Tài liệu Điều trị phẫu thuật gãy chỏm quay mason III bằng kim kirschner: Một chọn lựa kinh tế: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 125
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT GÃY CHỎM QUAY MASON III
BẰNG KIM KIRSCHNER: MỘT CHỌN LỰA KINH TẾ
Nguyễn Tấn Luật* Đỗ Phước Hùng**
TÓM TẮT
Mở đầu: Điều trị gãy chỏm quay Mason III bao gồm lấy bỏ chỏm quay, thay chỏm quay nhân tạo hoặc kết
hợp xương bên trong.
Mục tiêu: Đánh giá sự phục hồi giải phẫu và chức năng, cũng như các biến chứng gặp phải của phương
pháp kết hợp xương chỏm quay Mason III sử dụng kim Kirschner.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III được phẫu thuật kết
hợp xương bằng kim Kirschner tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP. Hồ Chí Minh từ tháng 01/2016 đến
tháng 12/2017. Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả: 33 bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Có 18 bệnh nhân nữ và 15 bệnh nhân nam với tuổi trung bình
là 40. Có 23 bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III và 10 trường hợp gãy chỏm quay Mason III kèm trật khớp
khuỷu. Thời điểm...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị phẫu thuật gãy chỏm quay mason III bằng kim kirschner: Một chọn lựa kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 125
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT GÃY CHỎM QUAY MASON III
BẰNG KIM KIRSCHNER: MỘT CHỌN LỰA KINH TẾ
Nguyễn Tấn Luật* Đỗ Phước Hùng**
TÓM TẮT
Mở đầu: Điều trị gãy chỏm quay Mason III bao gồm lấy bỏ chỏm quay, thay chỏm quay nhân tạo hoặc kết
hợp xương bên trong.
Mục tiêu: Đánh giá sự phục hồi giải phẫu và chức năng, cũng như các biến chứng gặp phải của phương
pháp kết hợp xương chỏm quay Mason III sử dụng kim Kirschner.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III được phẫu thuật kết
hợp xương bằng kim Kirschner tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP. Hồ Chí Minh từ tháng 01/2016 đến
tháng 12/2017. Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả: 33 bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Có 18 bệnh nhân nữ và 15 bệnh nhân nam với tuổi trung bình
là 40. Có 23 bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III và 10 trường hợp gãy chỏm quay Mason III kèm trật khớp
khuỷu. Thời điểm đánh giá trung bình là 11,6 tháng. Tỉ lệ liền xương là 81,8%. Tầm vận động trung bình khớp
khuỷu đạt 1350 gấp, duỗi 90, sấp 650 và ngửa 830. Kết quả chức năng theo thang điểm Broberg và Morrey: 19
trường hợp rất tốt, 12 tốt, 2 trung bình. Chạy kim Kirschner là biến chứng thường gặp nhất (21,2%).
Kết luận: Phẫu thuật kết hợp xương sử dụng kim Kirschner hiệu quả cho những trường hợp gãy chỏm
quay Mason III, giúp hạn chế việc lấy bỏ chỏm quay.
Từ khóa: Chỏm quay, gãy xương, nhiều mảnh, kết hợp xương, kim Kirschner
ABSTRACT
OPEN REDUCTION AND INTERNAL FIXATION OF MASON TYPE-III RADIAL HEAD FRACTURES
USING KIRSCHNER WIRES: AN ECONOMICAL CHOICE
Nguyen Tan Luat, Do Phuoc Hung
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 125-130
Background: Treatment options in radial head fractures of Mason III include radial head resection,
prosthetic replacement or open reduction and internal fixation.
Objective: The purpose of this study was to evaluate the anatomic reduction and functional outcomes,
complications of Mason type-III radial head fractures by open reduction with internal fixation using
Kirschner wires.
Materials and Methods: Retrospective Descriptive cross-sectional study. Mason type-III radial head
fracture patients were treated with open reduction with internal fixation using Kirschner wires at Hospital for
Traumatology and Orthopaedics from 1/2016 to 12/2017.
Results: Thirty-three patients are included. There were 18 women and 15 men with a mean age of 40 years.
Twenty-three fractures were Mason type III, and 10 fractures were Mason type III with elbow dislocation. The
everage length of follow-up was 11.6 months. The union rate was 81.8%. The mean range of motion at the elbow
joint was calculated as 90 extension to 1350 flexion, with 650 pronation and 830 supination. The Broberg and
Morrey elbow score was excellent in 19, good in 12, and fair in 2. The most common complication was migration
of Kirschner wires (21.2%).
*Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình TP. Hồ Chí Minh, ** Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Tấn Luật ĐT: 0966817866 Email: luatnguyen.med@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 126
Conclusion: Open reduction and internal fixation using Kirschner wires is an efficient technique for Mason
type III radial head fractures and radial head resection can be avoided.
Keywords: radial head, fracture, comminuted, internal fixation, Kirschner wires
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chỏm quay tham gia vào 2 trong tổng số 3
khớp vùng khuỷu nên đóng vai trò quan trọng
trong vận động cũng như việc giữ vững khớp
khuỷu. Vì vậy việc điều trị gãy nhiều mảnh
(Mason III) chỏm quay đặt ra thách thức cho
phẫu thuật viên chỉnh hình trong việc phục hồi
giải phẫu chỏm quay cũng như chức năng vùng
khuỷu. Lấy bỏ chỏm quay là giải pháp cho kết
quả bước đầu khá tốt, tuy nhiên có những biến
chứng như mất vững khuỷu, khuỷu vẹo ngoài
hay liệt trụ muộn(3,5). Thay chỏm quay giúp hạn
chế những biến chứng liên quan đến lấy bỏ
chỏm(7). Tuy vậy cũng có những biến chứng liên
quan đến chỏm quay nhân tạo như giới hạn vận
động, thoái hóa khớp cũng như có chi phí cao và
hiện tại không có sẵn tại Việt Nam. Vì vậy phẫu
thuật kết hợp xương để bảo tồn chỏm quay vẫn
được xem là giải pháp phù hợp. Đã có một số tác
giả nước ngoài báo cáo về điều trị gãy chỏm
quay Mason III bằng nẹp vít như Ikeda(4),
Nalbantoglu(11) hay bằng kim Kirschner (hệ
thống FFS: fragment fixation system) như
Koslowsky(9) cho kết quả khá tốt dù cỡ mẫu còn
nhỏ cũng như những hạn chế về khả năng nắn
chỉnh hay giới hạn vận động. Nguyễn Minh
Tùng (12) báo cáo kết quả kết hợp xương chỏm
quay bằng nẹp, vít nhỏ, kim Kirschner với hầu
hết là gãy chỏm quay Mason II (21/34 trường
hợp). Hiện nay, kim Kirschner là dụng cụ kết
hợp xương khá phổ biến tại Việt Nam với chi
phí thấp, dù vậy nghiên cứu của phương pháp
này đối với gãy nhiều mảnh chỏm quay vẫn
chưa có. Kết quả điều trị như thế nào vẫn còn là
câu hỏi.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III đã
được phẫu thuật kết hợp xương bên trong bằng
kim Kirschner tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh
hình TP. Hồ Chí Minh từ tháng 1/2016 đến tháng
12/2017 được ghi nhận. Tất cả đều được phẫu
thuật ít nhất 6 tháng tại thời điểm lấy mẫu.
Những bệnh nhân có gãy xương khác vùng
khuỷu kèm theo, có di chứng hay bệnh lí trước
đó ở chi bị gãy được loại khỏi nghiên cứu.
Bảng 1. Thang điểm chức năng Broberg và Morrey
Mô tả Điểm
Biên độ vận động: Biên độ gấp duỗi khuỷu (0,2 x độ)
Độ sấp cẳng tay (0,1 x độ)
Độ ngửa cẳng tay (0,1 x độ)
27
6
7
Sức cơ: Bình thường
Giảm ít (có nhận biết nhưng không giới hạn hoạt động, khoảng 80% tay lành)
Giảm vừa (giới hạn đến một số hoạt động, khoảng 50% tay lành)
Giảm nhiều (hạn chế hoạt động hằng ngày, mất chức năng)
20
13
5
0
Độ vững: Bình thường
Mất vững nhẹ (nhận biết bởi bệnh nhân, không ảnh hưởng hoạt động)
Mất vững trung bình (ảnh hưởng đến một số hoạt động)
Mất vững nặng (ảnh hưởng đến mọi hoạt động hằng ngày)
5
4
2
0
Đau: Không đau
Đau nhẹ (khi làm việc, không cần dùng thuốc giảm đau)
Đau vừa (đau khi làm việc, buộc phải sử dụng thuốc giảm đau)
Đau nặng (khi nghỉ, cần dùng thuốc liên tục, mất chức năng)
35
28
15
0
Những thông tin từ bệnh nhân và hồ sơ lưu
trữ giúp ghi nhận đặc điểm tổn thương cũng
như những xử trí đã được thực hiện. Bệnh nhân
được chụp X quang khớp khuỷu đúng chuẩn tại
thời điểm lấy mẫu để đánh giá sự liền xương,
các biến chứng như chạy kim, tạo xương lạc chỗ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 127
Bệnh nhân được thăm khám để ghi nhận tầm
vận động gấp – duỗi khuỷu và sấp – ngửa cẳng
tay, góc mang, độ vững dạng, khép và sau ngoài
của khớp khuỷu. Sức nắm bàn tay được đo bằng
máy đo lực kế Jamar. Kết quả chức năng được
xếp thoại theo thang điểm Broberg và Morrey,
với: 95 – 100 điểm, rất tốt; 80 – 94 điểm, tốt; 60 –
79, trung bình; 0 – 59, kém.
KẾT QUẢ
Có 33 bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên
cứu (nữ: 18, nam: 15), thời điểm đánh giá trung
bình 11.6 tháng sau phẫu thuật (6 – 22 tháng).
Hầu hết bệnh nhân gãy chỏm quay từ 3 mảnh
trở lên (57,6%), 7 trường hợp gãy cổ xương quay
kèm theo. Có 10 trường hợp (TH) gãy chỏm
quay kèm theo trật khớp khuỷu, sau khi kết hợp
xương có 2 TH được khâu phục hồi dây chằng
bên ngoài, 2 TH khâu phục hồi dây chằng bên
trong lẫn bên ngoài và 2 TH được xuyên kim
Kirschner đường kính lớn (2,0 – 2,4 mm) cố định
khớp khuỷu tư thế 900. Bệnh nhân sau khi kết
hợp xương bằng kim Kirschner được mang nẹp
bất động trung bình 4,03 tuần (2 – 10 tuần), sau
đó được hướng dẫn tập vật lí trị liệu tại nhà.
Phục hồi giải phẫu
Sự phục hồi mặt khớp đạt được: 27 TH cấp
kênh mặt khớp dưới 1 mm, 5 TH từ 1 – 2 mm, 1
TH trên 2 mm trên phim X quang ngay sau mổ.
Trục cổ - chỏm quay trên mặt phẳng trán trung
bình 60 (2,20 – 170), mặt phẳng đứng dọc 8,50 (30 –
16,10). Có 27 TH liền xương, 6 TH không liền
xương đều là giữa chỏm và cổ xương quay.
Phục hồi chức năng
Tầm vận động gấp đạt được trung bình 1350
(khoảng 1200 – 1500), hạn chế duỗi 90 (khoảng 00
– 250). Tầm vận động sấp và ngửa cẳng tay trung
bình là 650 (400 – 800) và 830 (450 – 1000), tương
ứng. Không có bệnh nhân nào cứng khớp
khuỷu. Sức nắm bàn tay trung bình 31,6 ± 9,4 kg,
giảm 3,27 kg so với tay lành (p=0,001). Góc mang
trung bình 11,70 ± 3,80, tăng so với bên lành 1,760
(p=0,000). Kết quả chức năng đạt được theo
thang điểm Broberg và Morrey: 19 rất tốt, 12 tốt
và 2 trung bình. Quá trình tập vật lí trị liệu sau
mổ là yếu tố có liên quan đến kết quả phục hồi
chức năng (p=0,034). Tất cả bệnh nhân đều quay
trở lại công việc trước đó.
Biến chứng
Biến chứng chạy kim xảy ra ở 7 trường hợp,
tổng cộng 11 trên 125 được sử dụng bị chạy
(8%). Những bệnh nhân này phải tháo kim bị
chạy sau đó. Có 4 TH mất vững dạng khớp
khuỷu mức độ nhẹ, tất cả đều có trật khớp
khuỷu kèm theo. Không có trường hợp nào
nhiễm trùng hay tổn thương thần kinh.
BÀN LUẬN
Phục hồi giải phẫu
Sự phục hồi mặt khớp trong nghiên cứu của
chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của
Koslowsky (2007)(8). Ngoài ra, góc cổ – chỏm
quay gần giống với kết quả của Lê Nguyên Bình
đo trên mẫu xương tươi người Việt Nam là 3,410
và 7,580 tương ứng trên mặt phẳng trán và đứng
dọc(10). Tất cả kim Kirschner được dùng đề kết
hợp xương đều là loại có ren ở phần đầu xa,
đường kính nhỏ từ 1,0 đến 1,25mm, có thể gắn
trực tiếp vào mảnh gãy bằng máy khoan, chiều
dài tùy chỉnh. Phẫu thuật viên có thể chỉnh
hướng, chiều dài kim. Điều này giúp giữ các
mảnh gãy nhỏ và hạn chế sự di lệch các mảnh
gãy giữa lúc khoan và bắt vít.
Trong nghiên cứu cứu của chúng tôi tất cả
các trường hợp đều được xuyên ít nhất 2 kim
Kirschner chéo từ chỏm xuống thân xương,
tương tự với kỹ thuật của Koslowsky(9). Tuy
nhiên có 5/33 TH kim chéo này không đi qua
được vùng vỏ xương cứng và chỉ có 1 TH trong
số này liền xương. Khớp khuỷu ngoài vận động
bản lề còn có vận động xoay, vì vậy cần đảm bảo
độ vững giữa chỏm với thân xương quay. Để đạt
được điều này, Ikeda đã sử dụng 2 nẹp chữ T
với trên tất cả bệnh nhân gãy nhiều mảnh chỏm
quay(4). Tuy nhiên nghiên cứu thực nghiệm cho
thấy khả năng chịu lực của nẹp vít kém hơn 2
lần so với kim Kirschner hay vit nhỏ(8). Như vậy
cần tối thiểu hai kim xuyên chéo để giữ chỏm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 128
với thân xương và phải xuyên vào vùng vỏ
xương cứng để đủ vững. Có thể thấy kết hợp
xương bằng kim Kirschner phục hồi hầu hết các di
lệch nhưng độ vững còn phụ thuộc vào mức độ
phức tạp của mảnh gãy và kĩ thuật kết hợp xương.
Hình 1 Bệnh nhân nam 39 tuổi chỏm quay gãy 4 mảnh, được kết hợp xương bằng kim Kirschner (a,b.); Bệnh
nhân nam không liền xương, 2 kim Kirschner từ chỏm xuống thân bị chạy (c)
Tỉ lệ liền xương đạt được là 81,8%. Có nhiều
nguyên nhân được đưa ra để giải thích cho sự
không liền xương sau khi gãy chỏm quay (6, 13).
Nguồn cung cấp máu cho chỏm quay bị cắt đứt
lúc chấn thương được xem là nguyên nhân
chính. Ngoài ra, bóc tách quá nhiều làm mất
nguồn cung cấp máu cho mảnh gãy, phương
pháp kết hợp xương không tốt hay tập vận động
quá sớm trong khi cố định không đủ vững chắc
cũng có thể gây ra không liền xương.
Cả 6 TH không có sự liền xương đều giữa
chỏm và thân xương, 3/6 TH này có sự di lệch
thứ phát giữa chỏm và thân xương. Ngoài ra, 5/6
TH có gãy cổ xương quay kèm theo, 4/6 trường
hợp còn khoảng trống hơn 2 mm giữa chỏm và
thân xương quay trên phim X quang sau mổ,
không có trường hợp nào được ghép xương
trong lúc phẫu thuật. Trái lại các tác giả khác chủ
động ghép xương xốp cho các trường hợp gãy
nhiều mảnh (Ikeda 10/10 TH, Nalbantaglu 4/25
TH)(4,11). Vì vậy theo chúng tôi cần đảm bảo
vững chắc giữa chỏm và thân xương và ghép
xương nên được cân nhắc khi có tình trạng gãy
lún chỏm quay hay vùng cổ xương quay.
Phục hồi chức năng
Ikeda báo cáo 10 trường hợp gãy chỏm quay
Mason III được kết hợp xương bên trong bằng
nẹp nhỏ chữ T, với điểm chức năng trung bình
91, tầm vận động khớp khuỷu là 70 duỗi đến 1350
gấp, 740 sấp và 850 ngửa. Nalbantoglu với 25
bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III, trong đó
có 7 ca trật khớp khuỷu kèm theo được kết hợp
xương bên trong bằng nẹp nhỏ và vít nhỏ. Điểm
chức năng cho nhóm 1 (không trật khớp khuỷu)
và nhóm 2 (có trật khớp khuỷu) lần lượt là 88 và
87. Tầm vận động trung bình là 00 – 50 – 1360 ở
nhóm 1 và 00 – 70 – 1330 ở nhóm 2. Tầm vận động
sấp – ngửa cẳng tay trung bình 670 và 740 cho cả
2 nhóm. Koslowsky dùng hệ thống FFS trên 23
bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III gồm 12 ca
không trật khớp khuỷu (nhóm 1) và 11 ca có trật
khớp khuỷu (nhóm 2). Tầm vận động gấp – duỗi
khuỷu trung bình 00 – 50 – 1300 ở cả 2 nhóm, sấp
– ngửa là 850 – 00 – 850 và 850 – 00 – 700 tương ứng
với nhóm 1 và 2. Điểm chức năng trung bình là
97 cho cả 2 nhóm.
Tầm vận động khớp khuỷu trong nghiên
cứu của chúng tôi trung bình 90 duỗi và 135,20
gấp, trung bình 650 sấp và 82,30 ngửa, điểm chức
năng trung bình 94,6 điểm. Kết quả này cũng
tương đồng với các nghiên cứu của những tác
giả trên.
Kết quả trong nghiên cứu lấy bỏ chỏm quay
của Đỗ Hồng Phúc cho thấy cung gấp – duỗi đạt
76,37% và cung sấp – ngửa đạt 91,92% so với tay
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 129
lành. Tỉ lệ này trong nghiên cứu của chúng tôi là
90,11% và 91,39% tương ứng, có thể thấy việc lấy
bỏ chỏm không giúp cải thiện tầm vận động hơn
so với bảo tồn chỏm quay.
Có 6/33 TH (18,2%) ghi nhận sức cơ giảm
nhẹ. Trong số đó có 5 bệnh nhân nữ (4 TH >50
tuổi, 1 TH 37 tuổi), 1 bệnh nhân nam không liền
xương đã được lấy bỏ chỏm quay. Sức nắm bàn
tay bên bệnh giảm trung bình 3,3 kg so với bên
lành, tương đương 10,4% (p = 0,001), không có
bệnh nhân nào cảm thấy trở ngại trong công việc
và sinh hoạt. Các báo cáo của nhiều tác giả đều
ghi nhận không có tỉ lệ nhất định về sức nắm
bàn tay giữa tay thuận và không thuận, cũng
như phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như giới,
tay thuận là phải hay trái(1). Tỉ lệ này trong
nghiên cứu trên những bệnh nhân được lấy bỏ
chỏm quay của Đỗ Hồng Phúc là 20%(3), Antuna
là 16%(1). Như vậy so với lấy bỏ chỏm quay, bảo
tồn chỏm giúp giảm ảnh hưởng lên sức cơ và
sức nắm bàn tay.
Chúng tôi ghi nhận có 19 TH rất tốt, 12 TH
tốt, 2 TH kết quả trung bình. Trong đó có một
bệnh nhân 76 tuổi, gãy chỏm quay kèm trật
khớp khuỷu, liền xương nhưng có sức cơ giảm,
cảm thấy đau nhẹ khi làm việc. Trường hợp còn
lại đau mức độ trung bình, tăng khi làm việc, đôi
khi phải sử dụng thuốc giảm đau. Khi so sánh
kết quả với các nghiên cứu về gãy nhiều mảnh
chỏm quay, tỉ lệ rất tốt và tốt của nghiên cứu này
đạt 93,9%, cao hơn Ikeda (90%)(4), Koslowsky
(87%)(9), Đỗ Hồng Phúc (90,1%)(3). Kết quả này có
thể do bảng đánh giá chủ yếu tập trung vào biên
độ vận động và tình trạng đau, 2 tiêu chí nghiên
cứu này đạt kết quả rất tốt.
Biến chứng
Một trong những biến chứng hay gặp của
kết hợp xương bằng kim Kirschner là sự di lệch
kim khỏi vị trí ban đầu. Koslowsky ghi nhận
2/23 TH chạy một phần kim phải phẫu thuật
tháo dụng cụ, tất cả đều liền xương(9). Con số đó
của chúng tôi là 7/33 TH (21,2%), tổng số kim bị
chạy là 11/125 kim (8%). Có 2/7 TH này không
liền xương, mà một trong số đó phải lấy bỏ
chỏm quay sau 3 tháng, trường hợp còn lại chạy
cả 2 kim xuyên từ chỏm xuống thân gây di lệch
thứ phát cả khối chỏm quay. Mặc dù không có
tổn thương nghiêm trọng như mạch máu, thần
kinh do kim chạy gây ra tuy nhiên cũng có 2
bệnh nhân có kim chạy đâm ra da phải mổ lấy
những kim này trước khi tháo dụng cụ. Tất cả
kim Kirschner được sử dụng là loại có ren nhằm
tăng khả năng kết dính với xương, dù vậy vẫn
có khả năng kim bị chạy sau đó. Chúng tôi cho
rằng có thể hạn chế kim Kirschner bị chạy nếu
thực hiện đúng kĩ thuật xuyên kim, kim chéo giữ
chỏm vào thân xương được xuyên vào vỏ cứng
và kim ngang giữ các mảnh chỏm quay phải đủ
vững, hạn chế số lần xuyên tránh mất xương.
Có 4 trường hợp (12,1%) mất vững dạng, tất
cả đều có trật khớp khuỷu trước đó. Trong đó có
2 TH đã được khâu phục hồi dây chằng bên
trong và bên ngoài, 2 TH không được khâu phục
hồi dây chằng. Các tác giả Ikeda(4),
Nalbaltoglu(11) đều khâu phục hồi dây chằng bên
trong, bên ngoài hay sử dụng bất động ngoài
Orthofix (Koslowsky(9)) cho tất cả các trường
hợp có tổn thương(9) và không ghi nhận mất
vững sau đó. Trong khi đó Đỗ Hồng Phúc ghi
nhận có đến 78,8% các trường hợp có mất vững
khuỷu ở mức độ từ nhẹ đến nặng sau khi lấy bỏ
chỏm quay ở những bệnh nhân gãy nhiều mảnh
mà không có trật khớp(3). Như vây bên cạnh bảo
tồn chỏm quay cần phục hồi tổn thương dây
chằng để cải thiện kết quả điều trị.
KẾT LUẬN
Gãy chỏm quay Mason III có thể được nắn
chỉnh và phục hồi giải phẫu mặt khớp và trục cổ
– chỏm về vị trí di lệch chấp nhận được với tỉ lệ
liền xương khá cao. Gãy lún mất xương hay gãy
cổ chỏm quay kèm theo cộng với sự cố định
không đủ vững giữa chỏm và thân xương là
những yếu tố ảnh hưởng đến sự liền xương.
Mặc dù kết hợp xương chỏm quay bằng kim
Kirschner là loại không vững và cần có một thời
gian bất động sau mổ nhưng kết quả phục hồi
tầm vận động gấp duỗi khuỷu và sấp ngửa cẳng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 130
tay gần như hoàn toàn. Quá trình tập vật lí trị
liệu sau phẫu thuật là yếu tố có ảnh hưởng đến
kết quả phục hồi chức năng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Antuna SA, Sanchez-Marquez JM, and Barco R (2010). Long-
term results of radial head resection following isolated radial
head fractures in patients younger than forty years old. J Bone
Joint Surg Am, 92(3): pp. 558-66.
2. Bohannon RW (2003). Grip strength: a summary of studies
comparing dominant and nondominant limb measurements.
Percept Mot Skills, 96(3 Pt 1): pp. 728-30.
3. Đỗ Hồng Phúc (2012). Đánh giá kết quả điều trị gãy nát chỏm
quay ở người lớn bằng phẫu thuật lấy bỏ chỏm. Luận văn thạc
sĩ. Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
4. Ikeda M, Mamashina Y, Kamimoto M, Oka Y (2003). Open
reduction and internal fixation of comminuted fractures of the
radial head using low-profile mini-plates. The Journal of Bone
and Joint Surgery. British volume, 85-B(7): pp. 1040-1044.
5. Jordan RW and Jones ADR. (2017). Radial Head Fractures. The
Open Orthopaedics Journal, 11: pp. 1405-1416.
6. Kang HJ, Shin SJ, and Kang SS (2012). Nonunion of the radial
neck following operative treatment for displaced radial head
and neck fractures. Acta Orthop Belgm 78(5): pp. 597-602.
7. Kodde IF, Kaas L, Flipsen M, van den Bekerom MP, et al.
(2015). Current concepts in the management of radial head
fractures. World Journal of Orthopedics, 6(11): pp. 954-960.
8. Koslowsky TC, Mader K, Dargel J, Koebke J (2007).
Reconstruction of a Mason type-III fracture of the radial head
using four different fixation techniques. J Bone Joint Surg Br,
89(11): pp. 1545-1550.
9. Koslowsky TC, Mader K, Gausepohl T, Pennig D (2007).
Reconstruction of Mason type-III and type-IV radial head
fractures with a new fixation device: 23 patients followed 1–4
years. Acta Orthopaedica, 78(1): pp. 151-156.
10. Lê Nguyên Bình (2017). Khảo sát đặc điểm giải phẫu ứng
dụng chỏm xương quay. Luận văn Bác sĩ nội trú. Đại học Y
Dược TP. Hồ Chí Minh.
11. Nalbantoglu U, Kocaoglu B, Gereli A, Aktas S (2007). Open
reduction and internal fixation of Mason type III radial head
fractures with and without an associated elbow dislocation. J
Hand Surg Am, 32(10): pp. 1560-8.
12. Nguyễn Minh Tùng (2014). Đặc điểm tổn thương và kết quả
phẫu thuật gãy kín chỏm xương quay do chấn thương tại
bệnh viện 103. Tạp chí Y Học Thực Hành, 1: pp. 40-45.
13. Yamaguchi K, Sweet FA, Bindra R, Morrey BF, et al. (1997).
The extraosseous and intraosseous arterial anatomy of the
adult elbow. J Bone Joint Surg Am, 79(11): pp. 1653-62
Ngày nhận bài báo: 8/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_tri_phau_thuat_gay_chom_quay_mason_iii_bang_kim_kirschn.pdf