng đĩ, đồng hởi mở đường kích thích các thành phần khác cùng tham gia vào hoạt động sản xuất thì kinh tế nhà nước phải cĩ mặt để xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển là điều kiện tiên đề tạo thuận lợi trước mắt thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế. Đĩ cũng là một chức năng thể hiện vai trị chủ đạo, mở đường, hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển theo đúng đinh hướng XHCN, bởi nĩ cân bằng được trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế, giảm bớt hố ngăn cách giữa thành thị và nơng thơn. Phát triển theo đúng định hướng XHCN cịn thể hiện ở việc tuân theo pháp luật mà nhà nước XHCN đã đề ra. Thực tế hiện nay cho thấy khơng ít chủ các doanh nghiệp dân doanh chỉ vì lợi nhuận cá nhân mà bất chấp cả pháp luật, hoặc cáo những hoạt động thiếu ý thức pháp luật. Tất yếu đấy là vấn đề mà nhà nước phải cĩ biện pháp giải quyết, và DNNN là một trong những cơng cụ mà nhà nước dùng để hạn chế vấn đề này. Vì vậy, DNNN phải là tấm gương mẫu mực trong việc tuân theo phát luật để các doanh nghiệp khác cùng noi theo. * Thứ ba : KTNN là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mơ. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đĩ là : các đơn vị kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, nhà nước đĩng vai trị điều tiết nền kinh tế theo định hướng XHCN. Các đơn vị kinh tế luơn phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản đĩ là sản xuất cái gì, cho ai và như thế nào theo mục tiêu là tối đa hố lợi nhuận. Điều đĩ dẫn đến kết quả là các dơn vị kinh tế luơn chạy theo những loại hàng hố và dịch vụ mang đến nhiều lợi nhuận và sẽ rút khỏi thị trường các loại hàng hố khơng cĩ lãi hoặc lỗ. Tuy nhiên khơng phải mọi doanh nghiệp đều luơn thu nhận được thơng đầy đủ để quyết ịnh tham gia vào sản xuất mặt hàng nào, tất sẽ dẫn tới phát sinh những mâu thuẫn giữa cung cầu ở mọi lúc, mọi nơi đỗi với mọi mặt hàng. Để điều tiết được nền kinh tế đĩ thì nhà nước sử dụng KTNN là một lực lượng vật chất hay một cơng cụ điều tiết hiệu quả, là vì : Thứ nhất: KTNN từ khi được hình thành cho tới nay luơn được chú trọng đầu tư ở hầu khắp các kĩnh vực, ngày kinh té, vả ngành khơng cĩ khả năng sinh lợi nhuận. (Các hàng hố, dịch vụ cơng cộng) do đĩ nĩ làm cân đối giữa các ngành của nền kinh tế. Với tư cách là cơng cụ điều tiết, các DNNN được nhà nước đầu tư phát triển theo phương châm: “Ở đâu, khi nào nền kinh tế quốc dân đang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đĩ mà các thành phần kinh tế khác khơng muốn hoặc khơng cĩ khả năng kinh doanh thì khi đĩ cần cĩ sự cĩ mặt của DNNN”, đến một lúc nào đĩ khi khả năng sinh lời tăng lên thì doanh nghiệp dân doanh nhày vào hoạt động và đủ khả năng cung cấp cho thị trường thì DNNN rút ra và tiếp tục hoạt động ở các lĩnh vực khác. Thứ hai : trong các vùng kinh té luơn cĩ sự phát triển mất cân đối giữa các ngành kinh tế đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển. Nhà nước đã rất chú trọng đầu tư phát triển ở các vùng này từ rất lâu và hiện nay nĩ đã phát huy chức năng điều tiết cho kinh tế của các vùng đĩ tương tự như tạo ra sự cân bằng trong nền kinh tế vĩ mơ của cả nước. Thứ tư : kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo dẫn nền tảng kinh tế cho chế độ xã hội mới, XHCN. Theo luận điểm của Mác-Lenin thì chế độ XHCN phải được xây dựng dựa trên chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất, tức là mọi tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu chung của tập thể, của tồn dân, khơng một cá nhân nào được biến TLSX thành tài sản riêng của mình. Đĩ được coi là chế độ sở hữu tiến bộ nhất trong lịch sử phát triển của xã hội lồi người. Khi xem xét về nguồn gốc hình thành KTNN ta đã biết rằng KTNN được xây dựng dựa trên hình thức sở hữu tồn dân, cịn kinh tế tập thể được xây dựng dựa trên hình thức sở hữu tập thể, trong thời kỳ quá độ lên CNXH của nước ta thì đây là hai hình thức sở hữu được xem là tiến bộ nhất, nĩ đại diện cho QHSX mới XHCN. Vì vậy để xây dựng nền kinh tế XHCN thì KTNN cùng kinh tế tập thể cĩ vai trị là nền tảng cơ bản . II. Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN hiện nay. 1. Những bước chuyển biến chủ yếu của KTNN trong thời kì đổi mới: Từ giai đoạn đầu thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, chuyển từ kinh tế kế hoạch hố tập trung sang kinh tế thị trường cĩ sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN (Giai đoạn 1986 – 1990), một nền kinh tế đa phần được hình thành, nhưng cũng ngay từ đây KTNN đã giữ vững và khẳng định được vai trị chủ đạo của nĩ. Năm 1990 KTNN tạo ra 66% tổng sản phẩm xã hội với số lượng DNNN là 1200 doanh nghiệp. Sang thập niên 90 – là giai đoạn Đảng và Nhà nước ta thực thi nhiều chính sách, biện pháp lớn mạnh nhằm cải tổ và sắp xếp lại cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước để hoạt động hiệu quả hơn. Với các chính sách, cơ chế đổi mới để DNNN tự chủ trong cơ chế thị trường, về kế hoạch, các doanh nghiệp được chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho đĩ là kế hoạch sản xuất, cung ứng vật tư kỹ thuật, đầu tư xây dựng cơ bản, tài chính, lao động… trên cơ sở tính tốn nhu cầu thị trương về sản phẩm, dịch vụ của Doanh nghiệp mình. Về tài chính Doanh nghiệp được Nhà nước giao vốn, tự chủ sử dụng vốn và sử dụng quỹ khấu hao để đầu tư, đổi mới tài sản… Về tổ chức bộ máy và nhân lực: Doanh Nghiệp cĩ quyền tự chủ động tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao, được đào tạo và sử dụng lao động theo quy định của pháp luật trên cơ sở hợp đồng ký kết với người lao động và thoả ước lao động tập thể, thực hiện trợ cấp cho người lao động khi thơi việc, mất việt… Về quản lý Nhà nước đối với DNNN: từng bước xố bỏ chế độ chủ quan của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp can thiệp quá sâu vào các hoạt dộng của DNNN, chỉ quản lý trên các mặt cĩ tính tổng quan, chiến lược, tạo mơi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và kiểm tra việc chấp hành pháp luật. Về thực hiện chức năng chủ sở hữu, Nhà nước đối với DNNN: cĩ một bước đổi mới lớn dựa trên cơ sở phân cơng, phân cấp giữa chính phủ và các cấp quản lý với đại diện chủ sở hữu ở Doanh nghiệp. Quá trình đổi mới cơ chế, chính sách đã hình thành được khung pháp lý tương đối rõ ràng và cơ bản để DNNN sang kinh doanh theo cơ chế thị trường, xác lập dân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã được sử dụng hiệu qủ hơn tiền vốn và tài sản, nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh và ổn định việc làm cho người lao động. Kết quả hoạt động của các DNNN sau các chính sách đổi mới đĩ được thể hiện qua những con số sau: thời kỳ 1991 – 1995, tốc độ tăng trưởng của các DNNN bình quân theo GDP là 11,7% bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế và bằng 2 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ngồi quốc doanh. Từ 1990 đến nay do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới cùng những thiên tai liên tiếp xảy ra thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế giảm dần, DNNN cũng nằm trong tình trạng đĩ, tỷ trọng tổng sản phẩm của DNNN trong GDP tăng 33,3% năm 1991 lên 40,07% năm 1996 và 41,23% năm 1998. Tỷ lệ nộp vốn ngân sách trên vốn nhà nước năm 1993 là 6,8% và năm 1999 là 12,31%. Năm 1999 các doanh nghiệp làm 40,2% GDP trên 50% giá trị xuất nhập khẩu, đĩng gĩp 39,25% ngân sách Nhà nước. Từ 1995 đến nay, hằng năm DNNN đĩng gĩp từ 26 – 28% nguồn thu thuế nội địa. Từ thập niên 90 trở lại đây, Nhà nước đã sắp xếp, tổ chức, củng cố và phát triển các DNNN, các tổng cơng ty Nhà nước: Chính phủ đã liên tục chỉ đạo và thực hiện sắp xếp lớn các DNNN đĩ là đợt 2 (1990 – 1993), đợt 2 (1994 – 1997), đợt 3 (1998 – 1999), qua mỗi đợt sắp xếp đĩ là các DNNN đã cĩ sự đổi mới về quy mơ, về cơ cấu tổ chức quản lý bằng cách sát nhập, giải thể phá sản các doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ kéo dài, chuyển doanh nghiệp nhà nước thành các cơng ty cổ phần hoặc giao, bán, khốn, cho thuê DNNN cĩ quy mơ nhỏ. Kết quả sau 3 đợt sắp xếp đổi mới đĩ là hiệu quả hoạt động của các DNNN tăng lên, mặc dù số DN giảm xuống rất nhiều từ 12000 doanh nghiệp (năm 1990) xuống cịn 5280 doanh nghiệp (năm 2000). Hiện nay cĩ 17 tổng cơng ty 91 và 77 tổng cơng ty 90 đang hoạt động, các tổng cơng ty này được tập trung xây dựng hầu hết trong tất cả các lĩnh vực kinh tế của đất nước. Các tổng cơng ty nhà nước cĩ 1605 DN thành viên, chiếm 28,4% tổng số doanh nghiệp nhà nước, 65% vốn nhà nước và 61% lao động. Năm 2000, các tổng cơng ty đã cung cấp cho nền kinh tế quốc dân 98% sản lượng điện, 97% sản lượng than, 54% sản lượng xi măng, 52% sản lượng thép, các ngân hàng thương mại giữ 70% thị phần vốn vay. Một bộ phận DNNN đã được cổ phần hố mà Nhà nước khơng cần nắm giữ 100% vốn và DNNN đầu tư một phần vốn để thành lập mới cơng ty cổ phần. Tính đến năm 2001, cả nước đã cổ phần hố được 529 DN và 102 bộ phận DN bằng 11% tổng số doanh nghiệp hiện cĩ so với tổng số vốn Nhà nước khi đánh giá lại khi cổ phần hố các doanh nghiệp là 2714 tỷ đồng bằng 1,97% tổng số vốn Nhà nước trong các DNNN. Sau một thời gian hoạt động, phần vốn nhà nước ở các cơng ty cổ phần đã tăng được giá trị tuyệt đối, theo báo cáo của 202 DN đã cổ phần hố được trên 1 năm, phần vốn Nhà nước khơng những được bảo tồn mà cịn tăng thêm 65.420 tỷ đồng bằng nguồn lợi nhuận để lại; doanh thu tăng 1,4 lần, lợi nhuận tăng gấp 2 lần, nộp ngân sách tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số lượng cơng nhân viên tăng 5,1% và khơng cĩ doanh nghiệp cổ phần nào lâm vào tình trạng phá sản. Những kết quả đạt được đĩ đã chứng tỏ rằng chính sách cổ phần hố các DNNN là một chính sách đúng đắn và đã phát huy được những tính tích cực của DNNN, tạo cơ hội cho DNNN thực sự hoạt động trong cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng với mọi DN khác. Thực hiện chính sách giao, bán, khốn kinh doanh, cho thuê những DNNN quy mơ nhỏ, thua lỗ kéo dài – Đĩ là những doanh nghiệp nhỏ cĩ vốn dưới 1 tỷ đồng, kinh doanh thua lỗ kéo dài mà khơng cần thiết duy trì sở hữu Nhà nước, cần áp dụng các hình thức xử lý thích hợp như: sát nhập, đấu thầu cơng khai, cho thuê, khốn kinh doanh hoặc bán, giao cho tập thể cán bộ, cơng nhân với điều kiện đảm bảo cơng ăn việc làm cho người lao động và thực hiện luật pháp của nhà nước. Theo nghị quyết hội nghị TW lần thứ tư (Khố VIII) đã nêu trên, đến thực hiện, tình hình sản xuất kinh doanh của các DN này khá lên rõ rệt: so với trước khi chuyển đổi vốn kinh doanh tăng 67,3% , doanh thu tăng 42,5%, nộp ngân sách nhà nước tăng 44,5% lao động tăng 12,8%, thu nhập bình quân đầu người bằng 38,7%, một số cịn tích luỹ thêm và đã mở rộng được sản xuất. Đĩ là thành quả rất đáng mừng đối với sự phát triển của kinh tế nhà nước. Như vậy trong suốt quá trình đổi mới từ 1986 đến nay, nhờ những chính sách đổi mới, sắp xếp tổ chức lại các DNNN của chính phủ mà các DNNN đã cĩ những chuyển biến tích cực: việc tách quyền sở hữu đã tác động tích cực đến quyền tự chủ của các doanh nghiệp và do đĩ hoạt động cĩ hiệu quả hơn trước, trình độ cơng nghệ và quản lý cĩ nhiều tiến bộ, vốn được bảo tồn và tăng thêm, bước đầu đa dạng các nguồn vốn để phát triển, vốn tích luỹ tự bổ sung tăng lên 27,8% tổng vốn sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của DNNN đang từng bước được nâng lên, giúp KTNN thực hiện được vai trị chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, chi phối được các ngành lĩnh vực then chốt, là lực lượng nịng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đĩng gĩp cho ngân sách Nhà nước, bảo đảm cân đối vốn và gĩp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mơ, là lực lượng rất quan trọng trong việc bảo đảm các sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế. 1.2 Kết quả bước đầu phát huy vai trị chủ đạo của KTNN từ những bước đổi mới: Thứ nhất, hệ thống kinh tế Nhà nước các thể chế thống nhất đang làm địn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá. Thứ hai, trong những năm lại đây, hồ chung vào xu thế tồn cầu hố nền kinh tế thế giới, kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngồi rất được phát triển mà chủ yếu là với thành phần KTNN. Điều đĩ khẳng định là thành phần kinh tế đi đầu trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo xu hướng chung của nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới. Thứ ba, KTNN phát triển ổn định là một nhân tố cơ bản, quan trọng giúp Nhà nước giải quyết được một số vấn đề kinh tế vĩ mơ và vấn đề xã hội như giảm thất nghiệp, bảo hiểm cho người lao động, trợ cấp mất việc hay thơi việc, gĩp phần xĩa đĩi giảm nghèo, cân bằng kinh tế, phát triển văn hố, giáo dục… Thứ tư, KTNN đang tạo ra lực lượng vật chất tối thiểu cần thiết để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mơ, ổn định xã hội, hạn chế khuyết tật của kinh tế thị trường. Thứ năm, KTNN phát triển, vừa tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, vừa là tấm gương để các thành phần kinh tế khác đi theo trong việc quản lý, tuân thủ pháp luật, bảo vệ mơi trường… Nhờ đĩ tạo nên sự phát triển đồng bộ, ổn định cho nền kinh tế quốc dân. Thứ sáu, KTNN đã gĩp phần tạo nên con người mới XHCN với những phẩm chất, trình độ cần cĩ để xây dựng chế độ xã hội mới. Điều đĩ được thể hiện qua đội ngũ cán bộ lao động trong các DNNN đang ngày càng cĩ trình độ cao, phẩm chất tốt, năng lực quản lý tiến bộ… từ đĩ tạo điều kiện phát huy vai trị giai cấp cơng nhân trong xây dựng xã hội mới – XHCN. 1.3 Nguyên nhân những thành quả đạt được: Thứ nhất, xuất phát điểm đầu tiên cho sự đổi mới nền kinh tế nước ta đĩ là nhờ chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương xây dựng một nền Kinh tế mở của Đảng đã rất phù hợp với thực tế tình hình đất nước ta do đĩ đã mở ra một thời kỳ kinh tế mới năng động, sáng tạo, nhanh chĩng đưa đến hiệu quả phát triển của nền kinh tế, - xã hội đất nước, xuyên suốt thời kỳ đổi mới (1986 đến nay), giã các văn kiện đại hội lần thứ VI đến đại hội lần thứ IX luơn đặt KTNN lên nắm vai trị chủ đạo: “Làm địn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xã hội, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mơ, tạo nền tảng cho chế độ XHCN” (Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII) Thư hai, nhà nước XHCN VN đang từng bước hồn thiện dần hệ thống các cơng cụ quản lý vĩ mơ, của mình đối với thành phần KTNN đặc biệt là đối với các DNNN.Bằng các văn bản pháp quy các chính sách kinh tế mà nhà nước đã thể chế hố các quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trị chủ đạo của KTNN, DNNN; một loạt các văn bản được thực thi như quyết định về hạch tốn kinh doanh trong DNNN, quy chế quản lý tài chính đối với DNNN. Luật DNNN, luật thương mại, chỉ thị về đẩy mạnh và sắp xếp, đổi mới các DNNN, nghị quyết về giao, bán, khốn, đĩ là những cơng cụ điều tiết, quản lý kinh tế của nhà nước, thể hiện sự chỉ đạo hết sức kiên trì của chính phủ các cấp, các ngành. Thứ ba, sự cố gắng phấn đấu của các DNNN, của đội ngũ cán bộ, quản lý và người lao động trong cơ chế mới mà Đảng đề ra địi hỏi các DNNN cũng như các cán bộ quản lý người lao động, phải cĩ một sự thay đoỏi nhất định, đáp ứng được những địi hỏi của cơ chế kinh tế mới. Càng ngày ta nhận thấy tính năng động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của nhiều cán bộ, cơng nhân viên ở các DNNN được nâng cao. Các DNNN đã cĩ những việt làm nhằm đưa hoạt động của sản xuất của mình hiệu quả hơn như đổi mới cơng nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ…. Thứ bốn: Hợp tác đa phương, đa hình thức, hướng về xuất khẩu, của các DNNN được phát triển cả về quy mơ và hiệu quả, nhờ đĩ mà tranh thủ sự đầu tư, giúp đỡ của quốc tế, của các DN nước ngồi, khơng chỉ cho thành phần KTNN mà cịn cho các thành phần kinh tế khác về thị trường, về đổi mới cơng nghệ, về phương pháp sản xuất, kinh doanh…. nhờ đĩ mà KTNN thực hiện được vai trị mở đường, đãn dắt các thành phần kinh tế, phát triển theo đúng định hướng XHCN của Đảng. 2. Những tồn tại yếu kém trong quá trình đổi mới và thực hiện vai trị chủ đạo của KTNN: 2.1. Những hạn chế yếu kém của KTNN trong thời kỳ đổi mới: Bên cạnh những thành quả đã đạt được của KTNN (DNNN) mà ta đã ghi nhận ở trên (trang 21) thì KTNN cịn những hạn chế, yếu kém, mà đã được hội nghị TW Đảng khố IX đánh giá: “Những mặt hạn chế, yếu kém, cĩ mặt rất nghiêm trọng của DNNN và DNNN đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.” Nhận định trên được thể hiện qua các mặt sau: *Thứ nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của DNNN cịn thấp tốc độ phát triển chưa cao, khơng ít DNNN vẫn cịn ỷ lại vào sự bảo hộ bao cấp của nhà nước. Năm 1998, theo đánh giá chung, số DN thực sự kinh doanh cĩ hiệu quả, chiếm khoảng 20%, số chưa cĩ hiệu quả, khi lỗ khi lãi là 40%, số DN khơng cĩ hiệu quả, lỗ liên tục đĩng gĩp 39,2% tổng thu ngân sách nhà nước, nhưng trong đĩ phần thuế thu nhập DN chỉ cĩ 13,4%. Năm 2000, đồng vốn nhà nước của DNNN là ra 0.095 đồng lợi nhuận trước thuế, trong một đồng vốn chủ sở hữu của các cơng ty cổ phần được chuyển đổi từ DNNN là ra 0,019 đồng. Khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước của sản phẩm do các DN là ra cịn thấp do mức giá quá cao so với các mặt hàng cùng loại nhập khẩu như đường thơ cao hơn đến 70-80% Tốc độ phát triển sản xuất của DNNN chưa cao, cịn thấp hơn các DN thuộc các thành phần kinh tế khác,, bình quân 10 năm từ 1991-2000 của DNNN là 11%, của DN ngồi quốc doanh là 14% Khơng ít các DNNN xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh khơng gắn với định hướng phát triển chung của tồn ngành, khơng phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ được giao và chưa xuất phát từ nhu cầu thị trường, nhiều DNNN đưa ra các dự án khơng cĩ khả năng thực thi, hiệu quả đầu tư thấp, lãng phí tiền vốn, phát sinh tiêu cực, tham nhũng, để lại những hậu quả, khĩ khắc phục, Việc bảo tồn và phát triển vốn nhiều DN thực hiện chưa tốt, tình trạng ăn vào vốn, mịn vốn, mất vốn vẫn cịn rất nhiều, Khơng ít doanh nghiệp chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ tại DNNN, nhất là cơng khai tài chính, việc chi tiêu tuỳ tiện, lãng phí. Thứ hai: DNNN quy mơ vẫn cịn nhỏ, cơ cấu cịn nhiều bất hợp lý, dàn trải, chồng chéo, về ngành và tổ chức quản lý. Đến tháng 5-2001, cả nước cĩ 5.655 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nước khoảng 126.030 tỷ đồng (khơng tính giá trị quyền sử dụng đất), bình quân mỗi DN 22 tỷ đồng. Số DNNN cĩ vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 59,8%, trong đĩ số DN cĩ số vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống chiếm 18,2% (tại 14 tỉnh, loại DN này chiếm hơn 90%, chủ yếu trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, du lịch); số DN cĩ vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng chỉ chiếm 15,2% ; số DN cĩ vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 25%. Vốn lưu động của các DN nhà nước vào khoảng 27 ngàn tỷ đồng, chỉ bằng trên 21% tổng số vốn nhà nước, bình quân, một doanh nghiệp gần 4,8 tỷ, nhưng phần lớn các DN khơng cĩ hoặc rất ít vốn lưu động nên chủ yếu phải đi vay để sản xuất kinh doanh. Nhiều DNNN cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn. Thứ ba: Cơng nợ của DNNN ngày càng tăng, đầu tư đổi mới cơng nghệ chậm, trình độ cơng nghệ lạc hậu; lao động thiếu việc làm va dơi dư cịn lớn; trình độ quản lý phần lớn cịn yếu kém. Cơng nợ của DNNN hiện nay là quá lớn. Nợ quá hạn, nợ khĩ địi ngày càng tăng. Năm 2000, trong số 15,1% nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại nhà nước thì DNNN chiếm 74,8% đã làm ảnh hưởng rất xấu đến hoạt động của tập thể ngân hàng. Tình trạng tài chính khơng lành mạnh một phần do lịch sử để lại, phần lớn là mới phát sinh, nhưng cịn lúng túng, chưa cĩ phương án khả thi để xử lý dứt điểm, làm cho hoạch tốn kinh tế bị méo mĩ, khơng minh bạch và DNNN luơn trong tình trạng bị động, ứng phĩ với các khoản nợ khĩ địi. Nguyên nhân dẫn đến yếu kém, hạn chế của DNNN: Nghị quyết TW VI khẳng định: “Những hạn chế, yếu kém của DN cĩ nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan.” -Chưa cĩ sự thống nhất cao trong nhận thức về vị trí, vai trị của KTNN và DNNN về những yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. -Nhiều vấn đề chưa rõ và cịn cĩ những ý kiến khác nhau chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận. -Quản lý nhà nước đối với DNNN cịn yếu kém vướng mắc. -Cải cách hành chính chậm, cơ chế, chính sách cịn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, cịn nhiều điểm chưa phù hợp với KTTTĐHXHCN, chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong DN nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. Thứ bốn: Về hoạt động sản xuất kinh doanh kém năng động, sáng tạo, mặt hàng đưa ra cạnh tranh trên thị trường rất đơn điệu, chất lượng thấp. Các DNNN thường sản xuất các mặt hàng rất đơn diệu và thường chạy theo những mẫu mã đã cĩ sẵn của các nước khác. Tuy khối lượng sản xuất ra nhiều nhưng tiêu thụ kém do châts lượng thấp nhưng giá thành lại khơng hợp lý, mẫu mã ít thay đổi. Thứ năm : Các DNNN liên doanh với đầu tư nước ngồi thường bị thua thiệt vốn . Tuy hoạt động hợp tác, liên doanh với nước ngồi cĩ mặt rất tích cực là thu hút được vốn đầu tư vf đổi mới được cơng nghệ, nhưng thực tế hoạt động của DNNN khơng những khơng đạt được tích cực ấy mà thậm chí bị thua thiệt, mất vốn, vì các chủ đầu tư nâng giá đầu vồ của thiết bị và vật tưcĩ khi 1,5 đến 2 lần, làm cho giá thành sản phẩm tăng cao Mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh khơng thực hiện được, vốn của nhà nước bị lỗ, tỷ trọng giảm. Thực chất ở đây các chủ đầu tư đã lợi dụng danh nghĩa vào đầu tư để vào thu lợi nhuận từ phía Việt nam. Đĩ là hậu quả của việc thiếu cơ chế quản lý kiểm tra, kiểm sốt, nhất là về mặt hoạch tốn, tài chính. Thứ 6: Trình độ, phẩm chất của cán bộ quản lý DNNN cịn rất nhiều yếu kém. Đây là hậu quả, dư âm của cơ chế kinh tế cũ để lại, các cán bộ quản lý DN ngày trước đã quen với chế độ bao cấp, của nhà nước - dù hoạt động khơng hiệu quả vẫn được hưởng lương - thiếu năng động, nhanh nhạy trước các tình huống phát minh kinh tế trong cơ chế mới, mặc dù vậy nhưng vẫn bảo thủ, khơng chịu tìm hiểu, học hỏi nâng cao trình độ để thích ứng và quản lý DN đi đúng hướng, mà ngược lại một số trở lên sa sút về phẩm chât đạo đức, vi phạm pháp luật, trong khi đĩ, việc thay đổi, bố trí lại số cán bộ này rất khĩ khăn, chậm chạp, chưa cĩ cơ chế phù hợp cho việc tuyển chọn những người cĩ năng lực vào quản lý điều hành DNNN. 2.2. Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém trên: Nghị quyết TW III đã khẳng định: “Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước cĩ nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu do những nguyên nhân chủ quan.” *Thứ nhất: Chưa cĩ sự thống nhất cao, trong nhận thức về vai trị, vị trí của kinh tế nhà nước và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp đổi mới, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Rất nhiều ý kiến hồi nghi, thiếu tin tưởng vào sự vào sự cần thiết cũng như vai trị chủ đạo của KTNN và DNNN, dẫn đến sự bất dồng trong quan điểm, nhận thức và vai trị của KTNN trong nền kinh tế. Theo họ, DNNN khơng thể hoạt động cĩ hiệu quả, khơng cĩ khả năng cạnh tranh bằng DN tư nhân và do vậy khơng nhất thiết phải duy trì, vì những lý do: Theo họ, vấn đề quan trọng khơng phải là DNNN hay DN tư nhân, và là sản xuất cĩ hiệu quả hay khơng, vì quy cho đến cùng thì sẽ hữu thi là phương tiện, tăng trưởng kinh tế mới là mục tiêu. Hai là: Chỉ chủ tư nhân – là chủ sở hữu tài sản một cách chính đáng mới quan tâm chăm lo cho DN của mình, quản lý chi phí hợp lý, tiết kiệm đồng thời cĩ khả năng nhanh nhạy, linh hoạt trong cơ chế thị trường. Ba là: DNNN cĩ chủ sở hữu là nhà nước nên cĩ một bộ phận khơng nhỏ cán bộ quản lý lấy tài sản tài sản ra sử dụng lãng phí, mặt khác, DNNN bị chi phối bởi nhiều cơ quan quản lý nên hạn chế nhiều khả năng kinh doanh dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém. Trong việc hoạch định các chính sách, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả DNNN cũng gặp những trở ngại, bởi sự bất đồng về các giải pháp, về yêu cầu và vị trí của KTNN hay DNNN trong nên kinh tế, điều đĩ dẫn đến chia ra những chính sách thiếu tính khả thi. * Thứ 2: Chất lượng đội ngũ quản lý cĩ nhiều sai sĩt hạn chế về phẩm chất cũng như khả năng quản lý. Cơng tác tổ chức quản lý và khuyến khích sản xuất chưa hợp lý. -Một bộ phận khơng nhỏ cán bộ cơng nhân nhân viên bị thối hố, biến chất đã vi phạm chính sách, pháp luật gây thất thốt tài sản, tiền vốn và làm tổn hại cho nhà nước và tập thể rất nhiều. -Một bộ phận khơng nhỏ các cán bộ quản lý từ khối kinh tế cũ bảo thủ ỷ lại, thiếu năng động nhưng vẫn giữ các chức vụ quản lý, lãnh đạo quan trọng trong DN. Số cán bộ quản lý thiếu trách nhiệm, thiếu kiến thức về kinh doanh, quản lý chưa được đào tạo, bồi dưỡng lại dẫn đến những sai sĩt gây hậu quả khơng nhỏ cho nền kinh tế như: thua thiệt trong liên doanh với những chủ đầu tư nước ngồi, kinh doanh kém hiệu quả, lãng phí tài sản nhà nước. -Số lượng cơng nhân viên chức trong các DNNN tuy lớn nhưng trình độ học vấn văn hố, kỹ thuật cịn thấp, cơng nhân thiếu tay nghề do đĩ khơng đáp ứng được yêu cầu chất lượng sản phẩm, trong khi giá thành cao, sức cạnh tranh yếu và phục vụ nhu cầu cơng cộng khơng tốt. -Các DNNN cịn chậm đổi mới cơng nghệ, cịn nhiều bất cập trong việc tổ chức sản xuất, bố trí xây dựng dây chuyền sắp xếp cán bộ, cơng nhân viên chưa đúng chức năng, Trong khi đĩ bộ máy quản lý DN cịn nặng nề, cồng kềnh số lượng lao động cịn dư thừa chưa được giải quyết nên năng suất thấp. -Việc quản lý, sử dụng tài sản và tiền vốn hiện cĩ trong các DN cịn thiếu chặt chẽ, chính xác, hiệu quả sử dụng vốn thấp dẫn đến tình trạng thiếu vốn tăng lên. Tình trạng tiền lương, khen thưởng phân phối cho người lao động chưa cơng bằng, chưa đúng với năng lực làm việc của mỗi người, do đĩ chưa khuyến khích phát triển tài năng và nâng cao năng suất lao động. -Cơng tác kiểm tra, kiểm sốt của cơ quan quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của các DN và thủ trưởng của các đơn vị sản xuất cịn bị buơng lỏng. * Thứ ba: Quản lý của nhà nước đối với KTNN vịn nhiều thiết sĩt. -Một là: Chưa cĩ chiến lược quy hoạch dài hạn đầy đủ về phát triển các ngành kinh tế, kinh doanh, đặc biệt là quy hoạch phát triển DNNN trên các vùng kinh tế, khu kinh tế trọng điểm trong các ngành kinh tế, dịch vụ then chốt mũi nhọn. Do vậy mà hệ thống DNNN chưa cĩ cơ cấu hợp lý, chưa cĩ chiến lược kinh doanh và phát triển DN một cách đầy đủ và đúng. Đĩ là nguyên nhân dẫn đến việc tổ chức sản xuất, kinh doanh chưa cĩ hiệu quả. Hoặc do cơ quan quản lý khơng đầu tư đúng hướng dẫn đến sản phẩm làm ra khơng tiêu thụ được đưa DN đến làm ăn thua lỗ, phá sản. -Hai là: Chính sách đổi mới cơng nghệ, phương pháp, phương tiện trong sản xuất – kinh doanh và quản lý chậm được thực hiện. Trong những năm đổi mới, cơng nghệ thiết bị, phương tien trong sản xuất kinh doanh và quản lý tuy cĩ hiện đại hơn trước nhưng lại nhập từ các nước khác nhau dẫn đến thiếu đồng bộ, khi muốn thay thế địi hỏi chi phí rất lơn do đĩ mà cơng nghệ rất chậm được cải tiến. Mặt khác, do thiếu trình độ mà một số DNNN khi đã cĩ kinh phí để đổi mới cơng nghệ thì lại mua về “rác thải cơng nghiệp” là những máy mĩc lạc hậu của các nước tiên tiến về mình, làm cho cơng nghệ nước ta vốn đã lạc hậy thì nay vẫn cứ lạc hậu. -Ba là: một số chính sách vốn để phát triển doanh nghiệp và kinh doanh chưa hợp lý và đồng bộ khi chuyển sang cơ chế mới, DN cần phải lo cho cả ba loại vốn: vốn cho đầu vào, vốn cho sản xuất, vốn cho tiêu thụ, khác với trước đây nhà nước chỉ lo vốn mỗi khâu đầu vào, do đĩ nhà nước khơng cung cấp đủ vốn cho DN sản xuất – kinh doanh, dẫn đến hoạt động sản xuất bị trì trệ. -Bốn là: Hệ thống pháp luật cơ chế ban hành và thực hiện chưa cơ bản. Luật pháp nước ta cịn rất nhiều bất cập , thương mang tính tình thế, thay đổi liên tục.Diều đĩ gây trở ngại cho các nhà hoạt động kinh tế trong việc hoạch định kế hoạch sản xuất lâu dài cho DN. Hiệu quả thực thi pháp luật cịn rất chậm, chưa nghiêm túc. Một điều bất ổn đĩ là các chính sách cịn chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các cấp làm cho các DN khĩ nắm bắt để thực hiện. Mơi trường pháp luật như vậy cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hợp tác với các nước trên thế giới. -Năm là: Quy định về trách nhiệm hoạt dơng cụ thể của từng đại diện chủ sở hữu chưa được thực hiện đầy đủ. * Thứ 4: Do nguyên nhân lịch sử Nhiều DNNN phải gánh chịu hậu quả do quá trình lịch sử hình thành và phát triển: cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, giá trị sử dụng của số tài sản, thiết bị thấp, nhưng tính giá trị để bảo tồn vốn và khấu hao vốn. Cơ chế bao cấp để lại một đội ngũ lao động quá lớn trình dộ thấp, sức khoẻ yếu, khơng đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hiện nay. Mặc dù chủ sở hữu DNNN là nhà nước song phải thơng qua nhiều đại diện chủ sở hữu gián tiếp - trách nhiệm bị phân tán một cách khơng đồng bộ dẫn đến rất phức tạp khi cần quyết định một vấn đề kinh tế cần thiết. DNNN cịn vai trị rất lớn là thực hiện những nhiệm vụ xã hội cơng cộng làm cơ sở xây dựng nền tảng cho chế độ xã hội mới. Vì lẽ đĩ mà ngồi hoạt động kinhdoanh, DNNN cịn hoạt động trong các lĩnh vực cơng ích, điều đĩ cĩ tác động đến tốc độ tăng trưởng của KTNN sẽ chậm hơn so với các thành phần kinh tế khác chỉ hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Những tồn tại yếu kém: + Xét chung tất cả các thành phần của KTNN thì bộ phận nào cũng cĩ hạn chế: -Quản lý cịn chưa chặt chẽ và thiếu rõ ràng về tài chính, ngân sách. -Làm ăn cịn kém hiệu quả do tính chất là KTNN được nhà nước bao cấp một số mặt, do đĩ cịn thiếu năng động trong cạnh tranh trên thị trường, rất ít DN làm ăn cĩ hiệu quả và thực sự đứng vững độc lập để cạnh tranh với các DN thuộc các thành phần kinh tế khác nếu khơng cĩ sự bảo trợ của nhà nước. III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân. 1. Một số giải pháp: Một là: Thực hiện chính sách đầu tư thích đáng cho các bộ phận KTNN nhằm vừa đảm boả hoạt động của chúng vừa tạo tính tự lực, năng động của chúng trong kinh tế thị trường. Hiện nay, do những trợ cấp về tài chính của nhà nước đối vớicác DN vịn thiếu tính thực tế, cĩ khi DN làm ăn đã cĩ lãi vẫn được trợ cấp mà trong khi DN cần vốn hơn thì lại được trợ cấp quá ít. Điều đĩ địi hỏi việc quản lý của chính phủ về tài chính, về thực trạng hoạt động của các DN sẽ rõ hơn để cĩ chính sách đầu tư thích đáng, vừa tạo động lực vừa khuyến khích các DN hoạt động cĩ hiệu quả hơn. Hai là: Đổi mới, sắp xếp lại cơ cấu lại những bộ phận cịn nhiều yếu kém, nhất là các DNNN. Cần tổ chức lại một cách cĩ quy mơ, hoạt động cĩ hiệu quả và thực hiện được vai trị chủ đạo, chính yếu trong nền kinh tế, quốc dân. Muốn thực hiện được giải pháp này địi hỏi các nhà hoạch định phải cĩ chính sách đúng đắng, cĩ khả năng thực thi và phù hợp với tình hình thực tế của các doanh nghiệp. Muốn nắm được tình hình hoạt động quy mơ của các doanh nghiệp, địi hỏi nhà nước phải cĩ một hệ thống chi tiêu, hoặc theo tiêu chuẩn trong nước hoặc theo tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế, để từ đĩ phân các DN vào những mức độ cụ thể, từ đĩ cĩ giải pháp đổi mới, sắp xếp phù hợp hơn. Ba là: đẩy mạnh cơng tác cổ phần hố các DNNN. Qua thực tế tiến hành cổ phần hố một số lượng các DNNN từ trước đến nay, ta thấy rằng đĩ là một giải pháp mang nhiều ưu điểm và cĩ khả năng cao nhất trong việc đây nhanh hiệu quả hoạt động, sản xuất kinh doanh của các DN: hầu hết các DN sau khi cổ phần hố thì doanh thu, thu nhập của người lao động, vốn, nộp thế đều tăng hơn so với trước. Mặt khác, thực chất của cổ phần hố là nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn dầu tư xã hộ, do đĩ mà khả năng mở rộng sản xuất, kinh doanh được nâng lên. Muốn thực hiện được cổ phần hố thì cần phải thựchiện một số giải pháp sau: Thứ nhất: Thực tiễn đã chứng tỏ rằng cổ phần hố là giải pháp tích cực, song trên thực tế, sau khi chính sách này được thực hiện một thời gian thì bị chững lại. Nguyên nhân vì sao? Địi hỏi cần phải làm rõ để khắc phục. Ta cần phải hiểu rõ cổ phần hố là như thế nào. Ở nước ta, đĩ là quá trình đa dạng hố sở hữu cĩ bản chất khác hẳn các nước, là hình thức xã hội hố một bộ phận DNNN để nhiều người cùng sở hữu DN theo tỷ lệ cổ phần nhằm huy động vốn, nâng coa hiệu quả quản lý và phát huy tính năng động, sáng tạo của người lao động. Tiếc rằng, hiện nay một số quan điểm cho rằng cổ phần hố là hình thức tư nhân hố và làm mất vai trị của KTNN. Do đĩ ta cần phải làm rõ vấn đề cổ phần hố để mọi người cùng cĩ nhận thức thống nhất thì cĩ như vậy chính sách này mới được thực thi một cách đồng bộ và cĩ hiệu quả cao. Thứ hai: Việc cổ phần hố hiện nay gặp trở ngại lớn trong việc xác định giá trị DN do chưa rõ ràng về giá trị tài khoản của DN và của nhà nước. Để giải quyết vấn đề này thì trước hết phải cĩ sự thống nhất giữa nhà nước và DN trong việc xác định giá trị, trước mắt khơng đưa giá trị quyền sở hữu sử dụng đất vào việc giá trị DN, mà thực hiện thí điểm rút kinh nghiệm, đồng thời chấp nhận phương án hiệu chỉnh để cĩ giá trị cho thuê đất hợp lý trên cùng một địa bàn đối với các thành phần kinh tế. Để việc đánh giá tài sản của DN được khách quan, chuẩn xác hơn hệ thống cơ quan định giá cũng cần cĩ sự thay đổi, hình thành những cơng ty trung gian để dựa trên các quan hệ cung – cầu của thị trường theo nguyênn tắc “thuận mua - vừa bán”. Thứ ba, để làm rõ và nâng cao tính trách nhiệm trong quá trình cải cách DNNN, cần khẩn trương cĩ sự phân cấp các đại diện chủ sở hữu. Trong quá trình thực hiện phân cấp các nguyên nhân chậm trễ, chần chừ tiến hành cổ phần hố sẽ được làm rõ và xác định được trách nhiệm cho từng cá nhân, từng đơn vị. Thứ tư: Nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao đọng trong quá trình cải cáchDN hay cổ phần hố DNNN nên cĩ biện pháp hữu hiệu boả vệ cổ phần của người lao động lâu dài, để họ thực sự là người chủ đích thực DN họ đang cống hiến lao động. * Bốn là phải sửa đổi, bổ sung, hồn thiện cơ chế chính xác của nhà nước nhằm tạo hành lang pháp lý cho các DN được hoạt dộng hiệu quả hơn: +Phân biệt quyền với sở hữu và quyền kinh doanh của nhà nước nhằm tạo ra mơi trường và quyền tự chủ đề DNNN cạnh tranh trên thị trường một cách bình đẳng, tự chịu trách nhiệm sản xuất của minh. +Cĩ cơ chế kiểm tra, kiểm sốt, thanh tra của nhà nước đối với DNNN nhất là về vấn đề tài chính, ngân sách, trình độ quản lý của cán bộ. +Nhà nước phải ổn định các chính sách kinh tế vĩ mơ, đề ra những chiến lược kinh tế lâu dài, ổn định để tạo lịng tin cho các DNNN hoạt động cĩ hiệu quả hơn. +Khơng phân biệt quá sâu sắc giữa DNNN và DNTN tạo ra khoảng cách giữa các DN, mà phải tạo mơi trường pháp lý bình đẳng để các DN cạnh tranh một cách cĩ hiệu quả nhất. 1. Một số kiến nghị: -Để dánh giá hiệu quả hoạt động của các DNNN, cần cĩ hệ thống chỉ tiêu đánh giá từ đĩ cĩ chính sách khen thưởng hợp lý kích thích, tạo động lực để các DN hoạt động tốt hơn Tăng cường việc phân tích tài chính trong các DNNN bởi một vấn đề nổi bật hiện nay là tài chính khơng rõ ràng - mọi khoản trợ cấp, chi phí đều phải được báo cáo, quyết tốn rõ ràng. Cần phải cĩ ban thanh tra, kiểm tra tài chính của các DN – địi hỏi đĩ phải là những cán bộ cĩ phẩm chất đạo đức tốt. Trong quá trình đổi mới DNNN, trong nâng cao quy trình cơng nghệ hiện đại nhưng vẫn phải đảm bảo tạo cơng ăn việc làm cho số lao động bị dơi dư. Kết luận: Để đảm bảo xây dựng đất nước theo đúng đường lối mà Đảng và nhà nước ta đã chọn là xây dựng đất nước tiến lên CNXH, xây dựng một nền kinh tế thị trường theo một định hướng XHCN, cần tăng cường hơn nữa việc đổi mới, cải tạo cơ cấu trong KTNN trong nền kinh tế quốc dân. Cĩ như vậy mới đảm bảo đưa tồn bộ nền kinh tế đất nước phát triển đúng đính hướng đã chọn. Tài liệu tham khảo “Doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ CNH-HĐH” – T.S. Phan Đăng Tuất (chủ biên).` Tạp chí CS từ 1997 đến nay. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. Tạp chí nghiên cứu lý luận. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin. V.I.Lenin tồn tập - tập 39, tập 43 Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII, VIII, IX Một số tạp chí kinh tế, tài chính, lý luận khác… Mục lục I - Một số vấn đề lý luận về KTNN II- Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường. III- Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA7017.DOC
Tài liệu liên quan