Tài liệu Điều trị chậm động dục ở bò sữa bằng hóc môn sinh sản - Hoàng Nghĩa Sơn: TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 306-312
306
ĐIỀU TRỊ CHẬM ĐỘNG DỤC Ở BÒ SỮA BẰNG HÓC MÔN SINH SẢN
Hoàng Nghĩa Sơn
Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, hoangnghiason@yahoo.com
TÓM TẮT: Sự chậm động dục do sai hỏng chu kỳ động dục ở bò làm giảm hiệu quả kinh tế cho ngành
chăn nuôi Việt Nam. Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ bò tơ chậm lên giống (> 26 tháng tuổi) là 63,22%.
Trong khi đó, tỷ lệ chậm sinh lại (thời gian động dục lại > 5 tháng sau khi sinh con) ở những bò cái là
40,99%. Để điều trị sự trì hoãn động dục trên, các hóc môn sinh sản gồm Progesterone (PG),
Gonadotropin-releasing hormone (GnRH), Pregnant Mare Serum Gonadotropin (PMSG), Human
chorionic gonadotropin (hCG), Estradiol Benzoate (EB) và thể mang hóc môn sinh sản gồm Synchromate
B (SMB) cấy tai và vòng Cue-Mate cấy âm đạo đã được dùng. Có 5 công thức được thiết kế từ các hóc
môn và thể mang này. Công thức I gồm PG + GnRH (tiêm cơ lần 1) và PG + GnRH (tiêm cơ lần 2) c...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 685 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị chậm động dục ở bò sữa bằng hóc môn sinh sản - Hoàng Nghĩa Sơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 306-312
306
ĐIỀU TRỊ CHẬM ĐỘNG DỤC Ở BÒ SỮA BẰNG HÓC MÔN SINH SẢN
Hoàng Nghĩa Sơn
Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, hoangnghiason@yahoo.com
TÓM TẮT: Sự chậm động dục do sai hỏng chu kỳ động dục ở bò làm giảm hiệu quả kinh tế cho ngành
chăn nuôi Việt Nam. Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ bò tơ chậm lên giống (> 26 tháng tuổi) là 63,22%.
Trong khi đó, tỷ lệ chậm sinh lại (thời gian động dục lại > 5 tháng sau khi sinh con) ở những bò cái là
40,99%. Để điều trị sự trì hoãn động dục trên, các hóc môn sinh sản gồm Progesterone (PG),
Gonadotropin-releasing hormone (GnRH), Pregnant Mare Serum Gonadotropin (PMSG), Human
chorionic gonadotropin (hCG), Estradiol Benzoate (EB) và thể mang hóc môn sinh sản gồm Synchromate
B (SMB) cấy tai và vòng Cue-Mate cấy âm đạo đã được dùng. Có 5 công thức được thiết kế từ các hóc
môn và thể mang này. Công thức I gồm PG + GnRH (tiêm cơ lần 1) và PG + GnRH (tiêm cơ lần 2) cách
nhau 9 ngày. Công thức II gồm PG (tiêm cơ lần 1) và PG + PMSG (tiêm cơ lần 2) cách nhau 9 ngày. Công
thức III gồm PG (tiêm cơ lần 1) và PG + hCG (tiêm cơ lần 2) cách nhau 9 ngày. Công thức IV gồm SMB
(cấy vào tai) + EB (tiêm cơ lần 1) và PG + PMSG (tiêm cơ lần 2) cách nhau 7 ngày và 9 ngày sau đó,
SMB được tháo bỏ. Công thức 5 gồm vòng Cue-Mate (cấy vào âm đạo) + EB (tiêm cơ lần 1) và PG +
PMSG (tiêm cơ lần 2) cách nhau 7 ngày và 9 ngày sau đó, vòng Cue-Mate được tháo bỏ. Đối với bò cái
chậm động dục lại, công thức I, II, III, IV và V cho tỷ lệ động dục lại tương ứng là 94,82%, 88,46%, 90%,
100% và 100% và tỷ lệ có thai tương ứng là 89,66%, 80,77%, 82%, 96%, và 82,14%. Công thức IV cho
thấy, hiệu quả đạt được cao nhất nhưng giá thành cao. Trong khi đó, công thức V lại gây viêm âm đạo
(62,50%) sau khi cấy vòng Cue-Mate. Đối với bò tơ chậm biểu hiện động dục lần đầu, công thức I cho tỷ
lệ động dục và tỷ lệ có thai 3 tháng là cao nhất (tương ứng là 97,22% và 86,11%). Kết quả trên cho thấy,
có thể áp dụng công thức I cho việc điều trị sự trì hoãn động dục ở cả bò tơ và bò cái sau khi sinh con.
Từ khóa: bò sữa, mang thai, động dục, chu kỳ, hóc môn sinh sản.
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, tình hình chăn
nuôi bò sữa nói riêng và chăn nuôi bò nói chung
đang gặp phải một số vấn đề khó khăn về khả
năng sinh sản của đàn bò cái. Tỷ lệ sinh sản của
đàn bò được nuôi nhỏ lẻ trong nhân dân cũng
như được nuôi theo qui mô lớn trong các trang
trại chăn nuôi tư nhân và quốc doanh còn khá
thấp. Những rối loạn về sinh sản như chậm lên
giống (chưa lên giống sau 26 tháng tuổi), nân
sổi (chưa lên giống sau 30 tháng tuổi), chậm
động dục lại (trên 5 tháng sau khi đẻ), rối loạn
chu kỳ sinh sản, đẻ sót nhau, viêm nhiễm cơ
quan sinh dục... đã làm giảm hiệu quả kinh tế
trong chăn nuôi. Ví dụ, khoảng cách giữa 2 lứa
đẻ ở bò là khoảng từ 60 đến 100 ngày. Nếu
khoảng cách này càng tăng thì tổn thất về kinh
tế càng lớn do ảnh hưởng trực tiếp của nó đến
năng suất sữa của chu kỳ đang vắt và của chu
kỳ tiếp theo sau và số bê được sinh ra trên một
đầu bò cái. Cùng với đó là giảm tiến độ di
truyền của toàn đàn [6].
Theo một số tác giả [6] ở công ty Hóa dược
Intervet vào năm 2000, ở bò sữa giống thuần,
rất hiếm có con động dục lại 45 ngày sau khi đẻ.
Trong vòng từ 60 đến 90 ngày sau khi đẻ, động
dục tự nhiên chỉ xảy ra ở tỷ lệ 1/3 của toàn đàn.
Nếu thụ tinh đạt 70% thì chỉ có khoảng 25% số
bò được thụ thai. Vì vậy, muốn duy trì khoảng
cách giữa hai lứa đẻ từ 12 đến 13 tháng (khoảng
1 lứa/năm), việc chủ động gây động dục và rụng
trứng sau khi đẻ và chủ động dẫn tinh là điều
cần thiết.
Nhìn chung, việc chủ động gây động dục để
rút ngắn thời gian giữa hai lứa đẻ ở bò và đặc
biệt là bò sữa chưa trở thành một khâu ổn định
trong kỹ thuật chăn nuôi ở Việt Nam. Các biện
pháp xử lý hóc môn chỉ được tiến hành khi sự
chậm sinh sản đã chuyển sang giai đoạn bệnh
lý. Thêm vào đó, do việc sử dụng hóc môn còn
chưa có một quy trình cụ thể, nên thiệt hại và
những bất trắc do sử dụng hóc môn không hợp
lý gây ra cũng khá lớn.
Trong nghiên cứu này, tình hình chậm sinh,
vô sinh và chậm động dục lại sau khi có thai ở
bò tại một số xí nghiệp và trại ở Long Thành và
Củ Chi đã được điều tra và phân tích. Trên cơ
sở đó, một số công thức hóc môn sinh sản đã
Hoang Nghia Son
307
được dùng để thử nghiệm nhằm can thiệp và tìm
ra hướng khắc phục để giảm thiểu thiệt hại cho
người chăn nuôi.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Điều tra và phân loại tình hình chậm sinh
sản trên bò
Có 2 đối tượng bò được khảo sát gồm bò tơ
và bò cái chậm động dục lại sau khi sinh đẻ.
Các phương pháp điều tra sử dụng
Điều tra trên sổ sách, phỏng vấn các hộ gia
đình, quan sát ngoại hình và điều kiện nuôi,
khám tử cung và buồng trứng, và khám thai
(nếu có).
Sử dụng các công thức hóc môn sinh sản
Các loại hóc môn và thể mang hóc môn
Progesterone (PG): có tên thương mại là
Prosolvin (Italia), Lutalyse (Singapore),
Hanprost (Việt Nam), liều dùng 15 mg, tiêm cơ.
Synchromate B (SMB): là một dạng thuốc
cấy vào tai có thành phần dược chất là
norgestomet (6 mg), một loại dẫn xuất của
progesterone nhưng có hoạt tính cao hơn, không
dễ phân hủy trong điều kiện nhiệt độ thường.
Gonadotropin-releasing hormone (GnRH):
có tên thương mại là Suprefact hay Buserelin
(Italia), dùng liều 100 µg, tiêm cơ.
Pregnant Mare Serum Gonadotropin
(PMSG) có tên thương mại là Folligon
(Canada): hóc môn huyết thanh ngựa chửa tinh
sạch. Liều dùng 500 IU, tiêm cơ.
Human chorionic gonadotropin (hCG): có
tên thương mại là Corulon (Italia), liều dùng
1000 IU, tiêm cơ.
Estradiol Benzoate (EB): liều dùng 7,5 mg,
tiêm cơ.
Vòng Cue-Mate: chứa progesterone được
giải phóng ra từ từ. Vòng được đặt trong âm
đạo.
Thử nghiệm các quy trình hóc môn sinh sản
Công thức I: PG+GnRH - PG+GnRH (theo
phương pháp Ovsynch). Mũi tiêm đầu tiên chứa
PG và GnRH. Sau 9 ngày, tiêm lặp lại hỗn hợp
PG và GnRH ở nồng độ tương tự.
Công thức II: PG - PG+PMSG. PG được
tiêm ở mũi thứ nhất ở pha hoàng thể hoặc sau
động dục ít nhất 3 ngày. Sau 9 ngày tiêm mũi
thứ 2 chứa PG kết hợp với PMSG.
Công thức III: PG - PG+hCG (phương pháp
của Lê Văn Ty). PG được tiêm ở pha hoàng thể
hoặc sau động dục ít nhất 3 ngày. Sau 9 ngày,
tiêm tiếp mũi PG thứ 2 kết hợp với 1.000 UI
hCG (tiêm cơ).
Công thức IV: SMB+EB - PG+PMSG
(phương pháp của Lê Văn Ty). SMB được cấy
vào tai vào thời điểm sau động dục ít nhất 3
ngày. Cùng lúc này EB được tiêm vào cơ. Sau 7
ngày, tiêm PG kết hợp với PMSG. Công thức
này cũng có thể áp dụng cho các bò không có
chu kỳ hoặc rối loạn chu kỳ sinh sản. Đến ngày
thứ 9, viên cấy tai SMB được tháo bỏ.
Công thức V: Cue-Mate+EB - PG+PMSG.
Vòng Cue-mate được đặt âm đạo tốt nhất sau
động dục ít nhất 3 ngày. Cùng lúc đó tiêm
Estradiol Benzoate. Đến ngày thứ 7 thì tiêm PG
kết hợp với PMSG. Ngày thứ 9, vòng Cue-mate
được tháo bỏ.
Các thí nghiệm thực hiện đối với các quy trình
đã đề ra
Đối với bò bình thường và chủ động gây
động dục: thử nghiệm tất cả các công thức đối
với bò có chu kỳ tự nhiên từ 2-4 tháng (thời
gian tính từ sau khi đẻ và chưa lên giống lại).
Bò có thể trạng bình thường, không bị viêm
nhiễm đường sinh dục, buồng trứng phát triển,
và tử cung đàn hồi. Do không thể chủ động tất
cả bò trong một đợt để phân lô, vì vậy, chúng
tôi tiến hành theo từng đợt và tùy thuộc vào tình
hình thực tế của các trại chăn nuôi.
Đối với bò tơ sau 30 tháng chưa lên giống:
những con bò được chọn đã có từ 30 tháng tuổi
đến 40 tháng tuổi mà chưa lần nào phối giống.
Sử dụng công thức 1, công thức 2 và công thức
3. Mỗi lô thử nghiệm có từ 10 bò trở lên.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Điều tra và xác định các dạng chậm sinh
Thời gian xuất hiện động dục ở bò tơ
68 bò sữa tơ từ 18 tháng tuổi trở lên tại xí
nghiệp bò sữa An Phước (Long Thành), trại bò
Năm Trí (Long Thành) và xí nghiệp bò sữa An
Phú (Củ Chi) đã được khảo sát. Kết quả được
trình bày ở bảng 1.
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 306-312
308
Bảng 1. Tình hình lên giống lần đầu ở bò tơ
Tuổi xuất hiện động dục lần đầu Số bò tơ Tỷ lệ (%)
18-20 tháng 13 19,12
21-25 tháng 24 35,30
26-30 tháng 19 27,94
Trên 30 tháng 12 17,64
Tổng 68 100
Trong chăn nuôi bò sữa, nếu sau 26 tháng
tuổi mà bê chưa động dục thì coi như là đã
muộn và hiệu quả kinh tế sẽ bị ảnh hưởng. Vì
vậy, ở những trường hợp muộn động dục này,
bê được khám và sau đó được tiêm hóc môn
sinh sản.
Theo kết quả trên thì tỷ lệ bê chậm lên
giống hiện nay là khá cao: 31/68 = 45,58% (tính
từ 26 tháng tuổi trở lên). Còn nếu sau 30 tháng
tuổi mà bê chưa lên giống thì có thể liệt chúng
vào diện nân sổi, với tỷ lệ 17,64%.
Nguyên nhân có thể là do chất lượng giống
(tỷ lệ máu ngoại cao, do lai với giống bò ngoại,
nên khả năng thích nghi giảm xuống), tình hình
nuôi dưỡng (chuồng trại, thức ăn, dinh dưỡng
chưa phù hợp với yêu cầu), do kỹ thuật phát
hiện động dục của người chăn nuôi chưa tốt
(động dục không thể hiện rõ ra ngoài).... Để
tăng hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi, cần có
biện pháp giúp bê bị muộn động dục hoặc nân
sổi này có được sự động dục bình thường trở
lại. Vì vậy, can thiệp hóc môn sinh sản là
phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu
này.
Chu kỳ động dục lại ở bò mẹ sau sinh sản (thời
gian bò chưa động dục lại tính từ lúc bò đẻ đến
thời điểm khám)
Đã khảo sát trên 161 bò (trong tổng đàn 305
con) chưa có thai lại sau khi đẻ trong cùng thời
gian điều tra tại xí nghiệp bò sữa An Phước
(Long Thành), trại bò Năm Trí (Long Thành),
trại bò Tài Lộc (Củ Chi). Kết quả được trình
bày ở bảng 2.
Bảng 2. Thời gian động dục lại tại thời điểm điều tra
Thời gian động dục lại từ lúc
đẻ đến thời điểm khám Số bò (con)
Tỷ lệ (%) so với số
bò tự do
Tỷ lệ (%) so với
tổng đàn
1-2 tháng 36 22,36 11,8
3-4 tháng 59 36,65 19,34
5-6 tháng 38 23,60 12,46
7-10 tháng 13 8,07 4,26
Từ 10 tháng trở lên 15 9,32 4,92
Tổng 161 100 52,78
Thông thường, sau khi đẻ từ 2-3 tháng là bò
mẹ đã có khả năng có chửa lại. Nếu thời gian
động dục lại từ 5 tháng trở lên là đã có ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả chăn nuôi. Chi phí mỗi
tháng phải trả cho thời gian muộn này là chi phí
bỏ không (gồm công chăm sóc, thức ăn, chuồng
trại, con giống...). Sau khi đẻ 4 tháng mà bò mẹ
vẫn chưa lên giống lại hoặc lên giống nhưng
gieo tinh không có kết quả tốt thì lúc này cần có
can thiệp bằng cách tìm nguyên nhân và sử
dụng hóc môn kích dục.
Đàn bò có tỷ lệ chậm sinh cao thể hiện ở
thời gian tự do 5-6 tháng là 38/161 (23,60%), từ
7-10 tháng là 13/161 (8,07%), trên 10 tháng là
15/161 (9,32%) tương đương 4,92% so với tổng
đàn. Nếu thời gian động dục lại từ 2 đến 4 tháng
là chấp nhận được thì thời gian động dục lại trên
5 tháng đã nằm ngoài khoảng cho phép và gây
thiệt hại kinh tế đối với thu nhập cả về sữa và cả
về số lượng bê (tỷ lệ này chiếm 66/161=
41,00% so với số bò được khám, tương đương
21,63% so với tổng đàn).
Hoang Nghia Son
309
Kết quả sử dụng các công thức hóc môn chủ
động gây động dục
Đối với bò sữa có thời gian động dục lại muộn
Sử dụng các công thức hóc môn chủ động
gây động dục cho bò có thời gian động dục lại
từ 2 đến 4 tháng. Những con bò này không có
vấn đề về đường sinh sản và có chỉ số thể trạng
từ 5 (khá) trở lên, có trạng thái sinh lý bình
thường, cơ quan sinh dục bình thường nhưng
chưa có biểu hiện lên giống lại từ sau khi đẻ.
Những con không có biểu hiện động dục trong
lần xứ lý 1 sẽ được xử lý lại lần 2. Kết quả được
trình bày trong bảng 3.
Bảng 3. Tỷ lệ bò xuất hiện động dục khi kết thúc chu trình sử dụng thuốc
Chỉ tiêu
Công thức hóc môn
I II III IV V
Số
lượng Tỷ lệ
Số
lượng Tỷ lệ
Số
lượng Tỷ lệ
Số
lượng Tỷ lệ
Số
lượng Tỷ lệ
Tổng số bò TN 58 100 52 100 50 100 25 100 28 100
Kết quả lần 1 43 74,13 36 69,23 35 70,00 22 88,00 22 78,57
Kết quả lần 2 12 20,69 10 19,23 10 20,00 03 12,00 06 21,43
Tổng lần 1 + 2 55 94,82 46 88,46 45 90,00 25 100 28 100
Có thai 3 tháng 52 89,66 42 80,77 41 82,00 24 96,00 23 82,14
Công thức I: Trong 58 bò có 43 con
(74,13%) cho kết quả có biểu hiện động dục
ngay từ lần gây động dục 1; 12 con (20,69%)
cho kết quả ở lần gây động dục 2; tổng số con
có biểu hiện động dục cả 2 lần là 55 (94,82%).
Trong quá trình thí nghiệm, những con có tỷ
lệ máu HF cao được ghi nhận là có biểu hiện
phản ứng.
Kết quả khám thai sau 3 tháng cho thấy so
với tổng số bò xử lý có 52 con có chửa, chiếm
89,66%.
Tuy nhiên, những con trong quá trình theo
dõi từ khi gieo tinh đến 3 tháng sau đó nếu phát
hiện thấy lên giống trở lại rõ thì những con bò
này được gieo tinh lại mà không tính vào kết
quả.
Có ba lý do để phát triển quy trình có sử
dụng với GnRH. Thứ nhất, GnRH, được tiết ra
từ tuyến đồ thị, kích thích trực tiếp vào tuyến
yên làm giải phóng ra đồng thời FSH và LH. Do
đó, tỷ lệ FSH/LH sẽ lý tưởng giống với tự nhiên
và đủ để kích thích phát triển nang, độc tôn
nang và tạo gây ra phản ứng rụng trứng. Cách
này không làm cho buồng trứng lâm vào trạng
thái quá ưu năng hoặc quá thiểu năng. Thứ hai,
GnRH là một peptid ngắn nên nó dễ dàng được
tổng hợp hóa học từ các a-xit a-min đơn và cũng
dễ dàng được sản xuất bằng công nghệ tái tổ
hợp. Hiện nay, các nhà sinh hóa đã thay đổi vị
trí cũng như một số các gốc a-xit a-min làm cho
phân tử GnRH có hoạt chất cao hơn và bền
vững hơn ở nhiệt độ thường. Thứ ba, liều dùng
của GnRH là rất nhỏ, tính bằng microgram, nên
về mặt giá thành ngay cả ở Việt Nam là chấp
nhận được. Tính trung bình một liều GnRH 100
µg cũng chỉ khoảng 12.000-15.000 đồng. Tuy
nhiên, cần phải chủ động đặt mua trước khi có ý
định sử dụng bởi vì hiện nay, GnRH không có
sẵn trên thị trường Việt Nam.
Công thức II và III: Kết quả thu được ở 2
công thức này là gần giống nhau.
Công thức II: Số bò có biểu hiện động dục
lần 1 và 2 theo thứ tự là 36/52 (69,23%) và
19,23%. Tổng cả 2 lần có 46/52 (88,46%) bò
lên giống. Kết quả khám thai sau 3 tháng có
42/52 (80,77% ) có thai.
Công thức III: Số bò có biểu hiện động dục
lần 1 là 35/50 (70%) và lần 2 là 10/50 (20%).
Tổng cả 2 lần có 45/50 (90%) bò lên giống và kết
quả khám thai sau 3 tháng có 45 bò có thai, chiếm
tỷ lệ 82% so với tổng số bò xử lý hóc môn.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng
một lượng PMSG vừa phải (1.000 UI/bò), nên
trong quá trình theo dõi, không có trường hợp
động dục bất thường như phì đại buồng trứng,
động dục kéo dài như các tác giả Lê Văn Ty
(2007) [6] đã công bố. Kết quả này cho thấy,
việc sử dụng hai công thức trên không có sự
khác biệt nhiều.
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 306-312
310
Kết quả thu được từ công thức II và III tuy có
thấp hơn so với các công thức khác nhưng thực
sự đây là 2 công thức có khả năng áp dụng nhất
do giá thành rẻ, các loại hóc môn là dễ kiếm trên
thị trường Việt Nam và quy trình cũng rất đơn
giản. Đặc biệt, khi áp dụng cho bò lai Sind và
một số bò sữa trung bình thì rất tiện và những bò
không lên giống trong thời gian thí nghiệm cũng
sẽ lên giống trong 1-2 chu kỳ sau đó.
Công thức IV: Kết quả là lần 1 có 22 bò lên
giống, chiếm 88%, lần 2 có 3 bò lên giống,
chiếm 12% và cả hai lần có 100% bò lên giống.
Sử dụng viên cấy tai SMB rất thuận tiện.
Progesteron trong viên cấy có thể được giải
phóng một cách từ từ vào máu nên không sợ bị
viêm nhiễm đường sinh dục. Công thức này có
hiệu quả cao đối với cả 3 loại bò thí nghiệm. Cả
2 lần gây động dục cho kết quả 100% bò động
dục.
Kết quả khám thai sau 3 tháng cho thấy, có
24 bò có chửa, chiếm 96% so với tổng số bò xử
lý. Kết quả này là rất cao và cũng phù hợp với
kết quả của Lê Văn Ty (2007) [6] đã thực hiện
trên đàn bò sữa thuần tại Sơn La.
Dùng progesterone gây động dục cho bò là
qui trình được nghiên cứu sớm nhất và cũng là
quy trình hiệu quả nhất tính đến thời điểm hiện
nay. Giai đoạn tiền khởi của quy trình này
người ta tiêm progesterone liên tục trong 12
ngày ở pha hoàng thể, sau đó dừng tiêm
progesterone và kết hợp với một liều PMSG cho
kết quả động dục và rụng trứng hầu như 100%
trên bò có chu kỳ. Vì giữ cho sóng nang luôn có
nang phát triển độc tôn nên thời điểm ngừng sử
dụng progesterone cũng là lúc sự ức chế của
chất này đối với tuyến đồ thị giảm xuống và làm
giải phóng GnRH mà sau đó chất này kích thích
lên tuyến yên làm gia tăng sự bài tiết LH cả về
tần số và biên độ gây quá trình rụng trứng cũng
như toàn bộ trạng thái động dục. Sử dụng một
liều PG hai ngày trước lúc thôi tác dụng của
progesterone, để làm giảm lượng progesterone
nội tại và làm thoái hoá thể vàng. Với quy trình
này, dẫn tinh không cần theo dõi động dục trong
vòng 18-24 giờ sau khi thôi tác dụng của
progesterone.
Tuy nhiên, đây là quy trình có giá thành đắt
nhất trong tất cả các quy trình mà chúng tôi sử
dụng, 1 hộp với 5 viên SMB và 5 ống oestrogen
có giá từ 2 triệu đến 2,4 triệu đồng. Mặt khác
SMB hiện nay rất khó kiếm mua trên thị trường
Việt Nam và cả nước ngoài. Chính vì các lý do
trên mà chúng tôi khuyến cáo quy trình SMB
chỉ dùng trong các trường hợp nhất thiết phải có
sự đồng pha tuyệt đối hoặc đối với các bò có
năng suất kỷ lục, có giá trị kinh tế hoặc giá trị
giống cao.
Công thức V: Kết quả gây động dục lần 1 có
22 bò động dục (78,57%), lần 2 có 6 bò động
dục (21,43%) và cả hai lần là 100%. Kết quả về
lên giống của công thức này cũng tương đương
như công thức IV. Tuy nhiên, kết quả về số bò
bị viêm âm đạo khi sử dụng công thức này lại
khá cao. Đối với bò có thể tạng nhỏ, tỷ lệ viêm
âm đạo khi sử dụng vòng Cue-Mate trong thí
nghiệm là cao nhất 5/8 (62,50%).
Nguyên nhân bò bị viêm âm đạo có thể là
do kích thước khá lớn của vòng Cue-Mate khi
dùng cho bò có thể trạng nhỏ. Vòng này gây cọ
xát nhiều trong khoang âm đạo dẫn đến viêm.
Mặt khác bò được nuôi tại các trang trại quốc
doanh và gia đình vận động nhiều nên mức độ
cọ xát càng cao và khả năng viêm âm đạo càng
lớn. Bò lai Sind có kích cở khoang âm đạo nhỏ
nên khả năng cọ xát với vòng càng nhiều hơn và
rất dễ dẫn đến viêm. Vì vậy, chỉ nên dùng vòng
đặt Cue-Mate đối với các trường hợp cần thiết
và nên sử dụng phương pháp này cho bò sữa,
những con có tầm vóc to lớn.
Kết quả khám thai sau 3 tháng cho thấy, có
23 bò có chửa, chiếm tỷ lệ 82,14% so với tổng
số bò xử lý. Kết quả này không cao bằng kết
quả trước đây của Lê Văn Ty (2007) [6]. Sự
khác biệt này có thể là do những bò có biểu hiện
viêm âm đạo nặng, mặc dù có biểu hiện động
dục rất rõ, không được gieo tinh. Những bò bị
viêm này được đặt thuốc kháng sinh hết viêm và
được gieo tinh ở chu kỳ tiếp sau đó nhờ lên
giống tự nhiên. Kết quả lên giống tự nhiên cũng
có thể nhờ can thiệp gây động dục từ chu kỳ
trước.
Đối với bò tơ
Sử dụng công thức I, II, và III đối với bò tơ
thể trạng tốt nhưng chưa lên giống sau 30 tháng
tuổi. Kết quả gây động dục được trình bày trong
bảng 4.
Hoang Nghia Son
311
Bảng 4. Ảnh hưởng các công thức hóc môn tới động dục của bò tơ
Chỉ tiêu
Công thức hóc môn
I II III
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
Tổng số bò TN 36 100 38 100 36 100
Kết quả lần 1 29 80,55 28 73,68 23 63,88
Kết quả lần 2 6 16,66 7 18,42 10 27,77
Tổng 2 lần 35 97,22 35 92,10 33 91,66
Chửa 3 tháng 31 86,11 30 78,94 29 80,55
Kết quả bảng 4 cho thấy, công thức I có tỷ
lệ bò lên giống và có thai 3 tháng là cao nhất
(tương ứng 97,22% và 86,11%). Công thức II
và III tỷ lệ bò tơ lên giống và có thai 3 tháng
thấp hơn công thức 1, kết quả này giữa hai công
thức 2 và 3 là không khác nhau. Kết quả này
cũng phú hợp với kết quả chủ động ngây động
dục thể hiện trong bảng 2. Kết quả này cao hơn
một số kết quả trước đây của Hoàng Kim Giao
(1997) [4] và Quản Xuân Hữu (2003) [7]. Sự
khác biệt này có lẽ do thực hiện 2 lần gây động
dục và trong quá trình theo dõi nếu bò lên giống
là tiến hành thụ tinh chứ không cần tính sự đồng
pha như trong cấy truyền phôi.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu điều trị sự chậm sinh ở bò mang
một ý nghĩa quan trọng trong chăn nuôi. Ngoài
góc độ khoa học, nó còn góp phần cải thiện hiệu
quả kinh tế của ngành công nghiệp chăn nuôi bò
sữa. Trong nghiên cứu này, các hóc môn sinh
dục và thể mang hóc môn đã được kết hợp để
đạt hiệu quả điều trị cao nhất. Trong 5 công
thức hốc môn được thiết kế, mặc dù công thức
IV và V cho hiệu quả cao một cách tuyệt đối
(100%) trong kích hoạt động dục bò cái chậm
động dục lại sau khi sinh nhưng giá thành cao
(công thức IV) và gây viêm nhiễm đường âm
đạo (công thức V). Trong khi đó, công thức I
kích hoạt 95% động dụng nhưng giá thành rẻ.
Vì vậy, công thức I này mang tính kinh tế cao
và không kém phần hiệu quả nên có thể áp dụng
trong điều trị chậm động dục cho bò sữa sau
sinh đẻ. Ngoài ra, công thức này cũng có thể áp
dụng cho bò tơ chậm động dục lần đầu.
Lời cảm ơn: Đề tài được hỗ trợ về kinh phí của
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tấn Anh, Đào Đức Thà, 2002. Kỹ
thuật thụ tinh nhân tạo bò. Cẩm nang Chăn
nuôi gia súc gia cầm. Nxb. Nông nghiệp, Hà
Nội, Tr. 202 - 285.
2. Lê Xuân Cương, Lê Văn Thọ, 1979. Kích tố
ứng dụng trong chăn nuôi. Nxb. Nông
nghiệp, Hà Nội.
3. Hoàng Kim Giao, Nguyễn Thanh Dương,
Đỗ Kim Tuyên, Lưu Công Khanh, Lê Thị
Thúy, 1997. Công nghệ cấy truyền phôi.
Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Hoàng Kim Giao, Nguyễn Thanh Dương,
1997. Công nghệ sinh sản trong Chăn nuôi
bò. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Thưởng, 1995. Kỹ thuật nuôi
bò sữa, thịt ở gia đình. Nxb. Nông nghiệp,
Hà Nội.
6. Lê Văn Ty, 2007. Cải tiến và thích nghi các
kỹ thuật gây động dục và rụng trứng trên bò
sữa Hà Lan nhằm giải quyết vấn đề chậm
sinh và rút ngắn khoảng cách giữa hai lần
sinh con. Tạp chí Sinh học, 29(3): 78-82.
7. Quản Xuân Hữu và nnk., 2003. Nghiên cứu
sử dụng GnRH tái tổ hợp để điều khiển
động dục đồng pha và cấy phôi bò. Báo cáo
khoa học, Hội nghị Khoa học Công nghệ
sinh học toàn quốc.
8. A. I., 1991. Management Manual. American
Breeder Service (ABS). Third Edition.
9. Gonzalez, 1994. Enhancing tropical beef
cattle genetics, reproduction and animal
breeding skills. Queensland, Ausralia, pp:
21-31.
10. Land R. B. and Hill W.G, 1975. The
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 306-312
312
possible use of superovulation and embryo
transfer in cattle to increase response to
selection. Anim. Prod., 21: 1-12.
11. Lea and Febiger. Philadelphia, 1987.
Reproduction in farm animals. E.S.E. Hafes.
5th Edition.
12. Monniaux. D. Mariana J. C, Gibson W. R,
1984. Action of PMSG on Follicular
population. J. Reprod., pp: 243-253.
13. Newcomb R., Christie W. B., Rowson L. E.
A., Walters D. E., Bousfield W. E. D., 1979.
Influence of dose, repeated treatment and
batch of hormone on ovarian response in
heifers treated with PMSG. J. Reprod. Fert.,
56: 113-118.
14. Smith J. F., Nc Gowan L. T., 1982.
Estrogen and the PRID. Proceding of the
NZ society of animal production, pp: 87-92.
15. Thompson, 1999. Progesterone and folicular
changes in postpartum noncyclic dairy cows
after treatment with progesterone and
oestradiol or with progesterone, GnRH,
PGF2a, and oestradiol. Theriogenology, 54:
273-282.
TREATMENT OF ANOESTRUM IN COWS BY REPRODUCTIVE HORMONES
Hoang Nghia Son
Institute of Tropical Biology, VAST
SUMMARY
Anoestrum, a failure in the estrous cycle, in dairy cows causes a reduction in economic efficiency of
livestock in Vietnam. My observation showed that dairy cows which have no cycle for the first time (referred
to as late estrus) at the age of > 26 months make up 63.22% of population. Animals which have no cycle for
> 5 months (referred to as delayed estrus) after calving make up 40.99% of population. To treat anoestrum,
reproductive hormones including Progesterone (PG), Gonadotropin-releasing hormone (GnRH), Pregnant
Mare's Serum Gonadotropin (PMSG), Human chorionic gonadotropin (hCG), Estradiol Benzoate (EB) and
hormone carriers including Synchromate B (SMB) implanted into the ears and Cue-Mate implanted into the
vagina were applied. There are 5 formulas made from these hormones and hormone carriers. Formula I
contains PG + GnRH (1st injection i.m.) and PG + GnRH (2nd injection i.m.) 9 days later. Formula II
contains PG (1st injection i.m.) and PG + PMSG (2nd injection i.m.) 9 days later. Formula III contains PG
(1st injection i.m.) and PG + hCG (2nd injection i.m.) 9 days later. Formula IV contains SMB (ear
implantation) + EB (1st injection i.m.) and PG + PMSG (2nd injection i.m.) 7 days later and SMB was
removed on day 16. Finally, formula V contains Cue-Mate (intravaginal implantation) + EB (1st injection
i.m.) and PG + PMSG (2nd injection i.m.) 7 days later and Cue-Mate was removed on day 16. Treatment of
cows inwhich delayed estrous cycle appeared for re-breeding showed that the formula I, II, III, IV, and V
induce estrus respectively in 94.82%, 88.46%, 90%, 100%, and 100% of population and promote pregnancy
efficiency in respectively 89.66%, 80.77%, 82%, 96%, and 82.14% of population. The data show that formula
IV gave the highest efficiency but it is the most costly. In contrast, formula V induces vaginal inflammation in
62.50% of cows. Treatment of cows which have late estrus for the first time with formula I, II, and III showed
formula I is efficient in inducing estrus and promoting pregnancy (97.22% and 86.11% respectively). All
together, the results indicate that formula I may be the applicable choice for treatment of anoestrum in dairy
cows in Vietnam.
Key words: Anoestrum, cow, estrous cycle, pregnant, reproductive hormone..
Ngày nhận bài: 21-6-2012
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1803_5783_1_pb_7024_2180568.pdf