Điều chỉnh mô hình để nâng cao hiệu quả liên kết “bốn nhà”

Tài liệu Điều chỉnh mô hình để nâng cao hiệu quả liên kết “bốn nhà”: 11 Điều chỉnh mô hình . . . ĐIỀU CHỈNH MÔ HÌNH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” Vòng Thình Nam*, Nguyễn Thị Thu Thủy** TÓM TẮT Mô hình liên kết “bốn nhà” trong nông nghiệp những năm gần đây đã mang lại những hiệu quả nhất định, góp phần ổn định sản xuất cho người nông dân. Tuy nhiên, hiệu quả liên kết chưa được như kỳ vọng. Vì vậy, bài viết tập trung phân tích, đánh giá thực trạng các mối quan hệ bên trong liên kết, nhằm tìm ra nguyên nhân những vấn đề tồn tại của các mối liên kết “bốn nhà”, từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả liên kết, hướng đến phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững. Để thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng phương pháp thốngkêmôtả, phân tích trên cơ sở dữliệuthứcấp từ các nguồn liên quan và thảo luận bàn tròn với các chuyên gia là những giáo viên dạy nghề nông thôn, họ có nhiều trải nghiệm và chứng kiến diễn biến các mối liên kết “bốn nhà” ở đồng bằng sông Cửu Long. Từ khóa: Liên kết “bốn nhà”, Cánh đồng lớn,...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 250 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều chỉnh mô hình để nâng cao hiệu quả liên kết “bốn nhà”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11 Điều chỉnh mô hình . . . ĐIỀU CHỈNH MÔ HÌNH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” Vòng Thình Nam*, Nguyễn Thị Thu Thủy** TÓM TẮT Mô hình liên kết “bốn nhà” trong nông nghiệp những năm gần đây đã mang lại những hiệu quả nhất định, góp phần ổn định sản xuất cho người nông dân. Tuy nhiên, hiệu quả liên kết chưa được như kỳ vọng. Vì vậy, bài viết tập trung phân tích, đánh giá thực trạng các mối quan hệ bên trong liên kết, nhằm tìm ra nguyên nhân những vấn đề tồn tại của các mối liên kết “bốn nhà”, từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả liên kết, hướng đến phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững. Để thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng phương pháp thốngkêmôtả, phân tích trên cơ sở dữliệuthứcấp từ các nguồn liên quan và thảo luận bàn tròn với các chuyên gia là những giáo viên dạy nghề nông thôn, họ có nhiều trải nghiệm và chứng kiến diễn biến các mối liên kết “bốn nhà” ở đồng bằng sông Cửu Long. Từ khóa: Liên kết “bốn nhà”, Cánh đồng lớn, Tam nông, Phát triển bền vững. MODIFY MODEL TO ENHANCE THE “FOUR PARTY” LINKS EFFECTIVENESS ABSTRACT “Four party” links model has brought some good effect in the recent years, helping to production stabilization to farmers. However, the effectiveness of that linkage is not as expected. Therefore, the study will focus to analyse, evaluate the insight of relationship from each linkage. This is the way to find the root and basis causes of the linkage in “Four party” to propose some solution to enhance the effectiveness of the linkage in the way of sustainable agricultural development. To do this study, the author has used method of described statistics, secondary data analysis from relevant source and roundtable discussion with experts who are teachers on agriculture in countryside. They, themselves, has plenty of experience and survey on linkage of “Four party” in the Mekong Delta. Keywords: “Four party” links, Largefield, The threeagricultural, Sustainable development. * TS. Giảng viên Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh. ĐT: 0907.993345 ** TS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương 12 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Mô hình liên kết “bốn nhà” được ra đời trong quá trình thực hiện chủ trương của Nhà nước, theo quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/06/2002 của Thủ tướng Chính phủ “Về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng”[1] và Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 “Về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn” [2]. Nhiều địa phương, nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã triển khai thực hiện mô hình mô hình liên kết “bốn nhà” cho sản xuất nhiều loại sản phẩm nông nghiệp khác nhau. Mặc dù chưa thật hoàn hảo, song mô hình này cũng đã mang lại hiệu quả khả quan cho nhiều địa phương như: các Hợp tác xã (HTX) trồng lúa ở huyện Vĩnh Lợi, huyện Giá Rai tỉnh Bạc Liệu [4], HợptácxãthủysảnThớiAn [6], HTX Hàm Minh tỉnh Bình Thuận trồng Thanh Long xuất khẩu, HTX Mỹ Thành huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang[5] Tuy nhiên, trong thời gian hơn mười năm qua, các địa phương đi từ mô hình thí điểm đến chính thức thực hiện đã có nhiều vấn đề bất cập tồn tại, ảnh hưởng đến các mối liên kết, làm cho hiệu quả của liên kết “bốn nhà” chưa cao. Bên cạnh đó, có những vấn đề mới phát sinh cần phải được xem xét với tư duy mới, mang tính chiến lược, ổn định lâu dài và bền vững hơn cho các mối liên kết trong xu thế hội nhập thông qua việc phát huy thế mạnh của các bên liên kết, đồng thời đáp ứng lợi ích của các bên tham gia liên kết một cách thỏa đáng. 2. MÔ HÌNH LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” HIỆN NAY Mô hình liên kết “bốn nhà” trong nông nghiệp gồm có các bên (các nhà) tham gia: Nhà nước, Nhà nông dân, Nhà doanh nghiệp, Nhà Khoa học. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò thiết lập và chi phối liên kết. Nhà nông dân và Nhà doanh nghiệp là hai đối tượng chính của mối liên kết “bốn nhà”, Nhà khoa học với vai trò cung cấp dịch vụ Khoa học kỹ thuật và hỗ trợ cho quá trình sản xuất, chăn nuôi. Có thể xem nội dung qua hệ giữa các Nhà trong mối liên kết thông qua sơ đồ dưới đây. Sơ đồ 2.1. Mô hình liên kết “bốn nhà” hiện nay Nhà nước - Qui hoạch - Thông tin thị trường - Chính sách quản lý ngành - Chính sách thu hút ngành phụ trợ - Ưu đãi vốn, tín dụng - Hỗ trợ ngành sản xuất - Cơ sở hạ tầng - Hợp tác quốc tế - Nông sản phẩm / nguyên liệu - Môi trường thực nghiệm Nhà Doanh nghiệp: - DN cung cấp đầu vào - DN tiêu thụ sản phẩm đầu ra Nhà Nông dân Nhà khoa học - Vốn - Giống - Phân bón, thức ăn - Thuốc BVTV, thú y - Thu mua nông sản - Kỹ thuật chăm sóc - Qui trình sản xuất - Công nghệ sản xuất thu hoạch, bảo quản Nguồn: Tác giả 13 Điều chỉnh mô hình . . . 2.1. Mối quan hệ giữa Doanh nghiệp với Nông dân trong mô hình liên kết Mối quan hệ giữa Doanh nghiệp (DN) và Nông dân bao gồm các nội dung công việc cụ thể như: DN cung cấp các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất nông nghiệp như: Vốn, cây giống, con giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y và thu mua nông sản phẩm để cung cấp cho thị trường hoặc làm nguyên liệu chế biến thành nhiều sản phẩm khác nhau để đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú cho người tiêu dùng. Mối quan hệ này càng gắn bó, càng chặt chẽ thì quá trình sản xuất nông nghiệp của Nông dân và quá trình kinh doanh của DN càng ổn định, hiệu quả liên kết càng cao cho cả hai bên. Người Nông dân yên tâm vì đã có DN giúp mình cung ứng các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Ngược lại, DN vừa bán được các sản phẩm của mình cho Người Nông dân (cây giống, con giống, phân bón, thức ăn, thuốc), đồng thời có nguồn nguyên liệu ổn định và tin cậy để cung cấp cho thị trường hoặccó nguyên liệu để chế biến sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường. Mối quan hệ trên được thực hiện thông qua hợp đồng ký kết giữa hai bên trước khi bước vào mùa vụ trồng trọt hoặc chăn nuôi, thậm chí có thể ký trước khi chuẩn bị đất hoặc xây dựng chuồng trại để chăn nuôi. Như vậy, mối liên kết này tạo ra sự tương trợ qua lại giữa hai đối tác: DN và Nông dân, góp phần ổn định cho công việc kinh doanh và sản xuất của cả hai bên. Đây chính là biện pháp hữu hiệu làm tăng hiệu quả cho ngành nông nghiệp của chúng ta. Tuy nhiên, trong thực tế mối liên kết giữa Doanh nghiệp và Nông dân cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập mà đòi hỏi các bên phải nhìn lại. 2.2. Mối quan hệ giữa Nhà khoa học với Nông dân trong mô hình liên kết Trong sản xuất nông nghiệp, Nhà khoa học giúp Người Nông dân rất nhiều việc, từ chọn giống cho đến phát hiện các loại sâu, bệnh, quy trình sản xuất, công nghệ thiết bị sản xuất nhằm giúp Người Nông dân nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất. Chẳng hạn, Nhà khoa học nghiên cứu đưa các loại giống mới cho năng suất cao hơn, kháng bệnh tốt hơn, tạo ra sản phẩm chất lượng hơn; hay họ tìm ra qui trình sản xuất có nhiều ưu việt giúp sản xuất có hiệu quả hơn hoặc Nhà khoa học nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Chúng ta có thể xem các hoạt động của Nhà khoa học giúp Người Nông dân như là hoạt động cung cấp dịch vụ có chi phí (chia sẻ lợi ích với người Nông dân) và dịch vụ miễn phí (chỉ hỗ trợ), nhằm giúp Người Nông dân đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất. Ngược lại, Người Nông dân có thể cung cấp môi trường thực nghiệm cho Nhà khoa học, giúp họ có điều kiện để nghiên cứu, thử nghiệm thực tế các đề tài nghiên cứu khoa học về Nông nghiệp của mình. Như vậy, mối liên kết này mang lại nhiều lợi ích cho cả hai bên. Người Nông dân có thể có được giống tốt, công nghệ tiên tiến, qui trình sản xuấttốt để sản xuất với hiệu quả cao hơn. Còn Nhà khoa học có thể có thu nhập do chuyển giao kết quả nghiên cứu, khoa học công nghệ; công trình nghiên cứu của họ có nơi để ứng dụng Nói chung hai bên liên kết để tạo ra lợi ích và cùng nhau chia sẻ lợi ích đó. 2.3. Mối quan hệ giữa Nhà nước với Nông dân trong mô hình liên kết Nhà nước quan hệ trực tiếp với Người Nông dân thông qua thể chế, chính sách vĩ mô đối với ngành và khu vực địa phương, 14 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật đồng thời quan hệ gián tiếp với Người Nông dân thông qua việc chi phối toàn bộ các mối quan hệ liên kết trong xã hội đối với ngành nông nghiệp. Mối quan hệ trực tiếp của Nhà nước với Người Nông dân thể hiện qua các hoạt động: Qui hoạch ngành nông nghiệp và các ngành phụ trợ, ban hành chính sách quản lý ngành, ban hành chính sách thu hút đầu tư vào ngành nông nghiệp và các ngành phụ trợ khác. Trong từng giai đoạn, Nhà nước còn có thể có những chính sách hỗ trợ đối với từng địa phương hoặc ngành nông nghiệp mũi nhọn để giúp ngành này phát triển như: - Ưu đãi vốn, tín dụng - Cơ sở hạ tầng - Hợp tác quốc tế Đối với quan hệ gián tiếp với Người Nông dân, Nhà nước ban hành cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý đối với các mối quan hệ giữa Người Nông dân với Doanh nghiệp; giữa người Nông dân với Nhà khoa học. Ngoài ra, Nhà nước còn chi phối cả những mối quan hệ hàng ngang giữa các trang trại, các Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, các hiệp hội với nhau. Trong mối quan hệ với Nhà nước, Người Nông dân sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ thể chế và chính sách trực tiếp cũng như gián tiếp. Ngược lại, Người Nông dân làm ăn ổn định, hiệu quả, ngành nông nghiệp phát triển sẽ mang lại lợi ích cho Nhà nước: tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu xã hội, tạo việc làm cho người lao động, góp phần ổn định cuộc sống dân cư, ổn định an ninh trật tự xã hội và nộp ngân sách Nhà nước nói chung góp phần làm cho xã hội phồn vinh và phát triển. 3. NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI ĐỐI VỚI MÔ HÌNH LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” 3.1. Đối với mối quan hệ giữa Doanh nghiệp và Người Nông dân Trong quá trình liên kết, DN và Người Nông dân thường hay nảy sinh các mâu thuẫn: - Người nông dân cho rằng Doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm đầu vào không đảm bảo chất lượng như hợp đồng đã ký kết. - Doanh nghiệp lại cho rằng sản phẩm của Nông dân “có vấn đề” nên không chịu tiêu thụ, nhất là những lúc giá cả thị trường xuống thấp họ tìm cách chê bai để né tránh mua hàng với giá cao như đã ký hợp đồng, thậm chí “ép giá” nông dân khi vào vụ thu hoạch giá xuống[3]. - Khi giá nông sản trên thị trường cao hơn giá đã ký trên hợp đồng, Người Nông dân chỉ bán số lượng ít hoặc không bán nông sản cho DN mà tìm cách bán cho thương lái hoặc DN khác với giá cao hơn để kiếm lợi, bất chấp hợp đồng đã ký kết, đã ứng tiền hoặc ứng phân bón, vật tư trong mùa vụ. - Một số Người Nông dân khác, bán ít hoặc không bán nông sản cho DN còn vì lý do sợ bị trừ nợ hết tiền (do vay nợ tiền, vật tư cho sản xuất nông nghiệp) nên họ không bán cho DN đã ký hợp đồng mà bán các cho những người mua khác. Thực tế còn nhiều vấn đề phát sinh khác mà cả hai bên có thể có lý do để từ chối thực hiện hợp đồng. Từ đó làm cho các mối liên kết “bị gãy”, không có hiệu quả hoặc hiệu quả không cao, làm ảnh hưởng chung đến tính ưu việt của một chủ trương tốt. 3.2. Đối với mối quan hệ giữa Nhà Khoa học và Người Nông dân Trong thực tế, mối liên kết giữa Người nông dân và Nhà khoa học ít hình thành, không có hoặc có ít dịch vụ được thực hiện do: - Người Nông dân không có ý thức nhiều trong việc áp dụng khoa học vào sản xuất nông 15 Điều chỉnh mô hình . . . nghiệp mà chỉ sử dụng những kinh nghiệm sẵn có của bản thân. - Người Nông dân không đủ khả năng để đầu tư Khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp qui mô nhỏ mang tính chất gia đình. - Tư duy của Nông dân còn mang nặng tính bao cấp về khuyến nông, khoa học công nghệ như từ trước đến nay họ được hưởng. - Quyền lợi của Nhà khoa học không được thể hiện rõ ràng mà dường như hoạt động của họ chỉ dừng lại ở mức hỗ trợ miễn phí nên họ không có động lực để tham gia vào mối liên kết. Từ đó tạo cho người Nông dân tâm lý thụ động, ỷ lại. Nếu được hỗ trợ thì nhận, không thì thôi chứ không chủ động tìm đến các Nhà khoa học để “mua” các dịch vụ kỹ thuật. Nếu không có sự tham gia của các Nhà khoa học mà chỉ dựa vào các sáng kiến cải tiến kỹ thuật của Nông dân thì sự phát triển về mặt khoa học rất chậm và hiệu quả rất hạn chế. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với mối liên kết giữa Người Nông dân và Nhà khoa học trong ngành nông nghiệp là làm sao để tăng cường các quan hệ giữa hai bên và gắn kết chặt chẽ thông qua sự ràng buộc rõ ràng về mặt lợi ích. 3.3. Đối với mối quan hệ giữa Nhà nước với Người Nông dân Thời gian qua, cho thấy mối quan hệ giữa Nhà nước với Nông dân trong liên kết “bốn nhà” ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng có nhiều vấn đề tồn tại, với vai trò “Nhà nước”, chính quyền địa phương chưa thực hiện đầy đủ chức năng của mình [3]. Từ công tác qui hoạch cho đến các hoạt động truyền thông, thông tin thị trường đều chưa được tổ chức và thực hiện đầy đủ. Công tác giám sát, nhất là hoạt động giám sát các bên tham gia liên kết gần như chưa có, buông lỏng, mạnh ai nấy làm nên nhiều mối liên kết “bốn nhà” hiện nay rất lỏng lẻo. Cơ sở hạ tầng nông thôn còn rất yếu, đường xá thiếu thốn, thiếu điện, thiếu nước sạch Đầu tư cho nông nghiệp còn quá thấp và có xu hướng giảm dần, hiện nay chỉ khoảng 5%-5,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), trong khi đó đóng góp của nông nghiệp vào vẫn chiếm khoảng 20% GDP. Do vậy, vẫn chưa khơi dậy tiềm năng của vùng nông nghiệp có nhiều thế mạnh nhất nước. Có lẻ, đây cũng là nguyên nhân góp phần làm cho nông nghiệp tăng trưởng âm. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng sản phẩm nông - lâm - thủy sản trong 6 tháng đầu năm nay giảm 0,18%. Giá trị sản xuất giảm 0,1% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó, giá trị sản xuất nông nghiệp giảm 0,7%. Lĩnh vực trồng trọt giảm mạnh nhất: 3% do giảm cả về diện tích và sản lượng. Bảng 3.1: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển theo ngành và tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 (%) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Đầu tư N.nghiệp 9,6 8,8 8,5 7,9 7,5 7,4 6,5 6,4 6,3 6,2 6,0 5,2 Đầu tư C.nghiệp 42,4 42,3 41,2 42,7 42,6 42,2 43,5 41,5 40,6 41,3 43,1 43,9 Đầu tư vào Dịch vụ 48,0 48,9 50,3 49,4 49,9 50,4 50,0 52,1 53,1 52,6 50,9 50,9 Tổng đầu tư 100 100 100,0 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Nông nghiệp/GDP 23,3 23,0 22,5 21,8 21,0 20,4 20,3 22,1 20,9 20,6 22,1 21,7 Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2012, Kinh tế 2013-2014 Việt Nam và Thế giới [3] 16 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Từ đó, vấn đề đặt ra đối với mối liên kết giữa Nhà nước với Người Nông dân là cần có sự quan tâm hơn nữa của Nhà nước trong các tác động trực tiếp cũng như gián tiếp đối với Người Nông dân trên các phương diện. 3.4. Hạn chế của mô hình về các mối liên kết mang tính chiến lược Mô hình liên kết “bốn nhà” hiện nay thiếu vắng nhiều mối quan hệ quan trọng mang tính chiến lược để tăng thêm chất “keo kết dính” các bên tham gia, thúc đẩy các bên tích cực hoạt động nâng cao hiệu quả của mô hình liên kết “bốn nhà” nói riêng và hiệu quả của nền nông nghiệp Việt Nam nói chung. Sự thiếu vắng đó là: - Mối quan hệ giữa Nhà nước với Doanh nghiệp. Nếu có, cũng chỉ dừng lại ở mức độ quan hệ thông thường giữa Chính quyền và DN như bao mối quan hệ phổ biến khác trong xã hội, chưa có mối quan hệ đặc thù dựa trên cơ chế riêng của mô hình liên kết “bốn nhà” nên chưa tạo được động lực mạnh mẽ thu hút DN tham gia vào mô hình liên kết này. Vì không có cơ chế ưu đãi riêng nên DN ít muốn tham gia, do có nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh so với các DN kinh doanh ở phân khúc thị trường khác. - Mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhà Khoa học. Vấn đề tồn tại trong quan hệ giữa Nhà Khoa học với Người Nông dân cho thấy, Người Nông dân chưa mặn mà trong việc liên kết với Nhà Khoa học trong sản xuất vì họ chưa có đủ điều kiện nên hình ảnh Nhà khoa học khá mờ nhạt. Một số Nhà khoa học có tham gia trong liên kết “bốn nhà” thì lợi ích họ được hưởng cũng chưa thỏa đáng. Vì vậy, chỉ có Nhà nước, với vai trò “Nhạc trưởng” điều phối các hoạt động và chi phối các mối quan hệ mới có thể bù đắp cho Nhà khoa học thông qua cơ chế chính sách. Thực tế chưa có mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhà Khoa học trong liên kết “bốn nhà” để khuyến khích họ tham gia các hoạt động khoa học từ nghiên cứu đến thực nghiệm. - Mối quan hệ giữa Nhà Khoa học với Doanh nghiệp. Hiện nay, gần như không xuất hiện mối quan hệ này trong liên kết “bốn nhà”. Trong khi đó, các DN, nhất là DN sản xuất chế biến rất cần có sự hỗ trợ của các Nhà Khoa học về bí quyết công nghệ, qui trình sản xuất chế biến sản phẩm và cả cách thức bảo quản sản phẩm, từ đó mơi có thể nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp. 4. NGUYÊN NHÂN CỦA CÁC VẤN ĐỀ TỒN TẠI Có thể nói, có nhiều nguyên nhân dẫn đến nhiều vấn đề tồn tại của mô hình liên kết “bốn nhà”. Tuy nhiên, tác giả xin nêu ra một số nguyên nhân chính yếu: 4.1. Về phía Người Nông dân - Người nông dân với lối tư duy theo kiểu sản xuất nhỏ, hám lợi trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài nên sẵn sàng chối bỏ thực hiện hợp đồng. - Tìm cách tránh nợ, đem sản phẩm bán cho người khác để không bị DN trừ nợ ứng trước. - Đề cao kinh nghiệm bản thân hơn việc áp dụng khoa học vào sản xuất - Chưa có khả năng để đầu tư khoa học công nghệ cho sản xuất - Tâm lý trông chờ Nhà nước bao cấp, hỗ trợ về khuyến nông, khoa học công nghệ. - Chưa có tư duy thị trường để hướng đến sản xuất hàng hóa, thiếu chủ động trong việc đầu tư để sản xuất sản phẩm có giá trị cao. - Vấn đề nhận thức của Người Nông dân còn hạn chế, họ không suy nghĩ đến những vấn đề có lợi ích lâu dài nên có những hành động và ứng xử chưa phù hợp, vì vậy ảnh hưởng đến mô hình liên kết “bốn nhà”. 17 Điều chỉnh mô hình . . . 4.2. Về phía Doanh nghiệp - Nhiều DN làm ăn theo kiểu “ăn xổi ở thì”, chạy theo lợi nhuận, nên có thể cung ứng hàng hóa chất lượng thấp. Bên cạnh đó, họ cũng tìm cách ép giá nông sản của Nông dân để có lợi nhuận cao. Xem nhẹ trách nhiệm thực hiện hợp đồng. - Đa số các DN tham gia liên kết chỉ kinh doanh thương mại, bán sản phẩm, vật tư cho nông dân và thu mua nông sản để bán lại. Do vậy, các DN này bị phụ thuộc vào giá cả rất nhiều nên họ thường tìm cách ép giá khi mua nông sản của Nông dân. - Các DN kinh doanh thương mại, không chế biến để tạo ra các sản phẩm có giá trị cao hơn nên sản phẩm của Nông dân cũng bị hạn chế về mặt giá cả. Mặt khác, nếu nông sản được chế biến sẽ bảo quản được lâu hơn, tạo được sự cân bằng cung cầu trên thị trường, ổn định tiêu thụ, tránh được tình trạng cung vượt cầu, hàng hóa mất giá. 4.3. Về phía Nhà khoa học - Nhà Khoa học chưa chủ động trong các hoạt động cung cấp dịch vụ khoa học cho Nông dân như: tư vấn qui trình chăm bón, trồng trọt hoặc các vấn đề lớn hơn như chào bán các sản phẩm khoa học, chuyển giao công nghệ Trong điều kiện Người Nông dân còn thụ động thì Nhà Khoa học cần phải mạnh dạn hơn. Cũng cần hiểu rằng, hoạt động khoa học không nhất thiết phải là nghiên cứu cho ra các sản phẩm khoa học lớn để chuyển giao công nghệ mà đôi khi chỉ là hoạt động giám sát, tư vấn về chăm sóc cây trồng. Nói chung, làm nhiều thì hưởng lợi ích nhiều, làm ít thì hưởng ít. - Tương tự, quan hệ đối với DN, Nhà Khoa học cũng ít có hoạt động nghiên cứu để triển khai ứng dụng vào sản xuất, chế biến nông sản nhằm nâng cao giá trị sản phẩm. 4.4. Về phía Nhà nước Với vai trò là “Nhạc trưởng”, có đầy đủ quyền lực và công cụ quản lý nhưng Nhà nước (Chính quyền địa phương) chưa làm hết chức năng điều phối các hoạt động của liên kết “bốn nhà”. Nguyên nhân của những vấn đề tồn tại được xác định: - Nhà nước chưa có cơ chế giám sát đối với các hoạt động của liên kết “bốn nhà”. - Nhà nước chưa có cơ chế ưu đãi hay khuyến khích các DN tham gia vào liên kết “bốn nhà”. Vì vậy, đến nay vẫn chưa có nhiều DN có qui mô lớn, năng lực mạnh tham gia vào liên kết “bốn nhà”. - Nhà nước cũng chưa có ưu đãi đặc biệt để khuyến khích các DN đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nên hiện tại các DN tham gia liên kết vẫn chủ yếu là các DN kinh doanh thương mại. - Nhà nước chưa có cơ chế khuyến khích mạnh mẽ đối với các hoạt động khoa học trong liên kết “bốn nhà” nên chưa khơi dậy tiềm năng của các Nhà khoa học để họ đóng góp vào hoạt động của liên kết. Từ những nguyên nhân đó cho thấy rất cần có những giải pháp thiết thực để có sự ràng buộc chặt chẽ hơn các mối quan hệ nhằm nâng cao hiệu quả liên kết “bốn nhà”. 5. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” 5.1. Quan điểm Œ Để nâng cao hiệu quả mô hình liên kết “bốn nhà” trong nông nghiệp, trước hết rất cần Nhà nước có sự quan tâm sâu sắc và có chính sách ưu đãi, khuyến khích mạnh đối với một số chủ thể tham gia liên kết. Œ Có tầm nhìn chiến lược về tương lai đối với hiệu quả của liên kết “bốn nhà”, gắn với hiệu quả tổng thể của ngành nông nghiệp và đất nước. 18 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Œ Liên kết “bốn nhà” phải hướng đến sản xuất sản phẩm hàng hóa với giá trị ngày càng gia tăng, không ngừng nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và hội nhập quốc tế. Œ Liên kết “bốn nhà” phải hướng đến chuỗi cung ứng và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. 5.2. Giải pháp Mô hình liên kết “bốn nhà” từ trước đến nay đã có nhiều vấn đề tồn tại, sinh ra các hệ lụy làm giảm hiệu quả liên kết như: Tính liên kết thấp và thậm chí phá vỡ mối liên kết; Nhiều DN không thu hồi được nợ từ Nông dân; Nhiều nơi không thể tiếp tục triển khai thực hiện liên kết. Hơn nữa, một số liên kết “bốn nhà” đang vận hành tốt hiện nay nhưng chưa phát huy tối đa hiệu quả vì mới chỉ dừng lại ở mức độ liên kết cơ học, chưa có chiều sâu chiến lược để có thể phát triển mạnh hơn trong tương lai. Để nâng cao hiệu quả của mô hình liên kết “bốn nhà”, trước hết cần thay đổi tư duy, điều chỉnh mô hình liên kết, cụ thể tăng cường các mối quan hệ trong liên kết theo mô hình đề xuất: Sơ đồ 5.1. Mô hình liên kết bốn nhà mới (có điều chỉnh so với mô hình ở Sơ đồ 2.1) Nhà nước - Chính sách ưu đãi quản lý ngành - Chính sách thu hút đầu tư - Chính sách thu hút ngành phụ trợ - Qui hoạch - Chính sách quản lý ngành - Chính sách thu hút đầu tư - Chính sách thu hút ngành phụ trợ - Ưu đãi vốn, tín dụng - Hỗ trợ ngành sản xuất - Cơ sở hạ tầng - Hợp tác quốc tế - Chính sách đãi ngộ - Chính sách hỗ trợ hoạt động nghiên cứu khoa học - Ưu đãi vốn, tín dụng - Hỗ trợ ngành sản xuất - Cơ sở hạ tầng - Hợp tác quốc tế - Nông sản phẩm / nguyên liệu - Thù lao - Môi trường thực nghiệm Nhà Nông dân - Vốn - Giống - Phân bón, thức ăn - Thuốc BVTV, thú y - Thu mua nông sản - Kỹ thuật chăm sóc - Qui trình sản xuất - Công nghệ sản xuất thu hoạch, bảo quản - Thù lao; - Môi trường thực nghiệm - Bí quyết công nghệ; - Qui trình sản xuất; - Công nghệ sản xuất chế biến, bảo quản Nhà Doanh nghiệp Nhà Khoa học Nguồn: Tác giả đề xuất So với mô hình liên kết bốn nhà trước đây, mô hình điều chỉnh có thêm các mối quan hệ giữa Nhà nước với Doanh nghiệp; Nhà nước với Nhà Khoa học và mối quan hệ qua lại giữa Doanh nghiệp với Nhà khoa học. Với mô hình liên kết cũ, chúng ta xem Nhà nông là hạt nhân của liên kết nên không chú trọng đến các mối quan hệ bên ngoài Nhà nông. Nhưng thực 19 Điều chỉnh mô hình . . . tế nội lực của Nhà nông (Nông dân Việt Nam) không lớn, họ không phát huy được sức mạnh và hiệu quả sản xuất nếu không có sự hỗ trợ của các DN, của nhà Khoa học. Hơn nữa, nhờ có những mối quan hệ giữa Nhà nước với DN, Nhà nước với Nhà Khoa học và DN với Nhà Khoa học thì các “Nhà” này mới lớn mạnh và có sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa đối với Nhà nông. Như vậy, liên kết “bốn nhà” mới có thể phát triển mạnh, hiệu quả và bền vững. Từ đó, để nâng cao hiệu quả của mô hình liên kết “bốn nhà” trước mắt cũng như lâu dài, cần có những giải pháp đồng bộ: * Về phía Nhà nước Phát huy vai trò chủ đạo chi phối trực tiếp và gián tiếp các mối quan hệ trong mô hình liên kết “bốn nhà”, Nhà nước cần có chủ trương và chính sách cụ thể đối với các vấn đề liên quan đến hoạt động của liên kết “bốn nhà”: y Có chính sách qui hoạch đồng bộ và nhất quán từ Trung ương đến địa phương đối với ngành nông nghiệp và từng phân ngành trồng trọt, chăn nuôi để vừa đảm bảo tính cung cầu hợp lý, vừa khai thác thế mạnh của từng địa phương để có thể tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại hiệu quả cao. y Có chính sách ưu đãi, khuyến khích Nông dân, Doanh nghiệp, Nhà Khoa học tham gia vào liên kết “bốn nhà”. Cụ thể, Nhà nước có chính sách ưu đãi cho Nông dân về hạ tầng, về tín dụng, về khuyến nông; Hỗ trợ mạnh đối với các công trình nghiên cứu khoa học để khuyến khích các Nhà khoa học có những nghiên cứu có giá trị, mang lại nhiều lợi ích cho ngành nông nghiệp; Ưu đãi thuế cho các DN tham gia liên kết, khuyến khích các DN đầu tư chế biến nông sản để nâng cao giá trị và ổn định thị trường tiêu thụ thay vì nhiều DN chỉ mua đi bán lại như hiện nay. y Có chủ trương và chính sách hướng các liên kết “bốn nhà” tới việc sản xuất dựa trên nền tảng khoa học công nghệ để có được nông sản sạch, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và cạnh tranh được với sản phẩm của nước ngoài. Từ mô hình liên kết “bốn nhà”, các DN tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. y Tranh thủ quan hệ hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ để cải thiện các loại giống và qui trình sản xuất, chế biến sản phẩm y Tập trung hỗ trợ vốn đầu tư, tín dụng, hạ tầng cho các đối tượng tham gia vào liên kết “bốn nhà” thuộc các lĩnh vực cần ưu tiên phát triển hoặc tại các địa phương cần thúc đẩy phát triển y Tổ chức hoạt động truyền thông thông tin thị trường nông sản: nhu cầu sản phẩm, khả năng cung ứng, về các hoạt động trên thị trường y Xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế giám sát để ràng buộc chặt chẽ các bên tham gia trong liên kết “bốn nhà”. Có khuyến khích và có chế tài. Cụ thể, mỗi địa phương có thể thành lập đơn vị giám sát. Cho các bên tham gia liên kết “bốn nhà” đăng ký và hưởng ưu đãi của Nhà nước, nhưng khi vi phạm sẽ bị chế tài theo qui định. * Về phía Nhà nông (người nông dân) Người Nông dân là chủ thể trung tâm trong mối quan hệ liên kết “bốn nhà”, vì họ là người tạo ra sản phẩm trong quá trình liên kết. Để làm tốt vai trò quan trọng này nhằm nâng cao hiệu quả của mô hình liên kết, Người Nông dân cần phải quán triệt: y Có tư duy thị trường trong sản xuất, tức là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào để có thể bán được với giá cao. Sản phẩm bán ra thị trường là để đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Chính quyền địa phương tổ chức bồi dưỡng, huấn luyện để nâng cao nhận thức cho Người nông dân. 20 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật y Xây dựng văn hóa đạo đức trong sản xuất. Tức là ít nhất họ sản xuất ra sản phẩm phải an toàn, vệ sinh, không làm ảnh hưởng sức khỏe người tiêu dùng. Sẵn sàng đáp ứng nhu cầu mới với các tiêu chuẩn ngày càng cao của thị trường. Từ đó, xây dựng thương hiệu. y Có trách nhiệm trong các hợp đồng đã ký kết với các bên tham gia trong mối liên kết “bốn nhà”. Vì lợi ích lâu dài chứ không phải lợi ích trước mắt. y Thay đổi nhận thức để sẵn sàng tiếp cận với khoa học công nghệ. Sử dụng dịch vụ khoa học công nghệ như là một yếu tố đầu vào có lợi của quá trình sản xuất. y Tiếp cận và mở rộng quan hệ với cộng đồng sản xuất nông nghiệp. Cụ thể, với các trang trại, hợp tác xã, hiệp hội để trao đổi thông tin, để có tiếng nói chung cũng như bảo vệ quyền lợi cho nhau. * Về phía Nhà doanh nghiệp Doanh nghiệp là một chủ thể quan trọng trong mô hình liên kết “bốn nhà”, bởi DN cung cấp các yếu tố đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra cho Người Nông dân nên kết quả của quá trình sản xuất phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh, năng lực lãnh đạo và quan trọng là thái độ hợp tác của DN trong mối liên kết. Để có thể mang lại hiệu quả cao cho quá trình liên kết, DN cần phải: y Có đủ năng lực về nhân sự, tài chính, kỹ thuật công nghệ và đặc biệt có đủ năng lực dự báo nhu cầu thị trường cũng như hoạt động cung ứng trên thị trường. Một DN có thể không kham nổi tất cả các yếu tố đầu vào và các hoạt động ở đầu ra nhưng họ có thể kết hợp với DN khác hoặc tổ chức được chuỗi giá trị liên kết nhằm tạo ra sự ổn định trong toàn bộ hoạt động sản xuất, từ đó mang lại lợi ích cho các bên tham gia liên kết. y Có tâm huyết và thái độ hợp tác tốt với liên kết, nhất là đối với Người Nông dân để đảm bảo quyền lợi cho Người Nông dân cũng như cho chính bản thân mình. Hướng đến kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận lâu dài, không phải theo kiểu “ăn xổi ở thì”. y Có chiến lược kinh doanh lâu dài, kết hợp chặt chẽ với Người Nông dân để giữ được thị trường ổn định, nguồn nguyên liệu ổn định, tạo chuỗi giá trị liên kết, xây dựng thương hiệu, khai thác thị trường với năng lực cạnh tranh cao. y Có trách nhiệm nâng cao giá trị hàng hóa nông sản để nâng cao hiệu quả của mô hình liên kết bằng các qui trình sản xuất, chế biến để gia tăng giá trị. y Về lâu dài, có chiến lược mở rộng qui mô công ty bằng cách tạo điều kiện cho Người Nông dân góp vốn, mua cổ phần để họ trở thành cổ đông của Doanh nghiệp, nhằm tăng thêm sự gắn bó của đôi bên. Mặt khác, tăng qui mô kinh doanh, DN có điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh liên quan. * Về phía Nhà Khoa học Nhà khoa học tham gia vào mô hình liên kết “bốn nhà” với tư cách là một bên cung cấp dịch vụ (có phí hoặc miễn phí) giúp Người Nông dân có công nghệ hiện đại, quy trình sản xuấttiên tiến để tăng hiệu quả sản xuất. Vì vậy, Nhà khoa học cần phải: y Tham gia vào mô hình liên kết, chủ động nghiên cứu để tìm ra giống tốt, công nghệ tiên tiến, quy trình tối ưu cho Người Nông dân. y Phát hiện kịp thời khi sản xuất gặp sự cố, các loại sâu bệnh, dịch bệnh, điều kiện thời tiết thay đổi nhằm giúp Người Nông dân tránh thiệt hại. y Chào bán các kết quả nghiên cứu khoa học có tính khả thi cao cho Người Nông dân, DN có thể mua để ứng dụng vào thực tiễn sản xuất. y Thực hiện huấn luyện, chuyển giao kỹ thuật mới cho Người Nông dân, giúp họ nắm bắt nhanh chóng và hiệu quả. 21 Điều chỉnh mô hình . . . y Chủ động chào mời dịch vụ khoa học kỹ thuật do bản thân mình cung cấp, nhằm giúp quá trình sản xuất của Người Nông dân đạt hiệu quả hơn. y Đưa ra mức thù lao hợp lý cho công việc hoặc kết quả nghiên cứu của mình để vừa đảm bảo thu nhập của Nhà khoa học, đồng thời cũng phù hợp với mức chi phí mà Người Nông dân có thể chấp nhận được hoặc chia sẻ lợi ích hợp lý cho cả đôi bên. y Nhà Khoa học không chỉ cung cấp các sản phẩm dịch vụ khoa học cho Người Nông dân mà còn cho cả DN để không ngừng nâng cao giá trị sản phẩm hàng hóa. 4. KẾT LUẬN Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, nền sản xuất của nước ta cần phải thay đổi nhanh chóng để có thể sánh vai cùng các nước.Việc áp dụng mô hình liên kết “bốn nhà” vào nông nghiệp là xu hướng tất yếu, để giúp các ngành nông nghiệp phát triển nhanh, hiệu quả, tiến tới phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện thời gian vửa qua, mô hình liên kết “bốn nhà” cũng đã có nhiều vấn đề phát sinh ảnh hưởng tới hiệu quả của mô hình. Bên cạnh đó mô hình cũng bộc lộ một số nhược điểm, nếu chỉ dừng lại với những mối quan hệ hiện tại trong liên kết “bốn nhà” thì hiệu quả của mô hình sẽ không cao mà cần phải tăng cường các mối quan hệ mới: Nhà nước với DN, Nhà nước với Nhà Khoa học và DN với Nhà Khoa học thì các “Nhà” này mới có điều kiện thuận lợi để phát triển và có sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn đối với Nhà nông. Như vậy, liên kết “bốn nhà” mới có thể phát triển mạnh, hiệu quả và bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Chính phủ, (2002), Về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng, Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/06/2002. [2]. Chính phủ, (2013), Về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn. Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013. [3]. Hoàng Thị Chỉnh, (2014), Liên kết “4 nhà” ở đồng bằng sông Cửu Long: thực trạng và những vấn đề đang đặt ra. Tạp chí kinh tế - kỹ thuật (Trường ĐH KTKT Bình Dương) số 7, tháng 9/2014, trang 12-20. [4]. Minh Đạt, (2015), Cánh đồng lớn: “Cuộc cách mạng” trong sản xuất nông nghiệp, đăng trên: xuat_nong_nghiep.aspx, ngày đăng: 25/03/2015 [5]. Mai Văn Quyền, (2010), Liên kết “4 nhà” tạo “đường băng” để nông dân “cất cánh”, đăng trên: nhaquot-tao-quotduong-bangquot-de-nong-dan-quotcat-canhquot.aspx, ngày đăng: 6/2/2010 [6]. HTX Thủy Sản Thới An: chung sức chung lòng, đăng trên: san-thoi-an-chung-suc-chung-long-article-8178.tsvn, ngày đăng 19/05/2014.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf73_7792_2122323.pdf
Tài liệu liên quan