Đồ án Nghệ thuật biểu diễn

Tài liệu Đồ án Nghệ thuật biểu diễn: MỤC LỤC Trang PHẦN I: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CÙNG VỚI CỦA ÂM THANH TRANG5 1. Sự hình thành và phát triển của nghệ thuật biểu diễn 2. Sự ra đời và phát triển của âm thanh PHẦN II: TỔNG QUÁT VỀ ÂM THANH TRANG8 PHẦN III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VÀ Ý ĐỒ THU THANH TRANG28 Tác phẩm 1: Trời Hà Nội xanh. Tác phẩm 2 : Lời biển hát. PHẦN IV: KẾT LUẬN CHUNG TRANG 53 PHỤ LỤC Bản nhạc Trời Hà Nội xanh & Lời biển hát.. Đĩa CD ca khúc Trời Hà Nội xanh & Lời biển hát TÀI LIỆU THAM KHẢO Modern Recording Techniques. Audio pro home recording course The art of mixing - David Gibson Kỹ năng cơ bản âm thanh - Phạm Hoàng Dũng Các bái giảng của thầy giáo Phạm Hoàng Dũng, thầy giáo Nguyễn Hồng Quân LỜI NÓI ĐẦU Ngay từ buổi bình minh cuộc sống loài người mới ở chế độ xã hội bầy đàn nguyên thuỷ, mỗi khi săn bắn hay hái lượm trở về người ta đã tụ họp xung quanh đống lửa, nhảy múa hát hò để biểu lộ tình cảm trước thành quả lao động của mình. Trải qua ...

docx54 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1154 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đồ án Nghệ thuật biểu diễn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang PHẦN I: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CÙNG VỚI CỦA ÂM THANH TRANG5 1. Sự hình thành và phát triển của nghệ thuật biểu diễn 2. Sự ra đời và phát triển của âm thanh PHẦN II: TỔNG QUÁT VỀ ÂM THANH TRANG8 PHẦN III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VÀ Ý ĐỒ THU THANH TRANG28 Tác phẩm 1: Trời Hà Nội xanh. Tác phẩm 2 : Lời biển hát. PHẦN IV: KẾT LUẬN CHUNG TRANG 53 PHỤ LỤC Bản nhạc Trời Hà Nội xanh & Lời biển hát.. Đĩa CD ca khúc Trời Hà Nội xanh & Lời biển hát TÀI LIỆU THAM KHẢO Modern Recording Techniques. Audio pro home recording course The art of mixing - David Gibson Kỹ năng cơ bản âm thanh - Phạm Hoàng Dũng Các bái giảng của thầy giáo Phạm Hoàng Dũng, thầy giáo Nguyễn Hồng Quân LỜI NÓI ĐẦU Ngay từ buổi bình minh cuộc sống loài người mới ở chế độ xã hội bầy đàn nguyên thuỷ, mỗi khi săn bắn hay hái lượm trở về người ta đã tụ họp xung quanh đống lửa, nhảy múa hát hò để biểu lộ tình cảm trước thành quả lao động của mình. Trải qua thời gian cùng sự phát triển của xã hội loài người, cũng như sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì nhu cầu hưởng thụ về đời sống tinh thần của con người ( như ca, múa, nhạc, sân khấu, điện ảnh. ..) cũng ngày càng gia tăng Sẽ rất tẻ nhạt, nếu như những bộ phim , những tác phẩm sân khấu, hay những lời ca, tiếng nhạc mà thiếu đi sự hỗ trợ của âm thanh và ánh sáng. Chính vì lẽ đó nghành đạo diễn âm thanh, ánh sáng ra đời, nó thể hiện nội dung tư tưởng những tác phẩm sân khấu và âm nhạc, những ca khúc, nó có vai trò quan trọng để phục vụ xã hội và nhu cầu nhu cầu đời sống tinh thần con người chúng ta. Trường Đại học Văn hoá Nghệ thuật Quân đội trước kia và hiện nay luôn là con chim đầu đàn trong sự nghệp trồng người. Trường đã đào tạo và bồi dưỡng nên những con người đóng góp cho nền nghệ thuật nước nhà nói chung và Quân đội nói riêng, đóng góp có hiệu quả vào sự phát triển chung của nghệ thuật Ca , Múa , Nhạc và sân khấu..... Đặc biệt gánh vác nhiệm vụ chủ yếu trong sáng tạo biểu diễn và truyền bá các tác phẩm Ca, Múa, Nhạc và sân khấu về đề tài bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Do yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước và Quân đội trong giai đoạn mới về đội ngũ những người làm âm thanh, ánh sáng tại các đoàn nghệ thuật của cả nước trong và ngoài Quân đội. Năm 2004, trường đã bắt đầu đào tạo đội ngũ những người làm âm thanh - ánh sáng mang tính chính quy, để củng cố và hoàn thiện, đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ cho hoạt động Văn Hoá Nghệ Thuật của nước nhà. Phía trước còn dài, chúng tôi tin tưởng rằng, bằng sự phát triển và không ngừng tự hoàn thiện của nghành đạo diễn âm thanh, ánh sáng sẽ đem đến cho khán giả, chiến sỹ những nét đẹp về nghệ thuật nước nhà. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình học tập và viết luận án này . Đặc biệt, là sự chỉ báo giúp đỡ tận tình sâu sắc của thày giáo chuyên môn Phạm Hoàng Dũng, thày giáo Nguyễn Hồng Quân. Bài đồ án của em không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong được sự thông cảm, chỉ bảo của hội đồng và các thầy bộ môn, cùng sự chia sẻ của các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ để đồ án của em được hoàn thiện hơn. PHẦN I : SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CÙNG VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ÂM THANH I. Sự hình thành và phát triển của nghệ thuật sân khấu biểu diễn. Con người sáng tạo ra nghệ thuật qua công việc lao động và sinh hoạt đời sống hằng ngày. Nghệ thuật giống như "tấm gương phản chiếu cuộc đời". Để qua đó tự chiêm ngưỡng mình, xem xét lại bản thân và tự đánh giá lại bản thân mình, còn là "cuốn sách giáo khoa vĩ đại" giảng giải, hướng dẫn cho con người về cái đẹp, cái thiện, ác, cái mới cũ, cái tiên tiến, lạc hậu tình yêu thương và lòng thù hận. Nghệ thuật biểu diễn là nghệ thuật tổng hợp, nó bao gồm cả: ca, múa, nhạc, họa, kịch, thơ, triết học, mỹ học... đồng hành cùng với sự thể hiện khát vọng của con người. Với những đề tài khác nhau như ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi hạnh phúc lứa đôi, ca ngợi lý tưởng yêu nước thương dân, trọn nghĩa tình, phê phán cái ác, cái xấu. Nghệ thuật biểu diễn được thể hiện trong sự giải thích tác phẩm nghệ thuật, dẫn dắt của tác phẩm nghệ thuật nhờ nội dung của nó, biểu diễn bằng các hình tượng nghệ thuật. Là lôi cuốn sự chú ý động viên khả năng sáng tạo, thức tỉnh và thúc đẩy thị hiếu âm nhạc và tài năng biểu diễn của người nghệ sỹ để tác động tới công chúng. Nó chính là sức mạnh lớn lao làm thay đổi nhận thức và hành động của con người, mang một chuỗi sáng tạo liên tục từ người viết tác phẩm, đến đạo diễn, diễn viên, đến những người làm kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, mỹ thuật... những người chuẩn bị đạo cụ phục vụ cho biểu diễn. Có như vậy mới diễn đạt được một cách hiệu quả về cái đẹp, nội dung tác phẩm mà họ muốn trình bày mang lại cho khán thính giả những ý tưởng đúng đắn và có đầy đủ giá trị. Ở tại châu Âu, đặc biệt là thời kỳ Văn minh Hy Lạp cổ đại cách đây hàng ngàn năm, người ta xây dựng lên sân khấu khổng lồ mà người ta gọi là diễn trường để biểu diễn. Thời kỳ đó loại hình biểu diễn chính là kịch. Các vở hài kịch do các tác giả thời bấy giờ sáng tác như: Ecxin, Xophoc, Arich... đồng thời nơi đây cũng là nơi để tổ chức các cuộc lễ hội tế thần, và các sinh hoạt cộng đồng khác. Thời La Mã cách nay 2000 năm đã xây dựng nên một diễn trườn mang tên Colido vĩ đại, có cấu trúc ba mặt gần giống như sân vận động ngày nay, có thể chứa được 87.000 người xem, bức tường vây xung quanh cao tới 50m và được trạm trổ hết sức công phu. Cho đến ngày nay vẫn còn lưu giữ được một phần nhỏ nguyên vẹn của diễn trường này. II. Sự ra đời và phát triển của âm thanh và ánh sáng Từ xưa khi chưa có điện, tất cả các loại hình biểu diễn đều là diễn với ánh sáng tự nhiên "ban ngày" và tất nhiên là không có âm thanh, phải đến thế kỷ 18 - 19 cùng với sự phát minh ra điện và ánh sáng điện xuất hiện, đã tạo ra một bước chuyển biến vô cùng to lớn cho nghệ thuật sân khấu biểu diễn. Cho đến nay, nhờ vào khoa học kỹ thuật, sân khấu biểu diễn được trang hoàng lộng lẫy hơn nhờ ánh sáng đèn rực rỡ cộng với âm thanh được khuyếch đại lớn lên phục vụ cho người nghe được rõ hơn ở mọi vị trí, nên cảm thụ và cảm xúc cho khán giả được nâng lên mạnh mẽ hơn trước rất nhiều. Âm thanh là một lĩnh vực bao gồm cả khoa học và công nghệ. Công nghệ âm thanh đòi hỏi một nghiệp vụ có sự kết hợp chặt chẽ những yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật, trong đó việc lựa chọn giải pháp cho vấn đề nghệ thuật phải dựa trên những kiến thức sâu rộng về kỹ thuật, nó còn dựa trên quy luật tâm sinh học những đặc điểm mang tính chủ quan của con người trong quá trình cảm thụ âm thanh. Các nhà hát cận đại như "Grosses chau Spie" ở Bec Ling, nhà hát "Thia trem yes hot" ở Matscơva, Nhà hát "phea trepi galle" ở pari được trang bị những trang thiết bị âm thanh, ánh sáng và sân khấu được cho là tối tân nhất thời kỳ bấy giờ. Với hệ thống âm thanh và loa công suất lớn phục vụ cho rất đông khán giả, làm cho khán giả choáng ngợp trong hiệu quả mà âm thanh mang lại. Hệ thống ánh sáng thì đã có nhiều đèn để có thể chia được nhiều vị trí khác nhau để có thể cắt cảnh, cắt tầng làm thay đổi về không gian và tạo cảm giác rất ấn tượng với người xem. Còn sân khấu thì có thể di chuyển theo chiều ngang, dọc hoặc xoay tròn, làm cho việc thay đổi cảnh trí và không gian được dễ dàng hơn. Bắt đầu từ thời kỳ này cùng với sự phát triển các loại máy móc điện tử phục vụ cho sân khấu biểu diễn là các kỹ sư, những người thợ chuyên nghiệp phục vụ cho âm thanh và ánh sáng biểu diễn "Sound man" người làm âm thanh và “lighting man" người làm ánh sáng, vai trò của những người này là rất quan trọng, luôn gắn bó chặt chẽ đối với nghệ thuật biểu diễn và là một phần không thể thiếu được của mọi loại hình biểu diễn nghệ thuật. Cùng với thời gian và kinh nghiệm với sự lớn mạnh và phát triển không ngừng của nghệ thuật sân khấu biểu diễn thì âm thanh ánh sáng cũng song song và cùng đồng hành phát triển, đi từ không đến có, từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp. Đội ngũ những người làm kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, với bao khó khăn thiếu thốn đã đúc kết thành những kinh nghiệm thành những bài học xương máu. Để đến hôm nay chúng ta có thể tự hào đó nói đó là một "nghề" và một bộ phận không thể thiếu được của nghệ thuật sân khấu biểu diễn. Ta có thể tạm lấy mốc của âm thanh, ánh sáng phát triển từ năm 1955 đến nay một khoảng thời gian khá dài đối với một đời người, nhưng với một ngành nghề thì chưa là bao. Vậy mà chỉ mới hơn 50 năm hoạt động và sáng tạo đó, đội ngũ những người làm kỹ thuật âm thanh, ánh sáng biểu diễn của nghệ thuật biểu diễn nói chung. Đã đi từ không đến có đạt được những thành công lớn phục vụ cho nghệ thuật biểu diễn, với một đội ngũ những người làm kỹ thuật đông đảo, giàu kinh nghiệm, tâm huyết với nghề, tạo nên nhiều diện mạo cho nghệ thuật sân khấu biểu diễn, góp thêm một bông hoa tươi đẹp cho rừng hoa nghệ thuật nước nhà thêm tươi đẹp hơn, rực rỡ hơn. Thiên niên kỷ trước đã khép lại, bước sang thế kỷ mới, với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, chính trị của đất nước. Cùng với sự lớn mạnh của ngành nghệ thuật biểu diễn nói chung và sự bùng nổ của công nghệ điện tử, viễn thông, công nghệ số... Nhất định những người làm kỹ âm thanh, ánh sáng của Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để hoạt động và sáng tạo hơn nữa, tìm ra nhiều hoa tươi cỏ lạ đẹp đẽ hơn nữa cho vườn hoa nghệ thuật. PHẦN II/ TỔNG QUÁT VỀ ÂM THANH I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ÂM THANH: 1. Âm thanh được tạo ra như thế nào? - Âm thanh được tạo ra bởi các dao động cơ học và trong môi trường đàn hồi. - Âm thanh truyền được trong chất lỏng, khí, rắn nhưng không truyền được trong chân không. 2. Các tính chất cơ bản của âm thanh. P = F[ N ] S[ m ] * Áp suất âm thanh: Là lực mà âm thanh tác dụng lên một đơn vị diện tích. P0 =2.10-5 N/m2 = 0 dB (gọi là mức ngưỡng thấp nhất mà tai người nghe được) - Trong âm thanh kỹ thuật người ta còn sử dụng một đơn vị khác là dB dB=20log P P0 P0 được gọi là thanh áp chuẩn, đây là mức thanh áp nhỏ nhất mà tai người có thể cảm thụ được. * Tốc độ truyền âm(Vận tốc âm thanh) - Trong không khí là 340 m/s * Tần số của âm thanh : Là số lần dao động cơ học thực hiện trong 1 giây - Tai ta cảm nhận tần số âm thanh như là độ cao thấp của âm thanh. Ví dụ: âm thanh sinh ra do dao động 100 lần trong 1s [100Hz] tai ta sẽ nhận biết như là âm trầm. Ngược lại dao động sinh ra 4000 lần trong 1s [4000Hz], tai ta cảm nhận như là âm cao. - Tai người có thể nghe thấy tần số âm thanh từ 16-20 KHz. - Dải tần số đó gọi là dải âm tần. - Âm thanh có tần số f < 16Hz - gọi là hạ âm. - Âm thanh có tần số f > 20KHz - gọi là siêu âm. (Tai người không nghe thấy những âm này) Giữa Fat, Vat, l, T có một mối quan hệ sau V=l . f Với : f = 1 T Để có khái niệm về các đại lượng này ta có thể đi từ dao động của âm thanh. * Phân tích một âm thanh: - Âm đơn là âm có dao động dạng hình Sin, trên phổ tần số nó được biểu hiện như một vạch. - Âm phức là âm thanh có dạng dao động không phải là hình Sin (như tiếng đàn), nó là tổng hợp các dạng dao động hình Sin có tần số và biên độ khác nhau. - Trong âm phức, âm có tần số thấp nhất gọi là âm cơ bản, các âm có tần số dao động lớn gấp 2,3,4.. . gọi là các hài bậc 2,bậc 3,bậc 4 ... Dạng âm phức có thể như hình vẽ: A t - Tỷ lệ giữa các hài bậc cao với âm cơ bản, nói cách khác là thành phần phổ của âm thanh có tác dụng quyết định tới màu sắc của âm thanh. Chính vì vậy mà tai người nhận biết được tiếng đàn khác nhau, giọng nói khác nhau. 3. Sự cảm nhận của tai người với âm thanh. - Con người nhận biết và phân tích âm thanh là nhờ có cơ quan thính giác(tai). Tai người là một máy đo âm thanh mà không một máy móc nào có thể thay thế được. - Các đặc tính cơ bản của tai người là: + Ngưỡng nghe thấy: Là mức âm thanh bé nhất mà tai người cảm nhận được; ở tần số 1000Hz ngưỡng này là 2 -10 N/m2 (ứng với cường độ âm thanh là 10 w/m3) + Ngưỡng đau tai: Là mức âm to nhất mà tai người còn có thể cảm nhận được; ở mức này tai bắt đầu cảm thấy đau. Ngưỡng nghe thấy và đau tai ở mỗi người và mỗi lứa tuổi có sự khác biệt. - Đường đẳng âm: Đó là một đặc điểm thể hiện tai người đánh giá độ to, nhỏ của âm thanh ở các tần số khác nhau, ví dụ:f = 1KHz tai ta đánh giá một âm thanh có mức (độ lớn) là L1(dB) thì ở tần số 2KHz vẫn âm thanh ấy tai ta cảm nhận như là nhỏ hơn. Muốn có cảm giác về độ lớn giống như trước (ở f=1KHz) ta phải nâng mức âm thanh lên tới L2(dB). Như vậy đường đẳng âm là đường nối tất cả các điểm mà mức âm tai ta cảm nhận giống nhau ở các tần số khác nhau L mức âm[dB] Ngưỡng chói tai 130dB 10dB L2 0dB L1 Ngưỡng nghe thấy 1KHz 2KHz f (Hz) (2¸4 dB) - Hiệu ứng nghe bằng tai ( Hiệu ứng nhị phân) + Khả năng cảm thụ âm thanh của tai người ở hai tai khác nhau đối với một nguồn âm trong không gian;điều đó có thể thấy được trên hình vẽ: M (nguồn âm) Tai F JTai T * Nếu nguồn âm ở bên trái thì sóng âm đi tới tai trái trước, tai phải sau. Do đó hai tai có sự cảm nhận khác nhau về thời gian của sóng âm. * Do quãng đường từ nguồn âm tới tai trái gần hơn tai phải nên sự suy giảm của năng lượng âm thanh ít hơn,cộng với sự chắn của đầu người mà cường độ âm thanh tác động vào tai trái lớn hơn là ở tai phải. * Cũng do khoảng cách từ nguồn âm tới tai trái nhỏ hơn tới tai phải và ảnh hưởng của sự chắn âm do đầu người gây ra nên khi âm thanh tới được tai phải sẽ bị hao hụt về tần số (mất tần số cao). Do vậy cảm giác về màu sắc âm thanh của hai tai cũng khác nhau. * Cuối cùng sóng âm tới tai người còn có sự chênh lệch về pha. Tất cả các đặc điểm trên giúp cho con người có thể định vị được nguồn âm trong không gian; nhờ vậy mà ta biết được từ đâu tới. * Hiệu ứng nhị phân được ứng dụng trong âm thanh lập thể. Âm thanh lập thể là một phương pháp ghi và phát lại âm thanh nhằm tạo điều kiện cho con người có cảm giác về không gian khi nghe lại các tác phẩm thu thanh (ví dụ: cách bố trí dàn nhạc ở nhà hát, chuyển động của diễn viên, ca sĩ trên sân khấu, các tiếng động khác như tàu hỏa, ô tô, tiếng súng.. . trong phim ảnh) Ghi âm lập thể thực chất là ghi và truyền lại nhiều điểm trong không gian nơi âm thanh được tạo ra. II. SÓNG ÂM-NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1. Sự lan truyền của sóng âm. Trong không khí, âm thanh truyền lan ở dạng sóng dọc (hình 2.1). Với phương thức lan truyền này,các phân tử không khí sẽ tạo thành những vùng ép (không khí đặc lại) và vùng dãn (không khí loãng ra) thay đổi nhau. Vùng ép sẽ làm cho thanh áp tăng lên và vũng dãn sẽ làm cho thanh áp giảm đi. Trong quá trình lan truyền của sóng âm, các phân tử không khí chỉ dao động tại chỗ; điều đó có nghĩa là sóng âm không vận chuyển vật chất mà chỉ chuyển năng lượng -năng lượng âm. Trong không khí cũng như chất khí nói chung và trong chất lỏng, âm thanh chỉ truyền Hình 2.1:Dạng truyền lan của lan ở dạng sóng dọc. sóng dọc (trong không khí) Trong chất rắn, ngoài dạng sóng dọc, âm thanh còn lan truyền ở dạng sóng ngang (hình 2.2). Trong chất rắn còn tồn tại các dạng sóng đặc biệt như sóng uốn trong các dạng tấm Hình 2.2:Dạng truyền lan của sóng ngang và màng mỏng, sóng xoắn trong các dây và thanh. Trong không khí, sóng âm lan truyền từ nguồn âm ra tất cả các hướng. Nếu nguồn âm có kích thước nhỏ so với bước sóng thì ta có thể coi nó như một nguồn âm điểm, và sóng âm sẽ lan toả từ một điểm đó ra không gian như những hình cầu lớn dần. Dạng sóng âm ấy ta gọi là sóng cầu. Càng ra xa nguồn âm các mặt cầu càng lớn và các vòm cầu càng phẳng dần, tới một giới hạn nào đó có thể coi mặt sóng như một mặt phẳng và ta gọi đó là sóng phẳng. a) Sóng cầu (ở trường gần) b)Sóng phẳng(ở trường xa) Dạng sóng ở trường gần và trường xa của một nguồn âm. Với sóng cầu, càng ra xa nguồn âm thì cường độ càng suy giảm. Với sóng phẳng,về lý thuyết cường độ có thể coi như không đổi trên đường lan truyền, còn trong thực tế nó chỉ suy giảm rất ít. Điều đáng chú ý là trên đường truyền lan, sóng âm còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác. 2. Các đại lượng vật lý của sóng âm và trường âm. Một môi trường vật chất mà trong đó sóng âm truyền lan được gọi là trường âm. Cấu trúc của trường âm có thể được xác định rõ ràng bởi sự phân bố về thời gian và không gian của một trong hai đại lượng vật lý của trường âm là áp suất âm thanh hay thanh áp, (biểu thị bằng p) và tốc độ dao động âm (biểu thị bằng v) Trong cuộc sống hàng ngày, trường âm không chỉ có ý nghĩa đặc biệt (nhất là đối với công nghệ thu thanh), có cấu trúc rất phức tạp, và cũng chiếm đa số. Trường âm không chỉ được xác định bởi: Đặc điểm của nguồn âm Tính chất vật lý của không khí Hình dạng và cấu tạo các mặt bao quanh của phòng và đồ vật trong phòng. Về khái niệm áp suất âm thanh cần được hiểu rằng đó là độ dao động áp suất của khí quyển khi bị sóng âm tác động. Thanh áp là một đại lượng cực nhỏ, thí dụ ở khoảng cách 1m một người nói bình thường chỉ tạo ra một phần triệu áp suất khí quyển. Thanh áp tác động lên mọi hướng không gian như nhau. Điều đó có nghĩa là một micrôphôn thu thanh áp thì độ nhậy của nó từ mọi hướng đều bằng nhau (ta gọi là micrôphôn toàn hướng, hay “búp hướng” hình cầu), nếu kích thước của nó nhỏ hơn so với bước sóng. Độ lớn của thanh áp được biểu thị bằng nhiều đơn vị khác nhau, tính theo giá trị hiệu dụng (effectiv): Trước kia đo bằng µbar ( 1 µbar = 0,1 N/m2); Bằng Niutơn/m2 (N/m2); Hiện nay thống nhất theo ISO đo bằng Pascal (Pa) (1Pa = 1N/m2). Trong thực tế ta thường biểu thị thanh áp ở dạng mức - mức thanh áp- với đơn vị đo là đềxiben (dB). L = 20lg P [dB],trong đó p là thanh áp, và p0 là thanh áp lấy làm chuẩn. p0 Thanh áp chuẩn p0 là trị số thanh áp của ngưỡng nghe và bằng 2.10-5 N/m2. Khi có tác động của sóng âm, các phân tử không khí dao động xung quanh vị trí cân bằng của nó. Tốc độ dao động của các phân tử không khí do tác động của âm thanh gọi là tốc độ dao động âm. Cần phân biệt tốc độ dao động với tốc độ truyền lan của âm thanh. Ở nhiệt độ 20oC và áp suất khi quyển bình thường,âm thanh truyền lan trong không khí với tốc độ 340 m/s,còn tốc độ dao động âm thì cực nhỏ và phụ thuộc vào cường độ âm thanh.Trong dải thanh áp từ 10-9 đến 10-3 átmốtphe thì tốc độ dao động âm tương ứng từ 2,5.10-7 đến 0,25 m/s. Thanh áp và tốc độ dao động âm là hai đại lượng có ý nghĩa đặc biệt đối với sự cảm thụ âm thanh(xem mục 2.1.2) cũng như đối với kỹ thuật thu thanh micrôphôn. Trong trường gần, thanh áp biến đổi theo tỷ lệ nghịch với khoảng cách (p ~1/r) và không phụ thuộc vào tần số,còn tốc độ dao động âm lại phụ thuộc vào tần số,ở tần số thấp nó biến đổi nhanh hơn theo khoảng cách: biến đổi theo tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách (v ~ 1/r2). Theo nguyên lý hoạt động, micrôphôn chia làm 2 loại : loại thu thanh áp (p) và loại thu tốc độ dao động(v) hoặc thu gradient thanh áp (∆p) -tức là độ chênh lệch thanh áp (hiệu thanh áp) giữa hai điểm không gian trong trường âm. Các micrôphôn có búp hướng hình cầu (toàn hướng) là loại thu thanh áp, còn micrôphôn định hướng (độc hướng hoặc nhị hướng) là loại thu gradient thanh áp. Chỉ có một vài loại (thí dụ micrôphôn dải băng) là loại thu trực tiếp tốc độ dao động. Như vậy, nếu ta dùng micrôphôn định hướng (thí dụ cardioide) mà thu gần nguồn âm thì tiếng trầm sẽ bị nâng lên một cách bất hợp lý, không trung thực với tín hiệu âm thanh tự nhiên của nguồn âm. Trong trường âm của sóng phẳng (trong trường xa), thanh áp cũng như hiệu thanh áp và tốc độ dao động âm đồng pha và tỷ lệ thuận với nhau, và càng tới gần nguồn âm thì độ lệch pha sẽ tiến gần tới 900, hai đại lượng này sẽ không tỷ lệ thuận với nhau nữa. Tỷ số giữa thanh áp và tốc độ dao động là trở kháng âm thanh (hình 2.5).Trong trường gần, trở kháng âm là một đại lượng phức, còn ở trường xa nó chỉ là một hằng số- âm kháng của không khí. Bước sóng là một đại lượng có nhiều ý nghĩa thực tế đối với kỹ thuật thu thanh; nó chiếm một dải khá rộng, từ khoảng 17m (ở tần số thấp nhất) tới 1,7cm (ở tần số cao nhất) trong dải tần âm thanh quan trọng nhất đối với âm nhạc và thính giác. Mối tương quan giữa các đại lượng của sóng âm và trường âm được biểu diễn trên các hình 2.4 và 2.5. 3. Phân tích tín hiệu âm thanh Âm thanh của các nguồn âm như âm nhạc, tiếng nói, tiếng động là tập hợp của rất nhiều dao động thành phần. Phân tích một tín hiệu âm thanh có nghĩa là xác định tần số, biên độ và đôi khi cả trạng thái pha của các dao động thành phần đó. Các quá trình dao động âm tuần hoàn (periodic) chỉ bao gồm các thành phần hài bậc cao là bội số nguyên lần cơ bản (tần số cơ bản). Các dao động âm không tuần hoàn là một tập hợp của vô số các tần số ngẫu nhiên, nằm sát cạnh nhau không theo quy luật. Các âm thanh dạng này điển hình như tiếng động và tất cả các quá trình xuất hiện một lần (quá trình dao động quá độ, dao động chuyển tiếp). Các nguồn âm tự nhiên tạo nên sự pha trộn cả dao động tuần hoàn và dao động không tuần hoàn; tiếng nói và tiếng động bao gồm chủ yếu các dao động không tuần hoàn, âm nhạc lại bao gồm chủ yếu là các dao động tuần hoàn. Tuỳ theo nhiệm vụ đặt ra và loại dao động âm, ta có thể áp dụng những phương pháp phân tích cho phù hợp.Thí dụ: đối với các âm thanh ổn định ta có thể dùng phương pháp phân tích bằng phổ kế trượt và phân tích chuỗi Fuariê hoặc các bộ lọc đấu song song (phổ kế 1/3 ốcta và 1 ốcta); các dao động âm không ổn định có thể dùng phổ kế dải hẹp,phổ kế 1/3 hoặc 1 ốcta. Phổ kế thời gian thực có thể áp dụng cho mọi phương pháp phân tích. Nó hoạt động theo nguyên lý biến đổi Fuariê nhanh (Fast Fourier Transformation-FFT), thí dụ cứ 200 ms lại chỉ thị một phổ âm thanh mới được tích phân từ một tín hiệu đã số hoá.Bằng phương pháp xử lý thống kê, ta có thể thu được các kết quả đủ độ tin cậy từ các giá trị đo tức thời theo phương pháp đo FFT ở trên. III. TRƯỜNG ÂM Những sự kiện âm thanh hàng ngày như tiếng động, tiếng nói và âm nhạc thường đan xen, pha trộn với nhau trong một không gian sinh hoạt quen thuộc-trong một phòng. Và phòng đó có thể nhỏ, có thể lớn-thậm chí rất lớn, có thể vang và cũng có thể rất “khô”. Một không gian khép kín mà ta gọi là phòng ấy (phòng ở, phòng họp,phòng hoà nhạc...) có một ý nghĩa đặc biệt đối với sự cảm thụ âm thanh của con người, giống như ý nghĩa của ánh sáng đối với việc thưởng thức một bức tranh hay một pho tượng. Không có phòng, ta không cảm nhận được đầy đủ những hiện tượng âm thanh; cũng như không có ánh sáng, ta không cảm nhận được hết các thông tin của hình ảnh.Vậy, phòng cũng như ánh sáng là các môi trường, là chất xúc tác tạo nên sự cảm thụ âm thanh và hình ảnh. Chúng không đứng “trung lập”, mà tác động trực tiếp, làm biến đổi hoặc nhấn mạnh các sự kiện âm thanh cũng như hình ảnh ở một góc độ nào đó. Như vậy, đặc điểm âm học của mỗi phòng khác nhau sẽ tạo nên một trường âm khác nhau, bổ sung cho âm nhạc hay tiếng nói những thông tin về thể loại phòng, về độ lớn cũng như về đặc trưng vật lý của các bề mặt phản âm trong phòng (tường, trần, nền.. .). Những đặc điểm âm học của mỗi trường âm đồng thời cũng có thể chứa đựng những thông tin mang tính văn hóa hay xã hội. Thí dụ: đặc điểm âm thanh của nhà thờ biểu hiện một quang cảnh giáo đường, mang phong cách và màu sắc tôn giáo. Hoặc giả, âm nhạc thính phòng phải có sắc thái âm thanh của một phòng hoà nhạc nhỏ đúng phong cách “thính phòng” chứ không phải âm thanh của một phòng hoà nhạc lớn cho hàng ngàn người nghe. Và cuối cùng cần phải nói tới một vấn đề rất dễ bị bỏ qua: những nhạc cụ thuộc thời đại lịch sử nào thì phải được thu trong một phòng thu có không gian âm thanh phù hợp với không gian biểu diễn của thời đại lịch sử ấy, phong cách âm nhạc của thời kì ấy. Khi phát lại những sự kiện âm thanh qua hệ thống đIện thanh ta mất đi một khả năng thông tin quan trọng bằng hình-tức là cảm nhận không gian biểu diễn bằng mắt-do đó sự tưởng tượng ra không gian biểu diễn qua các thông tin đơn thuần bằng âm thanh càng giữ vai trò quan trọng. IV. ÂM THANH KIẾN TRÚC - NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1. Ảnh hưởng của phòng tới tín hiệu âm thanh. Nhìn chung, khi thu thanh, nguồn âm được đặt trong một không gian khép kín-một phòng, không chỉ vì nó có nhiều thuận lợi, mà trước hết còn do phòng có chức năng làm biến đổi và bổ sung cho sự kiện âm thanh mà người nghe cảm thấy cần thiết để tạo cho âm thanh đẹp hơn. Nếu như ngày nay kỹ thuật thu thanh hiện đại thường dùng các thiết bị tạo vang để thay thế một phần hay toàn bộ những ảnh hưởng của phòng thu vào tín hiệu âm thanh do những khả năng ưu việt của thiết bị vang nhân tạo, như thay đổi được thời gian vang, phổ tần số của tín hiệu vang,tạo vang sau khi thu, kinh tế hơn,... thì những nguyên tắc được đặt ra trên kia vẫn không có gì thay đổi, nghĩa là phải làm cho âm thanh đẹp hơn nhưng vẫn phải giữ được tính tự nhiên của trường âm thực (natural). Những ảnh hưởng của phòng đến sự kiện âm thanh có thể được mô tả bằng hai cách sau đây: Thứ nhất - một cách khách quan do đo đạc phân tích các sự kiện âm thanh và độ biến thiên theo thời gian của nó (ÂM THANH KIẾN TRÚC) . Thứ hai – một cách chủ quan bằng mô tả theo cảm quan thông qua phương pháp nghe phân tích (ÂM NHẠC CHỦ QUAN) . Cả hai phương pháp đều cần thiết và có hiệu quả cao; tuỳ theo cách đặt vấn đề, mỗi phương pháp sẽ cho những kết luận phù hợp, ưu tiên hơn. Những khái niệm mang tính khách quan thuộc lĩnh vực âm thanh chủ quan sẽ nhắc tới ở phần dưới đây cũng đã mang tính phổ cập và thống nhất. Song mục tiêu được đặt ra ở đây là tìm hiểu mối quan hệ giữa những khái niệm vật lý của âm thanh kiến trúc với những khái niệm tâm-sinh học của lĩnh vực âm thanh chủ quan để bổ sung cho nhau, nhằm mô tả, đánh giá và khai thác các đặc điểm của mỗi trường âm cho công việc thu thanh cũng như đánh giá chất lượng các sản phẩm thu thanh. 2. Những khái niệm cơ bản về âm thanh kiến trúc. Trong một không gian khép kín- một phòng,sóng âm từ nguồn âm một mặt lan truyền trực tiếp tới người nghe hoặc micrôphôn - đó là TRỰC ÂM, mặt khác nó đập vào các bề mặt giới hạn của phòng (tường, trần, nền) và các đồ vật đặt trong phòng rồi phản xạ trở lại- đó là PHẢN ÂM. Hiện tượng này của sóng âm không chỉ xảy ra một lần mà cứ lặp đi lặp lại, mỗi lần gặp chướng ngại thì một phần năng lượng âm bị tiêu hao vào vật liệu cấu tạo của vật đó - ta gọi là hiện tượng hấp thụ âm thanh, một phần bức xạ trở lại không khí - ta gọi là hiện tượng phản xạ âm thanh. Những âm phản xạ lần thứ nhất gọi là phản âm bậc 1, chúng thường có năng lượng lớn (chỉ nhỏ hơn trực âm) và tách biệt thành những phản xạ rời rạc, nghĩa là có khoảng cách thời gian giữa phản âm bậc 1 của tia này với phản âm bậc 1 của tia khác, tuỳ thuộc hình dạng và kích thước của phòng. Phản âm bậc 1 có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự cảm nhận không gian của phòng thu, cho dù trong thực tế ta khó có thể nghe tách biệt chúng ra khỏi tín hiệu chung. Các phản âm bậc 2 ,bậc 3,...ngày càng dầy và đan xen từ nhiều hướng, nhưng sau mỗi lần phản xạ, năng lượng âm lại suy giảm và dần dần bị tiêu hao cho đến hết, ta gọi đó là hiên tượng kết vang. Số đo biểu thị tốc độ suy giảm năng lượng âm như trên gọi là thời gian vàng (reverberation time), hay chính xác là thời gian kết vang. Đối với một tín hiệu âm thanh kéo dài sẽ xảy ra một hiện tượng cân bằng giữa năng lượng âm phát ra từ nguồn và năng lượng được hấp thụ. Trạng thái cân bằng này không phải xuất hiện ngay từ đầu khi âm thanh mới phát ra từ nguồn mà phải sau một khoảng thời gian đủ để phản âm phân bố đều đặn trong phòng - ta gọi đó là giai đoạn khởi vang, tức là dao động khởi đầu kích thích phòng tạo nên tiếng vang. Vì sóng âm phản xạ từ tất cả các hướng tới micrôphôn (hoặc người nghe) nên nó tạo thành một trường âm tán xạ, tạo cảm giác âm thanh không gian, hoặc âm thanh quang cảnh. Trực âm thì suy giảm dần khi càng ra xa nguồn âm, còn phản âm (hay âm thanh quang cảnh) thì phân bố khá đều đặn trong toàn bộ không gian của phòng. Điều đó có nghĩa là tỷ số năng lượng giữa trực âm (Directsound, D) và phản âm (Reflect sound, R) sẽ biến đổi theo khoảng cách tới nguồn âm. Tỷ lệ năng lượng này là một tiêu chí cực kì quan trọng đối với việc lựa chọn khoảng cách đặt micrôphôn thu thanh. Tại các điểm nằm trên bán kính vang (hay bán kính giới hạn) thì năng lượng trực âm và phản âm là bằng nhau. 3. Những khái niệm cơ bản về âm thanh chủ quan - thính âm. Để có thể mô tả theo cách chủ quan về đặc điểm âm thanh của một phòng ta thường sử dụng những khái niệm sau đây: Độ rõ lời (hay độ rõ tiếng) là khả năng thích hợp về âm thanh của một phòng đối với biểu diễn các loại hình tiếng nói (thí dụ kịch nói, diễn thuyết, hội họp,...). Độ nét là mức độ trong sáng, rõ nét của âm nhạc nhờ khả năng phân biệt được các sự kiện âm thanh (thí dụ các tuyến giai điệu của một đoạn nhạc) xảy ra đồng thời hoặc kế tiếp nhau. Cảm giác không gian là khả năng kình dung được độ lớn và cách xử lý âm thanh trong một phòng. Cảm giác không gian được tạo nên bởi những khái niệm cơ bản như mức độ cuốn hút người nghe vào khung cảnh âm thanh, độ lớn hay kích thước của phòng, độ vang và quang cảnh âm thanh của phòng. Sự thích nghi về âm thanh của một phòng cho tiếng nói có nghĩa là: thí dụ không cần hệ trang âm điện thanh mà vẫn đảm bảo được độ rõ cho tiếng nói (thí dụ cho diễn kịch) ở mọi vị trí trong phòng. Đánh giá về sự thích nghi âm học của một phòng cho mục đích sử dụng nào đó (tiếng nói hay âm nhạc) được tiến hành bằng phương pháp nghe kiểm thính. Thí dụ ta dùng các logatom (tức là các âm tiết vô nghĩa) để kiểm tra độ rõ cho một phòng dùng để biểu diễn tiếng nói. Độ nét hay độ trong sáng khi biểu diễn âm nhạc biểu thị khả năng phân biệt được các nhạc khí, các nhóm nhạc khí hoặc các quãng âm của chúng, cho dù chúng bị pha trộn với phản âm của phòng; nó tạo điều kiện cho sự cảm thụ về một cấu trúc âm nhạc tổng thể. Độ nét thể hiện sự trong sáng của âm nhạc khi biểu diễn trong một phòng hoà nhạc cũng tương tự như độ rõ của tiếng nói (nhất là độ rõ của từ) khi tiếng nói được trình diễn (thí dụ kịch nói) trong một nhà hát. Trong biểu diễn âm nhạc, các phản âm nằm trong khoảng 80 ms tính từ thời điểm bắt đầu của sự kiện âm thanh (thí dụ một tiếng đàn pianô) có tác dụng nâng cao độ nét và khả năng cảm nhận không gian; các phản âm đến muộn hơn lại làm giảm độ nét của âm nhạc và làm tăng độ vang. Với tiếng nói, giới hạn này nằm trong khoảng thời gian là 50 ms. Cần phân biệt rõ tiếng vang (reverberation) và tiếng dội (Echo), tuy cùng là một hiện tượng vật lý do phản xạ sóng âm tạo nên. Tiếng vang cho ta cảm giác như một sự kiện âm kéo dài và suy giảm dần âm lượng. Tiếng dội cho ta cảm giác như một cách nhắc lại sự kiện âm thanh, nghĩa là nghe tách rời khỏi tín hiệu gốc (TRỰC ÂM). Với tiếng nói (vì có hình thức cấu tạo như những xung âm thanh), các phản âm đến sau 50ms và có mức đủ lớn sẽ tạo thành tiếng dội, làm giảm độ rõ. Âm nhạc cho phép độ trễ lớn hơn, có thể đến 80ms hoặc hơn nữa. V. CÁC ĐẶC TÍNH VẬT LÝ CỦA TRƯỜNG ÂM * Trường trực âm Trường trực âm thuần khiết (nghĩa là không có phản âm) chỉ tồn tại trong không gian không có vật cản trên đường truyền lan của sóng âm, hoặc trong một phòng câm mà năng lượng từ nguồn âm bị hấp thị hết bởi các mặt bao [8.1]. Trong thực tế, ở khoảng cách rất gần nguồn âm và tỷ lệ năng lượng giữa phản âm và trực âm rất nhỏ: R << 1 D Ta cũng có thể coi như trường trực âm, vì năng lượng trực âm chiếm ưu thế. Trên đường lan truyền trực tiếp từ nguồn âm tới điểm thu (người nghe hoặc micrôphôn) các đại lượng vật lý của trực âm bị biến đổi rất nhiều: - Mức âm bị suy giảm theo khoảng cách, - Năng lượng âm bị hấp thụ bởi không khí, tuỳ thuộc nhiệt độ và độ ẩm, - Năng lượng âm bị hấp thụ bởi các vật hút âm (khán giả, ghế,...) * Sự suy giảm năng lượng trên đường truyền lan Trong thực tế, khi các nguồn âm có kích thước nhỏ hơn bước sóng đều có thể coi là những nguồn âm điểm. Nguồn âm điểm phát ra sóng có dạng hình cầu -sóng cầu, nghĩa là sóng âm bức xạ đều ra các hướng; nói cách khác năng lượng âm được phân bố đều đặn trên mặt cầu. Diện tích mặt cầu tăng theo tỷ lệ bình phương với bán kính F ~ r2, điều đó có nghĩa là năng lượng âm sẽ giảm theo tỷ lệ với bình phương của khoảng cách tới nguồn âm, tức là suy giảm rất nhanh: mỗi khi khoảng cách tăng gấp đôi (thí dụ từ 2m lên 4m) thì thanh áp giảm đi một nửa hoặc mức thanh áp giảm đi 6dB (hình 2.11). Như vậy là ở trường gần năng lượng (hay mức âm) suy giảm rất nhanh, ở trường xa độ suy giảm chậm hơn. Khi có rất nhiều nguồn âm điểm nối tiếp nhau thành một tuyến (một đường) sẽ tạo thành nguồn âm tuyến kéo dài, thí dụ một tuyến đường ô tô có xe chạy liên tục, một tuyến đường sắt với một đoàn tàu hoả, và sóng âm của những nguồn âm dạng tuyến như thế sẽ tạo thành những hình ống (“viên trụ”) bức xạ vào không trung. Sự suy giảm năng lượng của dạng nguồn âm này nhỏ hơn: khi khoảng cách tăng gấp đôi thì nó chỉ giảm có 3dB. Chính vì thế tiếng ồn của các dòng xe (ô tô hay tầu hoả) thường lan truyền đi khá xa. Các nguồn âm có dạng như một mặt phẳng ta gọi là nguồn âm diện. Trong trường gần của các nguồn âm diện có mặt bức xạ lớn mức âm hầu như không suy giảm theo khoảng cách, vì ở đây sóng âm có dạng gần như sóng phẳng. Ở khá xa nguồn âm diện (với khoảng cách R >> kích thước nguồn âm d) thì mức âm mới suy giảm dần. Hiện tượng này cũng tương tự như dạng bức xạ âm thanh của các nhạc khí bộ kèn đồng. Trong thực tế độ suy giảm trong trường gần khoảng 4dB mỗi khi khoảng cách tăng gấp đôi. Các nguồn âm trong thiên nhiên thường có kích thước nhất định và do đó độ suy giảm năng lượng lại phụ thuộc tần số. Thí dụ: các nhạc khí ở dải tần cao có thể coi là nguồn âm diện, trong khi ở dải tần thấp lại được coi như nguồn âm điểm. Điều đó có nghĩa là tần số thấp suy giảm theo khoảng với tốc độ nhanh hơn, tần số cao suy giảm với tốc độ chậm hơn. Hiện tượng này càng có hiệu quả rõ rệt đối với người nghe, vì độ thính (nhạy) của tai người ở tần số thấp kém hơn ở dải trung (và cao). Trong các phòng bình thường, trực âm và phản âm của một nguồn âm thường pha trộn với nhau. Chỉ trong vùng bán kính giới hạn (bán kính vang) thì trực âm mới chiếm ưu thế. Bán kính vang không chỉ phụ thuộc vào thể tích và cách xử lý âm thanh các mặt bao của phòng, mà còn bị chi phối bởi tính định hướng của nguồn âm và búp hướng của micrôphôn trong kỹ thuật thu thanh. VI. CÁC HIỆN TƯỢNG ÂM THANH CẦN CHÚ Ý KHI THU THANH * Phản xạ âm thanh: Âm thanh đang lan truyền gặp vật cản, một phần sóng âm bị phản xạ trở lại. Hiện tượng này ta thường gặp trong các phòng thu khi nguồn âm phát ra gặp phải các tường chắn bị phản xạ trở lại gây ra các hiện tượng xấu cho thu thanh. * Sóng đứng: Khi sóng âm phát ra giữa hai mặt tường cứng dễ xảy ra hiện tượng sóng đứng và cộng hưởng.Vì vậy, trong các phòng thu người ta tránh làm các mặt tường giống nhau và song song với nhau. Nếu tồn tại các mặt tường như vậy thì phải tiến hành trang âm với các vật liệu khác nhau. * Hội tụ âm thanh: (thường xảy ra ở bề mặt cong, lõm) Khi sóng âm gặp phải các mặt cong,lõm các tia phản xạ dễ tạo thành các điểm hội tụ âm thanh làm cho trường âm không đồng đều Thu thanh. Có thể nhận thấy rằng, từ khi kỹ thuật phát thanh. truyền hình, đĩa và băng âm thanh ra đời thì người ta thưởng thức nghệ thuật âm nhạc chủ yếu qua các mạng truyền thông đại chúng đó. Và khi kỹ thuật âm thanh lập thể được áp dụng để chuyển tải các chương trình âm nhạc thì người nghe đã có điều kiện tốt hơn nhiều để “ sống thực”với những sự kiện âm thanh trong cuộc sống, nhất là với “âm thanh lập thể quang cảnh” ngày nay. Người đạo diễn âm thanh trong nhiệm vụ thu thanh của mình có trách nhiệm phải nghiên cứu: Đặc điểm âm thanh của phòng thu Tính chất của tác phẩm âm nhạc(thể loại, phong cách, biên chế dàn nhạc) Bố trí cách ngồi thu thanh cho các nhạc công để lựa chọn cho các Micro phôn và phương pháp thu thanh thích hợp, tạo được những phối cảnh không gian tối ưu cho ảnh âm lập thể với những thể loại âm nhạcvà tiết tấu rõ nét ( đặc biệt nhạc khiêu vũ), phòng thu cần có thời gian âm vang thu nhỏ hơn khoảng 1”, ngay cả với những phòng có thể tích lớn, các tín hiệu quang cảnh thông thường được xử lý bằng thiết bị vang nhân tạo. Với thể loại giao hưởng thính phòng, cần cố gắng dựng những ảnh âm giống như đặc điểm âm thanh ở phòng hoà nhạc nổi tiếng vốn đã được người nghe cảm nhậnvà trân trọng. Các phương thức ghi âm số ngày nay cũng phát triển mạnh mẽ: Công nghệ ghi âm analog sử dụng nguyên lý ghi âm cơ tính trên đĩa nhựa, quang tính trên phim nhựa, từ tính trên băng từ và phim từ. Trong khi các thiết bị xử lý và chuyển tải thông tin khác đã đạt được chất lượng âm thanh rất cao thì công đoạn ghi âm luôn luôn vẫn là cái nút cổ chai. Công nghệ ghi âm Digital cũng sử dụng đĩa, băng và phim làm phương tiện hơn trừ thông tin nhưng kỹ thuật tinh xảo và phức tạp hơn nhiều, kích thước băng và đĩa nhỏ gọn nhưng mật độ thông tin lớn hơn nhiều và chất lượng âm thanh rất hoàn hảo. Trong ghi âm số, bên cạnh các thông tin chính là tín hiệu âm thanh. Trên băng và đĩa còn chứa đựng thông tin khác như mã thời gian, tiêu đề tác phẩm...cho phép tìm kiếm, xâm nhập thông tin nhanh hơn. Thời kỳ đổi mới không chỉ đem lại những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử làm thay đổi bộ mặt của đất nước trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội mà còn tác động mạnh mẽ đến sự phát triển tích cực của đời sống nghệ thuật. Nếu chúng ta có được những người làm công tác phục vụ hết mình vì nghệ thuật để có được những buổi biểu diễn phục vụ, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của quần chúng thính giả. PHẦN III : PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VÀ Ý ĐỒ THU THANH 1.Phân tích văn học ca khúc “Trời Hà Nội Xanh” : Ca khúc “Trời Hà Nội Xanh” Sáng tác : N.S Văn Ký Xanh xanh thắm bầu trời xanh Hà Nội Hồ Gươm xanh như mái tóc em xanh Thân thương quá nụ cười người Hà Nội. Đã gặp rồi mà bồi hồi nhớ mãi, Hà Nội ơi! Ta chưa quên, ta chưa quên một mùa thu Hà Nội vùng lên, Hồng Hà cuộn sóng. Ta chưa quên những ngày đêm mịt mùng bão lửa. Đêm pháo hoa anh lại gặp em. Trời "Điện Biên Hà Nội" chiến thắng. Cho mãi mãi bầu trời xanh Hà Nội. Cầu Thăng Long soi bóng nước sông Hồng. Tiếng người nói âm vang hồn sông núi Hà Nội đi lên hôm nay trong nắng Ba Đình. Cho mãi mãi một tình yêu Hà Nội Rồi sẽ quen phút bỡ ngỡ ban đầu. Tiếng người nói xôn xao mùa xuân tới Hà Nội reo vui hôm nay tiếng hát xây đời. Trong kho tàng ca khúc cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua, những bài hát viết về thủ đô Hà Nội đã chiếm một khối lượng đáng kể. Trên đất nước ta, có lẽ không thành phố nào, miền đất nào lại có nhiều bài hát hay như Hà Nội. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi gần mười thế kỷ qua,mảnh đất Thăng Long đó đã trở thành cố đô và luôn là trung tâm của đất nước trên khắp các lĩnh vực kinh tế, văn hoá. Hơn nửa thế kỷ hoạt động âm nhạc, nhạc sỹ Văn Ký, đã có một gia tài âm nhạc thật giàu có và phong phú: hơn 400 nhạc phẩm gồm ca khúc và những thể loại âm nhạc lớn – ca kịch, nhạc kịch, nhạc giao hưởng, nhạc không lời. Âm nhạc của ông mang trên mình những hy vọng trong sáng, đậm chất trữ tình, có giai điệu đẹp, trau chuốt, đậm tính dân tộc và không kém phần lãng mạn, bay bổng, tràn đầy lạc quan, được quần chúng yêu thích. Nhạc sĩ Văn Ký tên thật là Vũ Văn Ký, sinh năm 1928, quê ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Sinh ra trong một gia đình nho học, không có truyền thống âm nhạc nhưng quê hương giàu văn hóa, nhất là những làn điệu hát dân ca, âm điệu trầu văn trong lễ hôi Phủ Dày, đã sớm hoà đậm vào trong tâm hồn ông. Tác giả nói : “ Viết bài hát hay đã khó, viết hay về Hà Nội lại càng khó và muốn chinh phục được trái tim người nghe nhạc, thì nhạc sĩ phải tạo được những ngôn ngữ âm nhạc thể hiện rõ tính chất của Hà Nội như đã nói. Còn những hình tượng chung chung, mờ nhạt, những đưòng nét âm nhạc dông dài, dễ dãi không thể phù hợp với dáng vẻ hào hoa, tao nhã của xứ sở tạo vật ngàn năm văn hiến ”. Trong số những nhạc sĩ viết về Hà Nội, người nghe ghi nhận sự thành công của các tác giả đã có ít nhất hai bài hát hay viết về thủ đô. Đó là Vũ Thanh với “Bài Ca Hà Nội” va “Hà Nội Mùa Thu”, Trần Hoàn với “Tiếng hát người Hà Nội” và “Đêm Hồ Gươm”, Văn Ký với “Hà Nội mùa xuân” và “Trời Hà Nội Xanh”, …. Qua những tác giả trên, Tôi cảm nhận được những bài hát viết về mùa xuân, về Hà Nội thân yêu của Nhạc sĩ Văn Ký, các ca khúc mang đậm chất Hà Nội, về khung cảnh, con người Hà Nội. Đặc biệt là ca khúc “ Trời Hà Nội Xanh ” Khát vọng tuổi trẻ vươn tới một hoà bình mãi mãi Chúng ta đã trải qua những cuộc chiến tranh quá dài, tất cả chỉ mong tới một ngày bầu trời Hà Nội xanh mãi mãi. Khát vọng này của dân tộc Việt Nam chúng ta đã phải đổi bằng những hy sinh lớn lao nhất. Và ca khúc “ Trời Hà Nội Xanh ” là bài hát thể hiện nỗi khát khao, khát vọng hoà bình “ Cho mãi mãi bầu trời xanh Hà Nội ”. Tác giả viết bài này vào đầu những năm 1980, trong đó hình ảnh “ Hồ gươm xanh như mái tóc em xanh ”, Hồ Gươm chính là khái quát của khát vọng hoà bình đó, Hồ Gươm là một thắng cảnh, một trong những nét kiến trúc văn hoá của Hà Nội. Và hiện tại, điều đó đã trở thành hiện thực, trời Hà Nội ngày càng xanh hơn với một màu “ xanh xanh thắm ”, trong hơn, mang ước mơ, khát vọng của tuổi trẻ. Hà Nội đã được công nhận là thành phố vì hoà bình. “ Xanh xanh thắm bầu trời xanh Hà Nội Hồ Gươm xanh như mái tóc em xanh ” Nhắc đến người Hà Nội, mọi người không thể không nhớ đến nụ cười duyên dáng của những cô gái hà thành đang dạo bước xung quanh Hồ Gươm, trên những con phố thân quen. “ Thân thương ” tạo cho ta cảm giác về một điều rất đặc biệt nhưng giản dị, bởi “ nụ cười người hà nội ” đã ngấm vào tâm hồn những vị khách hay chính những người dân đất hà thành. Để rồi một ngày, vẫn những vị khách ấy, người dân hà thành ấy bỗng nhớ đến, mà “ bồi hồi nhớ mãi ”. Tác giả dùng những cụm từ rất giản dị, mộc mạc để người nghe có thể cảm nhận một cách nhanh nhất về Hà Nội, về những niềm khát vọng vẫn đang bùng cháy trong người dân hà thành. “ Thân thương quá nụ cười người Hà Nội Đã gặp rồi mà bồi hồi nhớ mãi, Hà Nội ơi! ” Hồi tưởng những khoảnh khắc trong lịch sử hào hùng linh thiêng Những ai đã từng đến Hà Nôi, từng đi qua, ở lại để cảm nhận trời thu Hà Nội, với hương thơm toả ra từ hoa sữa, mùi cốm xanh thơm ngát, hình ảnh những cây bàng lá đỏ, cây cơm nguội vàng...Tác giả không nói rõ những chi tiết đó trong ca khúc của mình. Ông chỉ lướt qua mùa thu Hà Nội, để nhắc mọi người rằng “ Ta chưa quên ..” , để thấy được “ một mùa thu ” đẹp và từng làn sóng cuộn của sông Hồng đang dồn dập , cùng người dân đất hà thành đã vùng lên chiến đấu chống giặc ngoại xâm, để bảo vệ đất nước, Hà Nội thân yêu và những giá trị văn hoá lâu đời. “ Ta chưa quên, ta chưa quên một mùa thu Hà Nội vùng lên, Hồng Hà cuộn sóng ” Cùng với đó là những trang sử hào hùng của quân và dân ta trong những “ ngày đêm mịt mùng bão lửa ”. Họ đã chiến đấu và hy sinh cho mảnh đất linh thiêng này, để mọi ngưòi nhớ đến Hà Nội, cũng như ôn lại một phần lịch sử của đất nước… “ Ta chưa quên những ngày đêm mịt mùng bão lửa” Trải qua hai cuộc đấu tranh gian khổ, điển hình với chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, ta đánh thắng thực dân Pháp, cùng với những lần máy bay Mỹ đánh bom oanh tạc thủ đô…Tác giả đã khơi lại những chiến công vĩ đại để những con người mang bao khát vọng lại gặp nhau trong “ Đêm pháo hoa ” dưới “ trời Điện Biên Hà Nội ” đang bừng lên khí thế mãnh liệt của hoà bình, để “ chiến thắng ” giặc ngoại xâm. “ Đêm pháo hoa anh lại gặp em Trời Điện Biên Hà Nội chiến thắng ” Hoà bình trở lại, đi lên xây dựng trong thời kỳ mới Hà Nội đã giải phóng, đang từng bước đổi mới, hình ảnh, không gian bầu trời Hà Nội vốn đã xanh, nay còn xanh hơn “ cho mãi mãi ”, cho ước mơ, khát vọng mãi mãi bay lên. “ cầu Thăng Long ”, một cây cầu được xây dựng dựa trên tình hữu nghĩ Việt Xô, nó đại diện cho hoà bình, chắp nối cho những khát vọng với thủ đô, đang “soi bóng” nước sông Hồng, hình ảnh ẩn dụ, miêu tả sự trong trẻo của nước sông qua bao năm tháng đấu tranh mà không bị vẩn đục. “ Cho mãi mãi bầu trời xanh Hà Nội Cầu Thăng Long soi bóng nước sông Hồng” Đâu đó vẫn âm vang trên khắp “sông núi” của đất hà thành, khi Người đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, để mọi người, để Hà Nội cùng đi lên hôm nay “ trong nắng Ba Đình ” rực rỡ dưới trời Hà Nội xanh. “ Tiếng Người nói âm vang hồn sông núi Hà Nội đi lên hôm nay trong nắg Ba Đình” Tiếng Người nói còn hoà quyện vào mùa xuân, làm cho không khí mùa xuân Hà Nội cang “ xôn xao”, nhộn nhịp hơn, khiến trồi non cũng đang dần trỗi dạy, thể hiện sự khát vọng hoà bình đã đến....Để mọi người cung hoà minh vào Hà Nội, cùng “ reo vui ” với những chiến thắng hào hùng đã qua, những nét văn hoá riêng của Hà Nội trong ngày hôm nay…Đó là nền tảng để mọi người cùng đi lên, dùng những lời ca tiếng hát, để “ xây đời ” “ Tiếng Người nói xôn xao mùa xuân tới Hà Nội reo vui hôm nay tiếng hát xây đời ” Ca khúc “ Trời Hà Nội Xanh ” đã nêu lên những khát vọng của tuổi trẻ về một nền hoà bình mãi mãi, dưới những hình ảnh quen thuộc của Hà Nội, thông qua các trang sử rạng ngời của đất nước, của Hà Nội. Ca khúc đã lãm cho người nghe cảm nhận được hình ảnh, để mọi người sẽ nhớ về một Hà Nội nếu mỗi lần ghé thăm. Phân tích và thiết kế ý đồ thu thanh cho ca khúc Được sự đồng ý của nhà trường và các thầy cô trong khoa đã tạo điều kiện và giúp đỡ, cho phép sử dụng phòng thu tại trường với các thiết bị âm thanh hiện đại, các phần mềm thu thanh và xử lý hậu kỳ tốt nhất. Em đã bố trí dàn nhạc gồm các nhạc cụ như sau: + Bộ trống Kick : mono Snare : mono Hi Hat : mono Tom Hi : mono Tom Lo : mono Cymbal : mono + Org 1 : ra 2 kênh mono + Org 2 : ra 2 kênh mono + Guitar Bass : mono + Guitar : ra 2 kênh mono + Saxophone : mono + Mic cho Ca sĩ : mono Xây dựng thủ pháp ảnh âm cho từng đoạn Đoạn 1 Mở đầu là nhạc dạo với tiếng của toàn bộ dàn nhạc cùng xướng lên cái khí thế tinh thần, tràn đầy khát vọng trong một không gia rộng, đó là bầu trời xanh Hà Nội. Dàn nhạc gồm có : bộ trống gia, Guitar Bass, kèn sax, organ nền, organ solo, guitar solo. Ngay đầu đoạn nhạc dạo, tiếng của bộ trống cần được căn chỉnh và tạo ảnh âm như sau: Chân kick, ta đặt dải âm thanh tạo chiều sâu, cần tăng Low ở tần số f = 90Hz mức +9dB, giảm Mid Low ở f = 300Hz mức - 9dB, tăng Mid Hi ở f = 900Hz mức 0dB. Nó là phần nền của bản nhạc, nó giữ nhịp cho dàn nhạc, tạo tiếng đầy đặn. Guitar bass cũng kết hợp với chân Kick để tạo thành cột sống của dàn nhạc, giữ nhịp cho dàn nhạc, tiếng guitar bass này làm nền đầy đặn cho dàn nhạc, cần tăng Low ở f = 90Hz mức +6dB, Mid Low ở f = 250Hz mức -9dB, Mid Hi ở f = 800Hz mức +3dB. Snare, được kéo lại gần, tạo không gian cho dàn nhạc, tiếng sẽ đầy đặn, ta cần tăng Mid Low ở f = 240Hz mức +10dB, tiếng khoẻ Mid Hi ở f = 3K mức +5dB và Hi ở f = 5K ở mức +8dB Hi Hat : được đặt vị trí ảnh âm xa và hơi lệch (paning) trái tạo màu sắc, ta cắt Mid low ở f = 200Hz mức -16dB, tăng Mid hi ở f = 5K mức +12dB, Hi ở f = 10K mức +12dB. Cùng với đó Tom Hi và Tom Low cũng được đẩy gần lại, để làm tiếng được bật lên và rõ ràng hơn. Dùng thủ pháp âm lượng (Volume) để tạo không gian xa cho giàn nhạc. Cần chỉnh âm sắc như sau : Tom Hi : Low ở f = 90Hz mức +6dB, Mid Low ở f = 300Hz +6dB, Mid Hi ở f = 600 mức +6dB Tom Low : Low ở f = 80Hz mức +9dB, Mid Low ở f = 250Hz mức +9dB, Mid Hi ở f = 900Hz +9dB Cymbal : cắt Low ở f = 800Hz, tiếng sáng và long lanh Mid Hi ở f = 8K mức +20dB, Hi ở f = 12K mức +16dB, tạo không gian cho dàn nhạc. Org 1 Ti : hoà thanh nền, cần tạo âm thanh xa và rộng. Tăng Low ở f = 120Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 800Hz mức -6dB, tăng Mid hi ở f = 4.5K mức +3dB Org 2 : (đàn dây), hoà thanh nền, tăng Low ở f = 100Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 600Hz mức -3dB, tăng Mid Hi ở f = 3.5K mức +6dB. Sax : tạo không gian bay bổng xa gần, tăng Low Mid ở f = 700Hz mức +3dB, giảm Mid hi ở f = 2K mức -3dB, tăng Hi f = 4.5K mức +3dB. Ta đưa effect vào Guitar : tạo không gian xa rộng, tăng Low ở f = 80Hz mức +3dB, giảm Mid Low ở f = 500Hz mức -3dB, tăng Mid Hi ở f = 5K mức +3dB Đoạn nhạc dạo đầu là con đường dẫn dắt người nghe đến với lời trong ca khúc, ta dùng thủ pháp âm lượng, để đẩy tiếng của toàn bộ bộ trống gia to lên trong khoảng thời gian rất ngắn, rồi từ từ giảm âm lượng xuống về một mức bình thường với toàn bộ dàn nhạc. Thủ pháp này sẽ giúp cho tiếng của bộ trống thực hiện như một câu báo ngắn với toàn dàn nhạc. Sau đó sẽ là tiếng Kèn solo lên, mang âm vang bay bổng, dùng thủ pháp âm lượng để đưa tiếng kèn từ nhỏ lên to dần dần trong thời gian rất nhanh, rồi hoà vào dàn nhạc ở mức âm lượng đã đặt, cùng hai đàn organ hoà thanh nền và guitar solo để tạo khoảng không gian rộng, mang âm hưởng mềm mại, thong thả, hướng về niềm tin va khát vọng… Đoạn 2 Giới thiệu về Hà Nội trong con mắt của nhạc sỹ Văn Ký với thính giả Xanh xanh thắm bầu trời xanh Hà Nội Hồ Gươm xanh như mái tóc em xanh Thân thương quá nụ cười người Hà Nội Đã gặp rồi mà bồi hồi nhớ mãi Hà Nội ơi! Mở đầu, câu hát này cần chú ý cho giọng hát được rõ lời, đưa không gian của tác phẩm như gần lại với người nghe hơn. Ca sĩ thể hiện bài này là giọng Soprano nên lợi về fần cao, ta cần tận dụng lợi thế ấy để làm rõ và sáng tiếng, bật lên chất giọng của ca sĩ. Tần số của giọng hát ta cần nâng lên ở 1K +6dB và 3K +6dB Đoạn thứ hai này như một lời kể chuyện về không gian, con người Hà Nội, nên ta dùng thủ pháp âm lượng để đưa giọng hát to lên một chút so với nhạc nền. Tiếng của bộ trống và guitar bass ta dùng thủ pháp âm lượng, giảm nhỏ xuống một chút, nhưng vẫn giữ nhịp cho dàn nhạc. Đưa effect vào Insert : Compressor DeEsser, chọn Female Vocal với các thông số sau Attack : 1.5ms Release : 300ms Thresh : -25.8 Ratio : 2:1 Send : Ta sử dụng Effect : FX – Reverb B, chế độ Snare room với các thông số sau : Room size : 16% Reverb Time : 0.48s FreDelay : 25ms Damp : -5.7dB Mix: -60% Volume : -4.7 Và đưa thêm FX 2 - Reverb A: chọn chế độ Large với các thông số như sau : Fredelay : 25ms Room size : 95 Reverb Time : 1.50s High cut : -3dB Low cut : 0dB Mix : Wet 100 Dry 70 Sau đó gắn vào các nhạc cụ với các mức khác nhau, để tạo hiệu quả cho nhạc cụ, góp phần làm cho không gian trong ca khúc được mở rộng hơn, bay bổng và mềm mại hơn. Cymbal mức 60% Hi Hat mức 75% Snare mức 40% Sax mức 70% Guitar solo mức70% Bên cạnh đó, ta đẩy tiếng organ (sting) nền hoà thanh và org nền tạo tiếng đàn dây, lớn lên ở mức vừa phải để tạo khoảng không gian xa gần, làm nền cho giọng hát được nổi bật lên, tiếng đàn dây sẽ bay bổng theo nhịp điệu, xen lẫn tiếng đàn guitar gảy theo Đoạn 3 Hồi tưởng lại quá khứ hào hùng của nhân dân Hà Nội Ta chưa quên, ta chưa quên một mùa thu Hà Nội vùng lên, Hồng Hà cuộn sóng. Ta chưa quên những ngày đêm mịt mùng bão lửa. Đêm pháo hoa anh lại gặp em. Trời "Điện Biên Hà Nội" chiến thắng. Giọng hát đưa về gần, tạo màu sắc, ép phê cho ca sỹ đưa người nghe về quá khứ hào hùng của thủ đô Hà Nội vẫn tồn tại qua bao cuộc chiến đấu của người Hà Nội. Ta tăng tần số 1K +6dB, 3K +6dB và 8K +6dB để làm rõ tiếng hát trong đoạn này. Để cho giọng hát được mềm mại hơn, để cho giọng hát bay bổng hơn, ta sử dụng Effect : Cấp vào Insert : Compressor Desser, chọn chế độ : Female Vocal . Với các thông số sau : Attack : 1.5 ms Release : 300 ms Thresh : -25.8 Ratio : 2.0:1 Tại đường Send, ta lấy FX – Reverb A, chế độ Large với các thông số sau: Fredelay : 25ms Room size : 95 Reverb Time : 1.50s High cut : -3dB Low cut : 0dB Mix : Wet 100, Dry 70 Và lấy thêm một Effect khác là FX4 – Double Delay, chế độ Default với các thông số sau : FeedBack : 50% Pan 1 : -100% Pan 2 : +100% Delay Time 1 : 200ms Delay Time 2 : 200ms Tempo Sync 1 : 1x Tempo Sync 2 : 1x Mix : 100% Giọng hát như được ngân vang hơn trong không gian của ca khúc. Xử lý tiếng võng của ca sĩ cho câu ngân vang “ chiến thắng ”, bằng thủ pháp âm lượng, ta giảm và vuốt tiếng nhỏ và gần cuối, sau khi dứt từ “ thắng ”. Tiếp đó là một nhịp trống báo hiệu chuyển đoạn tiếp, ta tăng âm lượng của bộ trống lên nhanh và hạ xuống nhanh để vào lời hát tiếp. Tiếng Snare và Tom Hi, Tom Lo rõ ràng và sáng tiếng, đẩy âm lượng lên rồi hạ về vị trí ban đầu. Đoạn 4 Cho mãi mãi bầu trời xanh Hà Nội. Cầu Thăng Long soi bóng nước sông Hồng. Tiếng người nói âm vang hồn sông núi Hà Nội đi lên hôm nay trong nắng Ba Đình. Xử lý ảnh âm cho dàn nhạc Kick, ta đặt dải âm thanh tạo chiều sâu, cần tăng Low ở tần số f = 90Hz mức +9dB, giảm Mid Low ở f = 300Hz mức - 9dB, tăng Mid Hi ở f = 900Hz mức 0dB. Guitar bass cũng kết hợp với chân Kick để tạo thành cột sống của dàn nhạc, giữ nhịp cho dàn nhạc, tiếng guitar bass này làm nền đầy đặn cho dàn nhạc, cần tăng Low ở f = 90Hz mức +6dB, Mid Low ở f = 250Hz mức -9dB, Mid Hi ở f = 800Hz mức +3dB. Snare, được kéo lại gần, tạo không gian cho dàn nhạc, tiếng sẽ đầy đặn, ta cần tăng Mid Low ở f = 240Hz mức +10dB, tiếng khoẻ Mid Hi ở f = 3K mức +5dB và Hi ở f = 5K ở mức +8dB Hi Hat : được đặt vị trí ảnh âm xa và hơi lệch (paning) trái tạo màu sắc, ta cắt Mid low ở f = 200Hz mức -16dB, tăng Mid hi ở f = 5K mức +12dB, Hi ở f = 10K mức +12dB. Cymbal : cắt Low ở f = 800Hz, tiếng sáng và long lanh Mid Hi ở f = 8K mức +20dB, Hi ở f = 12K mức +16dB, tạo không gian cho dàn nhạc. Org 1 Ti : hoà thanh nền, cần tạo âm thanh xa và rộng. Tăng Low ở f = 120Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 800Hz mức -6dB, tăng Mid hi ở f = 4.5K mức +3dB Org 2 : (đàn dây), hoà thanh nền, tăng Low ở f = 100Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 600Hz mức -3dB, tăng Mid Hi ở f = 3.5K mức +6dB. Giọng hát vẫn được xử lý như các đoạn trước với sự hỗ trợ của 2loại Effect là Reverb A và Double Delay. Đoạn 5 Giống như đoạn 1, là nhạc dạo và bố trí ảnh âm cũng gần như vậy Bố trí ảnh âm cho dàn nhạc Chân kick, ta đặt dải âm thanh tạo chiều sâu, cần tăng Low ở tần số f = 90Hz mức +9dB, giảm Mid Low ở f = 300Hz mức - 9dB, tăng Mid Hi ở f = 900Hz mức 0dB. Guitar bass cũng kết hợp với chân Kick để tạo thành cột sống của dàn nhạc, giữ nhịp cho dàn nhạc, tiếng guitar bass này làm nền đầy đặn cho dàn nhạc, cần tăng Low ở f = 90Hz mức +6dB, Mid Low ở f = 250Hz mức -9dB, Mid Hi ở f = 800Hz mức +3dB. Org 1 Ti : hoà thanh nền, cần tạo âm thanh xa và rộng. Tăng Low ở f = 120Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 800Hz mức -6dB, tăng Mid hi ở f = 4.5K mức +3dB. Org 2 : (đàn dây), hoà thanh nền, tăng Low ở f = 100Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 600Hz mức -3dB, tăng Mid Hi ở f = 3.5K mức +6dB. Sax : tạo không gian bay bổng xa gần, tăng Low Mid ở f = 700Hz mức +3dB, giảm Mid hi ở f = 2K mức -3dB, tăng Hi f = 4.5K mức +3dB. Ta gắn effect : FX 2 - Reverb A: chọn chế độ Large với các thông số như sau : Fredelay : 25ms Room size : 95 Reverb Time : 1.50s High cut : -3dB Low cut : 0dB Mix : Wet 100, Dry 70 Tiếng kèn solo vang lên theo điệu nhạc, với mức âm lượng lớn hơn so với dàn nhạc. Đoạn 6 Giống như đoạn 2 và đoạn 3, các biện pháp xử lý ảnh âm cũng như thế Xử lý ảnh âm cho dàn nhạc Kick, ta đặt dải âm thanh tạo chiều sâu, cần tăng Low ở tần số f = 90Hz mức +9dB, giảm Mid Low ở f = 300Hz mức - 9dB, tăng Mid Hi ở f = 900Hz mức 0dB. Guitar bass cũng kết hợp với chân Kick để tạo thành cột sống của dàn nhạc, giữ nhịp cho dàn nhạc, tiếng guitar bass này làm nền đầy đặn cho dàn nhạc, cần tăng Low ở f = 90Hz mức +6dB, Mid Low ở f = 250Hz mức -9dB, Mid Hi ở f = 800Hz mức +3dB. Snare, được kéo lại gần, tạo không gian cho dàn nhạc, tiếng sẽ đầy đặn, ta cần tăng Mid Low ở f = 240Hz mức +10dB, tiếng khoẻ Mid Hi ở f = 3K mức +5dB và Hi ở f = 5K ở mức +8dB Hi Hat : được đặt vị trí ảnh âm xa và hơi lệch (paning) trái tạo màu sắc, ta cắt Mid low ở f = 200Hz mức -16dB, tăng Mid hi ở f = 5K mức +12dB, Hi ở f = 10K mức +12dB. Cymbal : cắt Low ở f = 800Hz, tiếng sáng và long lanh Mid Hi ở f = 8K mức +20dB, Hi ở f = 12K mức +16dB, tạo không gian cho dàn nhạc. Org 1 Ti : hoà thanh nền, cần tạo âm thanh xa và rộng. Tăng Low ở f = 120Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 800Hz mức -6dB, tăng Mid hi ở f = 4.5K mức +3dB Org 2 : (đàn dây), hoà thanh nền, tăng Low ở f = 100Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 600Hz mức -3dB, tăng Mid Hi ở f = 3.5K mức +6dB. Giọng hát đưa về gần, tạo màu sắc cho giọng hát của ca sỹ, đưa người nghe về quá khứ hào hùng của thủ đô Hà Nội vẫn tồn tại qua bao cuộc chiến đấu của người Hà Nội. Đoạn 7 Cho mãi mãi một tình yêu Hà Nội Rồi sẽ quen phút bỡ ngỡ ban đầu. Tiếng người nói xôn xao mùa xuân tới Hà Nội reo vui hôm nay tiếng hát xây đời. Xử lý ảnh âm cho dàn nhạc Chân kick, ta đặt dải âm thanh tạo chiều sâu, cần tăng Low ở tần số f = 90Hz mức +9dB, giảm Mid Low ở f = 300Hz mức - 9dB, tăng Mid Hi ở f = 900Hz mức 0dB. Guitar bass cũng kết hợp với chân Kick để tạo thành cột sống của dàn nhạc, giữ nhịp cho dàn nhạc, tiếng guitar bass này làm nền đầy đặn cho dàn nhạc, cần tăng Low ở f = 90Hz mức +6dB, Mid Low ở f = 250Hz mức -9dB, Mid Hi ở f = 800Hz mức +3dB. Org 1 Ti : hoà thanh nền, cần tạo âm thanh xa và rộng. Tăng Low ở f = 120Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 800Hz mức -6dB, tăng Mid hi ở f = 4.5K mức +3dB. Org 2 : (đàn dây), hoà thanh nền, tăng Low ở f = 100Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 600Hz mức -3dB, tăng Mid Hi ở f = 3.5K mức +6dB. Snare, được kéo lại gần, tạo không gian cho dàn nhạc, tiếng sẽ đầy đặn, ta cần tăng Mid Low ở f = 240Hz mức +10dB, tiếng khoẻ Mid Hi ở f = 3K mức +5dB và Hi ở f = 5K ở mức +8dB Hi Hat : được đặt vị trí ảnh âm xa và hơi lệch (paning) trái tạo màu sắc, ta cắt Mid low ở f = 200Hz mức -16dB, tăng Mid hi ở f = 5K mức +12dB, Hi ở f = 10K mức +12dB. Cymbal : cắt Low ở f = 800Hz, tiếng sáng và long lanh, tăng Mid Hi ở f = 8K mức +20dB, Hi ở f = 12K mức +16dB, tạo không gian cho dàn nhạc. Org 1 Ti : hoà thanh nền, cần tạo âm thanh xa và rộng. Tăng Low ở f = 120Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 800Hz mức -6dB, tăng Mid hi ở f = 4.5K mức +3dB Org 2 : (đàn dây), hoà thanh nền, tăng Low ở f = 100Hz mức +6dB, giảm Mid Low ở f = 600Hz mức -3dB, tăng Mid Hi ở f = 3.5K mức +6dB. Tạo hiệu ứng cho giọng hát, ta đưa effect vào Insert : Compressor DeEsser, chế độ Female Vocal với các thông số sau Attack : 3.0ms Release : 300ms Thresh : -25.8 Ratio : 2:1 Tại Send : gắn effect là FX 2 - Reverb A – Large Fredelay : 25ms Room size : 95 Reverb Time : 1.50s High cut : -3dB Low cut : 0dB Mix : Wet 100, Dry 70 và FX4 - Double Delay – Default.cho thông số… FeedBack : 50% Pan 1 : -100% Pan 2 : +100% Delay Time 1 : 200ms Delay Time 2 : 200ms Tempo Sync 1 : 1x Tempo Sync 2 : 1x Mix : 100% Đoạn Kết Là sự lặp lại của hai câu: “ Hà nội đi lên hôm nay trong nắng Ba Đình Hà Nội reo vui hôm nay tiếng hát xây đời” Giọng ca được đẩy lên cao, để nhấn manh nội dung của cả ca khúc. Đây là đoạn kết của ca khúc nên tổng âm lượng của toàn dàn nhạc lúc này sẽ được từ từ hạ xuống cho đến khi ca sĩ hát đến lần thứ ba. Với ý tưởng đó, đoạn nhạc cần được tạo ra một không gian rộng, với nhiều lớp và vị trí ảnh âm khác nhau, ảnh âm của dàn nhạc được đưa xa dần cho đến hết, ta dùng thủ pháp âm lượng Fade Out. Kết luận, qua phân tích va thu thanh bài hát, ta thấy ca khúc như một bức tranh chân thực về Hà Nội, tác giả mượn hình ảnh bầu trời Hà Nội xanh thắm để diễn tả niềm khát khao có được tụ do, để đạt được những khát vọng về hoà bình cho tương lai của lớp trẻ, bên cạnh đó, tác giả đã nhắc cho thính giả nhớ về thủ đô qua những hình ảnh thân quen của con người Hà Nội, về những chiến tích của nhân dân Hà Nội qua bao cuộc chiến tranh gian khổ, cùng nhìn vào những giá trị mà hoà bình đã mang lại đó là tiếng nói của Người – Chủ Tịch Hồ Chí Minh vĩ đại vẫn âm vang đâu đây trên khắp sông núi quanh thủ đô, rồi hình ảnh cầu Thăng Long… Hình tượng âm nhạc của tác giả được gắn liền với những giai điệu lạc quan, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng, cùng nhau đi lên xây dựng cuộc sống mới. Những giai điệu đựơc hun đúc từ nhiệt huyết của trái tim của nhạc sỹ đã đi vào lòng người. 2. Phân tích văn học ca khúc “ Lời Biển Hát ” Ca khúc “ Lời Biển Hát ” Sáng tác : An Thuyên Trên bãi biển đời ta đi tìm nhau Con sóng lang thang, cơn gió lang thang Cánh buồm xa vời Trên bãi biển đời ta đi tìm nhau, tìm nhau Lặng nghe biển hát, em bé nhỏ như là hạt cát Vẫn dịu dàng tha thiết bên anh Ngoài xa hải âu bay, con ốc biển nguôi ngoai Tình em biển mặn nên lấp lánh Tình em biển rộng nên sóng vỗ Lặng nghe biển hát, em bé nhỏ như là cát Dẫu rằng biển có lúc nguôi ngoai. Con sóng còn vỗ bờ, tình em còn yêu anh Lặng nghe lời biển hát thế Lặng nghe lời biển a hát thế Anh ơi xa nhau xa nhau Anh có nghe lời biển hát thế. Biển hát, biển hát khúc tình ca mang đầy niềm thương nhớ của người thiếu nữ gửi đến người mình yêu. Lời biển hát, những lời ca tha thiết xa gần, xen lẫn tiếng sóng vỗ, những lời ca lan toả khắp không gian biển rộng, ngấm sâu bờ biển cát trắng, mơn man xoa dịu tâm hồn cô gái đang bày tỏ tình yêu của mình, đang mong ngóng tình yêu của mình. Phải chăng những lời hát đó được cất lên từ chính tình yêu tha thiết và nỗi niềm mong nhớ của “em”. Em đi tìm anh, ta đi tìm nhau, cứ lang thang, xa vời … như cánh buồm, như cơn gió…Ngoài biển rộng mênh mông như thế, cô gái ví mình như là hạt cát, “em bé nhỏ” nhưng tình yêu của em thì vô cùng lớn lao như bao lần sóng vỗ bờ, tình yêu đó là bất tử và bất tận. “Dộu rằng biển có lúc nguôi ngoai”, nhưng biển vẫn hát lời yêu thương, nhung nhớ. Vì tình yêu “em dành cho anh” luôn dịu dàng tha thiết dù biển rộng mênh mông, biển mặn mà mà tình em vẫn lấp lánh. “Lời Biển Hát” là một ca khúc chứa chan nhiều nỗi nhớ thương tha thiết không nguôi của một tình yêu đẹp, bền chặt mà em dành cho anh. Lời ca gợi cho người nghe một cảm giác được đắm chìm trong hơi thở của biển cả mênh mông, nhưng không hề cô đơn, bởi nó chứa đựng đầy ắp những âm thanh hình ảnh tình yêu của cô gái. Đó chính là điểm nhấn của toàn ca khúc về sự vĩnh cửu , thiêng liêng của tình yêu đôi lứa được cất lên từ trái tim nồng nàn của biển cả, của cô gái luôn chờ mong và tìm kiếm người yêu. Phân tích và xây dựng ý đồ âm thanh Đoạn 1 Đoạn nhạc dạo đầu, dẫn dắt người nghe cảm nhận thấy hơi thở của biển, cảm nhận cái âm hưởng của cuộc sống vùng biển. Qua tiếng gió biển thổi dạt dào lúc bình minh, từng đợt sóng vỗ, cùng với tiếng sáo du dương, bay bổng tạo ra một không gian rộng rãi, khiến người nghe thấy nhẹ nhõm thoải mái. Xử lý ảnh âm cho đoạn nhạc dạo đầu như sau : Tiếng sóng biển, tiếng gió biển được tạo ra từ Keybroad, nên ta căn âm sắc cho Keybroad mềm mại, sáng tiếng và rõ ràng với mức âm lượng đủ lớn, không nhỏ quá, dùng thủ pháp âm lượng để tăng âm lượng từ nhỏ cho đến mức cân bằng đã định, để nghe tiếng sóng biển. Ta dùng thủ pháp panning để tạo kỹ xảo cho tiếng sóng dạt dào liên tiếp thành từng đợt, tạo một không gian biển rộng hơn. Sóng vỗ khắp mọi nẻo bờ biển, nghe tiếng sóng như tình yêu liên tiếp được tiếp thêm cho cô gái. Ta tăng phần Low ở f = 80Hz mức +12dB, Lo Mid ở f = 1K mức -6dB và Hi Mid ở f = 4.5K mức +12dB, Hi ở f = 8K mức +12dB, cho tiếng gió thổi xen lẫn tiếng sóng vỗ bờ. Ta đưa effect vào tiếng sóng và gió biển này để tạo hiệu quả. Tại Send : Sử dụng Effect : FX1 – Reverb A , chọn chế độ mặc định Default, với các thông số sau : PreDelay : 10.0 ms Room size : 80 Reverb Time : 1.84 s High cut : -13.4dB Low cut : -15dB Mix : Wet : 100, Dry : 0 Tiếp nối là tiếng guitar gảy theo, tạo không gian cho dàn nhạc. Ta tăng Lo Mid ở tần số f = 800Hz mức +6dB và Hi Mid ở f = 2.5K mức +12dB để làm sáng tiếng đàn. Cùng lúc này tiếng sáo vang lên, bay bổng hoà vào tiếng sóng vỗ, tạo ra một không gian thật rộng và đẹp đẽ như chốn hoang vu. Ta xử lý âm sắc của sáo, tăng Low ở f = 120Hz +9dB, Low mid ở f = 900Hz +6dB và Hi Mid ở f = 1.5K +9dB, tạo tếng sáng và mềm. Để tiếng sáo được đẹp hơn và tạo không gian thật rộng và cảm giác am vang xa gần, Ta đưa Effect FX1 – Reverb A với thông số như sau PreDelay : 10.0 ms Room size : 80 Reverb Time : 1.84 s High cut : -13.4dB Low cut : -15dB Mix : Wet : 100, Dry : 0 Đoạn 2 Đây là lời tự sự của cô gái đang đi lang thang trên bãi biển đời, nhạc sĩ mượn hình ảnh biển để nói lên cái tình yêu của cô gái với cuộc sống thật. Cho nên ta sẽ xử lý tiếng hát rõ ràng, sáng và đưa hiệu quả effect vào để đoạn này toát lên cái chất tự sự của ca khúc. “ Trên bãi biển đời ta đi tìm nhau, cơn sóng lang thang, cơn gió lang thang, cánh buồm xa vời…Trên bãi biển đời ta di tìm nhau…tìm nhau..” Xử lý ảnh âm cho dàn nhạc và ca sĩ Org 2 tạo tiếng sóng vỗ bờ với âm lượng đủ lớn, kết hợp tạo tiếng đàn dây làm nền cho dàn nhạc, tạo không gian. Ta tăng Low ở f = 80Hz mức +12dB, Lo Mid ở f = 1K mức -6dB và Hi Mid ở f =4.5K mức +12dB, Hi ở f = 8K mức +12dB. Tại Insert, đưa Effect : FX1 – Reverb A chọn chế độ Default với các thông số PreDelay : 10.0 ms Room size : 80 Reverb Time : 1.84 s High cut : -13.4dB Low cut : -15dB Mix : Wet : 100, Dry : 0 mức âm lượng là -16dB( của bộ effect). Guitar : tạo không gian cho dàn nhạc. Ta tăng Lo Mid ở tần số f = 800Hz mức +6dB và Hi Mid ở f = 2.5K mức +12dB Org 1 tạo tiếng piano, tạo không gian cho dàn nhạc, làm giai điệu hoà thanh cho ca khúc, ta căn âm sắc cho tiếng piano đầy đặn và sáng lên. Tăng Low ở f = 200Hz mức +9dB, Lo Mid ở f = 800Hz mức +6dB, Hi Mid ở f = 1.5K mức +8dB. Xử lý giọng hát của ca sĩ thật mềm mại và tha thiết theo đúng tâm trạng cô gái, theo không gian xa vắng Tăng Low ở f = 125Hz mức +6dB, Lo mid ở f = 1K mức -6dB, Hi Mid ở f = 3K mức =9dB. Đưa vào Insert : effect Compressor DeEsser, chế độ Female Vocal với các thông số: Attack : 1.5ms Release : 300ms Thresh : -25.8 Ratio : 2:1 Ta sử dụng thêm hai effect cho đoạn này vào giọng của ca sĩ, để chất giọng của ca sĩ mềm mại và vang một cách chầm chậm, như muốn giãi bày tâm sự lâu hơn. Tại Send ta đưa vào hai effect Dùng FX1 – Reverb A: Default, theo các thông số sau : PreDelay : 10.0 ms Room size : 80 Reverb Time : 1.84 s Filter : High cut : -13.4dB và Low cut : -15dB Mix : Wet : 100 và Dry : 0 Mức âm lượng là : -8dB, gắn cho effect này Dùng tiếp FX3 – Double Delay : Default, với các thông số sau : FeedBack : 45% Tempo Sync 1 : 1x Delay Time : 350ms Tempo Sync 2 : 1x Delay Time : 350ms Mix : 100% Pan 1 : -100% Pan 2 : +100% Mức âm lượng ra cho effect này là -13dB Đoạn 3 “ Lặng nghe biển hát, em bé nhỏ như là hạt cát vẫn dịu dàng tha thiết bên anh. Ngoài xa hải âu bay con ốc nhỏ nguôi ngoai. Tình em biển mặn nên lấp lánh, tình em biển rộng nên sóng vỗ..” Tâm hồn của người con gái đang hướng về biển, để nghe tiếng biển hát, mong ngóng tình yêu của mình, ví mình như là hạt cát nhỏ xíu giữa biển rộng mênh mông, dù cho đôi lúc chim hải âu hay nhũng con ốc biển có lúc “ nguôi ngoai” vì biển rộng, vì biển đời lắm chông gai, thử thách nhưng tình yêu mà cô gái dành cho người yêu thì thật mãnh liệt và tha thiết …như sóng vẫn vỗ bờ…như có bao khó khăn trên biển người Giọng hát lúc này chuyển sang một niềm khát khao tình yêu mãnh liệt hơn, muốn bày tỏ tấm lòng của người con gái nhiều hơn nên ta tiếp tục xử lý giọng hát theo một cách khác. Tăng Low ở f = 125Hz mức +6dB, Lo mid ở f = 1K mức -6dB, Hi Mid ở f = 3K mức =9dB và tăng Hi ở f = 10k mức +10dB để làm sáng tiếng và rõ hơn, để truyền tải sức sống của tình yêu thật tha thiết. Ta đưa vào đường Send : effect FX1 – Reverb A: Default, theo các thông số sau : PreDelay : 10.0 ms Room size : 80 Reverb Time : 1.84 s Filter : High cut : -13.4dB và Low cut : -15dB Mix : Wet : 100 và Dry : 0 Mức âm lượng ra của effect này là -8dB Đồng thời đưa thêm effect FX4 : Double Delay, chế độ Default với các thông số sau: FeedBack : 50% Tempo Sync 1 : 1x Delay Time : 175ms Tempo Sync 2 : 1x Delay Time : 175ms Mix : 100% Pan 1 : -100% Pan 2 : +100% Mức âm lượng ra cho effect này là -14dB Lời hát không ngân vang như đoạn trước nữa, mà thay vào đó là lời hát vẫn mềm mại tha thiết, nhưng ngắn gọn và rõ ràng khi bày tỏ lòng mình. Đoạn 4 Tiếp tục là nhạc dạo của toàn dàn nhạc, tiếng trống báo hiệu cho kiểu hát tự do, xen lẫn tiếng kèn sax vang lên, diễn tả nội tâm của cô gái, đang cháy bỏng, khát khao như thế nào khi được hát lên mạnh mẽ như thế. Xử lý ảnh âm cho dàn nhạc Bộ trống và guitar bass là cái nền chính, nó làm nhiệm vụ giữ nhịp cho ca khúc trong đoạn hát tự do này, tạo không gian sâu, rộng cho ca khúc. Bằng thủ pháp âm lượng, ta đẩy tiếng của bộ trống to hơn mức bình thường trong khoảng thời gian rất ngắn và hạ xuống từ từ cho bằng mức đã đặt sẵn. Làm nhiệm vụ như một câu báo ngắn, bước vào kiểu hát tự do. Căn âm sắc cho bộ trống, tăng Lo Mid ở f = 80Hz mức +6dB, Hi Mid ở f = 3K mức +9dB, Hi ở f = 8K mức +6dB. Guitar bass, tăng Low ở f = 80Hz mức +6dB, Lo Mid ở f = 400Hz mức 0.4dB, Hi Mid ở f = 1K mức +6dB Đàn Org 1 tạo tiếng xoáy của những trắc trở của biển đời, hoà vào dàn nhạc, tạo nên không gian cho ca khúc. Tăng Low ở f = 200Hz mức +9dB, Lo Mid ở f = 800Hz mức +6dB, Hi Mid ở f = 1.5K mức +8dB. Org 2 đánh tiếng đàn dây làm nền cho dàn nhạc và ca sĩ hát. Ta tăng Low ở f = 80Hz mức +12dB, Lo Mid ở f = 1K mức -6dB và Hi Mid ở f =4.5K mức +12dB, Hi ở f = 8K mức +12dB. Tại Send, đưa Effect : FX1 – Reverb A chọn chế độ Default mức âm lượng là -16dB( của bộ effect). Guitar : tạo không gian cho dàn nhạc. Ta tăng Lo Mid ở tần số f = 800Hz mức +6dB và Hi Mid ở f = 2.5K mức +12dB Sax vang lên, mang theo âm hưởng của cuộc sống, của biển rộng, tạo không gian cho ca khúc được xa hơn, rộng hơn. ta căn chỉnh âm sắc cho kèn, tăng Lo Mid ở f = 1K mức +10dB, Hi Mid ở f = 2.5K mức +6dB. Ta đưa hai effect vào tiếng kèn, để có tiếng mềm mại và bay bổng hơn, sáng hơn. Tại đường Send : Dùng FX1 – Reverb A: Default, theo các thông số sau : PreDelay : 10.0 ms Room size : 80 Reverb Time : 1.84 s Filter : High cut : -13.4dB và Low cut : -15dB Mix : Wet : 100 và Dry : 0 Mức âm lượng ra của effect này là -14dB Dùng thêm FX3 – Double Delay : Default, với các thông số sau : FeedBack : 45% Tempo Sync 1 : 1x Delay Time : 350ms Tempo Sync 2 : 1x Delay Time : 350ms Mix : 100% Pan 1 : -100% Pan 2 : +100% Mức âm lượng ra cho effect này là -18dB Đoạn 5 Quay lại lời hát như đoạn hai nhưng với kiểu hát tự do, nên ta xử lý ảnh âm cho ca sĩ cũng khác đi. “Trên bãi biển đời ta đi tìm nhau, cơn sóng lang thang, cơn gió lang thang, cánh buồm xa vời…Trên bãi biển đời ta di tìm nhau…tìm nhau.” Thêm effect để tạo hiệu quả cho giọng hát ở đoạn này, tại đường Inserrt : Ta sử dụng effect FX1 – Reverb A: Default, theo các thông số sau : PreDelay : 10.0 ms Room size : 80 Reverb Time : 1.84 s Filter : High cut : -13.4dB và Low cut : -15dB Mix : Wet : 100 và Dry : 0 Mức âm lượng ra của effect này là -8dB Đồng thời đưa thêm effect FX4 : Double Delay, chế độ Default với các thông số sau: FeedBack : 50% Tempo Sync 1 : 1x Delay Time : 175ms Tempo Sync 2 : 1x Delay Time : 175ms Mix : 100% Pan 1 : -100% Pan 2 : +100% Mức âm lượng ra cho effect này là -14dB Căn âm sắc cho bộ trống, tăng Lo Mid ở f = 80Hz mức +6dB, Hi Mid ở f = 3K mức +9dB, Hi ở f = 8K mức +6dB. Guitar bass, tăng Low ở f = 80Hz mức +6dB, Lo Mid ở f = 400Hz mức 0.4dB, Hi Mid ở f = 1K mức +6dB Đàn Org 1 tạo tiếng kỹ xảo mang âm hưởng huyền ảo của biển đời, hoà vào dàn nhạc, tạo không gian cho Tăng Low ở f = 200Hz mức +9dB, Lo Mid ở f = 800Hz mức +6dB, Hi Mid ở f = 1.5K mức +8dB. Org 2 đánh tiếng đàn dây làm nền cho dàn nhạc và ca sĩ hát. Ta tăng Low ở f = 80Hz mức +12dB, Lo Mid ở f = 1K mức -6dB và Hi Mid ở f =4.5K mức +12dB, Hi ở f = 8K mức +12dB. Đưa Effect : FX1 – Reverb A chọn chế độ Default mức âm lượng là -16dB( của bộ effect). Guitar : tạo không gian cho dàn nhạc. Ta tăng Lo Mid ở tần số f = 800Hz mức +6dB và Hi Mid ở f = 2.5K mức +12dB Đoạn 6 “ Lặng nghe biển hát, em bé nhỏ như là hạt cát vẫn dịu dàng tha thiết bên anh. Ngoài xa hải âu bay con ốc nhỏ nguôi ngoai. Tình em biển mặn nên lấ p lánh, tình em biển rộng nên sóng vỗ ” “ Lặng nghe biển hát…dẫu rằng biển…Con sóng còn vỗ bờ ….Lặng nghe lời biển hát thế…Lặng nghe lời biển a hát thế ” Cách xử lý âm vẫn như đoạn 5, cùng với các effect như thế, và căn âm sắc cho dàn nhạc như thế. Nhưng ta tách câu “ Lặng nghe lời biển a hát thế ” , thêm effect khác vào cuối câu này qua cụm từ “ a hát thế ”, để nhấn mạnh cái tôi của cô gái đã bộc lộ cảm xúc của mình với biển rộng. Đưa vào Send : effect FX1 – Reverb A: Default, với các thông số sau : PreDelay : 10.0 ms Room size : 80 Reverb Time : 1.84 s Filter : High cut : -13.4dB và Low cut : -15dB Mix : Wet : 100 và Dry : 0 Mức âm lượng ra cho effect là -8dB Gắn thêm FX5 – Double Delay : Default, với các thông số sau: FeedBack : 55% Tempo Sync 1 : 1x Delay Time : 500ms Tempo Sync 2 : 1x Delay Time : 500ms Mix : 100% Pan 1 : -100% Pan 2 : +100% Mức âm lượng ra cho effect này là -12dB Cụm từ cuối này sẽ ngân vang lâu hơn như cô gái không muốn dứt, để người yêu ở nơi xa xôi ngoài biển khơi nghe được lời của cô. Đoạn kết “ Anh ơi! xa nhau xa nhau…anh có nghe lời biển..hát thế ” Đây cũng là một lần tự sự cuối cùng của cô gái trong ca khúc, để cố gọi tên người yêu, nên ta sử dụng lại effect của đoạn 1 để biểu lộ cái tâm trạng tha thiết đó. Tại Send : Dùng FX1 – Reverb A: Default, theo các thông số sau : PreDelay : 10.0 ms Room size : 80 Reverb Time : 1.84 s Filter : High cut : -13.4dB và Low cut : -15dB Mix : Wet : 100 và Dry : 0 Mức âm lượng là : -8dB, gắn cho effect này Dùng tiếp FX3 – Double Delay : Default, với các thông số sau : FeedBack : 45% Tempo Sync 1 : 1x Delay Time : 350ms Tempo Sync 2 : 1x Delay Time : 350ms Mix : 100% Pan 1 : -100% Pan 2 : +100% Mức âm lượng ra cho effect này là -13dB Bên cạnh đó tiếng guitar solo lên, làm nền cho câu cuối thật mãnh liệt ta đẩy âm lượng guitar lên theo sau câu cuối đó…rồi dùng thủ pháp Fade Out để giảm tiếng nhỏ dần xuống theo dàn nhạc Tiếng Cymbal ta cũng sử dụng thủ pháp Fade Out để giảm tiếng nhỏ dần khi kết thúc ca khúc. Qua phân tích và xây dựng ý đồ âm thanh cho ca khúc trên, ta đã cảm nhận được tình yêu mà nhạc sĩ đã viết lên cho nhân vật nữ trong ca khúc. Nhạc sĩ đã mượn hình ảnh biển để hát, hát lên niềm yêu thương tha thiết của cô gái dành cho người mình yêu dù vượt bao gian khổ giữa biển đời. PHẦN IV: KẾT LUẬN CHUNG Qua thời gian học tập và nghiên cứu về chuyên ngành âm thanh, với những kiến thức được tích luỹ được vận dụng và thể hiện trong hai tác phẩm ta thấy được sự phát triển mạnh mẽ rất đa dạng phong phú của nghệ thuật nói chung và nghệ thuật xử lý âm thanh nói riêng. Nó đã tạo nên bước ngoặt mạnh mẽ nhằm thoả mãn những yêu cầu ngày càng cao, tạo sự chuyển biến và hiệu quả cho nghệ thuật biểu diễn. Với trình độ khoa học kỹ thuật trang thiết bị hiện đại, chúng ta đã vận dụng được vào trong thực tiễn, như việc xử lý và lưu trữ âm thanh và kỹ thuật số. Đó là một xu thế tất yếu của công nghệ thông tin hiện đại, nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Con người càng phát triển thì sự hưởng thụ văn hóa càng cao, để kịp đáp ứng nhu cầu này; cần phải có sự tác động quan tâm của Đảng và Nhà nước, nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân viên phải có trách nhiệm lòng nhiệt quyết tận tụy với nghề nghiệp. Mang lại cho xã hội món ăn tinh thần cũng như người biết trân trọng nó. Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh và hiện đại, mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy mọi người chúng ta phải biết vươn lên theo kịp thời đại, theo kịp nền khoa học đang trên đà phát triển của thế giới. Em xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxde an tot nghiep Nghe thuat bieu dien.docx
Tài liệu liên quan