Tài liệu Điều trị hẹp niệu quản qua nội soi: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
36 ĐIỀU TRỊ HẸP NIỆU QUẢN QUA NỘI SOI
Vũ Văn Ty*, Đào Quang Oánh*, Nguyễn Đạo Thuấn*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Hẹp niệu quản từ trước tới nay vẫn được điều trị bằng mổ hở. Ngày nay người ta đã
có thể điều trị bằng phương pháp nội soi ít xâm lấn hơn.
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 1/2000 đến tháng 8/2003, có 26 bệnh nhân gồm 08 nam
và 18 nữ, tuổi trung bình 43,96 (thay đổi từ 16-70 tuổi) nhập viện vì triệu chứng đau lưng hoặc siêu âm phát
hiện thận chướng nước.
Kết quả: 18 trên 26 bệnh nhân đạt kết quả tốt, tỷ lệ 69,23%, triệu chứng lâm sàng giảm hoặc hết. Chụp X
quang niệu quản bể thận ngược dòng đánh giá đoạn hẹp thông tốt. Thất bại 4 trường hợp phải chuyển mổ hở.
Kết luận: Phương pháp điều trị hẹp niệu quản qua nội soi cho kết quả tương đối khá....
4 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị hẹp niệu quản qua nội soi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
36 ĐIỀU TRỊ HẸP NIỆU QUẢN QUA NỘI SOI
Vũ Văn Ty*, Đào Quang Oánh*, Nguyễn Đạo Thuấn*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Hẹp niệu quản từ trước tới nay vẫn được điều trị bằng mổ hở. Ngày nay người ta đã
có thể điều trị bằng phương pháp nội soi ít xâm lấn hơn.
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 1/2000 đến tháng 8/2003, có 26 bệnh nhân gồm 08 nam
và 18 nữ, tuổi trung bình 43,96 (thay đổi từ 16-70 tuổi) nhập viện vì triệu chứng đau lưng hoặc siêu âm phát
hiện thận chướng nước.
Kết quả: 18 trên 26 bệnh nhân đạt kết quả tốt, tỷ lệ 69,23%, triệu chứng lâm sàng giảm hoặc hết. Chụp X
quang niệu quản bể thận ngược dòng đánh giá đoạn hẹp thông tốt. Thất bại 4 trường hợp phải chuyển mổ hở.
Kết luận: Phương pháp điều trị hẹp niệu quản qua nội soi cho kết quả tương đối khá. Mặt khác phương
pháp này cũng giúp giải quyết phần lớn trường hợp hẹp niệu quản mà chưa tới chỉ định mổ hở.
SUMMARY
ENDOSCOPIC MANAGEMENT OF URETERAL STRICTURE
Vu Van Ty, Đao Quang Oanh, Nguyen Đao Thuan* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of
No 1 * 2004: 250 - 253
Objectives: The ureteral stricture has been operated by open surgery. Thanks to the development of
endourology, it can be managed less invasively.
Methods: Between January 2000 and August 2003, there were 26 patients, 8 males and 18 females, mean
age was 43,96 (range 16 to 70). The patient had back pains or hydronephrosis on ultrasound examination.
Results: 18 of 26 (69,23%) patients presented a decrease or no more symptoms. Retrograde uretero-
pyelography showed no more stricture. 4 patients were transferred to open surgery.
Conclusions: Our results confirm that the management of ureteral stricture by endoscopy is safe and
effective. On the other hand, this technique also helps to resolve most of ureteral strictures that open surgery is
still not necessary.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Hẹp niệu quản thường được điều trị bằng mổ hở,
thời gian gần đây nhờ vào sự phát triển của các kỹ
thuật nội soi đã giúp phần nào vào việc điều trị các
trường hợp hẹp niệu quản qua nội soi.
Soi niệu quản bằng ống soi cứng được ghi nhận
đầu tiên bởi Young và Mc Kay năm 1929. Tuy nhiên
mãi đến thập niên 1970 mới được sử dụng thường
qui khi Goodman, Lyon và các cộng sự chứng tỏ rằng
ống nội soi có thể đưa vào niệu quản một cách an
toàn để chẩn đoán và điều trị bệnh lý niệu quản một
cách ít xâm lấn. Phần lớn những thành công nhờ vào
sự phát triển của ống nội soi nhỏ (6,7 đến 14F) với
chiều dài đủ để đưa lên niệu quản.
Hiệu quả của việc mổ hở tạo hình niệu quản để
điều trị bệnh lý hẹp niệu quản đã được công nhận mà
chúng ta vẫn áp dụng xưa nay, tuy nhiên bệnh nhân
phải chịu đựng một cuộc mổ hở với hậu phẫu kéo dài,
đau vết mổ và vấn đề thẩm mỹ vết mổ.
Nong đoạn hẹp niệu quản là phương pháp đầu
tiên được các tác giả áp dụng, tuy nhiên kết quả của
*
**
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 250
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
phương pháp điều trị này không cao (2). Với sự phát
triển của nội soi, người ta có thể nhìn thấy trực tiếp
đoạn hẹp và cắt xẻ đoạn hẹp bằng dao lạnh, dao điện
hay gần đây là laser.
Chúng tôi xin trình bày kinh nghiệm qua 26
trường hợp hẹp niệu quản được điều trị bằng phương
pháp nội soi.
TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU
26 bệnh nhân với bệnh lý hẹp niệu quản được
điều trị tại khoa Niệu A bệnh viện Bình Dân từ tháng
1/2000 đến tháng 8/2003.
Trong nhóm có 8 nam và 18 nữ. Tuổi trung bình
của bệnh nhân là 43,96 (thay đổi từ 16 đến 70 tuổi).
Các bệnh nhân đều có triệu chứng lâm sàng như
đau vùng hông lưng hoặc nhiễm trùng tiểu, bệnh
nhân đi khám siêu âm phát hiện thận chướng nước,
bệnh nhân được tiến hành làm thêm X quang hệ
niệu qua tĩnh mạch, X quang bể thận - niệu quản
xuôi dòng hoặc X quang bể thận - niệu quản ngược
dòng để chẩn đoán vị trí hẹp.
Về nguyên nhân hẹp niệu quản, có 6 bệnh nhân
hẹp do sỏi, 1 bệnh nhân hẹp do mổ cũ sỏi niệu quản,
1 bệnh nhân mổ bắt con cách nay 3 năm, 3 bệnh
nhân hẹp do lao. 15 bệnh nhân còn lại hẹp do viêm,
nhiễm trùng.
Chúng tôi không đặt trong lô nghiên cứu hẹp
niệu quản do ung thư cổ tử cung, ung thư tiền liệt
tuyến xâm lấn và xơ hoá sau phúc mạc.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tất cả 26 bệnh nhân đều được điều trị hẹp niệu
quản bằng phương pháp nội soi nong đoạn hẹp hoặc
cắt đốt xẻ đoạn hẹp.
Dụng cụ
Máy soi bàng quang.
Máy soi niệu quản.
Máy X quang với màn hình tăng sáng.
Dây dẫn.
Ống thông JJ.
Dao điện.
Ống thông bong bóng.
Kỹ thuật nong đoạn hẹp qua nội soi
Bệnh nhân nằm thế sản phụ, gây tê tủy sống
hoặc gây mê toàn diện. Dùng máy soi bàng quang
đưa dây dẫn lên niệu quản, đặt ống thông bong bóng
lên tới đoạn hẹp, bơm nước vào cho bong bóng căng
lên, kiểm tra dưới X quang thấy mất eo thắt chỗ hẹp
là được(5). Thường thời gian nong khoảng 10 phút.
Hoặc chúng tôi dùng máy soi niệu quản soi lên theo
dây dẫn cố gắng thao tác cho qua đoạn hẹp lên cao và
nong dần đoạn hẹp bằng máy soi niệu quản (khoảng
10,5 ch.).
Kỹ thuật cắt xẻđoạn hẹp qua nội soi
Bệnh nhân được sửa soạn như trên.
Dùng máy soi lên niệu quản đến đoạn hẹp, đặt
dây dẫn qua đoạn hẹp làm dây an toàn sau đó tiến
hành cắt xẻ đoạn hẹp bằng dao điện. Vị trí cắt xẻ là
mặt sau ngoài đối với niệu quản trên và vị trí 12->2
giờ đối với niệu quản chậu (4). Độ sâu cắt đến lớp mỡ
quanh niệu quản để kích thích sự tăng sinh mạch
máu mới hầu tạo lớp niêm mạc mới quanh ống thông
lưu tại chỗ theo nguyên tắc Davis (6). Đoạn hẹp rộng
ra, chúng tôi có thể dùng máy soi lên cao. Một số
trường hợp chúng tôi dùng ống thông bong bóng
nong đoạn hẹp. Đa số trường hợp chúng tôi không có
máy X quang để đánh giá kết quả ngay sau khi phẫu
thuật nên chúng tôi chỉ đánh giá một cách tương đối
bằng cách đưa máy soi lên cao qua đoạn hẹp một
cách dễ dàng. Sau đó chúng tôi đặt ống thông JJ lưu
từ 4-6 tuần.
KẾT QUẢ
Thời gian trung bình của phương pháp nong
hoặc xẻ đoạn hẹp niệu quản qua nội soi là 20-30 phút.
Sau khi rút ống thông JJ, bệnh nhân được kiểm tra lại
bằng X quang niệu quản-bể thận ngược dòng.
Trong số 26 bệnh nhân, có 18 bệnh nhân đạt kết
quả tốt (69,23%), 3 bệnh nhân phải nong đoạn hẹp
nhiều lần, 1 bệnh nhân chuyển từ nong niệu quản
sang cắt đốt nội soi, 4 bệnh nhân thất bại chuyển mổ
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 251
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
hở. 2 bệnh nhân tình trạng viêm nhiễm thận và niệu
quản lan rộng phải cắt bỏ thận và niệu quản, 2 bệnh
nhân hẹp niệu quản chậu do mổ hở lấy sỏi và mổ bắt
con cũ được mổ cắm lại niệu quản vào bàng quang do
tình trạng xơ hoá quanh niệu quản nhiều.
3 bệnh nhân hẹp niệu quản do lao được tiếp tục
thay ống thông JJ định kỳ và điều trị lao niệu.
Chúng tôi không đặt trong lô nghiên cứu những
trường hợp sau:
Đoạn hẹp niệu quản quá nhiều không đưa được
dây dẫn qua.
Đoạn hẹp dài hơn 1cm.
Chúng tôi đánh giá sự thành công qua triệu
chứng lâm sàng hết đau lưng. Chụp X quang niệu
quản-bể thận ngược dòng thấy niệu quản thông tốt.
Chúng tôi chưa thực hiện được việc đánh giá kết quả
bằng UIV lợi tiểu, xạ hình thận hoặc thử nghiệm
Whitaker.
BÀN LUẬN
Thời gian gần đây, với sự tiến bộ trong việc phát
triển các kỹ thuật nội soi, một số tác giả đã áp dụng
phương pháp nội soi để điều trị hẹp niệu quản. Theo
M. Eshghi và cộng sự, 85% bệnh lý hẹp niệu quản có
thể điều trị được bằng phương pháp nội soi gồm từ
đặt ống thông để niệu quản tự dãn nở ra, nong niệu
quản bằng bougie hoặc ống thông bong bóng, cắt xẻ
lạnh hoặc cắt đốt đoạn hẹp(4). Mặc dù mổ hở tạo hình
niệu quản hoặc cắm lại niệu quản vào bàng quang
vẫn là phương pháp chuẩn để điều trị hẹp niệu quản
và cho kết quả tốt 95-100%, mặt khác kết quả điều trị
của phương pháp nội soi chưa thể bằng được mổ hở,
nhưng lợi điểm là điều trị nội soi đơn giản hơn, bệnh
nhân không phải chịu đựng cuộc mổ hở với các tính
chất của nó như vết mổ hở, đau hậu phẫu, nằm viện
kéo dài và những biến chứng có thể gặp nên các tác
giả đã cố gắng áp dụng phương pháp nội soi để điều
trị một số trường hợp hẹp niệu quản.
Phương pháp nội soi đầu tiên để điều trị hẹp niệu
quản là nong đoạn hẹp bằng bong bóng, tuy nhiên
kết quả thành công không cao và thường phải nong
nhiều lần. Theo J. G. Gow, nong niệu quản bằng
thông bong bóng cho tỷ lệ thất bại cao(2). Giả thuyết
cho rằng nong thất bại vì áp lực dãn nở bong bóng
cao đưa đến thiếu máu nuôi và gây hẹp niệu quản tái
phát vì thế nong bằng bong bóng nên dành cho
những trường hợp hẹp dưới 1cm và không do nguyên
nhân thiếu máu(8). Theo C. C. Carson III, nong hẹp
niệu quản không cho kết quả tốt. Tốt nhất là vừa cắt
đốt đoạn hẹp bằng điện hoặc laser sau đó nong đoạn
hẹp(1).
Trong loạt nghiên cứu của chúng tôi, 1 trường
hợp chuyển mổ hở cắt bỏ thận và niệu quản do nong
và cắt đốt thất bại, hẹp niệu quản lại sau khi rút
thông JJ. Trường hợp này thận và niệu quản viêm
mủ, bệnh nhân đã được mổ sỏi thận 3 năm trước, sau
một thời gian tình trạng viêm nhiễm tiến triển và
bệnh nhân bị tắc niệu quản hoàn toàn ở nhiều đoạn,
phải cắt bỏ thận và niệu quản. 1 trường hợp viêm hẹp
niệu quản 1 bên kèm bướu xâm lấn bên thận kia,
bệnh nhân trong tình trạng suy thận, chúng tôi chỉ
mổ mở niệu quản ra da. 1 trường hợp nong niệu quản
thất bại, 1 năm sau chúng tôi chuyển sang cắt đốt nội
soi đoạn hẹp. 2 trường hợp hẹp niệu quản chậu sau
mổ sỏi niệu quản ở 1 trường hợp và mổ bắt con 3
năm trước ở 1 trường hợp, chúng tôi cắt đốt nội soi xẻ
được đoạn hẹp, đặt thông JJ lên, sau 6 tuần rút thông
JJ thì chỗ hẹp bị tái phát do mô xơ quanh niệu quản
thắt lại. Cả 2 trường hợp trên chuyển mổ hở cắm lại
niệu quản vào bàng quang. M. Eshghi và cộng sự đã
điều trị 61 bệnh nhân trong vòng 4 năm đạt tỷ lệ
thành công từ 93-95%. Theo tác giả, phương pháp
điều trị tuỳ thuộc vị trí, chiều dài, thời gian hẹp và
nguyên nhân gây hẹp(4). S. P. Dretler cho rằng thời
gian bị hẹp dưới 3 tháng mà mạch máu không bị ảnh
hưởng, nong niệu quản đạt tỷ lệ thành công 91%, nếu
mạch máu bị ảnh hưởng, thành công chỉ còn 20%(6).
Các trường hợp chúng tôi chuyển mổ hở, thời gian
đoạn hẹp đều trên 3 tháng.
L. R. Kavoussi cho thấy đã thành công với cả
những đoạn hẹp dài 5cm, tỷ lệ thành công 57-82%.
Sự thành công tùy thuộc vào chiều dài đoạn hẹp, độ
xơ hóa quanh niệu quản và nguyên nhân gây hẹp do
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 252
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
lần mổ trước. Ngay cả những trường hợp hẹp niệu
quản không thể đưa dây dẫn lên, tác giả kết hợp soi từ
dưới niệu quản lên và từ bể thận xuống để cắt xẻ đoạn
hẹp(3). S. B. Streem và cộng sự cũng đạt được tỷ lệ
thành công 50-76% trong điều trị hẹp niệu quản và
trong trường hợp niệu quản bị hẹp hoàn toàn, có thể
xuyên qua da dùng đèn soi từ bể thận xuống hướng
dẫn kết hợp với soi niệu quản từ dưới lên để cắt xẻ
đoạn hẹp(7). Theo tác giả R. K. Tschada và cộng sự, soi
từ dưới niệu quản lên để điều trị hẹp niệu quản tỷ lệ
thất bại 60-90% trong khi đó soi từ bể thận xuống
xuyên qua da đạt tỷ lệ thành công 90%(5). Chúng tôi
chưa áp dụng phương pháp soi từ trên xuống để điều
trị hẹp niệu quản.
KẾT LUẬN
Trên đây là kết quả của bước đầu điều trị hẹp niệu
quản qua nội soi. Tuy mới được nghiên cứu và áp
dụng để điều trị cho bệnh nhân, tỷ lệ thành công
cũng tương ứng với của các tác giả khác. Với những
ưu điểm và khuyết điểm của việc điều trị, chúng tôi
nhận thấy phương pháp điều trị hẹp niệu quản qua
nội soi khả dĩ có thể áp dụng được cho một số trường
hợp bệnh lý hẹp niệu quản giúp bệnh nhân tránh
được mổ hở với những vấn đề hậu phẫu kèm theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Culley C. Carson III. Endourology. Endopyelotomy. In;
Urologic Surgery. Ed. James F. Glenn. Ch. 25 p. 293 J.
B. Lippincott 4th ed. 1991.
2. James Gordon Gow, MD. Genitourinary tuberculosis.
In: Current Urologic Therapy 3rd ed. p. 59. W.B.
Saunders, 1994.
3. Louis R. Kavoussi. Advances in ureteral Surgery.
Endoscopy for ureteral strictures. In: Current Urologic
Therapy 3rd ed. p. 215. W. B. Saunders, 1994.
4. Majid Eshghi et David M. Schwalb. Postsurgical
ureteral stenosis. In: Current Therapy in Genito
urinary Surgery. Ed. Martin I. Resnick p. 216-222
Mosby 2nd ed., 1992.
5. R. K. Tschada and P. Alken. Endoscopic Management
of Ureteral Strictures and Fistulas. In: Operative
Urology. Ed. F. F. Marshall. ch. 81, p. 586-589. W. B.
Saunders, 1991.
6. Stephen P. Dretter. Ureteral Trauma, Stricture and
Fistula. In: Urologic Surgery. Ed. James F. Glenn Ch.
30, p. 349-350. J. B. Lippingott 4th ed., 1991.
7. Stevan B. Streem, Jenny J. Franke and Foseph A.
Smith. Management of Upper Urinary tract
obstruction. In: Campbell’s Urology. Eds. Walsh, Retik,
Vaughan and Wein. Ch.13, p. 490-493 W. B. Saunders
8th ed. 2002.
8. Todd D. Cohen et als. Long-term follow-up of Acucise
incision of uretero-pelvic junction obstruction and
ureteral strictures. Urology 47: 317-323, 1996
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 253
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_tri_hep_nieu_quan_qua_noi_soi.pdf