Tài liệu Điều trị viêm gan siêu vi c cấp tính với công thức phối hợp Interferon Alpha + Ribavirin: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI C CẤP TÍNH
VỚI CÔâNG THỨC PHỐI HỢP INTERFERON ALPHA + RIBAVIRIN
Võ Ngọc Quốc Minh*, Phạm Hoàng Phiệt*, Trương Bá Trung**
TÓM TẮT
Trên những bệnh nhân bị nhiễm siêu vi viêm gan C, phần lớn sẽ diễn tiến đến giai đoạn mạn tính
và việc điều trị để thải trừ siêu vi thường gặp nhiều khó khăn. Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh
giá liệu việc điều trị trong giai đoạn cấp của viêm gan siêu vi C có giúp chặn đứng được sự nhân lên của
siêu vi và qua đó ngăn ngừa diễn tiến mạn tính của bệnh. 15 bệnh nhân viêm gan siêu vi C cấp đã được
điều trị bằng interferon alpha liều tiêu chuẩn+ribavirin 1000 mg/ngày trong thời gian 6-12 tháng và
được tiếp tục theo dõi thêm 6 tháng sau khi ngưng điều trị. Thời gian trung bình từ khi chẩn đoán đến khi
bắt đầu điều trị là...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 181 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị viêm gan siêu vi c cấp tính với công thức phối hợp Interferon Alpha + Ribavirin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI C CẤP TÍNH
VỚI CÔâNG THỨC PHỐI HỢP INTERFERON ALPHA + RIBAVIRIN
Võ Ngọc Quốc Minh*, Phạm Hoàng Phiệt*, Trương Bá Trung**
TÓM TẮT
Trên những bệnh nhân bị nhiễm siêu vi viêm gan C, phần lớn sẽ diễn tiến đến giai đoạn mạn tính
và việc điều trị để thải trừ siêu vi thường gặp nhiều khó khăn. Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh
giá liệu việc điều trị trong giai đoạn cấp của viêm gan siêu vi C có giúp chặn đứng được sự nhân lên của
siêu vi và qua đó ngăn ngừa diễn tiến mạn tính của bệnh. 15 bệnh nhân viêm gan siêu vi C cấp đã được
điều trị bằng interferon alpha liều tiêu chuẩn+ribavirin 1000 mg/ngày trong thời gian 6-12 tháng và
được tiếp tục theo dõi thêm 6 tháng sau khi ngưng điều trị. Thời gian trung bình từ khi chẩn đoán đến khi
bắt đầu điều trị là 3,8 tháng. Kết quả cho thấy 14/15 bệnh nhân (93,3%) có đáp ứng siêu vi lâu dài và có
men gan ALT trở về giới hạn bình thường. Như vậy tiến hành điều trị trong trường hợp viêm gan siêu vi C
cấp là một giải pháp hợp lý và việc chờ một vài tháng để xem có bệnh nhân có thải trừ siêu vi một cách tự
nhiên được hay không sẽ giúp tránh được những trường hợp không cần thiết phải điều trị.
SUMMARY
TREATMENT OF ACUTE HEPATITIS C
WITH INTERFERON ALPHA/RIBAVIRIN COMBINATION
Vo Ngoc Quoc Minh, Pham Hoang Phiet, Truong Ba Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 57 – 61
In people who are infected with the hepatitis C virus, chronic infection develops in the majority of
cases and is difficult to treat. The aim of this study was to determine whether treatment during the acute
phase could prevent the viral replication and thereby the development of chronic infection. 15 patients
have received standard-dose interferon alpha with ribavirin (1000 mg per day) for 6-12 months and the
response was evaluated at the end of therapy and 6 months after. The average time from the diagnostic
until the start of therapy was 3,8 months. At the end of the follow-up, 14/15 patients (93,3%) had sustained
virologic response and normal serum alanine aminotransferase levels. In conclusion, treatment of acute
hepatitis C was a appropriate solution and the initiation of therapy can be safely delayed to avoid
unnecessary treatment in patients with spontaneous viral clearance.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm siêu vi viêm gan C hiện nay là một vấn đề
lớn về y tế cộng đồng vì nguy cơ diễn tiến sang mạn
tính rất cao (50-80%)(5,6), kèm theo đó là những biến
chứng lâu dài như xơ gan, ung thư gan cũng như việc
điều trị gặp rất nhiều khó khăn do tỷ lệ thành công
chỉ vào khoảng 50%(5). Như vậy liệu có nên điều trị
trong giai đoạn cấp của bệnh để ngăn ngừa khả năng
diễn tiến sang mạn tính cùng với những hệ quả của
nó hay không? Đây là một vấn đề đang còn nhiều bàn
cãi và hiện nay vẫn chưa có đồng thuận hoặc khuyến
cáo chính thức về điều trị viêm gan siêu vi C cấp(5).
Tại Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu nào về thái độ
xử trí trong trường hợp này. Do đó mục đích của
nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả điều trị
trong giai đoạn cấp của viêm gan siêu vi C bằng
những thuốc hiện có và so sánh với các công trình
nghiên cứu của nước ngoài.
* Bộ môn Sinh lý bệnh – Miễn dịch – ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh
** BV. ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh
57
Interferon–ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Đối tượng nghiên cứu được lựa chọn trong số
những bệnh nhân đến khám, theo dõi và điều trị tại
phòng khám viêm gan Bệnh viện Đại học Y Dược
TP. Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ tháng
04/2000 đến 04/2004.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu khi hội đủ
những tiêu chí:
Nhiễm HCV cấp tính, có HCV – RNA (+), và có
men gan ALT tăng cao vượt quá giới hạn bình thường
(>
α, 3 triệu đơn vị, tiêm dưới da 3 lần
mỗi tuần.
Ribavirin 1000mg/ngày, chia ra uống 2 lần
trong ngày.
Cả 2 thứ thuốc được sử dụng và ngưng cùng
một lúc.
Các bệnh nhân được điều trị ngoại trú, được theo
dõi (khám lâm sàng và làm các xét nghiệm sinh hóa
& huyết học) mỗi tháng trong suốt thời gian điều trị,
và được đánh giá lại 6 tháng sau khi ngưng điều trị.
Ngoài ra, một số bệnh nhân còn được tiếp tục theo
dõi lâu dài về sau 6 tháng hoặc 12 tháng sau khi
ngưng điều trị.
40 IU/l). Bệnh nhân được xem là nhiễm HCV cấp
tính khi có ít nhất một trong các điều kiện sau đây: có
phơi nhiễm hoặc nghi ngờ có phơi nhiễm với HCV
trong vòng 4 tháng trước đó, có tình trạng chuyển huyết
thanh từ âm tính thành dương tính của anti-HCV, hoặc
nếu không thỏa 2 điều kiện trên đây thì men gan ALT
phải tăng cao > 10 lần giới hạn bình thường để loại trừ
những trường hợp viêm gan mạn tính.
Các bệnh nhân được làm xét nghiệm HCV – RNA
trước khi điều trị, vào tháng thứ 3 hoặc tháng thứ 6,
khi kết thúc điều trị, và 6 tháng sau khi ngưng điều
trị. HCV-RNA được phát hiện bằng kỹ thuật RT-PCR
do Phòng Y sinh học Đại học Y Dược thành phố Hồ
Chí Minh tiến hành, với độ nhạy khoảng 104-105
copies/ml.
Phân tích thống kê. Loại ra khỏi mẫu nghiên cứu các trường hợp sau:
Đồng nhiễm siêu vi viêm gan B, đồng nhiễm HIV,
suy gan mất bù, nghiện rượu, có các bệnh khác kèm
theo như giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, suy thận, suy
tim, các bệnh tâm thần, động kinh, cường giáp hoặc
nhược giáp, hemophilia, bệnh nhân sử dụng những
thuốc có thể gây ra viêm gan.
Chúng tôi sử dụng phép kiểm Student’s t-test để
so sánh các giá trị trước và sau khi điều trị. Tất cả các
giá trị p (p–values) đều 2 đuôi.
KẾT QUẢ
Đặc điểm bệnh nhân
Tổng số bệnh nhân: 15 Thiết kế nghiên cứu
Giới tính: có 11 bệnh nhân nam (73,3%) và 04
nữ (26,7%).
Nghiên cứu mô tả có tính tiền cứu, và kết quả
phân tích dựa trên phác đồ.
Tuổi trung bình: 36 ± 16 (năm), giới hạn: 20 - 61
tuổi.
Các số liệu được ghi nhận từ hồ sơ bệnh án tại
phòng khám viêm gan Bệnh viện Đại học Y Dược TP
Hồ Chí Minh là bệnh án được lập theo mẫu thống
nhất giống như mẫu nghiên cứu viêm gan của
AsiaHep (Hội gan Châu Á) đã được bổ sung cho phù
hợp với thực tế Việt Nam.
Cân nặng trung bình: 59,88 ± 8,10 (kg), giới
hạn: 50- 74 kg.
Tất cả bệnh nhân đều có HCV-RNA (+) trước khi
điều trị và có tình trạng viêm gan thể hiện qua nồng
độ ALT tăng cao trong máu. Những bệnh nhân đáp ứng được những tiêu
chuẩn lựa chọn đã nêu ở trên được điều trị liên tục
trong 6 tháng (2 trường hợp), 9 tháng (7 trường hợp),
và 12 tháng (6 trường hợp) bằng:
Men gan ALT/ huyết thanh trung bình: 702,20
± 557,04 (UI/ L), độ tăng trung bình so với giới
hạn trên bình thường: 17,55 ± 13,92 (lần), giới
58
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
hạn: 60- 1840 UI/L.
5/15 bệnh nhân (33,3%) có phơi nhiễm hoặc
nghi ngờ có phơi nhiễm HCV trong 4 tháng trước đó.
3/15 bệnh nhân (20%) có tình trạng chuyển huyết
thanh từ âm tính thành dương tính của anti-HCV.
1/15 bệnh nhân vừa có phơi nhiễm HCV vừa có tình
trạng chuyển huyết thanh. Trong các bệnh nhân thoả
1 trong 2 điều kiện nói trên, tuyệt đại đa số có men
gan tăng < 10 lần giới hạn trên bình thường (60 –
207 UI/L).
9/15 bệnh nhân (60%) chỉ thoả điều kiện 3 tức là
có men gan > 10 lần giới hạn trên bình thường (407
– 1548 UI/L) trong khi trước đó bệnh nhân không có
biểu hiện gì về bệnh lý gan mật.
Nguồn lây nhiễm chính là do tiêm chích ma túy
(80%) và do phẩu thuật (20%).
Thời gian trung bình từ khi chẩn đoán đến khi
bắt đầu điều trị là 3,8 ± 2,9 (tháng)
Đáp ứng siêu vi
Sau 6 tháng điều trị, 13/15 bệnh nhân (86,6%) có
HCV-RNA chuyển âm tính. Sau khi kết thúc quá
trình điều trị, 14/15 bệnh nhân (chiếm tỷ lệ 93,3%)
có HCV–RNA chuyển âm tính. Bệnh nhân còn lại
vẫn còn HCV-RNA dương tính trong suốt quá trình
điều trị 12 tháng. Tiếp tục theo dõi 6 tháng sau khi
ngưng điều trị, chúng tôi nhận thấy 14/15 bệnh nhân
này vẫn còn có HCV–RNA âm tính. Như vậy, tỷ lệ
bệnh nhân có đáp ứng lâu dài là 93,3%.
Chúng tôi không ghi nhận có trường hợp nào tái
phát vào thời điểm 6 tháng sau khi kết thúc điều trị.
Chúng tôi cũng không ghi nhận có mối tương
quan nào giữa tỷ lệ đáp ứng siêu vi lâu dài với tình
trạng vàng da, vàng mắt trước điều trị.
Đáp ứng sinh hóa
Nồng độ ALT trong huyết thanh giảm nhanh
chóng khi bắt đầu điều trị và trở về giới hạn bình
thường sau 2 tháng điều trị. Tình trạng này được duy
trì trong suốt quá trình điều trị ngoại trừ 1 bệnh nhân
có men gan ALT tăng trở lại vào tháng thứ 4. Sau khi
kết thúc quá trình điều trị, chúng tôi ghi nhận có
14/15 bệnh nhân (chiếm tỷ lệ 93,3%) có nồng độ ALT
trở về giới hạn bình thường. Tiếp tục theo dõi 6 tháng
sau khi ngưng điều trị, tất cả các bệnh nhân đều có
nồng độ ALT nằm trong giới hạn bình thường, kể cả
bệnh nhân còn HCV-RNA dương tính sau khi kết
thúc điều trị.
Tác dụng phụ của công thức điều trị
phối hợp interferon & ribavirin
Tất cả bệnh nhân đều dung nạp tốt công thức
điều trị phối hợp interferon & ribavirin. Chúng tôi
không ghi nhận có trường hợp nào phải ngưng điều
trị do tác dụng phụ nghiêm trọng của thuốc cũng
như không có trường hợp nào phải giảm liều. Ngoài
ra, không có trường hợp nào diễn tiến sang suy gan
tối cấp trong quá trình điều trị. Các tác dụng phụ
được ghi nhận trong nghiên cứu này cũng tương tự
như các tác dụng phụ đã được báo cáo trong các
nghiên cứu trước đây khi sử dụng công thức điều trị
phối hợp(7). Các tác dụng thường gặp là thiếu máu,
giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, hội chứng giả cúm,
rụng tóc, mệt, chán ăn, mất ngủ. Số lượng hồng cầu
giảm nhanh trong 1-2 tháng đầu tiên và sau đó tương
đối ổn định trong suốt quá trình điều trị. Khi kết thúc
điều trị, số lượng hồng cầu bắt đầu tăng dần lên trở lại
và 6 tháng sau đã trở về mức như trước khi điều trị.
Số lượng bạch cầu cũng giảm nhanh trong 1-2
tháng đầu và có khuynh hướng tiếp tục giảm trong
quá trình điều trị. Sau đó bạch cầu tăng dần lên trở lại
nhưng chậm trở về mức như trước khi điều trị.
Số lượng tiểu cầu cũng giảm nhưng giá trị trung
bình vẫn nằm trong giới hạn bình thường.
BÀN LUẬN
Viêm gan siêu vi tại Việt Nam chủ yếu là viêm
gan siêu vi B, tỷ lệ thải trừ siêu vi tự nhiên cao, do đó
không đặt ra vấn đề điều trị đặc hiệu trong giai đoạn
cấp. Ngược lại, nhiễm siêu vi viêm gan C thường diễn
tiến mạn tính, kèm theo đó là những biến chứng lâu
dài nguy hiểm như xơ gan, ung thư gan trong khi tỷ
lệ lành tự nhiên mặc dầu có nhưng thấp. Do đó việc
điều trị đặc hiệu viêm gan siêu vi C trong giai đoạn
cấp là một vấn đề cần được đặt ra nhằm ngăn ngừa
59
Một vấn đề thứ 2 được đặt ra là nên điều trị vào
lúc nào: điều trị ngay khi chẩn đoán bệnh nhân bị
viêm gan siêu vi C cấp hay nên chờ xem bệnh nhân
có thải được siêu vi một cách tụ nhiên hay không.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các bệnh nhân
không được điều trị ngay khi chẩn đoán mà thường
chờ một thời gian sau mới tiến hành điều trị. Thới
gian từ khi chẩn đoán đến khi điều trị trung bình là
3,8 tháng (1- 6,7 tháng). Lý do mà chúng tôi không
tiến hành điều trị ngay là để chờ tình trạng viêm gan
giảm bớt (phần lớn bệnh nhân chúng tôi có men gan
tăng rất cao) và chờ xem bệnh nhân có tình trạng
chuyển HCV-RNA hay không. Tỷ lệ chuyển âm tính
HCV-RNA sau khi điều trị rất cao (93,3%) trong
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc chờ một thời
gian chứ không điều trị ngay có lẽ là một giải pháp
đúng đắn vì vừa không ảnh hưởng đến hiệu quả điều
trị vừa tránh được những tác dụng phụ do thuốc,
tránh được những tốn kém tiền thuốc trên những
bệnh nhân chuyển HCV-RNA một cách tự nhiên.
Trường hợp duy nhất điều trị thất bại trong nghiên
cứu của chúng tôi là một bệnh nhân nam, 20 tuổi,
không vàng mắt vàng da, có men gan ALT tăng gấp
10 lần giới hạn trên bình thường, và thới gian từ khi
chẩn đoán đến khi điều trị là 6,5 tháng. Bệnh nhân
được điều trị công thức phối hợp IFN+RIB trong 12
tháng nhưng HCV-RNA vẫn dương tính trong suốt
quá trình điều trị. Trường hợp này đặt ra câu hỏi liệu
có phải do chờ đợi quá lâu (6,5 tháng) nên bệnh đã
chuyển sang mạn tính, do đó hiệu quả điều trị không
cao. Như vậy một vấn đề chưa có lời giải là nên đợi
bao lâu là hợp lý trong điều trị viêm gan siêu vi C cấp,
và điều này đòi hòi cần có những nghiên cứu sâu
rộng hơn trong tương lai. Theo các nghiên cứu của
nước ngoài(2), thời gian chờ đợi này có lẽ là khoảng 3
tháng. Tóm lại, khi đã chẩn đoán viêm gan siêu vi C
cấp thì nên điều trị, và nên chờ đợi một thời gian
trước khi tiến hành điều trị chứ không nên điều trị
ngay cũng như đừng chờ quá lâu khiến cho bệnh
diễn tiến sang mạn tính.
Một vấn đề thứ 3 được đặt ra là nên dùng phác đồ
điều trị nào và thời gian điều trị là bao lâu. Nghiên
cứu của Jaeckel chỉ sử dụng interferon alpha-2b đơn
thuần nhưng với liều cao 5 triệu UI tiêm mỗi ngày
60
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
KẾT LUẬN
Điều trị viêm gan siêu vi C cấp với công thức
phối hợp interferon+ribavirin cho phép ngăn ngừa
diễn tiến sang mạn tính trong tuyệt đại đa số các
trường hợp. Đây là một kết quả rất đáng khích lệ, vì
dù có trừ bớt đi tỷ lệ thải trừ siêu vi tự nhiên (15-
30%)(5) thì kết quả này vẫn rất tốt nếu so với tỷ lệ
thành công trong điều trị viêm gan siêu vi C mạn
tính. Việc chờ đợi vài tháng để xem bệnh nhân có
thải được siêu vi một cách tự nhiên hay không trước
khi điều trị là một giải pháp hợp lý giúp tránh được
những trường hợp không cần thiết phải điều trị. Tuy
nhiên, thời gian chờ đợi bao lâu là hợp lý cũng như
nên áp dụng phác đồ nào và trong thời gian bao lâu
vẫn chưa xác định được một cách chính xác, đòi hỏi
phải có nhiều nghiên cứu hơn nữa trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Gerlach JT, Diepolder HM, Zachoval R, Gruener NH,
Jung MC, Ulsenheimer A, Schraut WW, Schirren CA,
Waechtler M, Backmund M, Pape GR, Acute hepatitis
C: high rate of both spontaneous and treatment-
induced viral clearance, Gastroenterology
2003;125:80-88.
2 Gordon SC, New insights into acute hepatitis C,
Gastroenterology 2003;125:253-256.
Jaeckel E, Cornberg M, Wedemeyer H, et al,
Treatment of acute hepatitis C with interferon alfa-2b,
N Engl J Med 2001;345:1452-1457.
3
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, nghiên cứu
của chúng tôi bị giới hạn bởi những điểm sau:
Jaeckel E, Gerlach JT, Gordon SC, Acute hepatitis C
infection: to treat or not to treat ?, Gastroenterology
2004;126:1219-1220.
4
Nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu mô tả,
kết quả phân tích dựa trên phác đồ (per protocol)
trong khi các nghiên cứu nước ngoài là theo ý định
điều trị (intention to treat), do đó khó so sánh chính
xác giữa các nghiên cứu với nhau.
5 National Institutes of Health Consensus Development
Conference Statement: Management of Hepatitis C:
2002. June 10–12, 2002. Hepatology 2002;36:S3-S20.
6 Orland JR, Wright TL, Cooper S, Acute hepatitis C,
Hepatology 2001;33:321-327.
7 Poynard T, Yuen MF, Ratziu V, Lai CL, Viral hepatitis
C, The Lancet 2003;362:2095-2100.
Cở mẫu trong nghiên cứu chúng tôi còn hạn chế,
thời điểm tiến hành điều trị cũng như thời gian điều
trị chưa thống nhất nên khó đánh giá các kết quả.
61
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_tri_viem_gan_sieu_vi_c_cap_tinh_voi_cong_thuc_phoi_hop.pdf