Tài liệu Điều trị lạm dụng chất gây nghiện cho người nhiễm HIV / AIDS: Điều Trị Lạm Dụng Chất Gây Nghiện
Cho Người Nhiễm HIV/AIDS
Tiến sĩ Y Khoa Steven L.Batki
Chủ tịch Hội đồng thuận
Tiến sĩ Y Khoa, Thạc sĩ Y tế Cộng Đồng Peter A.Selwyn
Đồng chủ tịch Hội đồng thuận
Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ
Dịch vụ y tế công cộng
Cơ quan Quản lý Lạm dụng Chất gây nghiện và Sức khỏe Tâm thần (SAMHSA)
Trung Tâm Điều trị Lạm dụng Chất gây nghiện (CSAT)
Rockwall II, 5600 Fishers Lane
Rockville, MD 20857
Ấn phẩm số (SMA) 00-3410
Xuất bản năm 2000
Phác Đồ
Cải Thiện
Điều Trị
TIP
37
Lời cảm ơn
Cuốn tài liệu này là kết quả của sự nỗ lực hợp tác giữa Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC)
và Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM. Chúng tôi mong muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các
chuyên gia trong lĩnh vực Điều trị nghiện và các đồng nghiệp đã góp sức giúp hoàn thành tài liệu.
Chúng tôi đặc biệt đánh giá cao sự đóng góp của Tiến sĩ Kevin P.Mulvey, Cố vấn cao cấp về Điều
trị Lạm dụng Ma túy của PEPFAR và ông Peter Mahomet, Cán bộ cao cấp củ...
354 trang |
Chia sẻ: khanh88 | Lượt xem: 903 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Điều trị lạm dụng chất gây nghiện cho người nhiễm HIV / AIDS, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Điều Trị Lạm Dụng Chất Gây Nghiện
Cho Người Nhiễm HIV/AIDS
Tiến sĩ Y Khoa Steven L.Batki
Chủ tịch Hội đồng thuận
Tiến sĩ Y Khoa, Thạc sĩ Y tế Cộng Đồng Peter A.Selwyn
Đồng chủ tịch Hội đồng thuận
Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ
Dịch vụ y tế công cộng
Cơ quan Quản lý Lạm dụng Chất gây nghiện và Sức khỏe Tâm thần (SAMHSA)
Trung Tâm Điều trị Lạm dụng Chất gây nghiện (CSAT)
Rockwall II, 5600 Fishers Lane
Rockville, MD 20857
Ấn phẩm số (SMA) 00-3410
Xuất bản năm 2000
Phác Đồ
Cải Thiện
Điều Trị
TIP
37
Lời cảm ơn
Cuốn tài liệu này là kết quả của sự nỗ lực hợp tác giữa Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC)
và Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM. Chúng tôi mong muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các
chuyên gia trong lĩnh vực Điều trị nghiện và các đồng nghiệp đã góp sức giúp hoàn thành tài liệu.
Chúng tôi đặc biệt đánh giá cao sự đóng góp của Tiến sĩ Kevin P.Mulvey, Cố vấn cao cấp về Điều
trị Lạm dụng Ma túy của PEPFAR và ông Peter Mahomet, Cán bộ cao cấp của CDC tại Việt Nam.
Chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn tới tổ chức PEPFAR, CDC đã hỗ trợ Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM
về tài chính và kỹ thuật cho việc thực hiện phát triển tài liệu này tại Việt Nam. Chúng tôi cũng gửi
lời cảm ơn tới Văn phòng Quản lý các dịch vụ Y tế và Lạm dụng Ma túy của Chính phủ Hoa Kỳ
(SAMHSA) đã cho phép chúng tôi được dịch và xuất bản tài liệu này tại Việt Nam.
Bộ tài liệu này do Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM thực hiện dưới sự chỉ đạo của TS.BS.Lê Trường
Giang, Phó Chủ tịch Thường trực, Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM. Chúng tôi gửi lời cảm ơn tới:
Chị Vũ Thị Tường Vi, Chị Nguyễn Thị Thúy Ngà và các thành viên Phòng hỗ trợ Điều trị Nghiện &
Tái hòa nhập cộng đồng, Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM đã đóng góp ý kiến, hỗ trợ trong quá
trình thực hiện.
Trong quá trình biên dịch và xuất bản sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn.
Mọi ý kiến của quý vị xin vui lòng gửi về:
Ủy Ban Phòng Chống AIDS TP.HCM
121 Lý Chính Thắng, Phường 7, Quận 3, TP.HCM.
Điện thoại: (08).39.309.309 Fax: (08).39.309.090
E-mail: pachcmc@mail.saigonnet.vn
iv
Từ chối trách nhiệm
Việc xuất bản ấn phẩm này là một phần trong
Chương trình Hỗ trợ Kỹ thuật Phòng chống và
Điều trị Lạm dụng các Chất Gây nghiện. Ngoại
trừ một số tư liệu được trích dẫn trực tiếp từ
các nguồn tài liệu có bản quyền thì tất cả tài
liệu trong tập sách này đều thuộc lĩnh vực công
cộng và được phép tái xuất bản hoặc sao chép
mà không cần sự cho phép của Trung Tâm Điều
trị Lạm dụng Chất gây nghiện (CSAT) trực thuộc
Cơ quan Quản lý Lạm dụng Chất gây nghiện và
Sức khỏe Tâm thần (SAMHSA) và của tác giả. Tuy
nhiên nên trích dẫn nguồn gốc tài liệu.
Loạt ấn phẩm này được thực hiện theo hợp đồng
số 270-95-0013 với The CDM Group, Inc. (CDM).
Sandra Clunies, M.S., I.C.A.D.C., nhân viên dự
án chính phủ của CSAT; Warren W. Hewitt, Jr.,
M.S., Cố vấn nội dung của CSAT; Rose M. Urban,
L.C.S.W., J.D., C.C.A.S., Giám đốc dự án TIPs của
CDM. Và các thành viên khác của dự án TIPs của
CDM gồm Raquel Ingraham, M.S., quản lý dự án;
Jonathan Max Gilbert, M.A., biên tập viên quản lý;
Susan Kimner, biên tập viên/ tác giả; Cara Smith,
biên tập viên xuất bản; Erica Flick- trợ lý biên tập;
và Y-Lang Nguyen, cựu biên tập viên xuất bản.
Những quan điểm thể hiện trong tài liệu này là
quan điểm của các thành viên Hội đồng thuận và
không phản ánh quan điểm chính thức của CSAT,
SAMHSA, hoặc Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa
Kỳ (DHHS). CSAT, SAMHSA hay HHS không ủng
hộ hay xác nhận chính thức những quan điểm
hoặc những thiết bị cụ thể hoặc phần mềm được
mô tả trong tài liệu này. Không nên xem những
hướng dẫn được khuyến nghị trong tài liệu này
là phương pháp thay thế cho những quyết định
điều trị và chăm sóc đặc hiệu cho bệnh nhân.
vLời cảm ơn .............................................................................................................iii
Phác đồ cải thiện điều trị (TIP) là gì? ..................................................................... ix
Ban Tư vấn Biên tập ............................................................................................... xi
Hội đồng thuận .................................................................................................... xiii
Lời nói đầu .............................................................................................................xv
Tóm tắt và khuyến nghị ........................................................................................xvii
Tóm tắt các khuyến nghị .............................................................................................xix
1 Giới thiệu về HIV/AIDS .......................................................................................1
Tổng quan về HIV/AIDS ..............................................................................................3
Những thay đổi trong Dịch tễ học HIV/AIDS từ năm 1995 ........................................12
2 Hỗ trợ y tế và Điều trị .......................................................................................23
Tuân Thủ Quá Trình Điều Trị .....................................................................................24
Các Rào Cản Trong Việc Chăm Sóc Bệnh Nhân Rối Loạn Lạm Dụng
Chất Gây Nghiện Bị Nhiễm HIV ........................................................................................... 26
Mô Hình Chăm Sóc Tổng Hợp ...................................................................................27
Các Tiêu Chuẩn Chăm Sóc Y Tế .................................................................................31
Các khía cạnh dược lý .................................................................................................44
Phòng ngừa nhiễm trùng cơ hội ..................................................................................60
3 Điều trị sức khỏe tâm thần .................................................................................71
Mối liên hệ với Dịch vụ sức khỏe tâm thần ..................................................................72
Rối loạn tâm thần thường gặp ở những khách hàng bị nhiễm HIV .................................72
Đánh giá và chẩn đoán ................................................................................................77
Điều Trị Dược Lý Cho Bệnh Nhân Rối Loạn Tâm Thần ................................................79
Sức khỏe tâm thần và tư vấn chứng rối loạn do lạm dụng chất gây nghiện ....................... 89
Mục Lục
vi
4 Dự phòng HIV Sơ cấp và Trung cấp ...................................................................93
Đánh giá nguy cơ HIV/AIDS ......................................................................................94
Tư vấn giảm thiểu nguy cơ ..........................................................................................95
Các vấn đề kiểm soát lây nhiễm trong chương trình cai nghiện ...................................102
5 Kết hợp các dịch vụ điều trị ..............................................................................105
Dịch vụ điều trị HIV/AIDS trong điều trị lạm dụng chất gây nghiện ........................105
Vấn đề về chăm sóc kết hợp ......................................................................................106
Các ví dụ về phương pháp điều trị kết hợp ................................................................. 116
6 Tiếp cận và sử dụng các dịch vụ cần thiết ..........................................................121
Lợi ích của việc quản lý trường hợp đối với vấn đề Phối hợp Chăm sóc .....................121
Các Nguồn Hỗ Trợ Cho Người Lạm Dụng Thuốc Bị Nhiễm HIV .............................126
Dịch Vụ Tìm Kiếm Và Tài Trợ ..................................................................................129
Thu nhập và những lo lắng khác về tài chính .............................................................132
Các chương trình lưu trú ...........................................................................................133
Những đề xuất trong tìm kiếm nguồn hỗ trợ .............................................................134
7 Tư vấn cho khách hàng bị các chứng rối loạn lạm dụng
chất gây nghiện và nhiễm HIV .............................................................................135
Đào tạo, thái độ và những vấn đề chung ....................................................................135
Xét nghiệm sàng lọc ..................................................................................................141
HIV/AIDS – Những vấn đề cụ thể về tư vấn cai nghiện .............................................144
Nghiên cứu tình huống ..............................................................................................176
8 Những vấn đề về đạo đức ..................................................................................179
Vấn đề đạo đức đối với người điều trị ........................................................................180
Những nguyên tắc đạo đức căn bản ...........................................................................181
Những vấn đề đạo đức trong khi làm việc với người nghiện nhiễm HIV .....................184
Mô hình đưa ra quyết định đạo đức theo từng bước ...................................................188
Những nguồn khác cho việc giải quyết vấn đề đạo đức ..............................................189
vii
9 Các vấn đề pháp lý ............................................................................................191
Tiếp cận Chương trình điều trị - Các vấn đề Phân biệt đối xử ....................................191
Bảo mật thông tin khách hàng ..................................................................................198
Bảo vệ hồ sơ ..............................................................................................................218
Kết luận.....................................................................................................................218
Các chú thích ............................................................................................................219
10 Gây quỹ và xem xét chính sách .......................................................................221
Những chìa khóa để tìm kiếm quỹ thành công ...........................................................221
Cách nhận diện các nguồn quỹ tiềm năng .................................................................222
Những thay đổi về chính sách của bang và liên bang ...........................................................223
Các Sáng kiến Liên bang ...........................................................................................227
Các sự kiện của bang và địa phương ..........................................................................236
Các nhóm dân cư đặc biệt .........................................................................................236
Thông tin về người viết đơn thuê ...............................................................................237
Các chiến lược để bảo đảm tiếp tục được nhận quỹ ...................................................237
Phụ lục A: Tài liệu tham khảo .............................................................................239
Phụ lục B: Bảng chú giải thuật ngữ .....................................................................273
Phụ lục C: Hệ thống phân loại sửa đổi 1993 về nhiễm HIV và
Trường hợp giám sát AIDS mở rộng đối với thanh thiếu niên và người lớn ..........277
Phân loại tế bào lympho CD4+ T..............................................................................277
Phụ lục D: Công cụ sàng lọc ...............................................................................281
Amsler Grid Test ......................................................................................................282
Phụ lục E: Các Quy tắc Đạo đức mẫu ..................................................................285
Các Quy tắc Đạo đức dành cho các Chương trình điều trị bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS và
mắc các Chứng Rối loạn Lạm dụng Chất gây nghiện .................................................285
Quy tắc Đạo đức dành cho Bác sĩ trị liệu và Tư vấn viên điều trị cho bệnh nhân nhiễm HIV/
AIDS và Mắc các chứng Rối loạn Lạm dụng Chất gây nghiện ...................................288
viii
Phụ lục F: Các trang Web liên quan đến AIDS ....................................................291
Các nguồn thông tin ..................................................................................................291
Các thư viện ..............................................................................................................292
Các trang web cụ thể về aids .....................................................................................292
Các tổ chức về aids ...................................................................................................293
Báo chí y khoa/ aids ..................................................................................................294
Báo, tạp chí ...............................................................................................................295
Các trung tâm thông tin chính phủ và phi chính phủ .................................................295
Bảng chú giải thuật ngữ hiv/aids ..............................................................................296
Chính sách/bào chữa .................................................................................................296
Tiếp cận điều trị/ adap ..............................................................................................296
Bảng liệt kê các thử nghiệm lâm sàng ........................................................................296
Thuốc/các trang web về dược phẩm ..........................................................................297
Trang web y khoa chung ..........................................................................................297
Trang web y khoa đặc biệt .........................................................................................297
Hội nghị ....................................................................................................................298
Quỹ tài trợ .................................................................................................................298
Các trang web khác ...................................................................................................298
Phụ lục G: Các Cơ Quan Y Tế Quốc Gia Và Vùng Lãnh Thổ/
Các Văn Phòng Aids ............................................................................................301
Phụ lục H: Thang Đánh Giá Trạng Thái Tâm Thần Tối Thiểu (MMSE) ..............313
Phụ lục I: Các Chuẩn Mực Chăm Sóc: Phác Đồ Điều Trị/
Đánh Giá Khách Hàng ........................................................................................315
A. ĐÁNH GIÁ KHÁCH HÀNG ................................................................................315
B. PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ ...........................................................................................315
Phụ lục J: Ban hội thẩm nội dung........................................................................319
Phụ lục K: Nhà phê bình .....................................................................................321
ix
Phác đồ cải thiện điều trị
(TIP) là gì?
Phác đồ cải thiện điều trị (TIPs) là những hướng dẫn thực tế nhất cho
việc điều trị lạm dụng chất gây nghiện, một phương pháp hỗ trợ điều trị
của Trung tâm Điều trị Lạm dụng Chất gây nghiện (CSAT) trực thuộc
Cơ quan Quản lý Lạm dụng Chất gây nghiện và Sức khỏe Tâm thần
(SAMHSA). Cơ quan Đánh giá, Phân tích khoa học và Tổng hợp của
CSAT đã đưa những kinh nghiệm và kiến thức về việc điều trị, nghiên cứu
và những ý kiến của các chuyên gia hành chính vào trong loạt tài liệu TIPs
này. Ngày càng nhiều các phương tiện và các cá nhân trên khắp đất nước
nhận loạt tài liệu TIPs này. Độc giả của TIPs đang mở rộng ở mức công
cộng. Các phương tiện điều trị lạm dụng chất gây nghiện cá nhân như là
chứng nghiện rượu và các bệnh lý rối loạn lạm dụng chất gây nghiện khác
ngày càng được nhìn nhận là những vấn đề quan trọng.
Ban Cố vấn biên tập loạt tài liệu TIPs là một nhóm các chuyên gia về lạm
dụng chất gây nghiện và các giáo sư về những lĩnh vực liên quan như chăm
sóc sức khỏe ban đầu, sức khỏe tâm thần và các dịch vụ xã hội, phối hợp
với các Giám đốc Trung tâm Điều trị Lạm dụng Thuốc và Rượu để đưa ra
được những chủ đề cho TIPs dựa trên nhu cầu cần cung cấp thông tin và
hướng dẫn cho lĩnh vực này.
Sau khi chọn được một chủ đề, CSAT sẽ mời những cán bộ của các Cơ
quan liên bang có liên quan và các tổ chức quốc gia tham gia vào một Ban
hội thẩm nội dung. Ban này chịu trách nhiệm đề nghị những lĩnh vực cụ
thể cần tập trung và xem xét nguồn tư liệu để xây dựng nội dung của TIP.
Sau đó, các khuyến nghị này được truyền đạt đến một Hội đồng thuận
gồm các chuyên gia không thuộc biên chế chính quyền liên bang được các
đồng nghiệp của họ đề cử. Hội đồng thuận này sẽ tham gia các cuộc thảo
luận để đạt được một sự nhất trí cao về những thông tin và các khuyến
nghị làm nền tảng cho TIP. Các thành viên của mỗi Hội đồng thuận đại
diện cho các chương trình điều trị lạm dụng chất gây nghiện, bệnh viện,
trung tâm y tế cộng đồng, chương trình tư vấn, cơ quan phúc lợi trẻ em
và tư pháp hình sự, và các bác sĩ tư nhân. Một Hội đồng thuận (hoặc các
xđồng chủ tọa) đảm bảo rằng các hướng dẫn
phản ánh kết quả của sự hợp tác nhóm.
Các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực sẽ đánh giá
cẩn thận bản dự thảo. Khi các chuyên gia thống
nhất những thay đổi trong bản dự thảo, thì TIP
được chuẩn bị để in và xuất bản trực tuyến.
Độc giả có thể xem TIPs bằng cách truy cập
vào trang chủ của Thư viện Y khoa Quốc gia
theo địa chỉ URL: http:// text.nlm.nih.gov. Việc
chuyển sang phương tiện truyền thông điện tử
cũng có nghĩa là TIPs có thể được cập nhật dễ
dàng hơn vì các chuyên gia vẫn tiếp tục cập
nhật những thông tin mới nhất về lĩnh vực này.
Mặc dù mỗi TIP được cố gắng xây dựng kèm
theo một cơ sở bằng chứng cho những hướng
dẫn thực hành được khuyến nghị, nhưng CSAT
thừa nhận rằng lĩnh vực điều trị lạm dụng chất
gây nghiện đang tiến triển và rằng các nghiên
cứu thường đi sau những thay đổi tiên phong
trong lĩnh vực này. Mục tiêu chính của mỗi TIP
là truyền đạt những thông tin quan trọng nhất
một cách nhanh chóng và có trách nhiệm. Vì lý
do này, các khuyến nghị trong TIP là từ kinh
nghiệm lâm sàng của các thành viên Ban hội
thẩm hoặc từ tài liệu. Nếu có nghiên cứu để hỗ
trợ việc tiếp cận cụ thể thì tác giả sẽ cung cấp
nguồn trích dẫn.
Tip về Điều trị Lạm dụng Chất gây nghiện cho
người nhiễm HIV/AIDS là một phiên bản của
TIP 15 về Điều trị Lạm dụng Rượu và các loại
Chất gây nghiện khác cho người nhiễm HIV
(CSAT, 1995b), được thiết kế nhằm mục đích
giúp các nhà cung ứng làm quen với các vấn đề
khác nhau xung quanh khách hàng bao gồm
cả người lạm dụng chất gây nghiện và người
nhiễm vi rút suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
TIP này cũng giúp hiểu rõ hơn về vai trò của
các nhà cung ứng khác.
Chương 1 cung cấp một cái nhìn tổng quan
về HIV/AIDS, gồm các dữ liệu mới nhất về vệ
sinh dịch tễ của Các trung tâm Kiểm soát và
Ngăn ngừa Dịch bệnh.
Chương 2 bàn luận về việc đánh giá y khoa và
điều trị bệnh HIV/AIDS.
Chương 3 nói về việc điều trị bệnh lí rối loạn
tâm thần ở người lạm dụng chất gây nghiện
nhiễm HIV/AIDS.
Chương 4 giải thích về việc can thiệp dự phòng
HIV/AIDS.
Chương 5 cung cấp những thông tin về cách
kết hợp các dịch vụ điều trị thông qua hợp tác
để đáp ứng được nhu cầu của các khách hàng
nhiễm HIV có bệnh lí rối loạn lạm dụng chất
gây nghiện.
Chương 6 thảo luận về trường hợp quản lý và
cách tiếp cận nhu cầu dịch vụ của khách hàng.
Chương 7 cung cấp thông tin tư vấn cho khách
hàng nhiễm HIV/AIDS có bệnh lí rối loạn lạm
dụng chất gây nghiện, gồm thông tin về vấn đề
nhân viên, việc sàng lọc và năng lực văn hóa.
Chương 8 thảo luận về vấn đề đạo đức.
Chương 9 trình bày các vấn đề về pháp lý,
gồm việc bảo mật và sự tiếp cận các dịch vụ và
chương trình của khách hàng.
Chương 10 cung cấp thông tin về nguồn kinh
phí cho các chương trình điều trị khách hàng
nhiễm HIV/AIDS và việc điều trị lạm dụng
chất gây nghiện.
Phần phụ lục cung cấp thêm thông tin về một
số chủ đề và trình bày về Hệ thống phân loại
HIV và AIDS sửa đổi năm 1993, các quy
tắc đạo đức của Liên bang và Nhà nước, các
Website về AIDS, danh sách các Cơ quan y tế
thuộc quốc gia và vùng lãnh thổ và các đường
dây nóng về AIDS.
TIP này còn là một bước đi khác của CSAT
nhằm hướng tới mục tiêu đưa các nhà lãnh đạo
quốc gia lại gần với nhau để cải thiện tình trạng
điều trị lạm dụng chất gây nghiện ở Hoa Kỳ.
Độc giả có thể liên hệ Quỹ Thanh toán Hối
đoái Quốc gia về Thông tin Ma túy và Rượu
thuộc Cơ quan Quản lý Lạm dụng Chất gây
nghiện và Sức khỏe Tâm thần để mua các TIP
khác. Điện thoại liên hệ:(800) 729-6686 hoặc
(301) 468-2600; dành cho người khiếm thính:
(800) 487-4889
xi
Ban Tư vấn Biên tập
Tiến sĩ, Y tá, Mạng lưới Sáng kiến Hành động
Cộng tác, Karen Allen
Giáo sư và Chủ tịch
Khoa Điều dưỡng
Đại học Andrews
Berrien Springs, Bang Michigan
Tiến sĩ Y khoa, Thạc sĩ Y tế Cộng đồng
Richard L. Brown
Phó giáo sư
Khoa Y học gia đình
Trường đại học Y Wisconsin
Madison, Bang Wisconsin
Tiến sĩ Y khoa Dorynne Czechowicz
Phó Giám đốc
Hiệp hội Y khoa
Chi nhánh Nghiên cứu Điều trị
Phòng Nghiên cứu lâm sàng và dịch vụ
Viện Quốc gia về Lạm dụng Ma túy
Thạc sĩ văn chương Linda S. Foley
Nguyên giám đốc
Dự án Đào tạo Chuyên viên Tư vấn Chứng
Nghiện
Hiệp hội quốc gia các Giám đốc Trung tâm
Điều trị Lạm dụng Thuốc và Rượu
Giám đốc
Dự án Thay đổi Việc Cải thiện Điều trị
Thành phố Washington, D.C
Wayde A. Glover, Hệ thống Quản lý Thông
tin, Tư vấn viên Chứng nghiện Cấp Quốc gia
(Cấp độ 2)
Giám đốc
Cộng đồng Chuyên viên Đào tạo và Tư vấn các
Chứng Nghiện
Richmond, Bang Virginia
Tiến sĩ Y khoa Pedro J. Greer
Trợ lý Hiệu trưởng – Ngành Giáo dục người
vô gia cư
Đại học Y Miami
Miami, Bang Florida
Tiến sĩ Y khoa Thomas W. Hester
Nguyên Giám đốc bang
Dịch vụ Lạm dụng Chất gây nghiện
Phòng Sức khỏe Tâm thần, Trí tuệ chậm phát
triển và Lạm dụng Chất gây nghiện
Phòng Nhân sự Georgia
Atlanta, Bang Georgia
Tiến sĩ Tâm lí James G. (Gil) Hill
Giám đốc
Văn phòng Y tế Nông thôn và Lạm dụng Chất
gây nghiện
Hiệp hội Tâm lí Hoa kỳ
Thành phố Washington, D.C
xii
Tiến sĩ Y Khoa, Thạc sĩ Y tế Cộng Đồng
Douglas B. Kamerow
Giám đốc
Trung tâm Đánh giá và Thực hành Công nghệ
Cơ quan Nghiên cứu và Chính sách Chăm sóc
Y tế
Rockville, Bang Maryland
Stephen W. Long
Giám đốc Điều hành
Phòng Phân tích Chính sách
Viện Quốc gia về Chứng nghiện rượu và Lạm
dụng rượu
Rockville, Bang Maryland
Tiến sĩ Richard A. Rawson
Giám đốc điều hành
Trung tâm Ma trận và Viện Ma trận Chứng
Nghiện
Phó Giám đốc, Dịch vụ Y học về Chứng nghiện
Đại học California, Los Angeles
Los Angeles, Bang California
Tiến sĩ Ellen A. Renz.
Cựu Phó Chủ tịch Hệ thống Lâm sàng
Hội Chăm sóc Hành vi MEDCO
Kamuela, Bang Hawaii
Tiến sĩ Y khoa Richard K. Ries.
Giám đốc và Phó Giáo sư
Dịch vụ Sức khỏe Tâm thần dành cho Bệnh
nhân ngoại trú và Chương trình Bệnh lý Tâm
thần Đồng diễn
Trung tâm Y tế Harborview
Seattle, Bang Washington
Tiến sĩ y khoa, Tiến sĩ Tâm lí Sidney H.
Schnoll.
Chủ tịch
Phòng Y khoa Lạm dụng Chất gây nghiện
Đại hoc Y Virginia
Richmond, Bang Virginia
xiii
Hội đồng thuận
Chủ tịch
Tiến sĩ Y khoa Steven L. Batki
Giáo sư
Khoa Tâm thần học
Trường Đại học Y SUNY
Syracuse, Thành phố New York
Đồng chủ tịch
Tiến sĩ Y khoa, Thạc sĩ Y tế Cộng đồng Peter
A. Selwyn.
Giáo sư và Chủ tịch
Khoa Y học Gia đình và Y tế Cộng đồng
Trung tâm Y tế Montefiore
Trường Đại học Y Albert Einstein
Bronx, Thành phố New York
Thành viên Ban hội thẩm
Thạc sĩ Y tế Cộng đồng, Thạc sĩ Khoa học
Thông tin và Thư viện Deborah Wright Bauer
Bác sĩ cố vấn Dự án Y tế
Dự án Georgia Ryan White Title IV
Chi nhánh Dự phòng và Dịch tễ học
Phòng Nhân sự
Atlanta, Bang Georgia
Tiến sĩ Luật học, Thạc sĩ Văn chương
Margaret K. Brooks
Nhân viên tài năng mới
Montclair, Bang New Jersey
Tiến sĩ Y khoa Robert Paul Cabaj
Giám đốc Y Tế
Dịch vụ Y tế Tâm thần Hạt San Mateo
Ban Dịch vụ Y tế Tâm thần
San Mateo, Bang California
Thạc sĩ Khoa học ngành Công tác Xã hội,
Nhân viên xã hội ưu tú được cấp phép hành
nghề - Bác sĩ lâm sàng cấp cao Susan M.
Gallego
Nhân viên đào tạo, Tư vấn viên, Nhân viên
Chức năng
Austin, Bang Texas
Tiến sĩ Tâm lí học, Nhân viên Xã hội Lâm
sàng, Nhân viên Xã hội Cao cấp Larry M.
Gant
Phó giáo sư
Trường Công tác Xã hội
Đại học Michigan
Ann Arbor, Bang Michigan
Nhân viên Xã hội Cao cấp, Học viện Đào tạo
Nhân viên Công tác Xã hội Brian C. Giddens
Phó giám đốc
Khoa Công tác Xã hội
Đại học Y tế Washington
Seattle, Washington
Tiến sĩ Tâm lý, Thạc sĩ Y tế Cộng đồng
Gregory L. Greenwood
Nghiên cứu sinh TAPS
Trung tâm Nghiên cứu Dự phòng AIDS
Đại học California tại San Francisco
San Francisco, Bang California
Tiến sĩ Y Khoa Elizabeth F. Howell
Trưởng Chương trình Lạm dụng Chất gây
nghiện
Phòng Nhân sự Georgia
Phòng Sức khỏe Tâm thần, Trí tuệ chậm phát
triển và Lạm dụng Chất gây nghiện
Atlanta, Bang Georgia
xiv
Tiến sĩ Tâm lí học Martin Yoneo Iguchi
Đồng Giám đốc
Nhà Khoa học Hành vi Cao cấp
Trung tâm Nghiên cứu Chính sách về Thuốc
RAND
Santa Monica, Bang California
Thạc sĩ Y tế Cộng đồng, Trợ lý Bác sĩ được
chứng nhận Susan LeLacheur
Trợ lý Giáo sư ngành Khoa học Chăm sóc Y tế
và Khoa học Y tế
Đại học George Washington
Chương trình Trợ lý Bác sĩ
Washington, D.C.
Nhân viên Xã hội Lâm sàng được cấp bằng
hành nghề Andrea Ronhovde
Giám đốc
Dự án HIV/AIDS và Sức khỏe Tâm thần
Alexandria
Trung tâm Sức khỏe Tâm thần Alexandria
Alexandria, Bang Virginia
Tiến sĩ Tâm lý, Thạc sĩ Y tế Cộng đồng Ronald
D. Stall
Trung tâm Nghiên cứu Dự phòng AIDS
Đại học California tại San Francisco
San Francisco, California
Tiến sĩ Y khoa Michael D. Stein
Phó Giáo sư
Khoa Y
Đại học Brown
Providence, Bang Rhode Island
xv
Lời nói đầu
Loạt phác đồ cải thiện điều trị (TIP) thực hiện tốt sứ mệnh của SAMHSA/
CSAT là cải thiện việc điều trị lạm dụng chất gây nghiện bằng cách cung
cấp những hướng dẫn thực hành tốt nhất cho các bác sĩ lâm sàng, các cán
bộ quản lý chương trình và những người có nhu cầu sử dụng loạt TIPs này.
TIPs là kết quả của việc xem xét cẩn thận tất cả các kết quả nghiên cứu
lâm sàng và dịch vụ y tế liên quan, sự tập trung kinh nghiệm, và các yêu
cầu thực hiện. Một hội đồng các nhà nghiên cứu lâm sàng không thuộc
biên chế của chính quyền liên bang, các bác sĩ lâm sàng, các cán bộ quản
lý chương trình và khách hàng ủng hộ các cuộc tranh luận và thảo luận về
các lĩnh vực chuyên môn cụ thể cho đến khi họ đi đến một kết luận thống
nhất cao độ về phương pháp thực hành tốt nhất. Sau đó công việc của hội
đồng này được xem xét và đánh giá lại bởi các nhà phê bình chuyên môn.
Tài năng, sự cống hiến, và quá trình làm việc chăm chỉ mà Hội đồng và
những nhà phê bình TIPs mang lại đã khắc phục được khoảng cách giữa
khả năng của việc nghiên cứu và nhu cầu của các bác sĩ lâm sàng và của
các nhà quản lý. Chúng tôi rất biết ơn tất cả các cá nhân đã tham gia đóng
góp vào sự tiến bộ trong lĩnh vực điều trị lạm dụng chất gây nghiện.
Tiến sĩ Nelba Chavez
Quản trị viên
Ban Dịch vụ Y tế Tâm thần và lạm dụng Chất gây nghiện
Tiến sĩ Y khoa, Tiến sĩ Luật học, Thạc sĩ Y tế Cộng đồng, CAS, FASAM
H. Westley Clark
Giám đốc
Trung tâm Điều trị Lạm dụng Chất gây nghiện
Ban Dịch vụ Y tế Tâm thần và lạm dụng Chất gây nghiện
xvii
Tóm tắt và khuyến nghị
Trong những năm gần đây đã xuất hiện nhiều thay đổi quan trọng trong
việc điều trị vi rút suy giảm miễn dịch ở người (HIV)/ Hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải (AIDS). Để ghi nhận những tiến bộ và tác động của
nó lên việc điều trị lạm dụng chất gây nghiện, Trung tâm Điều trị Lạm
dụng Chất gây nghiện (CSAT) đã tập hợp một Hội đồng thuận vào năm
1998 để cập nhật và mở rộng thông tin cho TIP 15, Điều trị Lạm dụng
Rượu và các loại Chất gây nghiện khác cho người nhiễm HIV (CSAT,
1995b)
Những tiến bộ quan trọng trong nghiên cứu đã cải thiện căn bản hiểu biết
của chúng ta về sinh vật học HIV và sự phát sinh của bệnh AIDS (nghĩa là
“nguồn gốc” và “sự phát triển”). Sự phát sinh của bệnh AIDS hiện đang
được biết là kết quả từ khả năng tái tạo của vi-rút HIV với tốc độ 1 tỉ vi-rút
mới (phần tử vi-rút) mỗi ngày và gần 10 tỉ tỉ vi-rút mới qua mỗi quá trình
nhiễm HIV. Điều này trái ngược lại với khả năng của cơ thể là sản xuất ra
các tế bào bạch huyết CD4+ T (tế bào mục tiêu chính của vi rút HIV),
hình thành nên một quá trình đấu tranh giữa vi-rút HIV và hệ miễn dịch
kéo dài từ ngày đầu tiên nhiễm HIV tới giai đoạn cuối cùng và tử vong.
Những năm đầu của đại dịch HIV/AIDS ở Mỹ, vai trò của việc lạm dụng
chất gây nghiện trong việc lây truyền HIV và AIDS trở nên rõ ràng. HIV
bị lây nhiễm hiệu quả nhất qua đường máu. Kết quả là những người sử
dụng ma túy qua đường tiêm chích đại diện cho số người lạm dụng chất
gây nghiện có nhiễm HIV lớn nhất Hoa Kỳ. Bên cạnh việc lây nhiễm HIV
qua dụng cụ tiêm nhiễm, việc quan hệ tình dục trong hệ thống tình dục
bảo thủ một cách tương đối là một con đường lây nhiễm HIV khác giữa
những người tiêm chích ma túy. Những mạng lưới này được đặc trưng bởi
nhiều bạn tình, giao hợp không có biện pháp bảo vệ, và việc trao đổi tình
dục vì thuốc. Việc sử dụng rượu và các loại ma túy không qua đường tiêm
chích trong môi trường này chỉ làm tăng thêm các trường hợp HIV/AIDS.
Vì việc lạm dụng chất gây nghiện và đại dịch HIV/AIDS có quan hệ với
nhau, nên việc điều trị lạm dụng chất gây nghiện có thể đóng một vai trò
xviii
quan trọng trong việc giúp những người lạm
dụng chất gây nghiện giảm rủi ro hành vi, từ đó
giảm tỉ lệ mắc phải HIV/AIDS.
Xu hướng hiện nay trong đại dịch HIV/AIDS
cho thấy rằng một con số không cân xứng của
các dân tộc thiểu số sống trong các thành phố
chịu đang ảnh hưởng hoặc có nguy cơ nhiễm
HIV. Phần dân số này là những người nghèo,
khó tiếp cận với các phương pháp Y tế công
cộng truyền thống, và cần được cung cấp các
dịch vụ nhân sinh và y tế rộng rãi.
Các khuyến nghị và hướng dẫn trong TIP này
tiếp tục củng cố thêm cách tiếp cận đã được
đưa ra trong TIP 15, đó là việc tạo ra một hệ
thống chăm sóc toàn diện, thống nhất cho
những người lạm dụng chất gây nghiện nhiễm
HIV. Những mạng lưới hiệu quả, hợp tác phải
được phát triển giữa các trung tâm điều trị lạm
dụng chất gây nghiện, các nhân viên y tế, nhân
viên y tế tâm thần, và các quan chức y tế cộng
đồng để ngăn chặn sự lan rộng của căn bệnh
này và cung cấp một dịch vụ chăm sóc chất
lượng cao cho các cá nhân nhiễm bệnh. Kết
hợp các ngành có truyền thống làm việc độc lập
với nhau là một thách thức rất lớn. Một thách
thức quan trọng khác là phải vượt qua những
hiểu lầm và sự giao tiếp hạn chế do khác biệt
về sắc tộc, văn hóa, tình trạng kinh tế, khuynh
hướng tình dục, và lối sống.
Đại dịch HIV/AIDS đã sinh ra một số trung
tâm điều trị lạm dụng chất gây nghiện ngay
giữa các trung tâm lây nhiễm HIV (ví dụ, San
Francisco, New York, Washington, DC) để
tăng cường phạm vi dịch vụ mà họ cung cấp
nhằm đáp ứng tất cả các nhu cầu của khách
hàng như là điều trị lạm dụng chất gây nghiện;
điều trị HIV/AIDS; và các nhu cầu y tế, hành
vi, tâm lý, và xã hội khác. Kết quả là các trung
tâm điều trị đang cung cấp cho khách hàng các
phép chẩn đoán, điều trị toàn diện và quản lý
tất cả các vấn đề hiện tại. Đối với những trường
hợp dịch vụ không có sẵn, các trung tâm điều
trị có thể thiết lập mạng lưới giới thiệu và liên
kết với các nhà cung cấp dịch vụ điều trị khác
trong cộng đồng.
Độc giả của TIP này rất đa dạng, và các chương
khác nhau được xây dựng cho riêng một số độc
giả. Tuy nhiên, bất cứ ai muốn cải thiện việc
chăm sóc cho người lạm dụng chất gây nghiện
nhiễm HIV thì nên đọc toàn bộ TIP này. Việc
dự phòng và điều trị lạm dụng chất gây nghiện
và HIV/AIDS đòi hỏi một cách tiếp cận đa
ngành dựa trên những thế mạnh của các nhà
cung cấp và các quyết định điều trị. Việc trông
mong bất kỳ một nhà cung cấp đơn lẻ nào nắm
được hết tất cả các lĩnh vực chăm sóc là điều
không tưởng. TIP này sẽ giúp một loạt các nhà
cung cấp làm quen với các vấn đề khác nhau
xung quanh việc lạm dụng chất gây nghiện và
HIV/AIDS và thúc đẩy sự hiểu biết tốt hơn về
vai trò của các nhà cung cấp khác.
Hội Đồng thuận đã dựa trên những kinh
nghiệm đáng kể trong cả hai lĩnh vực HIV/
AIDS và điều trị lạm dụng chất gây nghiện. Hội
đồng bao gồm đại diện của tất cả các ngành có
liên quan đến điều trị lạm dụng chất gây nghiện
và HIV/AIDS, gồm các bác sĩ, chuyên viên tư
vấn thuốc và rượu, nhân viên y tế tâm thần, các
đại diện chính quyền nhà nước, và luật sư.
TIP được tổ chức thành mười chương, phần
đầu tiên giới thiệu về HIV/AIDS, bao gồm
nguồn gốc, chu kỳ sống, và sự tiến triển của
bệnh. Phần thứ hai của Chương 1 cung cấp
một cái nhìn tổng quan về những thay đổi của
dịch tễ học từ năm 1995 khi phiên bản đầu tiên
của TIP này được phát hành. Các dữ liệu dịch
tễ học từ các Trung tâm Kiểm soát và Ngăn
ngừa Dịch bệnh (CDC) được trình bày tóm
tắt, người đọc sẽ được cung cấp tổng quan về
đại dịch ở các vùng của Hoa Kỳ, các xu hướng
hiện tại và tình hình dân số bị ảnh hưởng bởi
căn bệnh này, và một cuộc thảo luận về những
thành phần dân cư đặc biệt.
Chương 2, được soạn thảo dành cho các nhân
viên y tế, thảo luận về những đánh giá y khoa và
việc điều trị HIV/AIDS, trong đó gồm có việc
tuân thủ điều trị, các rào cản trong việc chăm
sóc, điều trị và kiểm tra, dược lý học, và phương
pháp dự phòng nhiễm trùng cơ hội.
xix
Chương 3, dành cho nhân viên y tế tâm thần,
xem xét phương pháp điều trị sức khỏe tâm
thần cho khách hàng gặp vấn đề về lạm dụng
chất gây nghiện và HIV/AIDS và thảo luận về
các chứng rối loạn tâm thần phổ biến, đánh giá
và chẩn đoán, dược học, tư vấn, và các vấn đề
nhân viên.
Chương 4 trình bày các vấn đề liên quan đến
phòng, chống HIV. Những vấn đề này bao gồm
việc đánh giá khách hàng với các rủi ro, tư vấn
giảm thiểu rủi ro, giảm nguy cơ khi quan hệ
tình dục, dự phòng trước và sau khi sinh, sự lây
truyền vi-rút HIV có sức đề kháng, chia sẻ ống
tiêm, xét nghiệm nhanh HIV, và vấn đề kiểm
soát lây nhiễm cho các chương trình.
Chương 5 bàn về việc kết hợp các dịch vụ điều
trị, cũng như tầm quan trọng của mối liên kết
giữa các chương trình điều trị lạm dụng chất
gây nghiện và các nhà cung cấp khác.
Chương 6 cung cấp thông tin về quản lý hồ sơ
và các tìm kiếm thông tin cho người lạm dụng
chất gây nghiện nhiễm HIV, bao gồm thông tin
phục vụ cho việc điều trị lạm dụng chất gây
nghiện, sức khỏe tâm thần, chăm sóc y tế, thu
nhập và các mối quan tâm tài chính khác cho
khách hàng.
Chương 7 xem xét các vấn đề tư vấn, bao gồm
đào tạo và thái độ của nhân viên, việc sàng lọc,
và các vấn đề cụ thể cho khách hàng lạm dụng
chất gây nghiện nhiễm HIV/AIDS.
Chương 8 tìm hiểu về vấn đề đạo đức.
Chương 9 thảo luận về vấn đề pháp lý và cung
cấp thông tin cơ bản về pháp luật liên bang liên
quan đến sự kỳ thị và vấn đề bảo mật.
Chương 10, phục vụ cho các nhà quản lý
chương trình, trình bày thông tin về nguồn kinh
phí và văn bản trợ cấp.
Với khối lượng thông tin sẵn có về HIV/AIDS,
TIP này không được xác định sẽ trình bày một
cách thấu đáo. Một mảng rộng các thông tin
cung cấp cho những ai muốn tìm hiểu thêm về
các chủ đề quan tâm. Phần phụ lục trong TIP
này bổ sung thêm thông tin về nhiều chủ đề và
gồm cả Hệ thống Phân loại HIV và AIDS Sửa
đổi năm 1993, các quy tắc đạo đức theo Luật
Liên bang và Nhà nước, các trang web về AIDS,
và danh sách các cơ quan y tế thuộc quốc gia và
vùng lãnh thổ và các đường dây nóng về AIDS.
Để tránh gây lúng túng và sự phân biệt giới
tính, TIP này sẽ sử dụng xen kẽ giữa “anh” và
“cô” trong các ví dụ chung chung.
Trong suốt TIP này, thuật ngữ “lạm dụng chất
gây nghiện” được sử dụng bao gồm cả hai
nghĩa là “lạm dụng chất gây nghiện” và “phụ
thuộc vào chất gây nghiện” (theo định nghĩa
của Sách
Thống kê và chẩn đoán các bệnh lý rối loạn
tâm thần, tái bản lần bốn [DSM-IV]. [Hiệp hội
Tâm thần Mỹ , 1994]). Bởi vì thuật ngữ “lạm
dụng chất gây nghiện” thường được các chuyên
gia điều trị lạm dụng chất gây nghiện sử dụng
để mô tả việc sử dụng quá mức các chất gây
nghiện.
Thuật ngữ này liên quan đến việc lạm dụng
rượu bia cũng như các chất gây nghiện khác.
Độc giả nên xác định bối cảnh thuật ngữ này
xuất hiện để xác định đúng phạm vi ý nghĩa
của thuật ngữ. Tuy nhiên, trong hầu hết trường
hợp, thuật ngữ đề cập đến tất cả các bệnh lý rối
loạn lạm dụng chất gây nghiện như được mô tả
trong DSM-IV.
Các khuyến nghị sau đây được sắp xếp theo
chương. Các khuyến nghị dựa trên các tài liệu
nghiên cứu hoặc pháp luật sẽ được đánh số
(1); các khuyến nghị dựa trên kết quả lâm sàng
được đánh số (2).
Tóm tắt các khuyến nghị
Điều Trị Y Tế
• Điều trị HIV/AIDS là một việc cực kỳ phức
tạp. Quan trọng là đội ngũ chăm sóc y tế
phải có kinh nghiệm điều trị cho các khách
hàng lạm dụng chất gây nghiện vì kết hợp
điều trị giữa lạm dụng chất gây nghiện và
xx
HIV/AIDS đặt ra những thách thức đặc biệt.
Việc kết hợp chăm sóc như vậy là lựa chọn
tốt nhất, và đối với các nhân viên y tế làm
việc tại các trung tâm điều trị lạm dụng chất
gây nghiện phải có kinh nghiệm từ trước
trong việc điều trị cho các bệnh nhân nhiễm
HIV/AIDS. (2)
• Nhân viên chính chăm sóc bệnh nhân rối
loạn lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV
nên hiểu và đáp ứng những nhu cầu của bệnh
nhân, khả năng tái phát, và sự đa dạng văn
hóa. Các mô hình chăm sóc chính được xem
là một phần của chương trình điều trị lạm
dụng chất gây nghiện cần được xác định là
có thể sửa đổi và mở rộng như thế nào nhằm
đáp ứng nhu cầu đặc biệt của các bệnh nhân
rối loạn lạm dụng chất gây nghiện nhiễm
HIV. (2)
• Tuân thủ điều trị ARV có nghĩa là bệnh nhân
phải tuân theo một chế độ điều trị theo quy
định và thường là phức tạp. Việc tuân thủ
điều trị nên được duy trì, nếu không có thể
dẫn đến triệu chứng kháng thuốc. (1)
• Một cách để khuyến khích tuân thủ điều trị
là giáo dục cho bệnh nhân và những người
quan trọng với họ về điều trị HIV/AIDS. (2)
• Tốt nhất là tất cả các chương trình điều trị
nên có khả năng tiến hành đánh giá nguy cơ
nhiễm HIV và thực hiện những giáo dục và
tư vấn cơ bản về HIV/ AIDS cho bệnh nhân.
Ngoài ra, tất cả các chương trình cần cung
cấp dịch vụ xét nghiệm HIV và tư vấn trước
khi và sau khi xét nghiệm. Còn nếu chương
trình không thể cung cấp được các dịch vụ
kể trên thì nên liên kết với các trung tâm có
khả năng thực hiện. Khi bệnh nhân được gửi
từ các chương trình điều trị lạm dụng chất
gây nghiện sang chăm sóc y tế chính thì phải
có hệ thống thông tin rõ ràng nhằm đảm bảo
rằng các cuộc hẹn được lưu giữ, thông tin về
chăm sóc y tế của khách hàng được gửi lại
cho chương trình, và hệ thống thông tin phải
phù hợp với yêu cầu bảo mật của Liên bang
và Nhà Nước. (2)
• Tốt nhất là việc chăm sóc chính cần nên kết
hợp nhân lực từ các ngành khác nhau, bao
gồm các nhân viên xã hội, bác sĩ, bác sĩ đang
trong quá trình đào tạo, y tá, và nhân viên tư
vấn có cả các nhân viên điều trị. Nên có một
người quản lý chung nhằm liên kết các nhân
viên điều trị với nhau. Các mô hình chăm sóc
hiện tại cần được đánh giá và xác định có thể
sửa đổi và mở rộng như thế nào nhằm đáp
ứng nhu cầu đặc biệt của các bệnh nhân rối
loạn lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV.
(2)
• Xét nghiệm HIV là một bước đầu tiên quan
trọng trong việc xác định điều trị các bệnh
nhân lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV.
Điều này có thể giúp đánh giá mức độ nguy
hiểm của HIV. Khả năng nhiễm HIV của
bệnh nhân có thể được xác định bằng cách
sau: nếu khách hàng đã từng có các hành
vi gây nguy hiểm, nếu khách hàng đã từng
có bệnh lây qua đường tình dục (STD), nếu
khách hàng từng dùng chung dụng cụ tiêm
chích; hoặc nếu khách hàng biểu hiện bất kì
triệu chứng nào được xác định là mới nhiễm
HIV hoặc đã nhiễm từ rất sớm. (2)
• Chăm sóc y tế cho bệnh nhân nhiễm HIV sẽ
khác nhau, tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh,
nhưng tất cả bệnh nhân đều được đánh giá
và theo dõi. Đánh giá các hành vi liên quan
với việc lây nhiễm HIV là một phần quan
trọng cho việc đánh giá ban đầu. (2)
• Một lịch sử điều trị triệt để là một mốc quan
trọng để từ đó các bác sĩ tiến hành đánh giá
lâm sàng và xây dựng kế hoạch điều trị. Mặc
dù HIV/AIDS và các biến chứng của nó ảnh
hưởng đến mọi cơ quan thì việc điều trị vật
lí cho các bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS nói
chung nên tập trung vào da, mắt, miệng, cơ
quan sinh dục, hệ thần kinh, hệ thống bạch
huyết, trọng lượng bệnh nhân và thân nhiệt.
Nắm rõ tình trạng miễn dịch của bệnh nhân
sẽ giúp bác sĩ tập trung điều trị vào các khu
vực khác trên cơ thể. (2)
• Trước khi bắt đầu việc điều trị kháng
retrovirus trên bất kì bệnh nhân nào, nên
thực hiện trước các nghiên cứu trong phòng
thí nghiệm, bao gồm HIV axit ribonucleic
xxi
(RNA) (hoặc vi rút), lượng tế bào CD4 +
T, số lượng máu, các phản ứng hóa học sàng
lọc, giang mai, bệnh toxoplasma, dẫn xuất
protein tinh chế (PPD), vi rút viêm gan A, B,
C, và chụp X quang ngực. (2)
• Quyết định bắt đầu điều trị kháng retrovirus
ở bệnh nhân không có triệu chứng bị bệnh
thường khó khăn và phải viếng thăm bệnh
nhân nhiều để xem xét lựa chọn điều trị. Các
yếu tố phải được xem xét cho việc bắt đầu
điều trị bao gồm mức độ sẵn sàng điều trị
của bệnh nhân, mức độ suy giảm miễn dịch,
nguy cơ tiến triển bệnh được xác định bởi
RNA của HIV trong huyết tương, những rủi
ro của tác dụng phụ, điều trị liên tục của các
điều kiện y tế khác, và những nhân tố gây
khó khăn trong việc điều trị như không có
bảo hiểm và nhà ở không ổn định. (2)
• Tiêu chí để thay đổi điều trị bao gồm
o Giảm tối ưu ban đầu trong mức RNA
của HIV
o Việc tái xuất hiện của vi rút trong máu
sau khi đã điều trị khỏi
o Liên tục giảm dần lượng tế bào CD4 + T
o Dấu hiệu phát sinh tác dụng phụ
• Bệnh nhân không có khả năng tuân thủ phác
đồ điều trị. (Trong mọi trường hợp, các bác
sĩ phải xác định xem có phải thất bại trong
việc điều trị là do việc không tuân thủ nghiêm
ngặt theo phương pháp hay không) [vì độc
tính hay là không quan tâm bệnh nhân], thay
đổi trong việc hấp thụ hoặc trao đổi chất đối
với một hay nhiều loại thuốc, hoặc kháng vi
rút cho một hoặc nhiều tác nhân. Khi việc
quyết định thay đổi điều trị dựa trên RNA
của HIV thì cần phải tiến hành kiểm tra lần
hai về lượng vi rút trong cơ thể trước khi đưa
ra quyết định). (1)
• Nói chung là nên đổi mọi lọai thuốc đã từng
kết hợp để điều trị mà không thành công
ngoại trừ các trường hợp khi lượng vi-rút
trong cơ thể không thể phát hiện được hay
có tác dụng phụ do một loại thuốc chuyên
trị. Trong một số trường hợp mà lượng vi-rút
trong cơ thể chưa được loại bỏ hoàn toàn thì
tốt nhất là nên tiếp tục với phương pháp điều
trị hiện tại nếu như phương pháp đó phần
nào có tác dụng và bệnh nhân điều trị không
có nhiều lựa chọn.(1)
• Việc điều trị dứt được những cơn đau cấp
tính và mãn tính ở bệnh nhân rối loạn do
lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV là một
vấn đề lâm sàng nan giải. Mục đích điều trị,
cũng giống như các bệnh nhân đang trong
cơn đau, là làm sao để tối giảm đau tối đa
và giảm đến mức tối thiểu các tác dụng phụ.
Các phương pháp điều trị phổ thông (nằm
nghỉ, làm nóng, chườm đá, xoa bóp bằng tay
để giảm đau) khuyến khích dùng như là việc
làm đầu tiên để trị cơn đau. Nếu những biện
pháp này không làm giảm đau, thì cần phải
có phương pháp hệ thống hơn. Những loại
thuốc giảm đau được chứng minh không đủ
để giảm đau, thuốc giảm đau gây mê có thể
dùng trong trường hợp cần thiết. (1)
• Kế hoạch điều trị và những cơ sở lý do cho
việc dùng chất gây mê để kiểm soát cơn đau
phải rõ ràng với cả người điều trị và bệnh
nhân. Điều quan trọng là không chỉ bệnh
nhân sẽ biết rằng anh ta đang được chăm
sóc cẩn thận mà còn là phương pháp điều trị
sử dụng chất gây mê sẽ không được vượt quá
giới hạn thời gian cần thiết dành cho phương
pháp đó. Các chuyên gia điều trị cơn đau
nên được tư vấn nhằm xem xét các phương
pháp giảm đau thay thế. Vì các bệnh nhân
nhiễm HIV/AIDS thường biểu hiện những
cơn đau giống như các bệnh nhân ung thư
nên phương pháp “bảng điều trị giảm đau
ung thư dạng hình bậc thang” của Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO ) sẽ hữu dụng trong bước
đầu điều trị giúp các bệnh nhân nhiễm HIV
giảm cơn đau.(1)
• Thiết lập giới hạn rõ ràng và đặt ra một kế
hoạch điều trị phù hợp có thể giúp giảm
nguy cơ lạm dụng thuốc của bệnh nhân.
Khuyến khích sử dụng các phương pháp sau:
chỉ định những nơi điều trị lập ra những đơn
thuốc cho các loại thuốc được kiểm soát, và
phát thuốc với số lượng trong một khoảng
xxii
thời gian nhất định (chẳng hạn như 1 tuần
hay ít hơn), và thông báo cho các bệnh nhân
biết rằng thuốc được cấp khi bị mất hay bị
đánh cắp sẽ không được thay thế bằng thuốc
mới. (2)
• Những bệnh nhân có triệu chứng nhiễm
AIDS buộc điều trị giảm đau thường xuyên
bằng phương pháp dùng chất gây mê và cũng
có thể có đường dẫn thuốc vào bên trong
cơ thể thông qua tĩnh mạch để tiêm thuốc.
Những người tiêm chích ma túy rất có nguy
cơ sẽ dùng đường dẫn thông qua tĩnh mạch
này nhằm tiêm chích heroin, cocaine và các
loại thuốc khác. Do đó việc chăm sóc bệnh
nhân ở những khu dân cư phải được theo dõi
và hỗ trợ đầy đủ. (2)
• Cần có những nỗ lực liên tục để giáo dục
bệnh nhân về tầm quan trọng của xét nghiệm
lâm sàng và xóa bỏ mối nghi ngờ cố hữu của
họ về ngành y tế. Những nỗ lực cụ thể cần
được thực hiện để đưa nhiều khách hàng lạm
dụng chất gây nghiện đến với xét nghiệm
HIV hơn, bao gồm cả phụ nữ và đồng bào
các dân tộc thiểu số. Nguy cơ của những
nhóm này hiện nay không được đánh giá
đúng mức. Nhằm tránh xung đột về lợi ích,
các y bác sĩ phụ trách xét nghiệm lâm sàng
và nhóm điều trị chính cho bệnh nhân cần
phải độc lập hoàn toàn hoặc khác biệt nhau
đến mức có thể. (2)
• Nhóm điều trị phải lưu ý rằng bệnh nhân
HIV có thể được sử dụng các liệu pháp thay
thế hoặc bổ sung; ví dụ như châm cứu, thiền,
và chế độ ăn uống bổ sung vitamin và thảo
dược. Tuy nhiên, bệnh nhân không cần phải
từ bỏ một liệu pháp điều trị nào trừ phi điều
đó gây ra tác hại. Các bác sĩ có trách nhiệm
tìm ra liệu pháp thay thế hoặc không chính
thống nào đang được bệnh nhân sử dụng
bằng cách thức khách quan, và sau đó thu
thập càng nhiều thông tin càng tốt về những
liệu pháp này. Bác sĩ cần tìm hỏi cụ thể về
việc sử dụng kháng sinh không có giám sát,
bởi việc này có thể phức tạp hóa việc chẩn
đoán và điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi
khuẩn cho khách hàng lạm dụng chất gây
nghiện nhiễm HIV. (1)
• Hội đồng Thuận ủng hộ khuyến cáo của
CDC rằng nhiễm HIV được coi là biểu hiệu
của việc chủng ngừa khuẩn cầu phổi vì nguy
cơ mắc bệnh viêm phổi do khuẩn cầu phổi
của bệnh nhân HIV ngày càng tăng lên đáng
kể. Hiệu quả của vắc-xin này trong giai đoạn
hệ miễn dịch đã suy giảm nặng vẫn còn được
xem xét nhưng nếu được thực hiện trong thời
kỳ đầu của căn bệnh HIV, nó có thể giúp
duy trì hệ miễn dịch ổn định. Cần phải cân
nhắc cả việc tiêm ngừa cúm H loại B vì đối
với bệnh nhân HIV, đặc biệt là những người
tiêm chích ma túy, thì nguy cơ nhiễm cúm
H càng cao. Vắc-xin ngừa viêm gan A cũng
cần được dùng đến khi cần thiết vì hầu hết
những người tiêm chích ma túy đều dương
tính với viêm gan C và CDC khuyên dùng
vắc-xin ngừa viêm gan A cho tất cả các cá thể
dương tính với viêm gan C. (1)
• Những nhân viên điều trị chính nên biết
rằng, nhìn chung, khả năng mắc các chứng
rối loạn phụ khoa ở những phụ nữ lạm dụng
chất gây nghiện thường cao hơn đối với
những phụ nữ khác. Một số rối loạn như
các bệnh lây qua đường tình dục (STDs)
là hậu quả gián tiếp của việc lạm dụng chất
gây nghiện, trong khi những rối loạn khác có
thể do các yếu tố về lối sống mà ảnh hưởng
đến tình trạng sức khỏe chung của phụ nữ,
chẳng hạn như không chăm sóc y tế thường
xuyên. (1)
• Người điều trị cần biết về nhu cầu dinh
dưỡng đặc biệt của người lạm dụng chất gây
nghiện nhiễm HIV. Họ cần thông thạo các
hướng dẫn về bổ sung dinh dưỡng và có biện
pháp can thiệp để xác định nguyên nhân gây
hạn chế tiêu hóa. (2)
Điều Trị Sức Khỏe Tâm Thần
• Cá nhân có những rối loạn do lạm dụng
chất gây nghiện có tỷ lệ bị rối loạn tâm thần
cao hơn những người khác cho dù họ có bị
nhiễm HIV hay không. Tư vấn viên làm việc
với người lạm dụng chất gây nghiện nhiễm
HIV cần biết rõ về sự đa dạng của các biểu
xxiii
hiện tâm thần do HIV hoặc chất gây nghiện
mang lại. Quan trọng không kém là việc
phân biệt các triệu chứng tâm thần là do chất
gây nghiện hay do HIV/AIDS, do các dược
phẩm điều trị HIV/AIDS, hoặc do các rối
loạn tâm thần từ trước gây ra. (1)
• Các chương trình điều trị không có nguồn
lực để đánh giá và điều trị hợp lý các bệnh về
tâm thần cần phải liên kết chặt chẽ với các
tổ chức chăm sóc sức khỏe tâm thần để có
thể chuyển giao bệnh nhân. Các đường dây
thông tin liên lạc mở sẽ cho phép nhân sự
trong cả hai địa điểm được biết về chương
trình điều trị của khách hàng. Nhân viên
điều trị cần phải duy trì liên lạc với khách
hàng và duy trì việc điều trị trong và sau khi
điều trị tâm thần cho họ. (2)
• Việc liên lạc giữa cán bộ y tế và tư vấn viên
rất quan trọng nhằm để đảm bảo bệnh nhân
bị suy giảm nhận thức không bị cho là gian
dối hay lường gạt. Người chăm sóc luôn phải
ghi nhớ là việc không hợp tác điều trị của
một khách hàng bị suy giảm nhận thức có
thể là hậu quả của sự suy giảm nhận thức đó,
chứ không phải do họ từ chối, chống cự hay
miễn cưỡng chấp nhận sự chăm sóc. (2)
• Điều tối quan trọng là cần đặt ra những mục
tiêu điều trị thực tế, phù hợp với năng lực
hoạt động của khách hàng. (2)
• Can thiệp điều trị cần phù hợp với nền văn
hóa và sắc tộc của khách hàng. Bất cứ khi
nào có thể, người trị liệu và các trưởng nhóm
hỗ trợ cần chia sẻ về nền văn hóa của khách
hàng và nên nói cùng ngôn ngữ. Sự tương
đồng văn hóa giữa người trị liệu và bệnh
nhân là rất quan trọng trong việc tạo ra
niềm tin khi đề cập đến những vấn đề nhạy
cảm như hỗ trợ từ phía gia đình hay các tập
tục của dân tộc họ. (2)
• Đánh giá và chẩn đoán các bệnh tâm thần
cho người lạm dụng chất gây nghiện nhiễm
HIV là một thử thách khó khăn do các vấn đề
phức tạp của bệnh nhân. Bởi vậy việc đánh
giá thái độ của bệnh nhân trong từng hoàn
cảnh là rất quan trọng (ví dụ: trầm cảm cấp
tính thường phổ biến đối với những người
vừa biết mình dương tính với HIV). (1)
• Với những nghiên cứu cụ thể, các phương
pháp tiếp cận tiêu chuẩn về dược lý có thể
được áp dụng để điều trị rối loạn tâm thần
cho người lạm dụng chất gây nghiện nhiễm
HIV. Đánh giá kết quả chẩn đoán y khoa và
tâm thần luôn phải được thực hiện trước khi
cung cấp thuốc, không có ngoại lệ. (1)
• Khi kê thuốc cho người lạm dụng chất
gây nghiện nhiễm HIV, bác sĩ cần sử dụng
phương pháp tăng dần mức độ và loại thuốc
từ từ, từng bước một. Ban đầu nên sử dụng
các loại thuốc nhẹ và ít có khả năng bị lạm
dụng, với liều lượng thấp. Nếu cách trên
không hiệu quả mới phải tăng liều hoặc sử
dụng các loại thuốc ít an toàn hơn. (1)
• Với liệu pháp điều trị kháng retrovirus tác
động mạnh (HAART), bác sĩ phải biết rõ
những tương tác thuốc tiềm ẩn có thể tăng
độc tính hoặc giảm nồng độ của thuốc trong
máu bệnh nhân, dẫn đến kết quả điều trị tối
ưu và tăng sức đề kháng. Nhân viên tư vấn
sức khỏe tâm thần phải hiểu biết về những
triệu chứng cho thấy khách hàng có thể đang
trải qua một sự tương tác thuốc. (1)
• Những người nhiễm HIV có thể mẫn cảm
hơn với thuốc kê toa cũng như với các chất
gây nghiện họ đang lạm dụng. Khi kê thuốc,
các bác sĩ nên cố gắng sử dụng liều thấp nhất
có hiệu quả để giảm thiểu tác dụng phụ. Với
khách hàng có triệu chứng AIDS, nên bắt
đầu với liều rất thấp, tương tự như liều dành
cho bệnh nhân lão khoa. (1)
• Người lạm dụng chất gây nghiện có nguy cơ
tự tử cao. Người nhiễm HIV cũng vậy, nhất là
khi họ đang trải qua tâm trạng bất ổn. Thuốc
nên được phân phát với liều lượng nhỏ cho
đến khi đánh giá được hoàn toàn mức độ tự
trách nhiệm của người bệnh. Người kê thuốc
cần biết rằng một số loại thuốc như thuốc
chống trầm cảm ba vòng (TCAs) (chẳng hạn
như amitriptyline [Elavil]) có khả năng gây
tử vong cao nếu sử dụng quá liều. (2)
• Tư vấn là một phần quan trọng trong điều
xxiv
trị cho người lạm dụng chất gây nghiện, bao
gồm cả những người có các chứng rối loạn
tâm thần. Mục đích của việc tư vấn là để giúp
người lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV
duy trì sức khỏe, chấm dứt việc lạm dụng
chất gây nghiện, và đạt được mức độ hoạt
động thần kinh tốt nhất có thể. (2)
• Nếu một bệnh nhân không muốn tự sát ngay,
mà muốn nói chuyện về việc tự sát, tư vấn
viên nên tỏ ra quan tâm, cho phép họ nói về
cảm giác của mình, đánh giá mức độ nghiêm
trọng của ý muốn tự sát và hỗ trợ khi cần
thiết. Các nhân viên tư vấn không nên xem
nhẹ cảm giác của bệnh nhân vì trò chuyện
cởi mở về việc tự sát giúp giảm được sự cô
lập, nỗi sợ và căng thẳng. (2)
• Nhóm hỗ trợ giúp đáp ứng một loạt các nhu
cầu. Các chương trình điều trị lạm dụng
chất gây nghiện nên tích cực mang bệnh
nhân đến với các nhóm hỗ trợ bên ngoài
thích hợp nơi mà nhu cầu của họ có thể
được đáp ứng. (2)
Phòng Ngừa HIV Chính Cấp Và
Thứ Cấp
• Đối với bệnh nhân nhiễm HIV trong quá trình
điều trị do lạm dụng chất gây nghiện thì phải
có một phương pháp toàn diện cho điều trị
bao gồm 3 mục tiêu ba mục tiêu: giúp chủ thể
sống đang được điều trị tự do và trong tình
trạng tỉnh táo, làm chậm lại hoặc chặn đứng
sự tiến triển của HIV/AIDS, và giảm hành vi
gây ra nguy cơ lây nhiễm HIV. (2)
• Có khá nhiều phương thức nhằm đánh giá
nguy cơ gây lây nhiễm HIV cho người khác
và thông qua đào tạo và hiểu biết căn bản thì
có thể được đưa vào ứng dụng. Muc tiêu của
các phương thức đánh giá này nhằm giúp
đánh giá hành vi có khả năng làm bệnh nhân
có nguy cơ lây nhiễm HIV. (2)
• Việc quan trọng là phải có được lịch sử đầy
đủ về đời sống tình dục của bệnh nhân và
nên được thực hiện sớm trong quá trình tư
vấn, mặc dù là không cần thiết trong thời kì
điều trị đầu tiên. Bệnh nhân phải được cam
đoan về tính bảo mật thông tin mà họ cung
cấp.(2)
• Tư vấn viên nên giúp bệnh nhân nhận thức
được đầy đủ các hành vi nguy cơ tiềm ẩn
trong việc họ đã từng có những hành động
bao gồm cả việc dùng chung ống tiêm và
quan hệ tình dục không an toàn. Việc tư vấn
cũng cần phải tính đến trường hợp giúp nhận
thức cho các bệnh nhân có xu hướng tình
dục đa dạng bao gồm cả những bệnh nhân
đồng tính, lưỡng tính, tình dục khác giới, và
chuyển đổi giới tính. Việc sử dụng bao cao
su sử dụng và thực hành tình dục an toàn là
phần chính của phươgn thức đánh giá. Tư
vấn viên cần phải biết những gì bệnh nhân
tin về HIV/AIDS, bao gồm bất kỳ thông tin
bệnh nhân nhận được từ các chuyên gia điều
trị khác.
• Để giúp giảm hành vi gây ran guy cơ lây
nhiễm HIV cho các bệnh nhân, các tư vấn
viên chuyên về rượu và ma túy nên giúp bệnh
nhân hiểu được sự cần thiết phải thay đổi,
tạo những hỗ trợ về mặt tâm lý cho bệnh
nhân nhằm giúp họ thay đổi trong hành vi
của mình, và hỗ trợ bệnh nhân trong việc
phát triển các kỹ năng phù hợp để duy trì sự
thay đổi hành vi đó. (2)
• Những thảo luận xung quanh vấn đề hành vi
tạo ra nguy cơ lây nhiễm nên được sử dụng
bằng ngôn ngữ thích hợp với văn hóa, rõ
ràng và dễ hiểu. (2)
• Chương trình giúp giảm nguy cơ lây nhiễm
HIVqua đường tình dục nên được kết hợp
với chương trình điều trị bệnh nhân lạm
dụng chất gây nghiện. Chương trình này sẽ
cung cấp cho bệnh nhân những kiến thức,
thông tin cơ bản về quan hệ tình dục an toàn,
cũng như giúp bệnh nhân nắm được những
cách thức, sự lựa chọn khác trong quan hệ
tình dục mà chính các bệnh nhân là người
làm chủ về vấn đề đó. (2)
• Chương trình giảm nguy cơ lây nhiễm HIV
mang tên IDU (tính ưu việt theo hình bậc
thang từ trên xuống) là sự lựa chọn tốt nhất,
ví dụ như là cai triệt để là cách tốt nhất, thứ
xxv
hai là không sử dung ống tiêm, thứ ba là
không dùng chung kim tiêm, và thứ tư là chỉ
sử dụng bơm kim tiêm sạch và cứ thế ta sẽ
lần lượt có các cách tiếp theo. (2)
• Luật Liên bang hiện nay cấm sử dụng Quỹ
Liên bang vào việc thực hiện chương trình
trao đổi ống tiêm. (1)
• Đại dịch AIDS gây ra một số thách thức
trong chính sách kiểm soát lây nhiễm và gây
khó khăn trong việc tiến hành các chương
trình điều trị lạm dụng chất gây nghiện. Các
chương trình điều trị nên áp dụng các biện
pháp ngăn ngừa phổ quát trong các bệnh
viện và các cơ sở y tế khác. (1)
• Cách tốt nhất nhằm giảm nguy cơ lây nhiễm
HIV trong quá trình điều trị cho bệnh nhân
là tránh tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân. Tuy
nhiên, trong trường hợp phải tiếp xúc trực
tiếp với bệnh nhân thì chương trình điều trị
lạm dụng chất gây nghiên phải thực hiện
theo khuyến cáo của CDC về việc dự phòng
sau khi tiếp xúc. (2)
• Lúc nào cũng phải có khâu xét nghiệm
HIV lấy kết quả nhanh. Kết quả của các xét
nghiệm này sẽ quyết định khi nào và bằng
cách nào thì nên tư vấn phòng chống HIV
cho đối tượng được xét nghiệm. Tư vấn viên
phải hiểu những khía cạnh kỹ thuật của các
xét nghiệm sàng lọc, cũng như làm thế nào
để đánh giá rủi ro của từng bệnh nhân bị
nhiễm bệnh. Kết quả nhanh này vẫn còn phải
được xác thực một lần nữa bởi một một cuộc
xét nghiệm bổ sung (có thể là phương pháp
Western blot hoặc phương pháp xét nghiệm
miễn dịch huỳnh quang). (2)
Dịch Vụ Điều Trị Kết Hợp
• Quá trình điều trị nghiện ma túy và HIV/
AIDS nên giúp cho bênh nhân hiểu rằng hai
quá trình điều trị trên có mối quan hệ với
nhau và các chương trình điều trị phải phối
hợp lẫn nhau càng nhiều càng tốt để tối đa
hóa sự chăm sóc cho bệnh nhân nhiễm HIV/
AIDS và cả bệnh nhân điều trị các rối loạn
do lạm dụng chất gây nghiện.
• Các tư vấn viên về điều trị lạm dụng chất
gây nghiện và nhóm điều trị cho bệnh nhân
nhiễm HIV/ AIDS nên liên tục phát triển kĩ
năng trong việc xây dựng và duy trì kế hoạch
chữa bệnh nhằm hỗ trợ cho cả hai loại bệnh
nhân kể trên. (2)
• Bất kỳ nỗ lực nào nhằm để phát triển việc
kết hợp điều trị lạm dụng chất gây nghiện
và điều trị HIV/AIDS, trong một cơ quan
duy nhất hay thông qua kế hoạch chăm sóc
cá nhân, thì cần phải chú ý những điều sau:
có một mô hình quản lý ca bệnh tốt bao gồm
các dịch vụ xã hội và xem các dịch vụ đó như
là một phần cốt lõi của kế hoạch điều trị ,
đào tạo cho tất cả các nhóm điều trị theo yêu
cầu của trung tâm điều trị khác và tạo điều
kiện dễ dàng cho các trung tâm trên có được
giấy phép điều trị. (2)
• Nhiều bệnh nhân lạm dụng chất gây nghiện
nhiễm HIV không thể giảm và ngừng hẳn
việc sử dụng chất gây nghiện. Trong quá
trình điều trị cho các bệnh nhân vẫn tiếp tục
sử dụng chất ma túy, chương trình điều trị
phải tìm một sự cân bằng giữa các phương
pháp theo định hướng kiêng cử giúp bệnh
nhân phải lập tức ngừng sử dụng chất gây
nghiện, hoặc phương pháp tiếp cận y tế theo
định hướng công cộng trong trường hợp
khuyến khích bệnh nhân không thể ngừng
ngang việc sử dụng ma túy sang giảm dần
một cách từ từ. (2)
• Các tư vấn viên tư vấn cho người lạm dụng
chất gây nghiện và dương tính với HIV nên
phổ biến cho họ các tổ chức dịch vụ phòng
chống AIDS ở địa phương (ASOS) và các
dịch vụ điều trị lạm dụng chất gây nghiện.
• Khi thiết lập một mạng lưới điều phối điều
trị, nhóm điều trị trên phải xem xét vấn đề về
bảo mật. Nhà cung cấp phải nắm rõ những
đạo luật, chuẩn mực đạo đức của Nhà nước
và liên bang, các cơ quan và những chính
sách cộng đồng và các thoả thuận. Các nhóm
điều trị cần phải hiểu sự khác biệt giữa “đồng
ý”và “thông báo chấp thuận.” (2)
xxvi
Tiếp Cận Và Đáp Ứng Các Dịch Vụ
Có Nhu Cầu
• Một phương pháp quản lý ca bệnh ghi nhận
rằng nếu một cá nhân đang lạm dụng chất
gây nghiện khi được thỏa mãn về các nhu
cầu cơ bản như y tế nói chung và phương
tiện ăn ở đầy đủ thì sẽ làm cho cá nhân đó
giảm khả năng tiếp cận phương pháp điều trị
có hệ thống. (2)
• Hội đồng khuyến cáo dùng sự quản lý ca
bệnh để đối phó với nhiều vấn đề gây ra bởi
HIV/AIDS kết hợp với lạm dụng chất gây
nghiện. Việc quản lý như vậy sẽ khuyến khích
tinh thần làm việc theo nhóm giữa các nhóm
điều trị khác nhau. Ví dụ như nếu giữa các
nhóm điều trị chính cấp, nhóm quản lý ca
bệnh nhiễm AIDS, nhóm điều trị tâm thần,
và nhóm điều trị lạm dụng chất gây nghiện
có sự liên kết với nhau sẽ mang lại lợi ích cho
bệnh nhân và góp phần cải thiện chất lượng
điều trị. (1)
• Nhằm để thực hiện liên kết đa ngành như
cần phải tuân theo một số thủ tục sau: xác
định ai là nhóm điều trị quan trọng nhất
trong hệ thống dịch vụ của bệnh nhân, xác
định bản chất của nhóm (tức là cố định hoặc
đặc biệt); thảo luận về những kỳ vọng, các
quy tắc, và cấu trúc của nhóm, thiết lập mối
liên kết chính thức với các cơ quan khác để
giúp xây dựng nhóm, nếu có hơn một vài
nhà quản lý ca bệnh thì phải chỉ định người
đứng đầu; và phải giữa bí mật tuyệt đối cho
bệnh nhân.
• Để tăng cường hiệu quả làm việc theo nhóm,
các nhóm đa ngành cần định kỳ đánh giá để
xác định xem có bất kỳ mối quan tâm hoặc
những nỗi thất vọng giữa các thành viên hay
không. Cũng cần có một định kỳ đánh giá
cho phép thành viên xem xét kỹ hơn những
gì đang và không thực hiện được. (2)
• Đôi lúc những cá nhân lạm dụng chất gây
nghiện nhiễm HIV gặp phải khó khăn trong
việc tìm kiếm và các dịch vụ cần được tài trợ
cần thiết, thì lúc đó người quản lý sẽ đóng vai
trò quan trọng trong việc giúp các cá nhân
trên tìm các dịch vụ cụ thể và gợi ý nhiều
lựa chọn cho việc tài trợ lẫn công cộng và
tư nhân. Các nhân viên tư vấn nên nắm rõ
những lựa chọn tài trợ cho các dịch vụ như
điều trị lạm dụng chất gây nghiện, điều trị
sức khỏe tâm thần, chăm sóc y tế và nha
khoa, và điều trị HIV/ AIDS. (2)
• Tư vấn viên cần có kiến thức về các tiêu
chuẩn đủ điều kiện, thời hạn dịch vụ, và sự
hỗ trợ trong đất nước của họ cho các chương
trình trợ giúp tài chính cơ bản, bao gồm cả
phúc lợi xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, thu
nhập người khuyết tật, tem phiếu thực phẩm,
và dạy nghề phục hồi nhân phẩm. (2)
• Khi gặp phải khó khăn tiềm ẩn trong việc tìm
kiếm các nguồn dịch vụ cho bệnh nhân thì
các nhà tư vấn nên khai thác các nguồn dịch
vụ thay thế, chẳng hạn như bạn bè, những
người khác có ý nghĩa trong cộng đồng, và
cộng đồng; các lĩnh vực khác của Nhà nước;
và giúp chuyển bệnh nhân đến khu vực có
sẵn các dịch vụ cần được tài trợ.
Tư Vấn Khách Hàng
• Trước khi tiến hành bất kỳ kiểm tra, đánh
giá, hoặc lập kế hoạch điều trị, tư vấn viên
phải xem xét lại quan điểm cá nhân và kinh
nghiệm làm việc với bệnh nhân lạm dụng chất
gây nghiện nhiễm HIV. Đối với nhóm điều trị,
việc đánh giá lại mức độ thoải mái với mỗi
khách hàng là vô cùng quan trọng bởi vì mỗi
khách hàng đều khác nhau về phương diện
nền tảng văn hóa và nhân khẩu học. (2)
• Thành viên nhóm điều trị phải được đào tạo
thích hợp về việc kiểm tra, đánh giá và tư vấn
khách hàng. Quan trọng nhất là họ phải luôn
trau dồi năng lực, đó là một quá trình liên
tục. (2)
• Nhóm điều trị phải nhận biết và liên kết với
các chương trình, các tổ chức khác nhằm
mang đến khách hàng sự chăm sóc tốt hơn.
Ít nhất, dịch vụ khách hàng phải bao gồm
những điều sau đây theo thứ tự ưu tiên: điều
trị lạm dụng chất gây nghiện, chăm sóc y tế,
nhà ở, chăm sóc sức khỏe tâm thần, chăm
xxvii
sóc dinh dưỡng, chăm sóc nha khoa, dịch vụ
phụ trợ, và hệ thống hỗ trợ. (2)
• Nhóm điều trị phải có biện pháp đề phòng
khi thông báo cho khách hàng kết quả xét
nghiệm HIV, cần tuân thủ các quy định để
đảm bảo giữ bí mật khách hàng. (2)
• Nhóm điều trị và tư vấn cần xem xét hai
nhân tố thiết yếu khi làm việc với những
thành phần dân số khác nhau về mặt ngôn
ngữ, văn hoá, chủng tộc hay tộc người: thứ
nhất là địa vị kinh tế xã hội, thứ hai là mức
độ giao thoa văn hóa của họ. Cần phân biệt
tập hợp dân số khi được nhắc đến như một
tổng thể với khi được nhắc đến như là một bộ
phận riêng biệt trong tổng thể. (2)
• Nhóm điều trị phải phát triển hệ thống chăm
sóc với sự am hiểu về các nền văn hóa. Một
phần trong đó là làm cho hệ thống dịch vụ
trở nên dễ tiếp cận và những người có nguy
cơ mục tiêu có thể sử dụng ở mức độ cao.
Hệ thống hiệu quả cũng sẽ nhận thức được
tầm quan trọng của văn hóa, các mối quan
hệ giao lưu văn hóa, khác biệt văn hóa, và
khả năng đáp ứng nhu cầu riêng biệt về văn
hóa. (2)
• Những khách hàng đang phải đối mặt với
tình trạng bệnh lý và thương tật ngày càng
nặng cần một loạt các dịch vụ hỗ trợ. Việc tư
vấn những khách hàng trong tình trạng nguy
kịch cần mang tính động viên khích lệ, giải
quyết các vấn đề liên quan đến bệnh tật của
khách hàng cần được thực hiện với tốc độ
tùy thuộc vào ý muốn của họ. (2)
• Nhóm điều trị cần nâng cao trình độ của
mình khi tư vấn cho những khách hàng đang
ở giai đoạn cuối của căn bệnh AIDS bằng
cách nhìn nhận lại chính quan niệm của họ
về cái chết và sắp chết. (2)
• Nhóm điều trị cần thảo luận với khách hàng
về việc lựa chọn biện pháp chăm sóc cuối
đời, chẳng hạn như việc thực hiện một ước
nguyện khi còn sống, chọn lựa người được
ủy nhiệm chăm sóc sức khỏe, vân vân, những
việc này cần được thực hiện trước khi bệnh
tình trở nên nguy kịch. (2)
• Nhằm chuẩn bị cho việc mất đi cha mẹ của
con họ, các khách hàng cần được hỗ trợ thực
tế trong những lĩnh vực sau: quyền giám hộ
hợp pháp, quyền giám hộ dự phòng, để lại
gia sản cho những người còn sống, và xoa dịu
cảm giác tội lỗi của những người ở lại. (2)
Các Vấn Đề Đạo Đức
• Do nhóm điều trị thường xuyên gặp phải
những vấn đề mang tính cảm xúc khi làm
việc với bệnh nhân lạm dụng chất gây nghiện,
họ cần các công cụ để giải quyết những tình
huống khó xử về mặt đạo đức một cách khách
quan. Bằng cách đó, và bằng cách kiểm tra
phản ứng của chính mình khi rơi vào hoàn
cảnh thực tế, nhóm điều trị sẽ có thể tiến
hành với các bước đúng đắn nhất.(2)
• Mọi chương trình điều trị cần phải có một
quy trình thống nhất khi xử lý các vấn đề liên
quan đến đạo đức. Bởi lẽ chúng thường rất
phức tạp, đến mức cần thiết phải có sự đánh
giá riêng biệt cho từng trường hợp, thế nên
tập quán của mỗi cơ sở cần bao gồm cả quy
trình tiếp cận các vấn đề về đạo đức.(2)
Các Vấn Đề Pháp Lý
• Nhóm điều trị bệnh nhân lạm dụng chất gây
nghiện sẽ có thể gặp phải sự kỳ thị đối với
khách hàng của họ khi cố gắng kết nối đến
các dịch vụ. Tư vấn viên nên biết rõ Luật pháp
Liên bang và Nhà nước về bảo vệ người khuyết
tật và cách thức áp dụng luật này cho người
lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV. (2)
• Mặc dù luật pháp Liên bang bảo vệ thông
tin khách hàng điều trị lạm dụng chất gây
nghiện và luật pháp Nhà nước bảo vệ thông
tin liên quan đến HIV/AIDS, cả hai đều cho
phép khách hàng được tiết lộ thông tin ở mức
độ khác nhau. Vì vậy, khi nhân viên điều trị
dự tính thực hiện việc công bố thông tin về
một khách hàng đang điều trị lạm dụng chất
gây nghiện bị nhiễm HIV/AIDS, thì cần phải
xem xét hai bộ luật trên.
• Các quy tắc về bảo mật trong điều trị lạm
dụng chất gây nghiện đối với người nhiễm
xxviii
HIV/AIDS rất cụ thể. Thông thường, sẽ
không có hơn 2 điều khoản được áp dụng
trong bất kỳ tình huống cụ thể nào. Trường
hợp tiết lộ thông tin về việc điều trị lạm dụng
chất gây nghiện phải theo lộ trình an toàn
do luật pháp Liên bang quy định. Trường
hợp tiết lộ thông tin về điều trị liên quan đến
HIV/AIDS, lộ trình cần tuân thủ với quy
định của cả hai bộ luật (Liên bang và Nhà
nước). Khi có nghi vấn, cách tốt nhất là áp
dụng điều luật quy định khắt khe hơn. (2)
• Bất cứ tư vấn viên hay chương trình nào đang
cân nhắc việc cảnh báo ai đó về tình trạng
HIV/AIDS của một khách hàng mà không
được sự đồng ý của khách hàng đó cần phân
tích thận trọng rằng liệu trong thực tế, có hay
không nghĩa vụ phải cảnh báo và liệu có thể
thuyết phục khách hàng tự thực hiện việc này,
hoặc đồng ý cho nhân viên của chương trình
điều trị tiến hành việc này hay không. (2)
Cân Nhắc Về Chính Sách Và
Kinh Phí
• Tối thiểu, các chương trình điều trị nhận
được tài trợ khi điều trị cho phụ nữ cũng
phải được cung cấp hoặc có chế độ đãi ngộ
đối với những dịch vụ dành cho phụ nữ
mang thai và có con, bao gồm cả những phụ
nữ đang cố gắng giành lại quyền nuôi con:
chăm sóc y tế ban đầu, chăm sóc trẻ em tiểu
học (bao gồm cả chủng ngừa), chế độ điều
trị chuyên biệt cho mỗi giới đối với người lạm
dụng chất gây nghiện, can thiệp y tế đối với
trẻ em thuộc quyền chăm sóc của người nữ
đang điều trị, và quản lý đầy đủ từng ca cũng
như việc di chuyển. (1)
• Những bang có tỷ lệ số ca nhiễm AIDS
nhất định phải dành ít nhất 5% trong tổng
Quỹ Phòng chống và Điều trị Lạm dụng
Chất gây nghiện (SAPT) cho các dịch vụ
can thiệp bước đầu về HIV/AIDS dành cho
những người đang điều trị lạm dụng chất gây
nghiện. Dịch vụ can thiệp bước đầu về HIV/
AIDS được định nghĩa là việc tư vấn tiền xét
nghiệm, dịch vụ xét nghiệm, và tư vấn hậu
xét nghiệm. Tất cả các chủ thể cung cấp dịch
vụ can thiệp bước đầu về căn bệnh HIV cho
một cá nhân nào đó phải tuân thủ các điều
khoản về thanh toán và các hạn chế về kinh
phí tài trợ. (1)
• Bất cứ tổ chức nào được hỗ trợ kinh phí từ
quỹ SAPT dành cho dịch vụ điều trị người
tiêm chích ma túy phải tích cực vận động
người nghiện tham gia điều trị. Liên bang
yêu cầu các tổ chức sử dụng những mô
hình có cơ sở khoa học vững chắc, hoặc nếu
không thì sử dụng những mô hình có sẵn để
có phương thức tiếp cận hợp lý, có triển vọng
tạo được hiệu quả. (1)
11 Giới thiệu về HIV/AIDS
Các trường hợp đầu tiên của hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
(AIDS) được báo cáo tại Hoa Kỳ vào mùa xuân năm 1981. Đến năm 1983
vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV), vi rút gây bệnh AIDS, đã bị
phân lập. Những năm đầu của đại dịch HIV/AIDS ở Mỹ, việc lạm dụng
chất gây nghiện được xác định là nguyên nhân gây lây lan bệnh AIDS. Sử
dụng ma túy qua đường tiêm chích (IDU) được xác định là con đường lây
nhiễm HIV trực tiếp và lây truyền giữa những người tiêm chích ma túy.
Nhóm lớn nhất các trường hợp nhiễm AIDS đầu tiên gồm những người
đồng tính nam và người lưỡng tính (nam giới có quan hệ tình dục với nam
giới (hoặc MSM). Các trường hợp nhiễm HIV đầu tiên do lây nhiễm qua
đường quan hệ tình dục thường có liên quan đến việc sử dụng rượu và các
chất gây nghiện khác, và đa số các trường hợp này xảy ra ở những người
nam giới có quan hệ tình dục đồng giới. Đó là những người da trắng, sống
ở thành thị và có giáo dục.
Hiện nay, số người tiêm chích ma túy đại diện cho tỉ lệ dân số lạm dụng
chất gây nghiện nhiễm HIV lớn nhất tại Hoa Kỳ. Tỷ lệ người nhiễm HIV/
AIDS trong số những người tiêm chích ma túy khác nhau theo khu vực địa
lý.Thep khảo sát của các Trung tâm điều trị lạm dụng chất gây nghiện, các
vùng Đông Bắc, miền Nam, và Puerto Rico có tỉ lệ cao nhất Hoa Kỳ. Từ
tháng 7 năm 1998 đến tháng 6 năm 1999, 23% trường hợp mắc AIDS ở
cả nam và nữ là do tiêm chích ma túy (Theo Trung tâm Kiểm soát và Ngăn
ngừa Dịch bệnh [CDC], 1999b).
Tiêm chích ma túy là con đường lây nhiễm HIV nhanh và hiệu quả. Vi rút
HIV được truyền chủ yếu qua đường máu do sử dụng bơm kim tiêm, ống
chích, hoặc các loại dụng cụ tiêm chích ma túy khác (ví dụ như bếp, nước
rửa, bông) mà trước đó được sử dụng bởi một người nhiễm HIV. Thiếu
kiến thức về kỹ thuật sử dụng kim tiêm an toàn và thiếu những giải pháp
thay thế cho việc sử dụng chung kim (ví dụ: chuẩn bị sẵn kim tiêm mới và
sạch) góp phần làm gia tăng HIV/AIDS.
2 Giới thiệu về HIV/AIDS
Con đường lây nhiễm HIV khác giữa những
người tiêm chích ma túy là do quan hệ tình dục
trong các mạng lưới hoạt động tình dục đóng,
có nghĩa là có nhiều bạn tình, quan hệ tình
dục không có biện pháp bảo vệ, và bán dâm
(Friedman và cộng sự, 1995.). Việc sử dụng
rượu và các chất gây nghiện không tiêm chích
khác càng làm tăng thêm các ca nhiễm HIV/
AIDS (Edlin và cộng sự, 1994; Grella và cộng
sự, 1995.).
Một yếu tố nguy cơ chính gây lây nhiễm HIV/
AIDS giữa những người tiêm chích ma túy là
việc sử dụng nhiều lần, một nghiên cứu cho
thấy rằng những người lạm dụng với mức độ
cao cho biết càng có nhiều bạn tình trong 12
tháng trước đó, thì họ càng mắc phải nhiều
bệnh lây qua đường tình dục (STDs) trong thời
gian sống của họ, và tần suất càng lớn hơn nếu
họ thực hiện hành vi mua bán dâm, quan hệ
tình dục vì thuốc, và quan hệ tình dục với người
tiêm chích ma túy (Word và Bowser, 1997).
Dưới đây là những khái niệm quan trọng về
HIV/AIDS và các bệnh lí rối loạn lạm dụng
chất gây nghiện có ảnh hưởng đến việc xây
dựng TIP này:
• Lạm dụng chất gây nghiện làm tăng nguy
cơ nhiễm HIV. Nhiễm HIV căn bản là do
sử dụng kim tiêm bị ô nhiễm hoặc đã qua
sử dụng để tiêm chích hêrôin. Ngoài ra,
những người lạm dụng chất gây nghiện có
thể đặt mình vào nguy cơ lây nhiễm HIV nếu
tham gia vào các hành vi quan hệ tình dục
không an toàn để đổi lấy bột hoặc côcain.
Tuy nhiên, thực tế này không giảm thiểu tác
động của các chất gây nghiện khác nếu được
sử dụng (ví dụ như các chất gây ảo giác, các
chất xông/hít, các chất kích thích, thuốc kê
theo toa ).
• Những người lạm dụng chất gây nghiện có
nguy cơ bị nhiễm HIV thông qua hành vi
quan hệ tình dục. Khi đang bị ảnh hưởng
bởi chất gây nghiện, hoặc bị cưỡng chế, cả
nam và nữ đều có thể có các hành vi tình dục
không an toàn (ví dụ: quan hệ tình dục bằng
miệng, hoặc qua đường âm đạo, hậu môn
không được bảo vệ; sử dụng chung đồ chơi
tình dục; tiếp xúc hoặc nuốt các chất dịch
hoặc chất thải của cơ thể, quan hệ tình dục
với người bị nhiễm HIV) nhằm mục đích có
được các chất gây nghiện.
• Điều trị lạm dụng chất gây nghiện phục
vụ cho việc phòng chống HIV. Điều trị lạm
dụng chất gây nghiện song hành với việc
chăm sóc và điều trị liên tục cho bệnh nhân
sẽ giúp giảm thiểu việc liên tục sử dụng các
chất gây nghiện nguy hiểm. Giảm sự lệ thuộc
của bệnh nhân vào chất gây nghiện sẽ làm
giảm khả năng lây nhiễm.
• Các chứng rối loạn lạm dụng chất gây
nghiện, HIV/AIDS, và các chứng rối loạn
tâm thần tương tác với nhau một cách phức
tạp. Mỗi chứng rối loạn giống như một chất
xúc tác tiềm năng hoặc gây trở ngại cho
việc điều trị quá trình khác, ví dụ điều trị
lạm dụng chất gây nghiện có thể ảnh hưởng
tiêu cực đến việc tuân thủ các phác đồ điều
trị HIV/AIDS; Rối loạn lạm dụng chất gây
nghiện và HIV/AIDS luôn gắn liền với các
chứng rối loạn; HIV/AIDS đang làm thay
đổi diện mạo và bộ mặt của việc điều trị
lạm dụng chất gây nghiện; các vấn đề pháp
lý phức tạp phát sinh khi điều trị lạm dụng
chất gây nghiện và HIV/AIDS, những phụ
nữ nhiễm HIV bị rối loạn lạm dụng chất gây
nghiện có những nhu cầu đặc biệt.
• Giảm thiểu rủi ro cho phép tiếp cận việc
dự phòng HIV/AIDS một cách toàn diện.
Chiến lược này thúc đẩy thay đổi các hành
vi liên quan đến chất gây nghiện và tình dục
nhằm giảm thiểu rủi ro mắc phải hoặc lây
truyền HIV của khách hàng.
Phần đầu của chương này cung cấp một cái
nhìn tổng quan về nguồn gốc của HIV/AIDS
và sự lây truyền và tiến triển của bệnh. Phần
thứ hai của chương trình bày tóm tắt các dữ
liệu dịch tễ học từ CDC. Phần thứ hai này thảo
luận về tác động của HIV/AIDS lên các vùng
ở Hoa Kỳ và thành phần dân số mà có nguy cơ
lây nhiễm HIV cao nhất.
3Giới thiệu về HIV/AIDS
Tổng quan về HIV/AIDS
Nguồn gốc của HIV/AIDS
Trong số nhiều lý thuyết và huyền thoại về
nguồn gốc của HIV, lời giải thích có vẻ hợp lý
nhất là HIV xuất hiện từ loài khỉ. Một nghiên
cứu gần đây (Gao và cộng sự, 1999) xác định
được một phân loài của loài tinh tinh có nguồn
gốc ở phía tây xích đạo Châu Phi là nguồn gốc
của HIV-1, đây là loại vi rút gây ra đại dịch
AIDS toàn cầu. Các nhà nghiên cứu tin rằng vi
rút lây từ khỉ sang người khi các thợ săn đã tiếp
xúc với máu bị nhiễm bệnh. Khỉ có thể mang
một loại vi rút tương tự như HIV, được gọi là
SIV (vi rút gây suy giảm miễn dịch ở khỉ), và có
các bằng chứng chứng minh HIV và SIV có liên
quan với nhau (Simon và các cộng sự, 1998;
Zhu và cộng sự, 1998).
AIDS xuất hiện là do lây nhiễm HIV và có
đặc điểm là làm giảm nghiêm trọng các tế bào
CD4 + T, có nghĩa là một người nhiễm HIV
có hệ thống miễn dịch rất yếu và dễ mắc phải
các bệnh lây nhiễm đe dọa đến tính mạng (như
bệnh viêm phổi do Pneumocystis carinii). AIDS
xuất hiện ở giai đoạn sau của bệnh HIV.
Quá trình theo dõi bệnh tại Hoa Kỳ bắt đầu từ
rất sớm sau khi phát hiện ra đại dịch, nhưng
ngay cả đến nay, việc theo dõi dữ liệu chỉ cho
thấy có bao nhiêu cá nhân mắc AIDS, chứ
không chỉ ra có bao nhiêu người đã nhiễm HIV.
Các ca mắc AIDS được tính toán giống như
phần nổi của tảng băng, trong khi phần lớn
hơn là HIV lại bị nhận chìm xuống nước. Nhiều
Bang đang tính toán các trường hợp nhiễm
HIV hiện nay và đã nhận lại những kết quả tích
cực từ việc điều trị lây nhiễm ngay ở các giai
đoạn đầu và bởi vì việc chỉ tính đến các trường
hợp mắc AIDS đã không còn đủ khả năng để
xác định các xu hướng của đại dịch. Tuy nhiên,
vì người nhiễm HIV thường không phát hiện
các triệu chứng trong nhiều năm, nên họ có thể
không được xét nghiệm hoặc không nằm trong
số các trường hợp đợc tính toán. CDC ước tính
có khoảng 650.000 đến 900.000 người ở Hoa
Kỳ hiện đang sống chung với HIV (theo CDC,
1997c).
Năm 1996, số trường hợp mắc AIDS mới
(không phải trường hợp nhiễm HIV) và tử vong
do AIDS đã bắt đầu giảm ở Hoa Kỳ kể từ lần
đầu tiên kể vào năm 1981. Tử vong do AIDS
đã giảm từ năm 1996 ở tất cả các nhóm chủng
tộc và sắc tộc và giữa nam và nữ (theo CDC,
1999a). Tuy nhiên, các dữ liệu gần đây nhất
của CDC cho thấy tỉ lệ giảm này đang diễn ra
chậm lại (theo CDC, 1999b).
Tỉ lệ giảm này là nhờ vào những tiến bộ trong
điều trị HIV bằng nhiều loại thuốc, hay điều trị
kết hợp; các phương pháp điều trị nhằm ngăn
ngừa nhiễm trùng cơ hội thứ cấp; và giảm tỷ
lệ nhiễm HIV vào giữa những năm 1980 trước
khi giới thiệu các liệu pháp kết hợp. Điều thứ
hai có thể là nhờ vào các dịch vụ cải thiện cho
người có HIV và tiếp cận chăm sóc sức khỏe.
Nói chung, những người được tiếp cận với hệ
thống chăm sóc HIV/AIDS liên tục và tốt nhất
sẽ tăng cơ hội sống lâu hơn.
HIV/AIDS vẫn chủ yếu là căn bệnh của những
nhóm nam có quan hệ đồng giới và nam giới
tiêm chích ma tuý, nhưng nó lại đang lây lan
nhanh nhất ở phụ nữ và thanh thiếu niên, đặc
biệt trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi và gốc
Tây Ban Nha. HIV là một loại vi rút phát triển
mạnh tại một số điều kiện sinh thái nhất định.
Các điều kiện sau đây sẽ dẫn đến tỷ lệ lây nhiễm
cao hơn: một loại vi rút mạnh hơn, nồng độ vi
rút cao, sự phổ biến của các loại bệnh lây qua
đường tình dục (STDs), lạm dụng thuốc, sự
lan tràn của huyết thanh mang HIV cao trong
cộng đồng, tỉ lệ các hoạt động quan hệ tình dục
không được bảo vệ với nhiều bạn tình cao, và
cơ hội tiếp cận thấp với hệ thống chăm sóc sức
khỏe. Những điều kiện sinh thái trên tồn tại ở
một mức độ lớn giữa các cộng đồng người tiêm
chích ma túy ở đô thị, nghèo khổ và tách ra
khỏi đời sống xã hội.
Do đó, những người nam có quan hệ tình dục
đồng giới và phụ nữ Mỹ gốc Phi và gốc Tây
Ban Nha, con cái của họ, và thanh thiếu niên
trong các cộng đồng này có nguy cơ mắc HIV
rất cao.
4 Giới thiệu về HIV/AIDS
Lây truyền HIV
HIV không thể tồn tại bên ngoài tế bào của con
người. HIV phải được truyền trực tiếp từ người
này sang người khác qua chất dịch cơ thể có
chứa tế bào nhiễm HIV, như máu, tinh dịch,
dịch tiết âm đạo, hoặc sữa mẹ. Con đường lây
truyền HIV hiệu quả nhất là tiếp xúc trực tiếp
giữa máu của một người nhiễm HIV và máu
của người khác. (Xem Hình 1-1 về minh họa
cấu trúc của vi rút). Điều này có thể xảy ra
khi sinh con cũng như thông qua truyền máu
hoặc cấy ghép nội tạng trước năm 1985. (Xét
nghiệm các nguồn cung cấp máu bắt đầu vào
năm 1985, và các cơ hội lây truyền này đã giảm
đáng kể.) Sử dụng thiết bị tiêm chích đã được
một người nhiễm HIV sử dụng trước đó là con
đường truyền HIV trực tiếp khác.
Hình 1-1
Cấu trúc của HIV
Vi-rút làm suy giảm hệ miễn dịch ở người (HIV)
Màng Lipid
GP120
GP41
RNA
P18
P24
HIV
HIV nảy chồi
Protein
thiết yếu
Provirus
Virus
RNA
Virus RNA
T4 lymphocyte
Lymphocyte nucleus
Virus DNA
Reverse
transcriptase
RNA DNA
Màng Lipid
Nguồn: Packer, 1998. Được phép in lại.
5Giới thiệu về HIV/AIDS
Quan hệ tình dục cũng là một đường truyền
HIV hiệu quả bởi vì các mô của trực tràng, hậu
môn và âm đạo là bề mặt niêm mạc có thể chứa
chất dịch cơ thể người bị nhiễm bệnh HIV và
các bề mặt này có thể dễ dàng bị tổn thương,
cho phép vi rút xâm nhập vào cơ thể. Một người
có khả năng nhiễm HIV qua đường hậu môn
cao gấp khoảng năm lần thông qua giao hợp
âm đạo vì các mô của khu vực hậu môn dễ bị
phá vỡ và chảy máu trong khi sinh hoạt tình
dục (Royce và Cộng sự, 1997).
Phụ nữ có khả năng nhiễm HIV qua quan hệ
bằng đường âm đạo cao gấp 8 lần nếu người
đàn ông bị nhiễm HIV hơn là trong tình hình
ngược lại (Trung tâm Nghiên cứu Phòng chống
AIDS, 1998). HIV có thể truyền từ người nữ
sang người nam trong khi giao hợp, nhưng điều
này ít xảy ra vì da của dương vật không dễ dàng
bị tổn thương.
Lây nhiễm HIV từ nữ giới qua nữ giới rõ ràng
là rất hiếm, nhưng cần được xem xét như là một
phương tiện có thể lây truyền vì khả năng tiếp
xúc với các màng nhầy để tiết âm đạo và máu
trong kỳ kinh nguyệt (CDC, 1997a).
Quan hệ tình dục bằng miệng cũng là một nguy
cơ tiềm năng, nhưng ít có khả năng truyền bệnh
hơn so với giao hợp qua đường hậu môn hoặc
âm đạo. Nước bọt dường như có một số tác
dụng giúp ngăn ngừa lây nhiễm HIV, và các mô
ở miệng ít có khả năng bị thương trong khi sinh
hoạt tình dục so với âm đạo hoặc hậu môn. Tuy
nhiên, nếu một người đã bị nhiễm trùng hoặc
chấn thương trong miệng hoặc nướu răng, thì
nguy cơ nhiễm HIV qua đường quan hệ tình
dục bằng miệng sẽ tăng.
Vai trò của cắt bao quy đầu đối với
sự lây nhiễm HIV ở nam giới
Một khả năng liên kết giữa nam giới cắt bao
quy đầu và lây nhiễm HIV được quan sát lần
đầu tiên trong quá trình nghiên cứu được tiến
hành tại Kenya cuối thập niên 1980 (Cameron
và cộng sự, 1998; Greenblatt và cộng sự, 1988;
Simonsen và cộng sự, 1988). Kể từ đó, nhiều
nghiên cứu đã được thực hiện dựa trên các mối
quan hệ có thể có giữa nam giới cắt bao quy
đầu và nhiễm HIV. Các dữ liệu đã không tiết
lộ mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa cắt bao
quy đầu và lây nhiễm HIV, và quan điểm khoa
học đã được chia ra về chủ đề này. Trong khi
một số nghiên cứu chỉ ra rằng cắt bao quy đầu
có thể đóng vai trò bảo vệ trong việc ngăn ngừa
lây nhiễm HIV (Kelly và cộng sự, 1999; Moses
và cộng sự, 1998;... Urassa và cộng sự, 1997),
thì phần lớn còn lại các nghiên cứu khoa học
gần đây đã kết luận rằng điều ngược lại là đúng
sự thật và cắt bao quy đầu thực sự có thể làm
tăng tỷ lệ lây nhiễm HIV (Van Howe, 1999).
Rõ ràng, nghiên cứu và phân tích xa hơn về việc
cắt bao quy đầu như là cách dự phòng chống
lây nhiễm HIV là điều cần thiết.
Nguy cơ lây truyền
Một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ lây nhiễm
HIV. Yếu tố đầu tiên là sự hiện diện của một
bệnh lây qua đường tình dục khác (ví dụ, bệnh
loét bộ phận sinh dục) ở bạn tình, điều này làm
tăng nguy cơ lây nhiễm HIV qua đường tình
dục. Bởi vì cùng các hành vi nguy cơ dẫn đến
những người mắc bệnh lây qua đường tình dục
này tăng khả năng lây nhiễm HIV. STDs cũng có
thể gây tổn thương bộ phận sinh dục, mở đường
cho HIV xâm nhập, các bệnh này có thể làm
tăng số lượng các tế bào mục tiêu của HIV (tế
bào CD4 + T), và làm cho người này chịu một
nồng độ tập trung cao của HIV (CDC, 1998a).
Vì lý do này, tất cả các khách hàng hoạt động
tình dục, đặc biệt là phụ nữ, nên được kiểm tra
STDs thường xuyên như bệnh lậu và chlamydia.
Nhiều STDs gây ra các triệu chứng ở nam giới
lại không có triệu chứng ở nữ giới. Khi các vết
loét sinh dục được điều trị và chữa khỏi, nguy cơ
lây nhiễm HIV sẽ giảm xuống.
Một yếu tố khác làm tăng nguy cơ lây nhiễm là
nồng độ HIV lưu truyền trong máu cao. Điều
này xảy ra ngay sau khi nhiễm trùng ban đầu
và trở lại vào giai đoạn cuối của bệnh. Điều trị
bằng thuốc mới có thể giữ nồng độ này (gọi
là nồng độ vi rút) thấp hoặc không phát hiện
được, nhưng điều này không có nghĩa là các
cá nhân khác không thể bị nhiễm bệnh. Vi rút
HIV vẫn còn tồn tại –chỉ đơn giản là không thể
6 Giới thiệu về HIV/AIDS
phát hiện được bằng các xét nghiệm hiện đang
có sẵn. Vì mối tương quan giữa huyết tương
và chất lỏng sinh dục chứa nồng độ vi rút biến
đổi, nên sự lây truyền vẫn có thể xảy ra mặc
dù không phát hiện được nồng độ vi rút trong
huyết thanh (Liuzzi và cộng sự, 1996.).
Một khi HIV lây nhiễm cho người chưa bị
nhiễm HIV mà không sử dụng thuốc chống
HIV, thì vi rút tái sinh sản rất nhanh chóng.
Người ta biết rằng những vi rút kháng thuốc có
thể được truyền từ người này sang người khác.
Những biện pháp chữa trị cho người bị nhiễm
vi rút kháng thuốc vẫn chưa được biết, nhưng
cách chữa trị có thể là rất khó.
Có nhiều quan niệm sai lầm khi xem xét việc
lây nhiễm HIV. Ví dụ, HIV không lây truyền từ
người này sang người kia qua tiếp xúc thường
ngày vốn không liên quan đến việc truyền máu
hay quan hệ tình dục. Nó không lây nhiễm qua
muỗi và không truyền qua chỗ ngồi trong nhà
vệ sinh hay từ việc ăn thức ăn được chuẩn bị
bởi người mắc bệnh AIDS. Chưa có ai bị nhiễm
AIDS bằng cách hôn một người mắc bệnh
AIDS, hay thậm chí là dùng chung bàn chải
đánh răng (dù việc dùng chung bàn chải đánh
răng vẫn không được khuyến khích). Các quan
niệm sai lầm khác mà người ta có thể có bao
gồm những quan niệm sau:
• “Nó không thể xảy ra với tôi.” –HIV có
thể lây nhiễm cho bất kỳ ai có quan hệ tình
dục, hay dùng chung dụng cụ tiêm chích với
người nhiễm bệnh.
• “Tôi sẽ biết nếu như bạn tình (hay người
dùng chung dụng cụ tiêm chích) của tôi bị
nhiễm bệnh.”—Hầu hết những người nhiễm
HIV đều không có biểu hiện hay cảm thấy
bị ốm và thậm chí không biết rằng họ đã bị
nhiễm bệnh.
• “Miễn là tôi được điều trị cho bất kỳ bệnh
lây nhiễm qua đường tình dục nào tôi mắc
phải, thì tôi sẽ an toàn” – Không hình thức
chữa bệnh nào hiện nay có thể chữa được
hay phòng được HIV, và dù việc chữa các
bệnh lây nhiễm khác làm giảm nhẹ nguy
cơ, thì vẫn có nguy cơ cao mắc bệnh HIV
thông qua quan hệ tình dục không có biện
pháp bảo vệ hay dùng chung dụng cụ tiêm
chích.
• “Nếu tôi chỉ có một bạn tình, và không dùng
chung dụng cụ tiêm chích, thì tôi không cần
lo về HIV”—Điều này chỉ đúng khi người
bạn tình không bị lây nhiễm và không gặp
phải nguy cơ nhiễm bệnh nào sau đó. Nếu
người bạn tình bị nhiễm hoặc có khả năng
bị nhiễm, thì bất cứ ai quan hệ tình dục với
người đó hay dùng chung dụng cụ tiêm chích
với người đó đều có nguy cơ nhiễm HIV cao.
• “Nếu tôi rửa hay tắm sau khi quan hệ tình
dục, tôi sẽ không nhiễm HIV”—Rửa và tắm
sẽ không ngăn được HIV.
• “Nếu tôi không cho ai dùng chung ống tiêm,
tôi sẽ không nhiễm HIV” –HIV cũng có thể
lây nhiễm qua xoong nồi, máy lọc và thuốc
dùng chung.
Vòng đời của HIV
Có thể ngăn ngừa lây nhiễm thậm chí sau khi
giải phóng HIV. Ở San Francisco, phương pháp
phòng bệnh sau khi giải phóng được đề xuất sử
dụng ở những người tin là mình có nguy cơ lây
nhiễm HIV cao vì tiếp xúc với một người đã biết
hoặc bị nghi ngờ là nhiễm HIV. Biện pháp chữa
trị được bắt đầu trong vòng 72 giờ sau khi tiếp
xúc và bao gồm liệu pháp kết hợp. Liệu pháp
này có thể bao gồm một thuốc ức chế proteaza,
dùng trong 1 tháng và được dùng tiếp sau đó
trong 12 tháng.
Một khi một lượng nhỏ HIV xâm nhập vào cơ
thể một người, nó bám vào bề mặt của một tế
bào mục tiêu (tế bào CD4+ T). Vi rút thâm
nhập vào vỏ ngoài tế bào bằng cách trút bỏ vỏ
vi rút của nó, cho phép lượng HIV giải phóng
một chuỗi axit ribonucleic HIV (RNA) vào tế
bào. Chuỗi axit này sau đó biến đổi thành axit
deoxyribonucleic (DNA). DNA HIV thâm nhập
vào nhân tế bào và được sao chép lên nhiễm sắc
thể của tế bào. Điều này dẫn tới việc tế bào bắt
đầu tái sản xuất ra nhiều HIV hơn, và cuối cùng,
tế bào phóng thích những lượng HIV nhiều hơn.
Sau đó những lượng mới này bám vào các tế bào
mục tiêu khác và chúng trở thành nhiễm bệnh.
Hình 1-2 minh họa HIV xâm nhập một tế bào
CD4+ T và tái sinh sản ra sao.
7Giới thiệu về HIV/AIDS
Hình 1-2
Giản đồ HIV xâm nhập tế bào và tái sinh sản
1 Nhà của HIV trong
tế bào CD4+T
2 Màng bao bên
ngoài bị loại bỏ
3 Chuỗi RNA có HIV
chuyển thành ADN
7 HIV bùng phát từ
tế bào
Tế bào CD4+T
Nhân tế bào
4 AND chứa
HIV tấn
công nhân
tế bào
5 AND chỉ huy
nhiễm sắc
thể bên trong
nhân để tạo
nhiều HIV
hơn
6 Màng bao mới
gắn với vi-rút HIV
Nguồn: Packer 1998. Được phép in lại
1
2
3
4
5
7
6
8 Giới thiệu về HIV/AIDS
Đo lượng HIV trong máu
Các bác sĩ có thể đo sự hiện diện của HIV trong
một người bằng các số liệu là (1) lượng tế bào
CD4+ T và (2) lượng vi rút. Lượng tế bào
CD4+ T đo số lượng tế bào CD4+ T (tức là
lượng tế bào bạch huyết) trong một mililit máu.
Đây là lượng tế bào mà HIV có khả năng lây
nhiễm nhất, và số lượng những tế bào này phản
ánh sức khỏe tổng quát của hệ miễn nhiễm của
một người.
Những tế bào CD4+ T hoạt động như những
dấu hiệu thông báo cho hệ miễn nhiễm của một
cơ thể rằng một căn bệnh lây nhiễm đang tồn
tại và cần phải chống lại. Vì HIV trốn đằng sau
chính những tế bào chịu trách nhiệm cho việc
báo hiệu sự tồn tại của nó, nên nó có thể sống
sót và tái sinh sản mà người bị nhiễm không
biết gì về sự tồn tại của nó trong nhiều năm.
Mặc dù cơ thể có thể sản xuất lượng tế bào
CD4+ T tương ứng để thay thế cho hàng tỷ
tế bào bị HIV chưa được chữa trị phá hủy mỗi
ngày, nhưng cuối cùng thì HIV giết nhiều tế
bào CD4+ T đến nỗi hệ miễn nhiễm bị tổn hại
không thể kiểm soát nỗi các bệnh lây nhiễm
khác, những bệnh này có thể làm người đó bị
ốm. Đây là giai đoạn cuối của HIV, khi mà
AIDS thường được chẩn đoán dựa trên sự hiện
diện của những bệnh cụ thể (tức là những bệnh
nhiễm trùng cơ hội).
Lượng vi rút thể hiện trong mức độ RNA HIV
(thông tin di truyền) tuần hoàn trong dòng
máu. Mức độ này trở nên rất cao không lâu
sau khi một người mới bị nhiễm HIV, sau đó nó
giảm xuống. Các cuộc kiểm tra lượng vi rút đo
được số bản sao vi rút trong một mililit huyết
tương, những cuộc kiểm tra hiện nay có thể
đếm được 50 bản sao trong mỗi mililit, và thậm
chí nhiều cuộc kiểm tra chi tiết hơn có thể đo
được 5 bản sao trong mỗi mililit.
Để giải thích mối quan hệ giữa lượng tế bào
CD4+ T và lượng vi rút và chúng được sử dụng
kết hợp ra sao để xác định giai đoạn tiến triển
bệnh của một người, có thể sử dụng một phép
loại suy “con tàu chuyển động”. Lượng tế bào
CD4+ T được dùng để đo khoảng cách của
một người tới điểm có nguy cơ cao trong việc
nhiễm các bệnh nhiễm trùng cơ hội, hay chết.
Lượng vi rút được dùng để đo mức độ các tế
bào CD4 + T bị phá hủy. Do đó, lượng tế bào
CD4+ T là vị trí của con tàu trên đường ray,
còn lượng vi rút là tốc độ của con tàu đi đến kết
cục (tức là AIDS và sau đó là cái chết).
Sau khi một người bị nhiễm HIV, cơ thể cần
khoảng 6 đến 12 tuần và thỉnh thoảng khoảng
6 tháng để sản sinh các protein chống lại vi
rút. Các protein này được gọi là các kháng thể
HIV (protein chống bệnh tật) và được tìm thấy
trong một phương pháp kiểm tra HIV có tên là
ELISA(enzyme-linked immunosorbent assay).
Xét nghiệm ELISA rất chi tiết – nó gần như
luôn luôn phát hiện ra HIV nếu có). Các công
trình xét nghiệm ELISA hiếm khi cho kết quả
dương tính sai (kết quả dương tính ở những
người không bị nhiễm). Vì thế, một kết quả
ELISA dương tính phải luôn được xác nhận
bằng một xét nghiệm thứ hai, chi tiết hơn được
gọi là vệt Western. Theo CDC, mức độ chính
xác của ELISA và vệt Western kết hợp với nhau
là cao hơn 99 phần trăm. Các phương pháp xét
nghiệm HIV nhanh và các phép kiểm tra tại
nhà cũng là lựa chọn cho các bệnh nhân; xem
Chương 2 để biết cuộc thảo luận chi tiết hơn về
các kiểu xét nghiệm này.
6 đến 12 tuần giữa thời gian nhiễm bệnh và thời
gian một cuộc xét nghiệm HIV của ELISA trở
nên dương tính được gọi là “giai đoạn cửa sổ”.
Trong suốt thời gian này, người đó sẽ dễ dàng
nhiễm bệnh cho bất kỳ bạn tình hay người dùng
chung kim tiêm nào nhưng không có kết quả
xét nghiệm dương tính nếu một cuộc kiểm tra
lượng vi rút đắt tiền hơn không được thực hiện.
Lượng vi rút được xác định bằng cách dùng một
phương pháp kiểm tra lượng vi rút; ba loại kiểm
tra lượng vi rút là phản ứng chuỗi polymerase
RNA-HIV (PCR), DNA nhánh HIV (bDNA),
và phương pháp khuếch đại dựa trên các dãy
axit nucleic RNA-HIV (NASBA). Mỗi phương
pháp kiểm tra này đo đạc số lượng vi rút đang
sao chép hay đang sinh sản trong máu; do đó
một giá trị thấp hơn cho thấy nguy cơ thấp hơn
của tiến triển nhanh chóng. Kết quả kiểm tra
lượng vi rút tốt nhất là “không được tìm thấy”,
9Giới thiệu về HIV/AIDS
dù điều này không có nghĩa là vi rút biến mất,
chỉ có nghĩa là nó không tái sinh sản năng động
ở một mức độ có thể đo được.
Tiến triển bệnh
Một khi một người đã nhiễm HIV, người đó
nên hiểu tiến triển bệnh đi từ lây nhiễm ban
đầu, đến thời kỳ ủ bệnh, nhiễm bệnh có triệu
chứng, và cuối cùng là AIDS. Người ta không
biết con đường của HIV không được chữa trị
nhưng nó có thể kéo dài 10 năm hay lâu hơn
ở một số người. Trong vài năm bị nhiễm HIV,
các triệu chứng nhẹ có thể phát triển, sau đó là
những bệnh nhiễm trùng nặng cho thấy AIDS
xảy ra. Việc chữa trị có vẻ làm kéo dài cuộc
sống một cách đáng kể và cải thiện chất lượng
cuộc sống ở hầu hết các bệnh nhân, dù việc dự
đoán khả năng sống sót sau khi chẩn đoán mắc
bệnh AIDS thì không chính xác.
Lây nhiễm ban đầu
Việc lây nhiễm HIV ban đầu có thể gây ra hội
chứng kháng vi rút đột ngột, hội chứng này
thường bị lầm là bệnh cúm, bệnh tăng bạch cầu
đơn phân, và hay một trận cảm lạnh nặng. Hội
chứng này được ghi nhận ở khoảng nửa số người
nhiễm HIV (Russell và Sepkowitz, 1998) và
thường xảy ra giữa 2 và 6 tuần sau khi bị nhiễm.
Các triệu chứng có thể bao gồm sốt, nhức đầu,
đau họng, mệt mỏi, đau toàn thân, sụt cân, và
sưng hạch bạch huyết. Các triệu chứng khác là
phát ban, loét miệng hay cơ quan sinh dục, tiêu
chảy, buồn nôn và nôn, và chứng tưa. Lượng
CD4+ T có thể rơi xuống rất thấp trong suốt
những tuần đầu, dù nó thường trở lại mức độ
bình thường sau khi cơn bệnh đầu tiên chấm
dứt. Cơn bệnh đầu tiên có thể kéo dài vài ngày
hay thậm chí vài tuần.
Sự lan truyền HIV lớn nhất xảy ra khắp thân thể
lúc mới bệnh. Khoảng 6 tháng sau khi nhiễm
bệnh, lượng vi rút sản sinh ra mỗi ngày có thể
đạt đến “điểm thắng”. Một điểm thắng cao hơn
thường có nghĩa là tiến triển bệnh HIV nhanh
hơn. Các bác sĩ có thể sẽ đề xuất biện pháp
chữa trị ban đầu để giảm điểm thắng, có khả
năng dẫn đến cơ hội tốt hơn trong việc kiểm
soát sự lây nhiễm.
Những nhà cố vấn dùng rượu và thuốc nên thảo
luận về những triệu chứng báo hiệu lây nhiễm
HIV ban đầu với bệnh nhân của họ và khuyến
khích bệnh nhân đi xét nghiệm HIV nếu họ có
những triệu chứng như thế. Điều này sẽ không
chỉ khuyến khích bệnh nhân bị nhiễm tham gia
điều trị sớm mà còn cung cấp cơ hội cho những
nhà cố vấn giúp đỡ những bệnh nhân chưa
nhiễm tự bảo vệ theo cách đó.
Thời kỳ ủ bệnh/thời kỳ cửa sổ
Sau giai đoạn lây nhiễm ban đầu là thời kỳ ủ
bệnh, hay thời kỳ cửa sổ. Trong suốt thời kỳ
này những người nhiễm HIV không được chữa
trị có rất ít triệu chứng, nếu như có. Thời kỳ
này kéo dài trung bình khoảng 10 năm. Triệu
chứng phổ biến nhất trong thời kỳ này là viêm
hạch bạch huyết, hay sưng hạch bạch huyết.
Các hạch bạch huyết ở quanh cổ và dưới những
cánh tay chứa các tế bào chống lại sự lây nhiễm.
Các hạch bạch huyết bị sưng ở vùng bẹn có thể
là bình thường và không biểu thị nhiễm HIV.
Khi bất cứ bệnh nhiễm trùng nào có mặt, các
hạch bạch huyết thường sưng, thỉnh thoảng là
rất đau. Với HIV, chúng sưng và có khuynh
hướng bị sưng mà thường không đau.
Lây nhiễm ban đầu có triệu chứng
Vào năm đầu tiên khi nhiễm bệnh, lượng tế
bào CD4+ T rơi xuống mức độ khoảng 30 đến
90 tế bào mỗi năm. Khi lượng tế bào CD4+
T rơi xuống dưới 500, các triệu chứng HIV
nhẹ có thể xảy ra. Tuy nhiên, nhiều người sẽ
không có triệu chứng nào cả cho tới khi lượng
tế bào CD4+ T đã rơi xuống rất thấp (200 hay
ít hơn). Vi khuẩn, vi rút, và nấm mốc thường
sống trên và trong cơ thể người bắt đầu gây ra
những bệnh tật còn được biết đến như là những
bệnh lây nhiễm cơ hội.
Các triệu chứng ban đầu của việc lây nhiễm
bao gồm tiêu chảy mãn tính, bệnh Zona, nấm
âm đạo tái phát, chứng tưa, bệnh bạch sản ở
miệng (một loại vi rút có thể gây ra các mảng
trắng trong miệng), các kết quả thử nghiệm
Pap bất thường, chứng giảm tiểu cầu, hoặc bị
tê hay ngứa các ngón chân ngón tay. Hầu hết
những triệu chứng này xảy ra với lượng tế bào
10 Giới thiệu về HIV/AIDS
CD4+ T ở giữa 200 và 500. Các triệu chứng
của những căn bệnh truyền nhiễm này thường
báo hiệu một vấn đề của hệ miễn dịch nhưng
chúng không đủ nghiêm trọng để phân loại là
bệnh AIDS. Xin chuyển đến phần Phụ lục D để
có danh mục đầy đủ của các triệu chứng.
AIDS
Vào thập niên 80, người ta định nghĩa AIDS
là sự suy giảm hệ thống miễn dịch của cơ thể
và có ít nhất một căn bệnh có thể dẫn đến sự
lây nhiễm HIV. Những chứng bệnh nhằm phát
hiện ra AIDS lúc ấy lại không có biểu hiện triệu
chứng rõ ràng và chỉ có thể phát hiện bằng xét
nghiệm HIV. Năm 1993, sự bổ sung thêm các
loại bệnh “chỉ điểm” AIDS đã góp phần phát
hiện thêm nhiều trường hợp phụ nữ nhiễm
AIDS và người tiêm ma túy. Kể từ đó, danh
sách những bệnh để chẩn đoán ra AIDS bao
gồm lao phổi, viêm phổi tái phát do ký sinh
trùng và ung thư cổ tử cung xâm lấn.Theo
Trung tâm kiểm soát dịch bệnh của chính phủ
Hoa Kỳ, người nhiễm HIV có số lượng tế bào
bạch cầu Lympho T4 ít hơn hoặc bằng 200 thì
được cho là đã nhiễm AIDS.
Lao phổi và ung thư cổ tử cung xâm lấn là 2
chứng bệnh “chỉ điểm” AIDS được quan tâm
đặc biệt. Bệnh lao lây nhiễm HIV có thể truyền
cho người không mắc bệnh. Thông thường,
nó gây ra các triệu chứng ho khan mãn tính
(thỉnh thoảng có máu), mệt mỏi và sút cân
trầm trọng. Lao phổi đòi hỏi sự điều trị liên tục
ít
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tip_37_vn_3105_5031.pdf