Tài liệu Địa danh tỉnh Tiền Giang dưới góc nhìn văn hóa học: An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76
67
ĐỊA DANH TỈNH TIỀN GIANG DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC
Võ Văn Sơn1
1Trường Đại học Tiền Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 03/04/2018
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
14/07/2018
Ngày chấp nhận đăng:
08/2018
Title:
Toponomy of Tien Giang
province from the cultural
perspective
Keywords:
Toponymy, language, Tien
Giang province, culture
Từ khóa:
Địa danh, ngôn ngữ, tỉnh Tiền
Giang, văn hóa
ABSTRACT
Toponymy research is a crucial and necessary field in the study of culture
and area. Because toponymy is a linguistic form, it has intrinsic
relationships, influence, or interactions with the local culture, history,
geography, and people. Hence, toponymy is "the eyes of culture" since it
reflects the particular characteristics of the place. From the cultural
perspective, this paper focuses on highlighting the cultural marks of the
toponymy in Tien Giang province as well as p...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 358 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Địa danh tỉnh Tiền Giang dưới góc nhìn văn hóa học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76
67
ĐỊA DANH TỈNH TIỀN GIANG DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC
Võ Văn Sơn1
1Trường Đại học Tiền Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 03/04/2018
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
14/07/2018
Ngày chấp nhận đăng:
08/2018
Title:
Toponomy of Tien Giang
province from the cultural
perspective
Keywords:
Toponymy, language, Tien
Giang province, culture
Từ khóa:
Địa danh, ngôn ngữ, tỉnh Tiền
Giang, văn hóa
ABSTRACT
Toponymy research is a crucial and necessary field in the study of culture
and area. Because toponymy is a linguistic form, it has intrinsic
relationships, influence, or interactions with the local culture, history,
geography, and people. Hence, toponymy is "the eyes of culture" since it
reflects the particular characteristics of the place. From the cultural
perspective, this paper focuses on highlighting the cultural marks of the
toponymy in Tien Giang province as well as presents the cultural life of this
new area’s residents.
TÓM TẮT
Nghiên cứu địa danh là một lĩnh vực rất quan trọng và cần thiết trong nghiên
cứu văn hóa và nghiên cứu khu vực. Bởi vì, địa danh là một dạng thức ngôn
ngữ, về bản chất có những mối quan hệ gắn bó, những ảnh hưởng hay tác
động qua lại với văn hóa, lịch sử, địa lý, dân cư nơi nó tồn tại. Do đó, địa
danh còn là “cửa sổ văn hóa” để tìm hiểu diện mạo của một vùng đất. Từ
góc nhìn văn hóa học, bài viết tập trung phác họa làm rõ các dấu ấn văn hóa
thể hiện qua các địa danh ở tỉnh Tiền Giang như chủ thể văn hóa, thời gian
văn hóa, không gian văn hóa.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Địa danh học là một ngành của Ngôn ngữ học,
chuyên nghiên cứu nguồn gốc, ý nghĩa và đặc
điểm cấu tạo các tên gọi chỉ các đối tượng địa lý
tự nhiên và nhân văn. Nghiên cứu địa danh có
thể chỉ ra các phương thức, nguyên tắc tạo địa
danh đặc thù gắn với mỗi vùng phương ngữ và
các khu vực khác nhau. Bên cạnh đó, địa danh
còn cung cấp nguồn tư liệu quý cho nhiều ngành
khoa học khác như Dân tộc học, Địa lý học, Lịch
sử học, Khảo cổ học, Văn hóa học. Địa danh
được sinh ra, phát triển cùng văn hoá và cũng là
một hiện tượng văn hóa. Bởi vì, ngôn ngữ là
sản phẩm/thành phần của văn hóa. Chính vì thế,
“địa danh phản ánh nhiều khía cạnh của văn hóa
như chủ thể văn hóa, thời gian văn hóa, không
gian văn hóa” (Võ Văn Sơn, 2017, trang 49). Vì
thế, địa danh và văn hóa còn có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, thể hiện được khả năng tư duy
của người địa phương. Do đó, địa danh giống
như “những tấm bia lịch sử - văn hóa của đất
nước” (Lê Trung Hoa, 2006, trang 213).
Chính vì thế, vấn đề địa danh từ lâu đã được rất
nhiều nhà nghiên cứu ở nước ta quan tâm.
Nhiều công trình nghiên cứu về địa danh từ
những góc độ khác nhau của các tác giả tiêu
biểu như: Đinh Xuân Vịnh, Nguyễn Văn Âu,
Hoàng Thị Châu, Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên
Trường, Từ Thu Mai... Tuy nhiên, tính đến hiện
nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về địa
danh, mỗi nhà nghiên cứu đưa ra một cách định
nghĩa riêng tùy cách lập luận và hướng tiếp cận
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76
68
của mình. Trong bài viết của mình, chúng tôi sử
dụng định nghĩa của tác giả Lê Trung Hoa:
“Địa danh là những từ hoặc ngữ được dùng làm
tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các công
trình xây dựng thiên về không gian hai chiều,
các đơn vị hành chánh, các vùng lãnh thổ” (Lê
Trung Hoa, 2006, trang 18).
Tiền Giang là vùng đất được khai phá sớm ở
Nam bộ. Trong quá trình khai hoang và lập ấp,
nhân dân Tiền Giang đã tạo ra một hệ thống địa
danh rất phong phú và đa dạng. Đó là địa danh
chỉ các đối tượng tự nhiên hay còn gọi là địa
danh chỉ địa hình (bưng, cồn, láng, sông, rạch,
vàm, xẽo), địa danh chỉ công trình xây dựng
(ao, cầu, đường, bến đò, chợ, cống), địa danh
hành chính hay còn gọi là địa danh chỉ đơn vị
dân cư (ấp, khu phố, xã, phường, thị trấn,
huyện, thị, thành) và địa danh vùng. Theo quy
luật tất yếu của cuộc sống, nhiều địa danh vẫn
bền vững theo thời gian dẫu có bao thăng trầm
nhưng cũng có những địa danh dần dần ít được
nhắc đến rồi đi vào quên lãng.
Nhìn chung, các công trình viết về địa danh ở
Tiền Giang cũng không nhiều. Có thể kể ra một
số tác phẩm sau đây: Phủ biên tạp lục (1776)
của Lê Quý Đôn, Gia Định thành thông chí
(1820) của Trịnh Hoài Đức, Định Tường (Mỹ
Tho) xưa (2001) của Huỳnh Minh, Địa chí Tiền
Giang (2005, 2007), Tìm hiểu nguồn gốc một số
địa danh tiêu biểu ở Tiền Giang (2010) và Địa
danh chợ ở Tiền Giang (2015) của Võ Văn
Sơn, Những đặc điểm của địa danh Tiền Giang
(2011) của Nguyễn Thị Kiều Oanh Vận dụng
những lý thuyết về Ngôn ngữ học và Văn hóa
học, chúng tôi muốn khắc họa khái quát về bức
tranh địa danh ở tỉnh Tiền Giang từ góc nhìn
Văn hóa học. Trên cơ sở kế thừa những người
nghiên cứu trước, bài viết này góp phần tìm
hiểu những đặc trưng về ngôn ngữ, văn hóa, xã
hội của vùng đất và con người Tiền Giang qua
các thời kỳ khác nhau.
2. NỘI DUNG
2.1 Khái quát kết quả thu thập và phân loại
địa danh ở tỉnh Tiền Giang
Dựa vào đối tượng (hay loại hình), bài viết
phân loại địa danh ở tỉnh Tiền Giang theo tiêu
chí tự nhiên và không tự nhiên. Chúng tôi thu
thập được 3.000 địa danh với 4 đối tượng (địa
danh chỉ địa hình tự nhiên, địa danh chỉ các công
trình xây dựng, địa danh chỉ các đơn vị hành chính và
địa danh chỉ vùng). Kết quả thu thập địa danh ở
tỉnh Tiền Giang chủ yếu từ hai nguồn: nguồn
thứ nhất là theo các văn bản hành chính, bản đồ
các loại, các tài liệu lưu trữ tại địa phương, các
công trình viết về Tiền Giang; nguồn thứ hai từ
kết quả điều tra điền dã theo sự tồn tại thực tế
của các địa danh trong cộng đồng dân cư.
Bảng 1. Thống kê kết quả phân loại địa danh ở tỉnh Tiền Giang theo đối tượng
(Nguồn: Số liệu thống kê của tác giả năm 2018)
- Địa danh chỉ địa hình tự nhiên: có 624 địa
danh chỉ địa hình, chiếm tỉ lệ 20,8%. Địa
danh tự nhiên thường đứng sau những tiền
từ như: ao, bãi, bàu, bưng, cồn, cù lao, láng,
hóc, gò, giồng, sông, rạch, tắt, xẽo, vàm. Cụ
thể, sơn danh (gò, giồng) có 20 địa danh (ví
dụ như: gò Táo, gò Trâm Bầu - huyện Gò
Công Tây, giồng Tha La, giồng Kiến Định -
huyện Châu Thành, gò Đôi, giồng Cai Lậy,
giồng Quản Tú, giồng Bù Lu - huyện Cai
Stt Tiêu chí Đối tượng địa danh
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
1 Tự nhiên Địa danh chỉ địa hình tự nhiên 624 20,8
2 Không tự nhiên
Địa danh chỉ các công trình xây dựng 1.200 40,0
Địa danh chỉ các đơn vị hành chính 1.161 38,7
Địa danh chỉ vùng 15 0,5
Tổng cộng 3.000 100
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76
69
Lậy) chiếm 0,7%; thủy danh có 604 địa danh
(ao, bãi, bàu, bưng, cồn, cù lao, láng, tắt,
rạch, sông, vàm, xẽo) chiếm tỉ lệ 20,1% (ví
dụ như: ao Trường Đua - thị xã Gò Công, bàu
Giai Cạn - huyện Cái Bè, bến Tắm Ngựa -
thành phố Mỹ Tho, cù lao Tân Thới - huyện
Tân Phú Đông, rạch Xoài Hột - huyện Châu
Thành, rạch Ban Chón - huyện Cai Lậy, vàm
Kỳ Hôn - huyện Chợ Gạo).
- Địa danh chỉ công trình xây dựng: có 1.200
địa danh chỉ công trình xây dựng, chiếm tỷ
lệ 40% trong tổng số địa danh được thu thập,
thường đứng sau các tiền từ như: bến đò,
bến xe, bùng binh, cảng cá, cầu, chợ, công
viên, cống, đập, đường, kênh, mương, lộ,
nghĩa trang, mương, quãng trường, quốc lộ...
Đó là các địa danh: bến xe Mỹ Tho, bùng binh
Trung Lương, cảng Vàm Láng, cầu Rạch Miễu,
công viên Lạc Hồng, đường Hùng Vương, ngã
ba Ông Văn, kênh Chợ Gạo, chợ Gạo, chợ Gò
Công, quốc lộ 1A). Trong đó, công trình giao
thông có 920 địa danh, chiếm tỉ lệ 31%;
công trình xây dựng khác có 280 địa danh,
chiếm tỉ lệ 9,1%.
- Địa danh chỉ các đơn vị hành chính: Tiền
Giang có 1.161 địa danh hành chính, chiếm
tỉ lệ 38,7%, thường đứng sau các tiền từ như:
tổ, ấp, khu phố, xã, phường, thị trấn, huyện,
thị, thành, tỉnh. Ví dụ: ấp Bắc (xã Tân Phú,
huyện Cai Lậy); xã Thới Sơn, phường Tân
Long (thành phố Mỹ Tho); thị trấn Cái Bè
(huyện Cái Bè); thị xã Gò Công, huyện Gò
Công Đông, huyện Gò Công Tây So với
địa danh chỉ công trình xây dựng thì địa
danh hành chính có số lượng ít hơn nhưng
lại cao hơn số lượng địa danh chỉ địa hình
và địa danh chỉ vùng.
- Địa danh chỉ vùng: Tiền Giang có 15 địa
danh, chiếm tỉ lệ 0,5%, gồm các địa danh
đứng sau các tiền từ như: khu, vùng, xóm. Ở
Tiền Giang địa danh vùng chiếm số lượng
không nhiều. Ví dụ: xóm Vuông, xóm Chà
Là (xã Mỹ Hạnh Đông, huyện Cai Lậy);
xóm Giá Trên, xóm Giá Dưới (xã Kiểng
Phước, huyện Gò Công Đông); xóm Thủ,
xóm Dừa (xã Bình Tân, huyện Gò Công
Tây).
2.2 Địa danh tỉnh Tiền Giang từ góc nhìn
không gian, thời gian và chủ thể văn
hóa
2.2.1 Địa danh tỉnh Tiền Giang từ góc nhìn
không gian văn hóa
- Địa hình: giống như các tỉnh khác của Đồng
bằng sông Cửu Long, Tiền Giang được đánh
giá là vùng đất sở hữu nhiều sông ngòi,
kênh rạch chằng chịt (sông, rạch, kênh, xẽo,
khém, hóc) cho nên có rất nhiều địa danh
ra đời phản ánh rất rõ tính chất, đặc điểm và
diện mạo của miền sông nước gồm tên sông,
tên rạch, tên kênh, tên xẽo, tên vàm: sông
Cửa Tiểu, sông Cửa Đại (huyện Gò Công
Đông); rạch Giao Miệng Lớn, rạch Giao
Miệng Nhỏ, rạch Cổ Cò (huyện Cái Bè);
kênh Bắc Đông, vàm Bánh Tét (huyện Tân
Phước). Do phù sa bồi đắp, Tiền Giang còn
có nhiều gò và giồng đất/cát lớn. Các gò và
giồng này có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với đời sống của người dân như
sinh sống, làm ăn, trồng hoa màu cho nên
những địa danh ra đời gắn liền với các con
giồng đã phản ánh được một vùng đất giàu
phù sa này. Tiêu biểu là địa danh Ba Giồng
(chữ Hán gọi là Tam Phụ) là tên gọi chỉ
vùng đất từ phía Nam sông Vàm Cỏ Tây
đến sông Tiền: giồng Dứa, giồng Cát hay
giồng Giữa, giồng Thuộc Nhiêu (huyện
Châu Thành, huyện Cai Lậy). Ngoài ra, Tiền
Giang còn có nhiều gò, giồng khác: giồng
Ông Huê, gò Lân (huyện Gò Công Đông);
giồng Mồ Côi (huyện Cai Lậy); giồng Tha
La (huyện Châu Thành); gò Cát (thành phố
Mỹ Tho)
- Động vật: địa danh chỉ các loại động vật ở tỉnh
Tiền Giang khá phong phú và đa dạng. Đó là
những loài động vật quen thuộc và phổ biến
trong dân gian, gắn liền với cuộc sống lao
động và sinh hoạt của con người: rồng, rắn,
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76
70
hổ, ngựa, rùa, cá mắm, chim muông Hiện
nay vẫn còn lưu lại dưới nhiều địa danh như:
cồn Rồng (thành phố Mỹ Tho); láng Chim,
tràm Cá Sặc (huyện Tân Phước); rạch Cả Rắn
(huyện Cai Lậy); ấp Cá, cầu Trâu (huyện
Châu Thành); cầu Cựa Gà, rạch Kiến (huyện
Chợ Gạo); gò Rùa (thị xã Gò Công); bàu Sấu,
cầu Cá Thu, láng Lộc, trại Cá (huyện Gò Công
Đông); chợ Cá Chốt, rạch Cò (huyện Gò
Công Tây).
- Thực vật: lấy tên thực vật (cây cỏ, hoa lá)
để đặt địa danh và nhân danh (tên người) là
một hiện tượng rất phổ biến của người dân
Việt Nam nói chung và Tiền Giang nói
riêng. Ví dụ như: cầu Cây Sung, rạch Cây
Dông, rạch Cây Cam (huyện Cái Bè); bưng
Bồn Bồn, rạch Mù U, chợ Ba Dừa, đường
Cây Trâm (huyện Cai Lậy); bàu Bèo, kênh
Tràm Mù (huyện Tân Phước); cống Cây Da,
rạch Xoài Mút, rạch Rau Răm, đường Bờ
Cỏ Sả (huyện Châu Thành); giồng Lức,
giồng Nâu, gò Me, ấp Cây Bàng (huyện Gò
Công Đông).
- Nguyên vật liệu: Tiền Giang không có nhiều
khoáng sản quý hiếm, chỉ có một số khoáng
sản phi kim loại như đất sét và cát, dùng để
làm đồ gốm và vật liệu xây dựng. Nhiều địa
danh ở Tiền Giang đã dựa vào đặc trưng nổi
bật trên của đối tượng để đặt tên như: cầu
Đất Sét (xã Hậu Thành, huyện Cái Bè);
láng Cát (xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước);
rạch Gò Cát (xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ
Tho); giồng Cát (xã Bình Tân, huyện Gò
Công Tây).
- Màu sắc, ánh sáng và tính chất của đối
tượng: màu sắc, ánh sáng và tính chất cũng
là một đặc trưng để đặt tên cho địa danh ở
Tiền Giang. Tuy nhiên, tên gọi phản ánh
màu sắc, ánh sáng ở vùng đất này không
nhiều lắm: cầu Trắng (xã Bình Phú, huyện
Cai Lậy); ấp Cây Xanh (xã Thạnh Phú,
huyện Châu Thành); chợ Đèn Đỏ (xã Tân
Thành, huyện Gò Công Đông); ấp Xóm
Đen (xã Bình Ân, huyện Gò Công Đông).
Ngoài ra, một số địa danh gọi theo đặt điểm
tính chất của đối tượng địa danh như: cầu
Nước Đục (xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè);
chợ Gò Công Cũ, chợ Gò Công Mới (thị xã
Gò Công); rạch Giao Miệng Lớn (xã An
Hữu, huyện Cái Bè); cửa Tiểu, cửa Đại,
kênh Rạch Lớn (xã Phước Trung, huyện Gò
Công Đông); cầu Sắt (xã Vĩnh Kim, huyện
Châu Thành); cầu Vĩ (xã Mỹ Phong, thành
phố Mỹ Tho).
- Vị trí của đối tượng: ở tỉnh Tiền Giang, việc
dựa vào đối tượng để đặt tên rất phổ biến và
số lượng từ ngữ chỉ phương hướng, vị trí
được sử dụng tương đối khá làm tăng thêm
tính đa dạng, phong phú của vùng đất này.
Ví dụ tên hành chính của các ấp, xã: ấp
Đông, ấp Tây, ấp Bắc, ấp Thượng, ấp Hạ (thị
trấn Vĩnh Bình, huyện Gò Công Tây); xã An
Thái Đông, xã An Thái Trung, xã Mỹ Đức
Đông, xã Mỹ Đức Tây (huyện Cái Bè);
xã Tân Lý Tây, xã Tân Lý Đông (huyện
Châu Thành); hay tên các công trình xây
dựng (kênh, cầu, cống, đường,): đường
Nam Tân Long, đường Bắc Tân Long (thành
phố Mỹ Tho); kênh Chà Trên, kênh Chà
Dưới (xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè). Bên
cạnh địa danh Hán Việt, có các địa danh
Hán Việt kết hợp các số hoặc chữ cái nhằm
phân biệt chúng với nhau, chẳng hạn: ấp
Tân Bình 2A, ấp Tân Bình 2B (xã Tân
Thuận Bình, huyện Chợ Gạo); xã Mỹ Lợi A,
xã Mỹ Lợi B (huyện Cái Bè); xã Tân Lập 1,
xã Tân Lập 2 (huyện Tân Phước).
2.2.2 Địa danh tỉnh Tiền Giang từ góc nhìn
thời gian văn hóa
Địa danh phản ánh các giai đoạn lịch sử: Mỗi
địa danh ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử và
xã hội cụ thể. Theo nhà Ngôn ngữ học người
Pháp Rostaing (1965) thì địa danh trở thành
“vật hóa thạch”, ghi lại những cái mốc quan
trọng của lịch sử theo dòng thời gian như quá
trình di cư, làm ăn và sinh sống của một tộc
người nào đó, hay qua địa danh, chúng ta biết
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76
71
về tiến trình lịch sử của một địa bàn, những
biến cố chính trị của vùng đất, những sự kiện
lịch sử của dân tộc. Tác giả Lê Trung Hoa cho
rằng địa danh là “những tấm bia lịch sử ghi lại,
nó ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý
nhất định nên địa danh mang dấu ấn của thời
đại mà nó chào đời” (Lê Trung Hoa, 2003, tr.
213). Có thể nói địa danh như là “một nhân
chứng sống” tái hiện lịch sử của một vùng đất ở
mỗi thời kỳ.
Một số địa danh tiêu biểu của Tiền Giang phản
ánh những chiến công kiên cường, oanh liệt của
người dân. Đó là: Rạch Gầm - Xoài Mút (xã
Kim Sơn, huyện Châu Thành) là tên hai con
rạch đổ ra sông Tiền; cũng nơi đây dân và quân
Đàng Trong dưới sự chỉ huy của vua Quang
Trung (Nguyễn Huệ) đánh tan 5 vạn quân Xiêm
vào ngày 19 và 20/1/1785. Lũy Pháo Đài (xã
Phú Tân, huyện Tân Phú Đông) là một thành
đất được đắp từ thời Minh Mạng, để canh giữ
vùng đất có tính chiến lược, vị trí quân sự quan
trọng của vùng cửa Tiểu. Lộ Ma (đường Thái
Sanh Hạnh ở thành phố Mỹ Tho ngày nay) là
con đường trung tâm của thành Định Tường
xưa được triều Nguyễn xây dựng vào năm 1792
từng làm pháp trường xử bắn tội nhân. Đám Lá
Tối Trời (huyện Gò Công Đông) là căn cứ
kháng chiến chống thực dân Pháp của nghĩa
quân Trương Định trong những năm 1861 -
1864 (Gò Công anh dũng tuyệt vời/ Ông
Trương “Đám Lá Tối Trời” đánh Tây). Bến đò
Phú Mỹ (quầy bán thịt người) là di tích lịch sử
cách mạng (huyện Tân Phước) ghi dấu tội ác
của thực dân Pháp đối với nhân dân ta vào
những năm 1945 - 1949; chúng đã dùng búa
chặt đầu những đồng chí, những người dân
nghèo khó mà chúng tình nghi có quan hệ
kháng chiến, rồi bêu trên các cọc tre và bày thịt
người ở bờ kênh ép mọi người đi ngang qua
phải mua. Đường Ấp Bắc đặt tên theo chiến
thắng Ấp Bắc (xã Tân Phú, thị xã Cai Lậy) vào
ngày 2/1/1963 của quân và dân Tiền Giang
đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa
vận” của Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa. Bên
cạnh đó, địa danh còn cho chúng ta thấy được
các di chỉ, các công trình xây dựng ra đời trong
công cuộc chống ngoại xâm, cho dù theo thời
gian chúng còn tồn tại hay không tồn tại thì đó
cũng là những chứng tích có giá trị cho các nhà
khảo cổ học, lịch sử học nghiên cứu. Đó là các
địa danh: gò Lũy, đường Bảy Liệt Sĩ (huyện
Châu Thành); kênh Kho Đạn (thành phố Mỹ
Tho); vịnh Đôi Ma, đầm Vạn Thắng (huyện Gò
Công Đông); đập Ông Chưởng (huyện Gò
Công Tây); chợ Mãnh Ma (thị xã Gò Công);
vàm Kỳ Hôn (huyện Chợ Gạo); kinh Kháng
Chiến (huyện Cai Lậy); kênh Cặp Rằn Núi
(huyện Tân Phước).
Địa danh phản ánh các thay đổi về hành chính:
Qua nhiều lần thay đổi cơ cấu tổ chức hành
chính ở Tiền Giang theo từng chế độ, đến nay đã
có rất nhiều tên gọi đơn vị hành chính khác
nhau. Nhiều tên gọi được sử dụng trước kia đã
không còn được sử dụng và bị chìm vào quên
lãng như: đạo, dinh, hạt, phủ, thành, tổng, quận,
thôn, trại, trấn, (đạo Trường Đồn, dinh/thành
Trấn Định, trấn Định Tường, hạt thanh tra Mỹ
Tho, phủ Kiến An, tổng Phong Hòa, quận Sầm
Giang). Qua việc đổi tên, thành lập một số địa
danh, chúng ta biết rõ được tình hình chính trị,
những sự kiện lịch sử của tỉnh nhà.
Bên cạnh đó, phần lớn tên đường phố ở Tiền
Giang của thời kỳ trước 1954, đều được gọi
theo tên của người Pháp như: Alexandre De
Rhodes (nay là Nguyễn Tri Phương), Albery
Puissiers (nay là Lãnh Binh Cẩn), Delfosse (nay
là Lý Thường Kiệt), Delibes (nay là Thiên Hộ
Dương), Boulevard Joffre (nay là Lý Tự
Trọng), Landes (nay là Lê Đại Hành), Pigneaux
de Béhaine (nay là Lãnh Binh Cẩn), Pigneau de
Behaine (nay là đường Đốc Binh Kiều),
Savorgnan de Brazza (nay là đường Học Lạc).
Sau năm 1975, tên đường phố của Tiền Giang
đều có xu hướng được nhà nước ta đặt theo tên
các danh nhân có công lớn đối với quê hương,
hoặc những sự kiện lịch sử quan trọng, mang ý
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76
72
nghĩa thiết thực trong việc giáo dục truyền
thống cách mạng và lòng tự hào dân tộc. Phần
lớn, những tên đường, phố ở Tiền Giang tập
trung nhiều nhất ở khu vực thành phố Mỹ Tho,
thị xã Gò Công và thị xã Cai Lậy như: 30 tháng
4 (trước là đường Ngô Tùng Châu), Huyện Toại
(trước là đường Trần Văn Trần), Trương Định
(trước là đường Đỗ Hữu), Nguyễn Văn Côn
(trước là đường Joffre), Trương Định (trước là
đường Phạm Đăng Hưng), Võ Duy Linh (trước
là đường Huyện Tri).
2.2.3 Địa danh tỉnh Tiền Giang từ góc nhìn
chủ thể văn hóa
- Địa danh phản ánh các tộc người cư trú
trên địa bàn:
Vùng đất Tiền Giang là nơi cộng cư của nhiều
dân tộc (Việt, Hoa, Khmer, Chăm). Do đó,
địa danh ở tỉnh Tiền Giang còn được tạo ra và
kết tinh từ ngôn ngữ của các tộc người đã từng
sinh sống trên vùng đất này và để lại dấu tích
đến ngày nay. Cư dân Tiền Giang đã tiếp thu
văn hóa Khmer, Hoa và Pháp trong quá trình
cộng cư với các dân tộc này. Đối với văn hóa
Khmer và Hoa, người Tiền Giang tiếp nhận một
số địa danh của người Khmer, Hoa để đặt tên
địa danh. Cụ thể, các địa danh mang dấu ấn
Khmer: “Mỹ Tho” có nguồn từ tiếng Khmer
“Mê Sor” có nghĩa là “xứ có những cô gái có
làn da trắng đẹp”, chợ Bưng (huyện Châu
Thành) thì “Bưng” có nghĩa là “vùng đất sâu và
rộng ở giữa đồng”, rạch Tham Rôn thì “Tham
Rôn” có nghĩa là “cây trôm”, rạch Ba Rài thì
“Ba Rài” có nghĩa là “hồ chứa nước ngọt”. Một
số địa danh mang dấu ấn Hoa: Mỹ Tho Đại Phố
(chợ Phố Lớn Mỹ Tho), huê viên Lạc Hồng
(vườn hoa Lạc Hồng). Đối với văn hóa Pháp,
người Tiền Giang chấp nhận sử dụng tên các
nhà khoa học chân chính, quan lại đã có những
đóng góp trong việc đào kênh để phát triển kinh
tế của Pháp để đặt tên địa danh như: đường
Yersin (thành phố Mỹ Tho), kênh Canal
Duperrée (huyện Chợ Gạo), kênh Salicatte,
kênh Champeaux (huyện Gò Công Đông).
Ngoài ra, các từ ngữ gốc Pháp đã được sử dụng
trong ngôn ngữ hằng ngày cũng được dùng làm
địa danh ở Tiền Giang, như: ấp Ga (gare), kênh
Xáng (chaland), cầu Bót (poste)... Ngoài ra,
một số địa danh khác nói lên nguồn gốc của
nhiều cư dân đến từ các vùng khác như: xóm
Cà Mau (huyện Cai Lậy), xóm Huế (huyện Tân
Phước), xóm Bắc (huyện Châu Thành).
- Địa danh phản ánh tên người:
• Cũng giống các thành phố, tỉnh thành
khác ở Việt Nam, vùng đất Tiền Giang
có nhiều địa danh mang tên những người
có công với đất nước, các bậc hiền tài
hay các anh hùng liệt sĩ thường tập
trung ở tên đường phố. Địa danh giúp
chúng ta càng tự hào và thêm yêu vùng
đất nơi mình sinh sống, về các nhân vật
lịch sử. Nhóm thứ nhất gắn với lịch sử
dân tộc: Hùng Vương, Trưng Trắc, Lý
Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Trần Hưng
Đạo, Nguyễn Huệ. Nhóm thứ hai gắn với
lịch sử địa phương: Trương Định, Võ
Tánh, Thủ Khoa Huân, Tứ Kiệt, Lê Thị
Hồng Gấm, Nguyễn Văn Nguyễn, Lê
Thị Phỉ, Học Lạc, Hoàng Việt, Phùng
Há.
• Địa danh đặt theo tên của những người
địa phương (thường mang yếu tố “ông”
và “bà”) đã từng sống trên vùng đất này.
Họ là có thể là những người đầu tiên
khai hoang, lập ấp, xây đựng đường xá,
cầu cống. Đó là các địa danh: chợ Bà
Đắt, rạch Bà Hậu, rạch Bà Xã, cầu Ông
Hưng, sông Ông Vẽ (huyện Cái Bè);
rạch Ông Bảo, tắt Bà Khoa, cầu Bà Trần,
chợ Bà Tồn (huyện Cai Lậy); rạch Bà
Lý, chợ Ông Văn, cầu Bà Thể (huyện
Chợ Gạo); kênh Ông Chủ, cầu Bà Rảnh
(huyện Tân Phước); rạch Bà Tiên, cầu
Bà Từ (huyện Tân Phú Đông).
- Địa danh phản ánh tâm lý tộc người:
Phần lớn địa danh hành chính ở Tiền Giang
(chiếm gần 80) là từ Hán Việt thể hiện ước
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76
73
vọng của người dân về ước vọng bình an, ước
vọng đổi đời, ước vọng thịnh vượng, giàu có.
Qua đó, phản ánh nét đẹp văn hóa tinh thần của
người dân Tiền Giang gửi gắm, ký thác vào
vùng đất mà mình đang sinh sống.
• Ước vọng đổi đời: Khi mở một vùng đất
mới, người dân mong muốn mọi thứ đến
với mình đều mới mẽ hơn. Điều đó thể
hiện qua từ “Tân” (mới, bắt đầu) đối lập
với “cũ”. Nhiều tên làng, xã ở Tiền
Giang có từ “Tân” ở đầu địa danh, như
xã: Tân Bình Thạnh, Tân Thuận Bình
(huyện Chợ Gạo); Tân Điền, Tân Phước,
Tân Tây, Tân Thành, Tân Trung (huyện
Gò Công Đông); Tân Thạnh, Tân Phú,
Tân Thới (huyện Tân Phú Đông), Tân
Hòa Đông, Tân Hòa Tây, Tân Hòa
Thành (huyện Tân Phước).
• Ước vọng an bình, thịnh vượng: Các
từ “An, Bình, Định, Hòa, Hội, Long, Phú,
Thạnh, Thuận” trong địa danh phản
ánh tâm tư, ước vọng một cuộc sống bình
an, tốt đẹp trong mọi phương diện. Ví dự
tên các xã, phường và thị trấn: An Cư,
Hội Cư (huyện Cái Bè); Phú An, Long
Khánh, Long Tiên, Thạnh Hòa (huyện
Cai Lậy); Long An, Phước Thạnh (Châu
Thành); Trung An, Đạo Thạnh (thành phố
Mỹ Tho); Bình Đông, Bình Xuân, Long
Hòa, Long Hưng, Long Thuận (thị xã Gò
Công); Bình Ân, Bình Nghị, Gia Thuận
(huyện Gò Công Đông); Thạnh Nhựt,
Thạnh Trị (huyện Gò Công Tây).
• Ước vọng giàu có: Các từ “Lộc, Lợi,
Phát, Phú, Hưng, Phước, Vĩnh...” thể
hiện mơ ước một cuộc sống giàu có về
vật chất và về tinh thần.Ví dụ tên các xã:
Thạnh Lộc, Bình Phú, Phú
Cường (huyện Cai Lậy); Hòa Hưng, Tân
Hưng (huyện Cái Bè); Đăng Hưng
Phước, Phú Kiết (huyện Chợ Gạo);
Hưng Thạnh, Mỹ Phước, Phước Lập
(huyện Tân Phước); Long Hưng, Phú
Phong, Thạnh Phú (huyện Châu Thành);
Phú Đông, Phú Tân (huyện Tân Phú
Đông); hay là tên chợ, cầu,
cống: chợ/cầu Bình Phú (huyện Cai
Lậy), chợ/cầu Vĩnh Kim (huyện Châu
Thành), chợ/bến đò Phú Mỹ (huyện Tân
Phước).
• Ước vọng cuộc sống tươi đẹp: Khi đến
định cư ở vùng đất mới, những lưu dân
luôn mong muốn mọi thứ đến với họ tươi
đẹp và hoàn mỹ. Tiền Giang có nhiều địa
danh bắt đầu bằng yếu tố “Mỹ”, như xã:
Mỹ Lương, Mỹ Phú, Mỹ Tân, Mỹ Trung
(huyện Cái Bè); Mỹ Hạnh Đông, Mỹ
Hạnh Trung, Mỹ Phước Tây (thị xã Cai
Lậy); Mỹ Phong (thành phố Mỹ Tho);
Mỹ Phước (huyện Tân Phước).
• Ước vọng về cuộc sống giàu lễ nghĩa,
nhân ái như: xã Thiện Trí, xã Thiện Trung
(huyện Cái Bè); ấp Hội Nhơn, ấp Hội Lễ,
ấp Hội Nghĩa, ấp Hội Trí, ấp Hội Tín (xã
Hội Xuân, huyện Cai Lậy); ấp Hòa Nhơn,
ấp Hòa Nghĩa, ấp Hòa Trí (xã Long
Khánh, huyện Cai Lậy); ấp Quý Chánh,
ấp Quý Lợi, ấp Quý Phước, ấp Quý
Thành (xã Nhị Quý, thị xã Cai Lậy).
• Tâm lý kiêng kỵ: Tâm lý kiêng kỵ là một
trong những biểu hiện văn hóa ứng xử
của con người trong cuộc sống. Người
Việt thường kiêng gọi tên những con vật
linh thiêng; kiêng húy tên các nhân vật
hoàng tộc, quan lại và những người có
công với đất nước trong xã hội đương
thời, để tỏ lòng thành kính hoặc để
không bị “trừng phạt”. Một số ít địa danh
ở Tiền Giang phản ánh điều này như:
cầu/chợ Ông Hổ (huyện Châu Thành),
gò Sơn Qui (thị xã Gò Công), khu Lăng
Cá Ông (huyện Gò Công Đông).
• Thích dùng số thứ tự: Người dân Nam bộ
nói chung và người dân tỉnh Tiền Giang
nói riêng có tâm lý thường hay dùng số
thứ tự và chữ cái để gọi tên, đặt biệt là
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76
74
thứ bậc kèm theo tên, có lẽ do dễ đọc, dễ
nhớ và gần gũi. Ví dụ: cầu Hai Thỏ,
kênh Hai Xẹt, kênh Bảy Đèo (huyện Cái
Bè); cầu Ba Vùng, kênh Tám Dư, rạch
Hai Tân, rạch Năm Trinh, rạch Năm
Truyền, rạch Ông Mười (huyện Cai
Lậy); rạch Hai Sanh, ấp Bà Lẫy 1, ấp Bà
Lẫy 2 (huyện Gò Công Đông); kênh Hai
Đạt, kênh Chín Hấn, kênh 1000, cầu 500
(huyện Tân Phước). Bên cạnh còn xuất
hiện một số địa danh dùng số là từ Hán
Việt: xã Nhị Quý, xã Nhị Mỹ, xã Tam
Bình, xã Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy); xã
Nhị Bình, xã Tam Hiệp (huyện Châu
Thành). Đồng thời, dùng cách ghép số
thứ tự và chữ cái để gọi tên cống N8
(huyện Gò Công Tây); cầu K.120, ấp
3A, 3B (thành phố Mỹ Tho); tỉnh lộ
866B, quốc lộ 1A. Có thể nói, tâm lý
chung của người dân Tiền Giang là thích
dùng những gì gần gũi có ở xung quanh
họ để đặt tên cho thuận tiện và dễ nhớ
nhất.
- Địa danh tỉnh Tiền Giang phản ánh về mặt
kinh tế và xã hội:
Địa danh phần nào lột tả được bộ mặt kinh tế và
xã hội của người dân Tiền Giang qua nhiều giai
đoạn khác nhau ở các lĩnh vực khác nhau, cho
ta thấy được sự cần cù, thông minh của con
người trong mọi hoàn cảnh sống.
• Tên chợ: Trong sinh hoạt kinh tế, chợ là
nơi mà diễn ra hoạt động mua bán, trao
đổi hàng hóa. Chợ đi vào địa danh chiếm
số lượng khá nhiều. Hiện nay, ở Tiền
giang có 176 chợ. Những chợ tiêu biểu
như: chợ nổi Cái Bè, chợ An Hữu, chợ
Cà Dăm, chợ Thiên Hộ Dương (huyện
Cái Bè); chợ Cai Lậy, chợ Xoài Tư, chợ
Bưng Môn (thị xã Cai Lậy); chợ Bưng,
chợ Thuộc Nhiêu, chợ Rạch Gầm, chợ
Giữa Vĩnh Kim (huyện Châu Thành);
chợ Mỹ Tho, chợ Thạnh Trị, chợ Vòng
Nhỏ (thành phố Mỹ Tho); chợ Ông Văn,
chợ An Thạnh Thủy (huyện Chợ Gạo);
chợ Gò Công Cũ (thị xã Gò Công); chợ
Rạch Giá, chợ Vàm Láng, chợ Xã Lới
(huyện Gò Công Đông); chợ Vĩnh Bình,
chợ Long Bình (huyện Gò Công Tây);
chợ Rạch Vách, chợ Pháo Đài (huyện
Tân Phú Đông).
• Nghề nghiệp và sản vật: Địa danh chỉ
nghề nghiệp, sản vật thường gặp ở tên
các đơn vị hành chính và tên địa hình tự
nhiên. Ví dụ: rạch Cái Cối, bánh phồng
Cái Bè, xoài cát Hoà Lộc, bưởi long Cổ
Cò (huyện Cái Bè); sầu riêng Ngũ Hiệp
(huyện Cai Lậy); chợ Lò Gạch, làng hoa
Mỹ Phong, hủ tiếu Mỹ Tho, gạo Gò Cát,
mận hồng đào Trung Lương (thành phố
Mỹ Tho); cầu Rượu, xóm Kiệu, vú sữa
Lò Rèn Vĩnh Kim, làng chiếu Long
Định, nước mắm Bình Đức (huyện Châu
Thành); rạch Lò Vôi, xóm Bún, thanh
long Chợ Gạo (huyện Chợ Gạo); mắm
tôm chà Gò Công, sơ ri Gò Công, ấp Lò
Gạch, ấp Xóm Lưới, rạch Làng Nứa
(huyện Gò Công Đông); bánh giá Chợ
Giồng (huyện Gò Công Tây); khóm Tân
Phước (huyện Tân Phước). Đây có thể
xem đây là một đặc điểm riêng của Tiền
Giang so với địa bàn khác.
- Địa danh tỉnh Tiền Giang phản ánh hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo:
• Địa danh gắn với hoạt động tín ngưỡng:
Tín ngưỡng là một biểu hiện của văn hóa
trong địa danh. Theo đó, tín ngưỡng có
thể thể hiện trong địa danh qua quá trình
giao lưu văn hóa giữa các tộc người sống
trên mảnh đất Tiền Giang hay qua tâm lý
linh thiêng hóa một nhân vật, một đối
tượng mà con người gởi vào đó đức tin
và lòng tôn kính của mình. Xuất phát từ
nhu cầu tâm linh, người dân Tiền Giang
tập trung phản ánh ở địa danh liên quan
đến hoạt động tín ngưỡng: cầu Rạch
Miễu, đường Miễu Cây Dong, lộ Đình
(thành phố Mỹ Tho); rạch Miễu, cầu
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76
75
Rạch Miễu (huyện Cái Bè); ấp Miễu
Hội, đường Miễu Bà (huyện Châu
Thành); rạch Đình, cầu Rạch Đình
(huyện Tân Phước); giồng Đình (huyện
Gò Công Đông).
• Địa danh gắn với hoạt động tôn giáo:
Tiền Giang hiện có 231.000 tín đồ (theo
các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo,
Tin lành, Cao đài...), chiếm 13% dân số
toàn Tỉnh. Nhiều địa danh phản ánh khá
rõ nét sự hiện tồn của các văn hóa vật thể
(chùa, thánh thất, nhà thờ) như: kênh
Nước Chùa (huyện Cái Bè); cầu Cống
Chùa, rạch Chùa (huyện Cai Lậy); rạch
Bến Chùa, chợ Bến Chùa, đường Nhà
Thờ (huyện Châu Thành); đường Chùa
Một Cột, xóm Chùa Chà (thành phố Mỹ
Tho); cầu Chùa Phật Đá (huyện Tân
Phước); xóm Chùa Cây Me (huyện Gò
Công Đông).
3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Trên cơ sở vận dụng kiến thức của Ngôn ngữ
học và Văn hóa học, chúng tôi nhận thấy địa
danh ở tỉnh Tiền Giang khá phong phú, đa dạng
về đối tượng phương thức, về ngôn ngữ (chủ
yếu thuần Việt và Hán Việt), về phương thức
cũng như hình thức cấu tạo. Có thể nói, địa
danh ở tỉnh Tiền Giang là sự kết tinh của ngôn
ngữ và văn hóa, của cái trừu tượng và cái cụ
thể. Đa số địa danh của tỉnh Tiền Giang đều có
nguồn gốc dân gian và phản ánh đậm nét hiện
thực về đặc điểm địa lý tự nhiên, lịch sử phát
triển của vùng đất, những thay đổi về hành
chính, đặc điểm tâm lý và khả năng tư duy của
các tộc người sinh sống trên địa bàn. Chính
những đặc trưng đó tạo cho địa danh vùng đất
này khá đặc biệt và thú vị.
3.2 Khuyến nghị
• Thứ nhất, để “giải mã” một địa danh nào
đó, người nghiên cứu cần phải vận dụng
và kết hợp kiến thức của các ngành khoa
học như: ngôn ngữ, lịch sử, địa lý, dân
tộc, xã hội để phân tích và hiểu đúng
một địa danh. Đồng thời, người nghiên
cứu phải đứng trên phương diện lịch đại,
đồng đại để tìm ra giá trị phản ánh hiện
thực của địa danh phản ánh, góp phần
đào sâu những tầng văn hóa ẩn chứa
đằng sau các địa danh qua các thời kỳ
khác nhau trong lịch sử của một vùng
đất.
• Thứ hai, thay thế hoặc giảm bớt những
địa danh bằng số hay bằng chữ cái. Mặc
dù, địa danh bằng số tiện dụng là ngắn
gọn, nhưng nó là con số vô hồn, không
phản ánh được nét văn hóa nào trong đó.
Nên chăng chỉ dùng số thứ tự (1, 2, 3)
hay chữ cái (A, B, C) ở các đơn vị hành
chính (dưới cấp ấp, cấp khu phố) hoặc
các công trình xây dựng (đường, cầu,
cống) ở những khu dân cư mới xây dựng
trong thời gian chờ đặt tên chính thức
bằng chữ.
• Thứ ba, khảo sát toàn diện những đối
tượng địa lý ở tỉnh Tiền Giang chưa có
tên gọi chính thức, thống kê phân loại và
đề xuất cách đặt tên sao cho phù hợp với
ngôn ngữ và văn hóa của địa phương.
Điều chỉnh (chuẩn hóa) lại các địa danh
bị sai lạc về âm và chữ viết để nhận diện
chính xác về các giá trị phản ánh hiện
thực của chúng.
• Thứ tư, để đặt tên cho các địa danh mới,
các cơ quan chức năng cần phải căn cứ
vào những tiêu chuẩn nhất định. Đó là
“tính dân tộc, tính truyền thống; tính
chính trị, tính đạo đức; tính lịch sử, tính
địa phương; tính tiện dụng, tính đại
chúng và tính thẩm mỹ” (Lê Trung Hoa,
tr. 231 - 235); song song đó, cần phải
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76
76
lắng nghe ý kiến đóng góp của các
chuyên gia cũng như người dân địa
phương.
• Thứ năm, cần có những nghiên cứu tiếp
theo để đào sâu, khai thác và nhận diện
các lớp trầm tích “hóa thạch” trên địa
danh. Đồng thời, căn cứ vào kết quả địa
danh đã thu thập, các cơ quan chức năng
cần hướng đến xây dựng “Từ điển Từ
nguyên địa danh tỉnh Tiền Giang”, góp
phần giúp cho mọi người tìm hiểu về bản
sắc văn hóa của vùng đất và con người
Tiền Giang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Trung Hoa. (2003). Nguyên tắc và phương
pháp nghiên cứu địa danh. Hồ Chí Minh: Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội.
Lê Trung Hoa. (2006). Địa danh học Việt Nam.
Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội.
Nguyễn Thị Kiều Oanh. (2011). Những đặc điểm
của địa danh Tiền Giang. (Luận văn Thạc sĩ
không xuất bản). Trường Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, Việt
Nam.
Trần Hoàng Diệu & Nguyễn Anh Tuấn. (2007).
Địa chí Tiền Giang (Quyển 2). Tiền Giang:
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang.
Trần Thị Ngọc Lang. (1995). Phương ngữ Nam Bộ.
Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
Trịnh Hoài Đức. (1972). Gia Định thành thông
chí (Tập hạ). (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch). Sài
Gòn: Nha Văn Hóa, Phủ Quốc vụ khanh đặc
trách Văn hóa. (Quyển sách gốc được xuất bản
năm 1820).
Võ Văn Sơn. (2010). Tìm hiểu nguồn gốc một số
địa danh tiêu biểu ở Tiền Giang. (Đề tài
nghiên cứu khoa học không xuất bản). Trường
Đại học Tiền Giang, Tiền Giang, Việt Nam.
Võ Văn Sơn. (2017). Đặc điểm địa danh ở thành
phố Mỹ Tho. Tạp chí Ngôn ngữ, 6, 49 - 50.
Vương Hồng Sển. (1999). Tự vị tiếng nói miền
Nam. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1569813926_07_vo_van_son_xpdf_8899_2189588.pdf