Tài liệu Điều trị gãy trật cột sống cổ thấp bằng phương pháp phẫu thuật nắn trật và cố định lối sau: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
ĐIỀU TRỊ GÃY TRẬT CỘT SỐNG CỔ THẤP BẰNG PHƯƠNG PHÁP
PHẪU THUẬT NẮN TRẬT VÀ CỐ ĐỊNH LỐI SAU
Nguyễn Duy Phương*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chấn thương cột sống cổ thấp (C3 đến C7) là loại chấn thương rất nặng, gây ra tỷ lệ tử vong và
thương tật cao cho bệnh nhân, đồng thời là gánh nặng về kinh tế gia đình và xã hội. Hiện nay, phẫu thuật nắn
trật và cố định lối sau đã được chứng minh là hiệu quả và an toàn trong việc điều trị gãy trật cột sống cổ thấp
giúp bệnh nhân hồi phục 1 phần hoặc hoàn toàn chức năng thần kinh.
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát sự ảnh hưởng của mức độ tổn thương thần kinh trước phẫu thuật, mức độ
gãy trật trên hình ảnh học và phân loại SLIC đến hiệu quả điều trị, đồng thời đánh giá mức độ an toàn của
phương pháp phẫu thuật nắn trật và cố định lối sau.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả hàng loạt ca lâm sàng.
Kết quả: Từ 01/ 01/ 2012 đến tháng 01/ 03/ 2015, tại khoa Ngoại Th...
9 trang |
Chia sẻ: Tiến Lợi | Ngày: 01/04/2025 | Lượt xem: 17 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị gãy trật cột sống cổ thấp bằng phương pháp phẫu thuật nắn trật và cố định lối sau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
ĐIỀU TRỊ GÃY TRẬT CỘT SỐNG CỔ THẤP BẰNG PHƯƠNG PHÁP
PHẪU THUẬT NẮN TRẬT VÀ CỐ ĐỊNH LỐI SAU
Nguyễn Duy Phương*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chấn thương cột sống cổ thấp (C3 đến C7) là loại chấn thương rất nặng, gây ra tỷ lệ tử vong và
thương tật cao cho bệnh nhân, đồng thời là gánh nặng về kinh tế gia đình và xã hội. Hiện nay, phẫu thuật nắn
trật và cố định lối sau đã được chứng minh là hiệu quả và an toàn trong việc điều trị gãy trật cột sống cổ thấp
giúp bệnh nhân hồi phục 1 phần hoặc hoàn toàn chức năng thần kinh.
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát sự ảnh hưởng của mức độ tổn thương thần kinh trước phẫu thuật, mức độ
gãy trật trên hình ảnh học và phân loại SLIC đến hiệu quả điều trị, đồng thời đánh giá mức độ an toàn của
phương pháp phẫu thuật nắn trật và cố định lối sau.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả hàng loạt ca lâm sàng.
Kết quả: Từ 01/ 01/ 2012 đến tháng 01/ 03/ 2015, tại khoa Ngoại Thần Kinh bệnh viện Chợ Rẫy, có 39
trường hợp gãy trật cột sống cổ thấp thỏa định nghĩa ca bệnh và khung chọn mẫu được phẫu thuật nắn trật và cố
định lối sau. Trong đó có 37 trường hợp là nam giới (94,9%), 02 trường hợp là nữ (5,1%). Tuổi trung bình là
42,69 ± 15,65. Vị trí thường bị gãy trật là ở tầng C5-C6 với 33,3% tiếp theo là tầng C3-C4, C6-C7 cùng 28,2%
và vị trí có tần suất tổn thương thấp nhất là tầng C4-C5 chiếm 10,3%. Đa số các trường hợp gãy trật ảnh hưởng
trên cả 2 mặt khớp với tần suất 79,5%. Phân loại mức độ tổn thương thần kinh trên lâm sàng (AIS), chiều dài
tủy tổn thương trên T2-MRI (LoPD) và phân loại chấn thương cột sống cổ thấp (SLIC) đều có liên quan đến mức
độ hồi phục thần kinh trên những bệnh nhân gãy trật cột sống cổ thấp được phẫu thuật nắn trật và cố định lối
sau. 92,3% các trường hợp các mặt khớp được nắn trật và đưa về vị trí giải phẫu học bình thường. Biến chứng
nội viện ghi nhận trong 9 trường hợp trong đó chủ yếu là viêm phổi là biến chứng xảy ra do diễn biến tự nhiên
của chấn thương tủy sống không phải do phẫu thuật gây ra.
Kết luận: Phẫu thuật nắn trật và cố định lối sau là một phương pháp hiệu quả và an toàn trong điều trị gãy
trật cột sống cổ thấp. Mức độ hồi phục thấn kinh trên những bệnh nhân được phẫu thuật nắn trật và làm cứng lối
sau có liên quan đến AIS trước phẫu thuật, LoPD và SLIC.
Từ khóa: gãy trật, cột sống cổ thấp, phẫu thuật nắn trật và cố định lối sau.
ABSTRACT
TREATMENT OF SUBAXIAL DISLOCATION WITH POSTERIOR OPERATIVE REDUCTION AND
FIXATION
Phuong Nguyen Duy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 5 - 2016: 33 - 41
Background: Cervical Sub axial Injury (C3 to C7) is the severe trauma with high morbidity and mortality to
patients. Ultimately, it produces huge burden of social-economy. Currently, posterior operative reduction and
fixation treatment for sub axial dislocation fractures is effective and safety in healing neurological deficiencies
apart or totally.
Objective: Represent affection of preoperative neurological deficiencies, radiological dislocation severity and
SLIC to treatment efficacy. Ultimately, our study evaluates the safeness of posterior operative reduction and
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: ThS.BS.CKI. Nguyễn Duy PhươngĐT: 0909646145 Email:
dr.phuongnguyen.neurosurgery@gmail.com
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện An Bình năm 2016 33 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016
fixation.
Method: Retrospective case-series.
Results: From 01/ 01/ 2012 to 01/ 03/ 2015 at department of Neurosurgery of Cho Ray hospital, there were
39 patients with sub axial dislocation fracture met fully our case definition and inclusive criteria that include 37
male and 2 female. The mean age is 42.69 ± 15.65 year-old. Location of affective cervical level is C5-C6, C3-C4,
C6-C7, and C4-C5 that the rate is 33.3%, 28.2%, 28.2%, 10.3%, respectively. Most of cases injure both 2-facet
joint. There are significant relation between preoperative AIS, LoPD on T2-MRI, SLIC and the postoperative
recovery of neurological deficits. 92.3% cases was reduced successfully and taken to the normal position. The main
complications was cardiopulmonary event but due to the natural history of spinal cord damage.
Conclusion: Posterior operative reduction and fixation is the effective and safe method used for treating sub
axial dislocation fracture. The improvement of neurological deficiencies relate significantly to preoperative AIS,
LoPD on T2-MRI and SLIC.
Key worlds: Dislocation fracture, sub axial spine, posterior operative reduction and fixation
MỞ ĐẦU vào nhiều yếu tố như: tình trạng lâm sàng trước
phẫu thuật, mức độ tổn thương của cột sống và
Gãy trật cột sống cổ thấp là loại chấn thương tủy sống trên CT-scan và hoặc MRI, và gần đây
gây tổn thương cấu trúc cột sống và tủy với tỷ lệ là sự ra đời của hệ thống phân loại chấn thương
rất cao với 40% làm tổn thương phức hợp dây
cột sống cổ thấp SLIC(16) có ảnh hưởng đến quyết
chằng dọc sau, 60% có vỡ mặt khớp, 65% yếu liệt định phẫu thuật và sự hồi phục thần kinh sau
tứ chi do chấn thương tủy sống. Đáng ngại nhất,
phẫu thuật. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên
gãy trật cột sống cổ thấp là nguyên nhân dẫn cứu này để đánh giá sự an toàn, hiệu quả và
đến những tổn thương thứ phát gây phù tủy, những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị
ảnh hưởng đến những trung tâm duy trì hoạt của phương pháp phẫu thuật nắn trật và cố định
động của cơ hoành, gây suy hô hấp và có khả cột sống cổ lối sau trên bệnh nhân gãy trật cột
năng dẫn đến tử vong. Có nhiều phương pháp sống cổ thấp với các mục tiêu sau:
điều trị gãy trật cột sống cổ thấp trong đó phẫu
thuật nắn trật và cố định tiếp cận bằng lối trước Mục tiêu nghiên cứu
và lối sau là phổ biến và được áp dụng rộng rãi Khảo sát sự ảnh hưởng giữa mức độ tổn
tại nhiều trung tâm chuyên khoa Ngoại Thần thương thần kinh trước phẫu thuật (đánh giá
Kinh hoặc tại các bệnh viện lớn. Phương pháp bằng ASIA IS)(8) và sự hồi phục thần kinh trên
phẫu thuật nắn trật và cố định tiếp cận bằng lối bệnh nhân gãy trật cột sống cổ thấp được nắn
trước gần đây được nhiều phẫu thuật viên sử trật và làm cứng lối sau.
dụng vì cách tiếp cận cột sống nhanh, ít chảy Khảo sát sự ảnh hưởng giữa mức độ gãy trật
máu, giải quyết được các thành phần chèn ép trên hình ảnh học trước phẫu thuật và sự hồi
tủy từ phía trước, tuy nhiên hạn chế của phương phục thần kinh trên bệnh nhân gãy trật cột sống
pháp này là không quan sát trực tiếp được việc cổ thấp được nắn trật và làm cứng lối sau.
nắn trật đã thành công hay chưa, và việc nắn trật Khảo sát mối liên quan của phân loại SLIC
sẽ gặp khó khăn nếu chấn thương chỉ gây ra trật và sự hồi phục thần kinh sau phẫu thuật trên
khớp 1 bên. Phẫu thuật tiếp cận bằng lối sau lại bệnh nhân gãy trật cột sống cổ thấp được nắn
giải quyết rất hiệu quả những vấn đề này và từ trật và làm cứng lối sau.
lâu cũng đã được biết đến là 1 phương pháp
điều trị hiệu quả trong điều trị gãy trật cột sống
cổ thấp. Mặt khác mức độ cải thiện về triệu
chứng và chức năng thần kinh còn phụ thuộc
34 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện An Bình năm 2016 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU viện. Các biến số chính bao gồm tình trạng lâm
sàng phân loại theo ASIA tại thời điểm lúc trước
Đối tượng nghiên cứu
phẫu thuật, lúc xuất viện và 3 tháng sau xuất
Bệnh nhân được chẩn đoán gãy trật cột sống viện. Các biến số về trung bình các chỉ số xác
cổ thấp và được phẫu thuật bằng phương pháp định mức độ chấn thương của ống sống và tủy
nắn trật và làm cứng lối sau tại khoa Ngoại Thần sống trên MRI (%MCC, %MSCC, LoPD), biến số
Kinh bệnh viện Chợ Rẫy từ ngày 01/ 01/ 2013 về thang điểm SLIC. Đồng thời chúng tôi cũng
đến 01/ 03/ 2015. tiến hành thu thập và thống kê kết quả nắn trật
Định nghĩa trường hợp bệnh: ca bệnh lựa cũng như biến chứng nội viện của những bệnh
chọn được định nghĩa là: một trường hợp được nhân chấn thương cột sống cổ thấp được phẫu
chẩn đoán gãy trật cài mặt khớp 1 hoặc 2 bên cột thuật nắn trật và cố định lối sau.
sống cổ thấp 1 tầng sau chấn thương (từ C3 đến Chúng tôi sử dụng phép kiểm χ² để so sánh
C7), không kèm theo các tổn thương xương đốt các tần suất, tỷ lệ giữa các phân loại AIS, tìm sự
sống cổ khác do chấn thương gây ra, chẩn đoán khác biệt của các phân loại này để xác định sự
dựa trên MRI cột sống cổ, điều trị tại khoa Ngoại liên quan và ảnh hưởng của nó đến hồi phục
Thần Kinh bệnh viện Chợ Rẫy bằng phẫu thuật thần kinh sau mổ. Test t, Test U của Mann-
nắn trật và cố định lối sau bằng hệ thống nẹp vít Whithney, One-way ANNOVA và test χ² của
bắt vào khối bên theo phương pháp của Krussal-Wallis để so sánh 2 hay nhiều giá trị
(3)
Anderson hoặc chân cung các đốt sống từ C3 trung bình các chỉ số phản ánh mức độ chấn
đế C7 trong khoảng thời gian từ 01.01.2013 đến thương cột sống và tủy sống trên MRI và thang
01.03.2015. điểm SLIC để tìm mối liên quan và tiên lượng
Tiêu chuẩn chọn bệnh tình trạng hồi phục thần kinh sau mổ. Chúng tôi
Thỏa định nghĩa 1 trường hợp bệnh, tuổi từ cũng sử dụng phương pháp hồi quy nhị thức đa
15 trở lên, không phân biệt giới tính. biến giảm bậc logistic để tìm ra mô hình các yếu
tố tương quan của các biến số và sự hồi phục
Tiêu chuẩn loại trừ
thần kinh sau phẫu thuật. Quá trình phân tích xử
Bệnh nhân có các loại gãy cột sống cổ thấp
lý số liệu sử dụng phần mềm SPSS 16, với mức ý
khác kết hợp với gãy trật, có chấn thương sọ não
nghĩa thống kê là p = 0,05. Những biến số nào
hoặc các chấn thương khác đi kèm, các bệnh
được xem là có vai trò quan trọng khi phân tích
nhân có những bệnh lý nội khoa nặng đi kèm,
đơn biến (p < 0,2) hay đã được chứng minh là có
không được chụp MRI cột sống cổ trước phẫu
ảnh hưởng trong các nghiên cứu khác đều được
thuật và những bệnh nhân gãy trật cột sống cổ
đưa vào mô hình hồi quy nhị thức đa biến giảm
thấp được phẫu thuật nắn trật và cố định tiếp
bậc logistic.
cận bằng lối trước là những đối tượng không
được đưa vào nghiên cứu này. Dựa vào khung KẾT QUẢ
chọn mẫu, có 39 trường hợp, gồm 37 nam và 2 Trong 39 bệnh nhân, đa số là nam giới với 37
nữ được đưa vào nghiên cứu. trường hợp chiếm tần suất 94,9%, chỉ có 2 trường
Phương pháp nghiên cứu hợp là nữ chiếm 5,1%. Đa số các nguyên nhân
của chấn thương là do tai nạn giao thông chiếm
Chúng tôi tiến hành hồi cứu hồ sơ bệnh án
gần phân nửa số trường hợp với 44,1% kế tiếp là
và thu thập số liệu của 39 bệnh nhân được đưa
tai nạn sinh hoạt, tai nạn thể thao, tai nạn lao
vào nghiên cứu, thống kê, xử lý số liệu và báo
động và ẩu đả với tần suất lần lượt là: 33,3%,
cáo hàng loạt ca. Chúng tôi cũng liên lạc qua
17,9%, 5,1% và 2,6%. Cơ chế chấn thương chủ
điện thoại để thu thập tình trạng lâm và sàng và
yếu là do té cao và đập đầu, cổ vào vật cứng
mức độ hồi phục của bệnh nhân 3 tháng sau xuật
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện An Bình năm 2016 35 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016
chiếm hơn 50% số trường hợp. Những bệnh trường hợp tăng hơn 2 lần so với lúc nhập
nhân với kiểu chấn thương này có AIS lúc nhập viện (4 trường hợp). Số trường hợp có sự khác
viện nặng nề hơn so với các cơ chế chấn thương biệt theo hướng tích cực về phân loại ASIA
khác (EPT = 21,66; p = 0,007). Trong nghiên cứu cũng tăng lên. Sự khác biệt giữa phân loại
của chúng tôi, vị trí tầng đốt sống bị chấn ASIA lúc nhập viện và lúc xuất viện có ý nghĩa
thương nhiều nhất là tầng C5-C6 với 1/3 số thống kê với (EPT = 37,993; p = 0,0001).
trường hợp trong khi tầng C6-C7 và tầng C3-C4 Lúc nhập viện và 3 tháng sau xuất viện:
có tần suất như nhau với 28,2%. Vị trí ít bị tổn trước phẫu thuật và 3 tháng sau xuất viện cũng
thương nhất là tầng C4-C5 với 10,2% các trường cho thấy số trường hợp grade A giảm nhiều hơn
hợp. 79,5% trường hợp trật khớp 2 bên, và trật so với lúc mới xuất viện: 3 trường hợp. Số trường
khớp 1 bên chiếm tần suất 20,5%. Chúng tôi hợp bệnh nhân trở về chức năng thần kinh bình
cũng nhận thấy những trường hợp gãy trật diện thường tăng lên 4 trường hợp. Số trường hợp
khớp 2 bên có AIS nặng nề hơn so với trật khớp grade C cũng giảm 3 trường hợp. Sự khác biệt
1 bên (EPT = 10,12; p = 0,018). của phân loại ASIA lúc nhập viện và 3 tháng sau
AIS tại các thời điểm xuất viện khác nhau có ý nghĩa thống kê. (EPT =
Bảng 1. Phân loại ASIA vào 3 thời điểm 37,827; p = 0,0001).
Thời điểm Phân loại ASIA lúc xuất viện và 3 tháng sau
Tần số (%)
Trước PT Lúc XV 3 tháng sau XV xuất viện: 3 tháng sau xuất viện, có 13 bệnh nhân
A 8 (20,4) 5 (12,8) 2 (5,1) trở về chức năng thần kinh bình thường, so với
B 1 (2,6) 0 (0) 0 (0) lúc xuất viện chỉ có 9 trường hợp, tăng 30,7%, số
AIS C 12 (30,8) 9 (23,1) 6 (15,4)
D 14 (35,9) 16 (41) 18 (46,2) trường hợp grade C giảm xuống 3 trường hợp.
E 4 (10,3) 9 (23,1) 13 (33,4) Không có trường hợp nào tăng độ trong phân
Tổng 39 (100) 39 (100) 39 (100) loại ASIA. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
Lúc nhập viện và lúc xuất viện: quan sát (EPT = 34,461; p = 0,0001).
bảng so sánh phân lọai ASIA trước phẫu thuật Chúng tôi cũng ghi nhận sự khác biệt có ý
và lúc xuất viện cho thấy có sự cải thiện về nghĩa thống kê về tần suất hồi phục thần kinh
lâm sàng trước và sau phẫu thuật, những giữa các mức độ AIS trước phẫu thuật. Các phân
trường hợp mất hoàn toàn vận động (ASIA loại AIS trước phẫu thuật càng nặng nề thì tỷ lệ
grade A và B) giảm 4 trường hợp lúc xuất hồi phục thần kinh sau mổ càng cao (EPT =
viện, số trường hợp grade E lúc xuất viện là 9 10,69; p = 0,007).
Sự liên quan giữa các chỉ số đánh giá tổn thương cột sống và tủy sống trên MRI và AIS, sự
hồi phục thần kinh sau phẫu thuật
Bảng 2: Liên quan giữa các chỉ số trên MRI và sự hồi phục thần kinh
Các chỉ cố hình ảnh học
Góc gù (độ) LoPD (mm) %MCC (%) %MSCC (%)
Có hồi phục 12,05 ± 8,06 28,82 ± 12,72 48,48 ± 10,92 27,65 ± 12,36
Ko hồi phục 13,28 ± 5,24 42,46 ± 12,94 48,68 ± 8,20 32,41 ± 10,07
3 tháng sau XV
U = 97,5 t = -3,046 t = - 0,055 t = - 1,174
Giá trị p
p = 0,117 p = 0,005 p = 0,957 p = 0,249
Bảng 3: Liên quan giữa các chỉ số trên MRI và AIS trước phẫu thuật
AIS LoPD (mm) MCC (%) MSCC (%) Góc gù - vẹo (độ)
A 45,63 ± 10,50 50,14 ± 9,42 36,05 ± 12,38 16,86 ± 7,04
B 50,00 44,00 26,32 10,00
C 35,08 ± 11,44 51,63 ± 10,54 29,07 ± 14,81 13,42 ± 8,85
36 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện An Bình năm 2016 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
AIS LoPD (mm) MCC (%) MSCC (%) Góc gù - vẹo (độ)
D 25,00 ± 13,11 45,35 ± 9,47 26,15 ± 6,88 10,43 ± 5,37
E N/ A N/ A N/ A 5,00 ± 4,08
F= 5,774 F = 1,052 F = 1,023 F = 2,33
Giá trị p
p = 0,03 p = 0,396 p = 0,323 p = 0,075
Quan sát trên 2 bảng thống kê, chúng tôi trường hợp này BN không hồi phục thần kinh
thấy chỉ có chỉ số LoPD là có mối liên quan đến sau mổ, được chỉ định phẫu thuật lại nhưng
AIS trước phẫu thuật và tình trạng hồi phục thần bệnh nhân và gia đình không đồng ý.
kinh sau phẫu thuật. Những bệnh nhân bị chấn Tỷ lệ biến chứng nội viện: có 9 trường hợp
thương cột sống cổ thấp nhập viện với phân loại chúng tôi ghi nhận có biến chứng trong lúc nằm
AIS càng nặng thì mức độ tổn thương tủy trên viện, chiếm tần suất 23,07%. Trong đó chủ yếu là
MRI càng dài đặc biệt là trong nhóm có phân loại biến chứng viêm phổi xảy ra trên 6 trường hợp
AIS là A và B, trung bình chiều dài tủy bị tổn chiếm 66,7%, đây là những trường hợp có phân
thương đo ở đường giữa lần lượt là 45,63 và 50 loại AIS trước phẫu thuật là A, BN liệt tứ chi, suy
mm trong khi độ dài này ở nhóm C và D là 35,08 hô hấp do tổn thương tủy phải thở máy. Chỉ có 2
và 25 mm, các trường hợp có AIS trước PT là E trường hợp xảy ra tai biến trong lúc phẫu thuật,
thì không ghi nhận tổn thương tủy trên MRI. 1 trường hợp rách màng tủy và 1 trường hợp gây
Khi đánh giá mối liên quan về các chỉ số này tổn thương tủy nhiều hơn. Chúng tôi không tìm
và sự hồi phục thần kinh, chúng tôi cũng nhận thầy mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ, lâm
thấy chỉ có LoPD là có sự khác biệt trong nhóm sàng, hay hình ảnh học và biến chứng nội viện.
có hồi phục và nhóm không hồi phục thần kinh. Mô hình hồi quy
Theo bảng 2 chiều dài tủy bị tổn thương quan sát Chúng tôi tiến hành thực hiện hiện phương
trên MRI trong nhóm không hồi phục thần kinh pháp hồi quy đa biến logistic nhị thức hạ bậc để
dài hơn gần gấp đôi so với trung bình chỉ số này tìm ra mô hình hồi quy và giữ lại những yếu tố
trong nhóm có hồi phục thần kinh. quan trọng nhất thật sự có mối tương quan với
SLIC và sự hồi phục thần kinh tình trạng có hay không có hồi phục thần kinh 3
Bảng 4: SLIC và sự hồi phục thần kinh tháng sau xuất viện. Kết quả chỉ còn AIS lúc
Thời điểm nhập viện giữ được mối tương quan với sự phục
SLIC
Lúc XV 3 tháng sau XV hồi thần kinh. Hệ số B = - 1,002, CI = 0,177 –
Có hồi phục 7,36 ± 0,57 7,45 ± 0,60 0,760; p = 0,007.
Không hồi phục 7,10 ± 0,74 7,00 ± 0,58
Giá trị p U = 101, p = 0,324 U = 88, p = 0,035 BÀN LUẬN
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về Trong một nghiên cứu về hiệu quả của phẫu
thang điểm SLIC tại thời điểm bệnh nhân xuất thuật trên những bệnh nhân có hội chứng tủy
viện, tuy nhiên 3 tháng sau xuất viện, chúng tôi trung tâm, Liang và cộng sự(4) cho biết tuổi trung
thấy nhóm có hồi phục thần kinh được chấm bình trong 49 trường hợp là 55,9 tuổi (từ 22 đến
điểm SLIC lúc nhập viện cao hơn với p = 0,035. 76 tuổi). Độ tuổi trung bình này trong nghiên
(2)
Kết quả nắn trật và biến chứng cứu của tác giả Aito cùng cộng sự là 52 tuổi (từ
16 đến 82 tuổi). Theo Võ Văn Sĩ và cộng sự(18), độ
Trong 39 trường hợp được phẫu thuật nắn
tuổi trung bình trong những bệnh nhân chấn
trật và cố định lối sau chúng tôi ghi nhận mức độ
thương cột sống cổ là 39,9 ± 12,8. Tuổi trung bình
nắn trật hoàn toàn là 36 trường hợp chiếm 92,3%,
trong nghiên cứu của chúng tôi và của Võ Văn Sĩ
2 trường hợp được đánh giá là nắn trật một phần
là khá tương đồng nhưng đều nhỏ hơn của tác
vì vẫn còn sự di lệch trước sau trên X-quang
giả Bizhan, Liang và tác giả Aito. Điều này có thể
kiểm tra và 1 trường hợp không nắn được,
giải thích là do tỉ lệ cao tai nạn giao thông và tai
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện An Bình năm 2016 37 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016
nạn lao động ở Việt Nam mà đối tượng của Elizabeth và chúng tôi đều ghi nhận có sự tiến
những nguyên nhân này thường là thanh niên triển tích cực về phân loại ASIA.
và trung niên. Tác giả Fawcett và Marino cùng các cộng
Theo Jin Hoon Park và cộng sự(15), ông thực sự(7,12) trong số những bệnh nhân nhập viện có
hiện phẫu thuật nắn trật và làm cứng lối sau cho AIS là A thì có khoảng 10 đến 15% chuyển độ
21 bệnh nhân gãy trật cột sống cổ thấp. Vị trí tổn thành grade C, và chỉ có 2% chuyển sang grade
thương chiếm tỷ lệ cao nhất là tầng C6 – C7 với D. Đối với những trường hợp được phân loại
10 trường hợp chiếm tần suất 47,62% tiếp theo là grade B khi nhập viện, 1/3 trường hợp không
tầng C5 – C6 với 5 trường hợp, tần suất là thay đổi, 1/3 chuyển sang grade C và 1/3 chuyển
23,81%. 4 trường hợp chấn thương ở tầng C3 – sang grade D. Với những bệnh nhân được phân
C4 với 19,04%, tầng C4 – C5 ít bị chấn thương loại grade C khi nhập viện, có đến 70% sẽ
nhất với 2 trường hợp (9,53%). Trong nghiên cứu chuyển sang grade D hoặc E. Tần suất cải thiện
của chúng tôi, vị trí bị ảnh hưởng nhiều nhiều về chức năng thần kinh thấp nhất ở grade D với
nhất là tầng C5 – C6 với 33,3%, ít nhất là tầng C4 chỉ 4% chuyển sang grade E 1 năm sau xuất viện.
– C5 với 10,3%. Hai vị trí còn lại có tần suất bị Nghiên cứu của Vazquez và cộng sự gồm 173
ảnh hưởng như nhau với 28,2%. Nghiên cứu của bệnh nhân trong đó AIS grade A chiếm 39,3%,
chúng tôi cũng chỉ ra được tầng ít bị chấn grade B: 15,6%, 29,47% trường hợp là grade C và
thương nhất là tầng C4 – C5 giống với nghiên 15,6% còn lại được đánh giá AIS D khi nhập
cứu của Park và cộng sự. viện. Khi xuất viện, không có trường hợp nào
Tần suất các phân loại AIS trong nghiên grade A hồi phục thần kinh, trong khi 33,3%
cứu của chúng tôi và các tác giả, có thể tần grade B và 76,4% các trường hợp grade C khi
suất các trường hợp có grade A trong nghiên nhập viện được tác giả đánh giá lá có cải thiện về
cứu của chúng tôi khá tương đồng với nghiên chức năng thần kinh khi xuất viện.
cứu của tác giả Wilson và Elizabeth. Phân loại Miranda và cộng sự(14) nghiên cứu đặc điểm
D trong nghiên cứu của Elizabeth chiếm đa số tổn thương tủy cấp trên MRI cột sống cổ chuỗi
với hơn 1/2 số trường hợp, trong khi tần suất xung T2 lúc nhập viện và và theo dõi sau xuất
này ở nghiên cứu của tác giả Wilson và chúng viện trung bình 16 tháng (6 tháng đến 4 năm)
tôi là khá tương đồng và đều thấp hơn so với của 15 bệnh nhân có hội chứng tủy trung tâm
tác giả Elizabeth. sau chấn thương cột sống cổ đã đưa ra kết luận:
AIS theo dõi sau khi xuất viện trong nghiên chiều dài tủy tổn thương (LoPD) phát hiện trên
cứu của tác giả Elizabeth thấy có sự giảm nhẹ tỷ MRI T2 giai đoạn cấp tính có mối liên hệ rõ ràng
lệ tất cả những trường hợp có tổn thương tủy và với AMS khi nhập viện của bệnh nhân. Quá
có sự xuất hiện những trường hợp có grade E, trình theo dõi những bệnh nhân này của tác giả
đồng nghĩa với việc một số bệnh nhân trở về cũng đưa ra kết luận: mức độ giảm tín hiệu tại
chức năng thần kinh bình thường chiếm tỉ lệ sang thương trên những phim MRI kiểm tra khi
11,5%. Trong nghiên cứu của chúng tôi tại thời theo dõi bệnh nhân có mối liên hệ với sự hồi
điểm xuất viện tỷ lệ phân loại grade A giảm phục thang điểm vận động của chi trên, mức độ
7,3% và tiếp tục giảm 7,6% 3 chỉ còn 5,1% thời giảm tín hiệu càng nhiều, điểm hồi phục của chi
điểm 3 tháng sau xuất viện. Tần suất những trên càng lớn.
trường hợp có chức năng thần kinh bình thường Trong một nghiên cứu của Song và các cộng
(grade E) thời điểm xuất viện và 3 tháng sau xuất sự trên 23 bệnh nhân có hội chứng tủy trung tâm
viện lần lượt là 23,1% và 33,3%, một tần suất cao do chấn thương cột sống cổ đã được phẫu thuật
hơn nhiều so với trong nghiên cứu của tác giả giải ép và làm cứng bằng lối trước hay lối sau từ
Elizabeth. Như vậy trong nghiên cứu của tác giả năm 1996 đến năm 2001. Tác giả tiến hành hồi
38 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện An Bình năm 2016 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
cứu các đặc điểm về lâm sàng và hình ảnh học quả của phân loại này trong việc điều trị chấn
trước phẫu thuật và ông đã tìm ra được sự liên thương cột sống cổ thấp. Ông và các cộng sự
quan rõ ràng giữa mức độ tổn thương tủy sống cũng tiến hành một nghiên cứu khác(10) trên 48
trên lâm sàng (đánh giá bằng AMS và ASS) và bệnh nhân, tất cả các bệnh nhân đều được chấm
đặc điểm tổn thương trên MRI T2 là %MSCC và điểm SLIC, 23 bệnh nhân được điều trị bảo tồn
LoPD. %MSCC và LoPD có giá trị càng lớn, tình với SLIC từ 0 đến 6 điểm và 25 bệnh nhân được
trạng lâm sàng càng nặng và tiên lượng hồi phục điều trị phẫu thuật có SLIC từ 4 đến 9 điểm. Tác
thần kinh càng kém. giả đã kết luận SLIC là một phân loại an toàn và
Năm 1990, Flanders và các cộng sự(9) thực hiệu quả trong điều trị phẫu thuật bệnh nhân
hiện một nghiên cứu hồi cứu tìm kiếm mối liên chấn thương cột sống cổ thấp.
hệ giữa MRI và sự tiên lượng mức độ tổn Trong 1 nghiên cứu của Cruz và cộng sự(5),
thương tủy trên 48 bệnh nhân chấn thương cột về lượng giá việc sử dụng phân loại SLIC ở 28
sống cổ, ông và cộng sự đã đưa ra kết luận: tình bệnh nhân trong điều trị chấn thương cột sống
trạng xuất huyết nội tủy quan sát được trên MRI cổ thấp, ông đã đưa ra kết luận việc sử dụng
là yếu tố tiên lượng tình trạng tổn thương tủy SLIC trong phân loại và điều trị chấn thương cột
hoàn toàn. Đến năm 1992, Scheafer và sống cổ thấp làm giảm số lượng bệnh nhân với
Flanders(17) tiếp tục thực hiện một nghiên cứu những chấn thương không quá nghiêm trọng
trên 55 bệnh nhân bị chấn thương tủy cấp, các mà phải phẫu thuật và do đó có thể cải thiện chất
bệnh nhân được chụp MRI cột sống cổ và dựa lượng điều trị.
vào hình ảnh trên MRI, chia thành 3 nhóm: Whang và cộng sự(19), trong một nghiên cứu
nhóm có xuất huyết nội tủy (nhóm 1), nhóm phù được đăng trên tạp chí Neurosurgery năm 2011
tủy trên 1 khoanh đoạn (nhóm 2), và nhóm có sự đã kết luận SLIC là một phân loại đáng tin cậy
phù tủy giới hạn dưới một đoạn tủy (nhóm 3). trong việc điều trị chấn thương cột sống cổ thấp,
Ông và cộng sự tìm kiếm mối liên quan giữa với hệ số tin cậy từ 0,49 đến 0,90.
những thương tổn quan sát được trên MRI cột
Một nghiên cứu khác của Van
sống cổ và sự hồi phục, cải thiện chức năng vận
Middendorp(13) và cộng sự về hệ số thống nhất K
động. Các tác giả đã ghi nhận, sự hồi phục về
(Kappa) về các thành phần trong phân loại SLIC
thang điểm AMS trong các nhóm 1, 2, 3 lần lượt
cho thấy hệ số này là khá thấp trong phần hình
là 9%, 41% và 72% qua đó đưa ra kết luận tình
thái tổn thương K = 0,29, hệ số này là 0,46 trong
trạng tổn thương tủy phát hiện trên MRI trong
phần tổn thương dây chằng – đĩa đệm, và là 0,55
giai đoạn cấp có vai trò tiên lượng rõ ràng về sự
trong phần tổn thương thần kinh (thấp hơn hệ số
hồi phục thần kinh trên những bệnh nhân tổn
K về sự đồng thuận của các phẫu thuật viện K =
thương tủy cấp do chấn thương cột sống cổ.
0,63). Tác giả cũng đưa ra kết luận, hệ số Kappa
Sự ra đời của SLIC đã đem lại sự thống của phân loại SLIC khá cao: 0,76 đối với những
nhất cao trong việc phân loại và điều trị gãy thương tổn nặng của cột sống cổ thấp. Và để
cột sống cổ thấp. Hệ số tin cậy của phân loại tăng giá trị của SLIC cần phải chẩn đoán chính
này là 0,71 và được khuyến cáo sử dụng(1) xác hình thái tổn thương.
(mức chứng cứ IB).
Theo Alpesh và cộng sự(16), trong một nghiên
Nghiên cứu của Joaquin và cộng sự(11) năm cứu về phân loại SLIC, ông đã đưa ra kết luận
2014 đã kết luận, sự ra đời của SLIC là một sự phân loại SLIC là một phân loại khá chính xác,
tiến bộ lớn trong việc phân loại và hướng dẫn đơn giản, dễ sử dụng và dựa vào đó có thể được
điều trị bảo tồn hay quyết định phẫu thuật. Tuy cung cấp thông tin về chẩn đoán, điều trị và tiên
nhiên tác giả cũng nhấn mạnh cần có nhiều lượng. Tuy nhiên chúng tôi không ghi nhận
nghiên cứu có giá trị hơn để chứng minh hiệu
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện An Bình năm 2016 39 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016
được một cách chi tiết về hiệu quả tiên lượng của biến chứng viêm phổi là do diễn biến tự nhiên
phân loại SLIC trong nghiên cứu của tác giả. của tổn thương tủy gây ra.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng tìm TÀI LIỆU THAM KHẢO
những mối liên hệ của phân loại SLIC với các
1. Aarabi B, Walters BC, Dhall SS, Gelb DE, Hurlbert RJ,
yếu tố về lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều Rozzelle CJ, et al. (2013), "Subaxial cervical spine injury
trị (sự hồi phục về chức năng thần kinh sau phẫu classification systems". Neurosurgery, 72 Suppl 2, pp. 170-
186.(8).
thuật). Kết quả ghi nhận được, điểm SLIC có liên 2. Aito S, D'Andrea M, Werhagen L, Farsetti L, Cappelli S,
quan đến tình trạng lâm sàng trước phẫu thuật, Bandini B, et al. (2007), "Neurological and functional outcome
chỉ số LoPD, góc gù và %MCC xác định dựa trên in traumatic central cord syndrome". Spinal Cord, 45(4), pp.
292-297. (11)
đo đạt và tính toán trên MRI cột sống cổ cũng 3. Anderson PA, Henley MB, Grady MS, Montesano PX, Winn
liên quan đến điểm SLIC. SLIC càng cao, tổn HR (1991), "Posterior cervical arthrodesis with AO
thương tủy trên MRI càng dài, %MCC, góc gù reconstruction plates and bone graft". Spine (Phila Pa 1976),
16(3 Suppl), pp. 72-79. (12)
càng lớn. 4. Chen L, Yang H, Yang T, Xu Y, Bao Z, Tang, T. (2009),
"Effectiveness of surgical treatment for traumatic central cord
Trong 1 nghiên cứu của Dvorak và cộng sự(6),
syndrome". J Neurosurg Spine, 10(1), pp. 3-8. (17)5
ông áp dụng thang điểm SLIC cho những bệnh 5. Cruz HY, Joaquim AF, Tedeschi H, Patel AA (2015),
nhân chấn thương cột sống cổ với những kiểu "Evaluation of the SLICS use in the treatment of subaxial
cervical spine injuries". Arq Neuropsiquiatr, 73(5), pp. 445-
gãy khác nhau. Tác giả đã ghi nhận và đưa ra kết 450.(19)
luận: phân loại SLIC giúp cho một chuyên gia về 6. Dvorak MF, Fisher CG, Fehlings MG, Rampersaud YR, Oner
Ngoại Thần Kinh trả lời 2 câu hỏi: 1. "Có chỉ định FC, Aarabi B, et al. (2007), "The surgical approach to subaxial
cervical spine injuries: an evidence-based algorithm based
phẫu thuật trong trường hợp này?". 2. "Sẽ phẫu on the SLIC classification system". Spine (Phila Pa 1976),
thuật theo phương pháp nào?". Đối với chỉ định 32(23), pp. 2620-2629.(25)
phẫu thuật chúng tôi đã trình bày ở trên. Đối với 7. Fawcett JW, Curt A, Steeves JD, Coleman WP, Tuszynski MH,
Lammertse, D., et al. (2007), "Guidelines for the conduct of
câu hỏi thứ 2, qua nghiên cứu của mình, Drovak clinical trials for spinal cord injury as developed by the ICCP
và các cộng sự dựa vào kiểu gãy trong phân loại panel: spontaneous recovery after spinal cord injury and
statistical power needed for therapeutic clinical trials". Spinal
SLIC. Tác giả khuyến cáo tiếp cận bằng lối trước Cord, 45(3), pp. 190-205. (30)
đối với những thương tổ có kiểu tổn thương là 8. Fehlings MG, Furlan JC, Massicotte EM, Arnold P, Aarabi B,
gãy vỡ, gãy lún hoặc tổn thương dạng kéo căng. Harrop J, et al. (2006), "Interobserver and intraobserver
reliability of maximum canal compromise and spinal cord
Ngược lại, những thương tổn có dạng gãy trật compression for evaluation of acute traumatic cervical spinal
hoặc trật xoay nặng nề thì nên tiếp cận bằng lối cord injury". Spine (Phila Pa 1976), 31(15), pp. 1719-1725.(31)
sau hoặc kết hợp lối trước và lối sau nếu có 9. Flanders AE, Schaefer DM, Doan HT, Mishkin MM, Gonzalez
CF, Northrup BE (1990), "Acute cervical spine trauma:
thành phần chèn ép từ phía trước. correlation of MR imaging findings with degree of neurologic
deficit". Radiology, 177(1), pp. 25-33. (35)
KẾT LUẬN 10. Joaquim, A. F., Ghizoni, E., Tedeschi, H., da Cruz, H. Y., Patel,
A. A. (2014), "Clinical results of patients with subaxial cervical
Phẫu thuật nắn trật và cố định lối sau trên spine trauma treated according to the SLIC score". J Spinal
những bệnh nhân gãy trật cốt sống cổ thấp là Cord Med, 37(4), pp. 420-424.(47)
một phương pháp hiệu quả với tỷ lệ nắn trật 11. Joaquim, A. F., Patel, A. A. (2014), "Subaxial cervical spine
trauma: evaluation and surgical decision-making". Global
thành công trên 90% và khả năng hồi phục thần Spine J, 4(1), pp. 63-70.(48)
kinh sau phẫu thuật là rất tốt. Một số yếu tố ảnh 12. Marino RJ, Ditunno JF Jr, Donovan WH, Maynard F Jr (1999),
hưởng đến hiệu quả điều trị của phương pháp "Neurologic recovery after traumatic spinal cord injury: data
from the Model Spinal Cord Injury Systems". Arch Phys Med
này bao gồm AIS trước phẫu thuật, LoPD trên Rehabil, 80(11), pp. 1391-1396.(56)
T2 MRI và thang điểm SLIC, trong đó AIS trước 13. Middendorp JJ, Audige L, Bartels RH, Bolger C, Deverall H,
Dhoke P, et al. (2013), "The Subaxial Cervical Spine Injury
phẫu thuật là yếu tố duy nhất có tương quan hồi Classification System: an external agreement validation
quy với sự phục hồi thần kinh sau phẫu thuật. study". Spine J, 13(9), pp. 1055-1063.(85)
Biến chứng do phẫu thuật khá thấp, chủ yếu là
40 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện An Bình năm 2016 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
14. Miranda P, Gomez P, Alday R (2008), "Acute traumatic central 18. Võ Văn Sĩ (2013), "Điều trị chấn thương cột sống cổ thấp cơ
cord syndrome: analysis of clinical and radiological chế cúi - căng - xoay bằng phẫu thuật Bohlman cải tiến". Luận
correlations". J Neurosurg Sci, 52(4), pp. 107-112; pp. 112.(58) văn tiến sĩ y khoa, tr. 43-46.(5)
15. Park JH, Roh SW, Rhim SC (2015), "A single-stage posterior 19. Whang PG, Patel AA, Vaccaro AR (2011), "The development
approach with open reduction and pedicle screw fixation in and evaluation of the subaxial injury classification scoring
subaxial cervical facet dislocations". J Neurosurg Spine, pp. 1-7. system for cervical spine trauma". Clin Orthop Relat Res, 469(3),
(68) pp. 723-731.(89)
16. Patel AA, Dailey A, Brodke DS, Daubs M, Anderson PA,
Hurlbert RJ, et al. (2008), "Subaxial cervical spine trauma
classification: the Subaxial Injury Classification system and Ngày nhận bài báo: 03/08/2016
case examples". Neurosurg Focus, 25(5), pp. 8.(69)
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/08/2016
17. Schaefer DM, Flanders AE, Osterholm JL, Northrup BE (1992),
"Prognostic significance of magnetic resonance imaging in the Ngày bài báo được đăng: 05/10/2016
acute phase of cervical spine injury". J Neurosurg, 76(2), pp.
218-223. (75)
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện An Bình năm 2016 41
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dieu_tri_gay_trat_cot_song_co_thap_bang_phuong_phap_phau_thu.pdf