Di cư do biến đổi khí hậu, áp lực môi trường: câu chuyện phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long nhìn từ cộng đồng gốc của những người di cư

Tài liệu Di cư do biến đổi khí hậu, áp lực môi trường: câu chuyện phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long nhìn từ cộng đồng gốc của những người di cư: 252 DI CƯ DO BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, ÁP LỰC MÔI TRƯỜNG: CÂU CHUYỆN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG NHÌN TỪ CỘNG ĐỒNG GỐC CỦA NHỮNG NGƯỜI DI CƯ (Nghiên cứu trường hợp vùng thượng nguồn xã Vĩnh Lộc, huyện An Phú, tỉnh An Giang) Nguyễn Văn Bình TÓM TẮT Suốt thời gian qua, đời sống của người dân nhập cư tại các đô thị luôn là chủ đề thu hút. Trong khi những những hệ quả của di dân đối với cộng đồng ở tại quê gốc vẫn còn rất ít nghiên cứu đề cập, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH), áp lực môi trường. Chính vì thế nó là một chủ đề cần phải được quan tâm nhiều hơn trong bối cảnh đương đại. Bởi dĩ, bên cạnh những đóng góp của tích cực của dòng di dân đối với quê gốc, nó còn để lại nhiều áp lực tương tự mà buộc những người thân ở lại quê gốc phải gánh chịu trong bối cảnh BĐKH, áp lực môi trường ảnh hưởng ngày càng sâu sắc tại những cộng đồng nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đáng lưu ý hơn nữa khi khu vực này đa phần lại l...

pdf19 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 537 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Di cư do biến đổi khí hậu, áp lực môi trường: câu chuyện phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long nhìn từ cộng đồng gốc của những người di cư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
252 DI CƯ DO BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, ÁP LỰC MÔI TRƯỜNG: CÂU CHUYỆN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG NHÌN TỪ CỘNG ĐỒNG GỐC CỦA NHỮNG NGƯỜI DI CƯ (Nghiên cứu trường hợp vùng thượng nguồn xã Vĩnh Lộc, huyện An Phú, tỉnh An Giang) Nguyễn Văn Bình TÓM TẮT Suốt thời gian qua, đời sống của người dân nhập cư tại các đô thị luôn là chủ đề thu hút. Trong khi những những hệ quả của di dân đối với cộng đồng ở tại quê gốc vẫn còn rất ít nghiên cứu đề cập, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH), áp lực môi trường. Chính vì thế nó là một chủ đề cần phải được quan tâm nhiều hơn trong bối cảnh đương đại. Bởi dĩ, bên cạnh những đóng góp của tích cực của dòng di dân đối với quê gốc, nó còn để lại nhiều áp lực tương tự mà buộc những người thân ở lại quê gốc phải gánh chịu trong bối cảnh BĐKH, áp lực môi trường ảnh hưởng ngày càng sâu sắc tại những cộng đồng nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đáng lưu ý hơn nữa khi khu vực này đa phần lại là những người cao tuổi, trẻ em, phụ nữ, người bệnh, Vì vậy có thể nói rằng, chính vấn đề di dân trong bối cảnh BĐKH đã là gia tăng những áp lực trong lĩnh vực an sinh xã hội, phát triển kinh tế và kể cả làm giảm khả năng ứng phó với BĐKH của địa phương (quê gốc). 1. Đặt vấn đề “Biến đổi khí hậu toàn cầu được xem như là một cuộc khủng hoảng sinh thái nghiêm trọng nhất mà nền văn mình nhân loại đang phải đối diện” (Phạm Thị Ngọc Trầm, 2010:16). Bởi nó không chỉ làm thay đổi môi trường tự nhiên, mà còn trở thành một mối đe dọa trực tiếp đến vấn đề phát triển bền vững của một quốc gia, khi các mục tiêu về kinh tế- xã hội không được đảm bảo. Trong khi đó, Đồng bằng công Cửu Long (hay còn gọi là vùng Tây Nam Bộ) đã được đề cập trong báo cáo của Ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu, hiện là một trong ba khu vực trên thế giới chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi biến đổi khí hậu (BĐKH) (Lê Thanh Sang, 2009:37). Không dừng lại ở đó, đây còn là một nơi tập trung đông dân cư, là nơi cư trú của hơn 18 triệu dân, chiếm 22% dân số Việt Nam. Chính vì vậy, chỉ cần một thay đổi nhỏ của các yếu tố môi  Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 253 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH trường, khí hậu sẽ làm ảnh hưởng đến hàng loạt hộ gia đình và gia tăng nguy cơ mất chỗ ở, có thể phải rời khỏi khu vực đang sinh sống (Care, 2008:15). Theo đánh giá của Trung tâm giám sát dịch chuyển dân số trong nước cho thấy:“Việt Nam đứng thứ 17 trong số 82 quốc gia có số người di trú lớn nhất do thiên tai, với hơn 1 triệu người phải di dời nơi sinh sống trong giai đoạn 2008-2012.”(UNDP,2014:7). Đặc biệt theo IPCC, năm 2007 khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã được xác định là một trong ba điểm nóng của toàn cầu về nguy cơ di dân do hậu quả nước biển dâng và được dự báo đến năm 2050 nơi đây sẽ có hơn 1 triệu người phải đối mặt với nguy cơ di dời do mất nơi ở và hoạt động sinh kế nếu không có hành động quyết liệt nào can thiệp (UNDP,2014:6). Ngoài ra, cùng với tốc độ tăng nhanh của dân số tại những vùng bị tác động bởi hiểm họa khí hậu khả năng xảy ra di cư trong tương lai sẽ càng cao hơn (UNDP,2014:1). Bên cạnh yếu tố Biến đổi khí hậu, “những áp lực về môi trường lên ĐBSCL cũng đã là một nhân tố góp phần tạo nên các luồng di cư lớn trong thập kỹ vừa qua.”(IOM,2016:8). Đặc biệt nhạy cảm hơn hết bởi yếu tố địa chính trị, chính vị trí địa lý của ĐBSCL là vùng hạ lưu của sông Mê Kông nên khi có bất cứ một tác động tiêu cực nào từ phía thượng nguồn, thì đời sống của người dân ở vùng ĐBSCL sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Theo Care (2008) cho rằng: “Vấn đề suy thoái môi trường đặc biệt là những ảnh hưởng gây ra bởi lũ lụt là một tác nhân góp phần dẫn đến tình trạng mất chỗ ở và di cư ở ĐBSCL.” (Care,2008:15). Đã nhắc đến tính dễ tổn thương của ĐBSCL dưới tác động của BĐKH và các áp lực môi trường thì không thể bỏ qua trường hợp An Giang. Bởi vì, đây là một tỉnh đầu nguồn của ĐBSCL, là nơi đầu tiên tiếp nhận dòng chảy của sông Mê Kông đổ từ Campuchia về Việt Nam. Là nơi tập trung đông dân cư nhất với diện tích đứng thứ 4 của vùng và được xác định là một trong bốn 4 tỉnh (An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Cà Mau) vùng ĐBSCL đang chịu tác động mạnh mẽ bởi biến đổi khí hậu hàng năm (Mai Thị Vân Anh,2010). Chính điều đó đã đặt ra cho khu vực này một bối cảnh vô cùng đặc biệt, nó có thể trở thành một điểm nóng đáng lưu ý của các dòng di cư và tình trạng mất chỗ ở. Với bài viết này, tác giả sẽ góp phần vào việc mô tả bức tranh xung quanh vấn đề di cư trong điều kiện biến đổi khí hậu và các áp lực môi trường khác đang diễn ra tại ĐBSCL nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách định hướng được những kế hoạch hành động nâng cao khả năng thích ứng đối với biến đổi khí hậu, áp lực môi trường và cũng để đảm bảo được các mục tiêu của phát triển bền vững. Với mục đích đó trong phần nội dung tác giả tập trung phân tích tác động của những biểu hiện do biến đổi khí hậu gây ra, các áp lực môi trường đến quyết định di cư của người dân ĐBSCL. Và quan trọng hơn hết đó là những hệ quả của vấn đề di dân nhìn từ cộng đồng nơi xuất cư trong điều kiện biến đổi khí hậu, áp lực môi trường để chỉ ra được những thách thức cần giải quyết trong câu chuyện phát triển bền vững của vùng. Bài viết là một đúc kết từ một nghiên cứu trường hợp vùng thượng nguồn tại xã Vĩnh Lộc, huyện An Phú, tỉnh An Giang thuộc chương trình khoa học công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ: “Vấn đề Dân số và Di dân trong phát triển 254 bền vững vùng Tây Nam Bộ.” do PGS.TS Lê Thanh Sang làm chủ nhiệm. Bài viết được xây dựng trên cơ sở của cả dữ liệu định lượng với 100 bản hỏi hộ gia đình và dữ liệu định tính được thực hiện thông qua phỏng vấn sâu (8 trường hợp) và quan sát tham dự tại cộng đồng. Nhằm vừa cung cấp được một cách nhìn khái quát hóa nhất về vấn đề, cũng vừa đi vào chi tiết, cụ thể để lý giải một cách sâu sắc những trăn trở qua từng câu chuyện được tiếp cận và quan sát được. 2. Bối cảnh biến đổi khí hậu và các áp lực môi trường tại Đồng bằng sông Cửu Long thông qua trường hợp xã Vĩnh Lộc, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Trong khoảng hai thập niên vừa qua những hiện tượng thời tiết thất thường đã xảy ra ở ĐBSCL ngày càng mạnh mẽ hơn, gây ra những tổn thương cho các hoạt động sống của người dân nơi đây (Lê Anh Tuấn, Lê Anh Dũ, Trương Quốc Cần, Phạm Thị Bích Ngọc, Vũ Thế Thường, 2011:7). Đặc biệt, trong năm 2016 và giữa năm 2017 trên các phương tiện truyền thống đại chúng liên tục đưa tin về việc ĐBSCL đang phải gánh chịu những đợt thiên tai như: hạn hán, xâm nhập mặn và sạt lở chưa từng thấy trong lịch sử. Điển hình là đợt hạn hán, xâm nhập mặn ở các tỉnh miền Tây vào năm 2016 được đánh giá là đặc biệt nghiêm trọng và nặng nhất trong 100 năm qua (Cửu Long, 2016) và gần đây nhất là một trận sạt lở gây xáo trộn đời sống của người dân An Giang vào giữa năm 2017. Để làm rõ hơn về bối cảnh biến đổi khí hậu và những áp lực môi trường mà các tỉnh ĐBSCL đang phải gánh chịu, trước hết là khu vực thượng nguồn. Kết quả nghiên cứu định lượng đã cho thấy môi trường tự nhiên nơi đây trong vòng 5 năm qua đã có những sự thay đổi rất lớn. Có đến 90% ý kiến người dân đã cảm nhận được rằng hạn hán hay thời tiết nắng nóng cực đoan trong 5 năm vừa qua đã và đang tăng lên nhiều hơn. Tương tự, lũ lụt thất thường cũng có chiều hướng mạnh mẽ hơn chiếm đến 72% ý kiến người dân cao hơn 14 lần so với tỷ lệ cho rằng lũ lụt không thay đổi. Riêng sạt lở/xói mòn tăng lên cũng tương ứng với 41%. Đồng thời, lượng mưa và tuần suất/thời gian mưa hàng năm cũng được người dân địa phương phản ánh theo chiều hướng tăng lên trong những năm qua, lần lượt chiếm 84% và 74%. Đây là những hiện tượng chính yếu đã và đang chi phối đến đời sống của người dân trong suốt 5 năm vừa qua. Ngoài ra, trong những lần gặp gỡ và trò chuyện nhóm nghiên cứu nhận thấy, hiện nay tại địa phương điều trăn trở nhất của người dân chính là vấn đề sạt lở ngày càng nghiêm trọng đe dọa đến tình trạng mất chỗ ở của những cư dân nơi đây, nhất là những hộ gia đình hạn chế về nguồn lực đất đai. Một câu chuyện từ hộ gia đình đang phải chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sạt lở đã rất bức xúc kể lại, sạt lở tại địa phương đặc biệt diễn ra mạnh mẽ trong khoảng 2 năm trở lại đây. Nhìn lại trong lịch sử, nếu có xói mòn/sạt lở thì nhiều nhất cũng chỉ khoảng 5 tất (0,5 mét) đó là những khi nước lũ lớn. Tuy nhiên, chỉ trong vòng 2 năm vừa qua mà nhiều khu vực đã mất đi từ 20 mét đất, tức mỗi năm trung bình đất bị sạt lở khoảng 10 mét. Những hàng cây bạch đàn hàng trăm cây trước sân được trồng để che chắn gió bấc hàng năm nhưng hiện nay đã sạt lở toàn bộ không còn dấu tích. Không chỉ vậy, trong trí nhớ của 255 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH người dân con sông trước đây chỉ rộng khoảng hai đến ba mươi mét nay đã được thay thế bằng một hình ảnh của con sông ngày một phình to ra gần hàng trăm mét đã và đang nuốt chửng nhà cửa và đường xá mà người dân thường xuyên đi lại, gây ra nhiều lo sợ cho người dân (PVS chú Phú, 1955, Nông dân xã Vĩnh Lộc). Điều đó cho thấy sạt lở ở xã Vĩnh Lộc đang diễn ra rất nhanh và sẽ vẫn còn tiếp tục trong thời gian tới nếu không có biện pháp can thiệp phù hợp nào. Nổi trăn trở thứ hai cũng không kém phần kịch tính được nhiều người dân nhắc đến là vấn đề lũ lụt thất thường. ĐBSCL là một vùng đồng bằng tương đối thấp có cao độ trung bình phổ biến ở nhiều nơi từ 1-2m so với mực nước biển và nằm ở vùng hạ lưu sông Mê Kông. ĐBSCL đã hứng toàn bộ dòng chảy lũ từ thượng nguồn tràn về qua hai nhánh sông Tiền, sông Hậu và phần tràn bờ chảy trên đất liền vượt biên giới giữa Campuchia - Việt Nam làm ngập nhiều vùng đất trũng, chủ yếu là vùng tứ giác Long Xuyên (Lê Anh Tuấn, 2010:2). Từ đó đã hình thành nên mùa lũ, gọi đúng hơn là mùa nước nổi mà trong nhiều thập kỷ vừa qua nó đã trở thành một thương hiệu đặc trưng cho ĐBSCL trong đó có Vĩnh Lộc. Lũ là hiện tượng xảy ra hàng năm cho nên nó được người dân nơi đây xem là một hiện tượng tự nhiên (Phạm Thị Huyền Trang, Trương Văn Tuấn, 2016:160). Suốt quá trình sinh sống cùng lũ, mặc dù đôi lúc lũ đã gây ra nhiều biến cố nhưng người dân vẫn có những cách thích nghi vô cùng sáng tạo từ “tránh lũ” cho đến “sống chung với lũ” (Lê Anh Tuấn,2010:3). Tuy nhiên, hiện tại những mùa lũ thường được ví von là mùa lũ đẹp, nay đã hóa thành một mùa lũ nghèo như cách gọi của những người làm báo và nó thật sự nghèo theo đúng cả về mặt lượng lẫn mặt chất. Nếu mùa lũ trước đây nước bắt đầu lên từ tháng 7 và tăng dần từ tháng 8-9, cao điểm nhất là vào tháng 10 và giảm dần từ 11-12 gây ngập từ 1.2 đến 1,9 triệu ha (Lê Anh Tuấn, 2010:2), hàng năm vùng Tứ giác Long Xuyên ngập từ 1,5 tháng đến 4,5 tháng tùy theo khu vực, lũ lớn hay nhỏ khác nhau, độ ngập sâu dao động từ 0,5m đến 4,5m, thì trong khoảng thời gian từ sau năm 2000 mùa lũ về muộn hơn và mực nước lũ từ sông Mê Kông đổ vào sông Tiền và sông Hậu cũng đang thấp dần, đặc biệt chưa năm nào mực nước lũ thấp ở mức kỷ lục như năm 2010, dưới 1m so với mức lũ trung bình hằng năm (Phạm Xuân Phú,2013:2). Riêng đối với Vĩnh Lộc là một trong ba xã bờ đông sông Hậu (Vĩnh Lộc, Phú Hữu, Vĩnh Hậu), một khu vực được quy hoạch là vùng xả lũ nên không được xây dựng đê bao khép kín, hàng năm nước lũ mênh mông vẫn bao phủ trên những cánh đồng với độ cao từ 2-2,5 mét. Vì vậy, đời sống của người dân nơi đây nói chung vẫn gắn liền với hoạt động của mùa lũ. Nhưng sự bất thường của mùa lũ trong những năm gần đây đã gây ra nhiều hoang mang cho người dân. Cụ thể qua kết quả khảo sát định lượng được người dân cho biết là mực nước lũ hàng năm giảm chiếm 61%, bên cạnh đó số tháng lũ cũng đàn dần rút ngắn hơn chiếm 39% ý kiến người trả lời. Ngoài ra, được biết năm 2015-2016 là hai năm mà nước lũ nhỏ nhất trong ký ức của người dân địa phương. Đặc biệt vào năm 2015 là một năm mà nơi đây hoàn toàn không có mùa nước nổi, toàn bộ chỉ là những cánh đồng khô (PVS Lãnh đạo Đảng ủy xã Vĩnh Lộc). Tiếp đến 2016 lại càng gây hoang mang hơn cho người dân khi đã đi vào giữa mùa lũ 256 (khoảng tháng 8) mà vẫn chưa thấy nước lên đồng, mãi đến khi đến tháng 9 thì nước lũ mới bắt đầu nhóm lên, trong khi nếu theo quy luật khoảng 25 tháng 8 âm lịch là nước lũ đã cầm lại và sẽ bắt đầu rút vào đầu tháng 9 (PVS Chú Long, 1969 tuổi, nông dân xã Vĩnh Lộc). Không những nước lũ về trễ hơn mọi năm mà mực nước lũ hiện nay còn rất thấp chỉ đủ tràn vào những vùng trũng thấp, còn những vùng đất gò cao là hoàn toàn không có nước (PVS lãnh đạo Đảng ủy xã Vĩnh Lộc). Việc mùa nước lũ ở ĐBSCL trở nên bất thường hơn không thể giải thích một cách đơn lẻ được mà nó là sự cộng hưởng của rất nhiều yếu tố, một trong số đó là yếu tố biến đổi khí hậu. Những kết quả nghiên cứu vừa qua cho thấy, diễn biến của biến đổi khí hậu trong thời gian qua đã tác động không nhỏ đến tính bất thường của lũ lụt hiện nay. Một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo ra lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long đó chính là “do những trận mưa lớn ở vùng thượng lưu và trung lưu lưu vực sông Mê Kông do những cơn bảo và ấp thấp nhiệt đới trên biển Đông đổ bộ vào miền Trung Việt Nam và gió mùa Tây Nam gây nên” (Nguyễn Văn Trọng, 2004:40). Theo Phạm Thị Huyền Trang, Trương Văn Tuấn (2016) mưa ở vùng hạ Lào và thượng Lào đã đóng góp 60-65%, ở Campuchia là 10%, chỉ có 10% là mưa ở ĐBSCL (Phạm Thị Huyền Trang, 2016:162). Tuy nhiên, hiện tượng El Nino với cường độ mạnh kéo dài từ 2014 đã làm nhiệt độ tăng lên từ 1-1,5 độ, lượng mưa giảm từ 30-50%. Làm tổng lượng dòng chảy từ sông Mê Kông về ĐBSCL thiếu hụt so với trung bình nhiều năm và đồng thời gây ra nhiều áp lực như hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL. Qua số liệu so sánh lượng mưa trung bình tháng tại hạ lưu sông Mê Kông năm 2015 với trung bình lượng mưa nhiều năm qua cho thấy lượng mưa trung bình năm 2015 ở tất cả các tháng đều thấp hơn lượng mưa trung bình trong những năm vừa qua. Đặc biệt vào đầu mùa lũ khoảng tháng 5,6 lượng mưa thiếu hụt chuẩn đến 30-45%, những tháng đỉnh điểm của mùa lũ (tháng 9-10) lượng mưa trung bình năm 2015 giảm 20% so với lượng mưa trung bình nhiều trong nhiều năm qua (Hoàng Minh Tuyển,2016). Nguồn: Viện khoa học khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu, 2016. Một khía cạnh khác làm cho lũ lụt trở nên thất thường và nghèo nàn không thể không nhắc đến yếu tố địa chính trị, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các 257 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Kông. Các quốc gia thượng nguồn trong những năm qua đã cho xây dựng hàng loạt các công trình đập thủy điện làm ngăn dòng chảy sông Mê Kông điều đó đã tạo ra những thách thức lớn cho các quốc gia ở vùng hạ lưu đặc biệt là Việt Nam. Chỉ riêng Trung Quốc đến nay đã xây dựng 4 công trình1 có công suất thấp nhất từ 1350 MW và đặc biệt thủy điện Xiaowan có công suất đến 4.200 MW, dung tích hồ chứa 15,13 tỷ m3. Chưa kể những dự định đến năm 2020 Trung Quốc sẽ có thêm 8 nhà máy và 6-7 nhà máy đến năm 2040. Bên cạnh đó, các trạm thủy điện trung bình và nhỏ cũng sẽ được hình thành nhằm khai thác đầy đủ tiềm năng thủy điện. Không chỉ vậy, theo báo cáo của SEA cho thấy có 12 đập thủy điện lớn được dự kiến xây dựng chặn dòng chảy chính ở hạ lưu sông Mê Kông và mới đây năm 2012 một công trình thủy điện lớn ở vùng hạ lưu sông Mê Kông đã chính thức xây dựng, đó là công trình Xayaburi (Đào Trọng Tứ, 2015:51-54). Theo một báo cáo đánh giá môi trường chiến lược (SEA, 2010) do nhóm công tác của ICEM thực hiện cho thấy: “Các chuỗi đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông sẽ làm giảm khoảng 75% lượng phù sa hàng năm trên sông xuống đến vùng đồng bằng bên dưới, lượng phù sa mất mát xấp xỉ 120 triệu tấn, các đập nước sẽ ngăn cản sự di cư của nhiều loại cá, đặc biệt là nhóm cá da trơn, mà báo cáo cho rằng tổn thất cá so với năm 2000 là khoảng 210.000-540.000 tấn mỗi năm. Bên cạnh đó, về mặt xã hội sẽ có khoảng 106.942 người sẽ bị tác động trực tiếp từ 12 dự án dòng chính trong vùng hạ lưu sông Mê Kông, mất nhà, mất đất cần phải di dời (Lê Anh Tuấn, 2015:60-61). Một số liệu khác cho việc điều tiết hệ thống hồ chứa trên lãnh thổ Trung Quốc, cụ thể là việc tích nước vào mùa lũ đã làm cắt giảm lượng lũ về hạ lưu. Số liệu đo đạt được tại trạm Chieng Sea lượng dòng chảy mùa lũ đã giảm liên tục từ năm 2009 đến nay trung bình hàng năm khoảng 25%, riêng năm 2015 giảm tới 32% (Hoàng Minh Tuyển,2016). Nguồn: Viện khoa học khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu. 1 Các công trình thủy điện của Trung Quốc ngăn dòng chính sông Mê Kông: ManWan (1993- 2000), Dachaoshan (1995-2000),Jinghong (2003-2010), Xiaowan (1995-2013). 258 Mặt khác, nếu đúng như những kịch bản về khí hậu đã đặt ra thì sắp tới những đập thủy điện sẽ là những “quả bom nước” đang đe dọa đến môi trường và sinh mạng con người thuộc khu vực hạ lưu. Dưới sự tác động của nước biển dâng có thể làm tăng mực nước lũ, khi nước lũ dồn về quá lớn vượt qua khả năng xả của đập hoặc do áp lực nước lớn có thể sẽ phá vỡ kết cấu công trình của đập nước và một số yếu tố khác như thấm ngang quá lớn, động đất tại chỗ, chấn động địa chất có thể phá hủy các đập. Như vậy, khi các đập đột ngột bị vỡ, một khối lượng nước khổng lồ sẽ vỡ òa gây lũ xoáy ập tràn xuống các vùng trũng hạ lưu. Hoặc vào những mùa mưa, khi mực nước trên các đập dâng cao buộc phải xả nước làm cho ở hạ nguồn bị lũ nặng nề hơn, khó kiểm soát hơn (Phạm Thị Huyền Trang, Trương Văn Tuấn, 2016:162). Không chỉ làm ảnh hưởng đến quy luật của lũ, hệ thống đập thủy điện còn làm gia tăng tình trạng sạt lở ở vùng hạ lưu do quá trình bồi tụ phù sa bị cắt đứt khi mực lũ hàng năm suy giảm, lượng phù sa trở nên nghèo nàn, làm thay đổi động lực dòng chảy từ đó tăng khả năng xói mòn/sạt lở bờ, lòng sông ở những phần sông hạ lưu gây mất đất gây ảnh hướng đến đời sống của nhiều cộng đồng dân cư. Trong đó, An Giang là một trong những tỉnh đứng đầu phải đối mặt với tình trạng này (Lê Đức Nam, 2016:98-99). Nhìn chung lại, sự thay đổi về môi trường tự nhiên ở ĐBSCL nói chung và Vĩnh Lộc nói riêng trong thời gian qua là vấn đề vô cùng phức tạp. Nhiều vấn đề như sạt lở, lũ lụt, hạn hán,.. đã cộng hưởng với nhau và gây ra những áp lực trực tiếp đến đời sống của người dân vốn đã gắn liền với nông nghiệp, nông thôn, đòi hỏi họ phải có những biện pháp thích ứng phù hợp mà một trong những cách thức đã được người dân xem là chiến lược đó chính là di cư và tái định cư. 3. Biến đổi khí hậu, áp lực môi trường động lực thúc đẩy một cách mạnh mẽ dòng di dư rời khỏi địa phương Theo số liệu di cư từ năm 2009-2014 trong báo cáo điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm 1/4/2014: An Giang đã là một tỉnh có tỷ lệ xuất cư trên 1000 dân lớn thứ ba, chiếm đến 52,2% trong ba tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, chỉ đứng sau Hậu Giang (56,4%) và Cà Mau (54,3%) (Tổng cục thống kê, 2015). Bên cạnh đó, qua kết quả nghiên cứu của đề tài tại 7 tỉnh điển hình thuộc Đồng bằng sông Cửu Long cũng cho thấy thêm rằng An Giang đang là tỉnh đứng đầu trong 7 tỉnh về số hộ gia đình có người đã và đang di cư khỏi địa phương cư trú chiếm đến 73,8%, tiếp đến là Hậu Giang (68%), Trà Vinh (67,3%), Tiền Giang (64%), Cà Mau (58,7%), Long An (43%) và Cần Thơ (36,5%). Chính vì vậy, việc quan tâm đến các động thái di cư ở An Giang là một trong những nhiệm vụ rất cấp thiết trong bối cảnh đương đại. Riêng trường hợp tại xã Vĩnh Lộc, tỷ lệ gia đình có người đã và đang rời khỏi địa phương đã lên đến 72% (với tổng số 159 cá nhân). Như vậy có thể thấy, di cư đang là một chiến lược hữu hiệu được nhiều gia đình tại địa phương lựa chọn. 259 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH Nguồn: Kết quả xử lý số liệu đề tài “Vấn đề dân số và di dân trong PTBV vùng TNB”, 2016. Nếu quan tâm đến lịch sử của dòng di cư, qua biểu đồ trên đã cho thấy động thái di cư tại xã Vĩnh Lộc có xu hướng tăng qua từng năm và có thể nói 2009 là điểm xuất phát đáng lưu ý khi tỷ lệ di cư tăng đột biến lên ở mức 2,7% khi con số này luôn được ổn định chưa từng vượt qua khỏi mức 2% trong suốt hơn 4 thập niên kể từ thời điểm đó. Không những vậy, đồ thị cho thấy rằng dòng di cư xuất hiện ngày càng phổ biến trong những năm gần đây, điển hình nhất là trong những năm 2012, 2013 và 2015, đây 3 năm có tỷ lệ người rời khỏi địa phương cao nhất và đột biến, lần lượt chiếm 4,2%; 4,5% và cuối cùng là 4%, tăng gấp đôi so với những năm trước đó như 2011 chỉ chiếm 2,7%, 2010 chiếm 2,2%. Một điều đáng lưu ý, như đã được đề cập trong phần một, những năm gần đây các hiện tượng thời tiết như mưa, nắng trở nên thất thường và cực đoan hơn. Đặc biệt, giai đoạn 2012-2015 là giai đoạn người dân Vĩnh Lộc phải đối mặt với nhiều khó khăn do sự thay đổi nhanh chóng quy luật của mùa lũ, mực nước trở nên thấp hơn mức bình thường và đỉnh điểm vào năm 2015 nước lũ hoàn toàn không về trên đồng xã Vĩnh Lộc, trong khi hầu hết người dân sinh tồn được ở vùng đất này là nhờ vào vai trò của lũ (PVS Lãnh đạo Hội nông dân xã Vĩnh Lộc). Chính điều đó đã cung cấp cho chúng ta những dự kiện khi có thể mạnh dạn nhận diện rằng có vẻ như chiến lược di cư của cư dân Vĩnh Lộc liên quan rất mật thiết với những thách thức về thời tiết và môi trường ở địa phương trong giai đoạn này. Tiếp tục khẳng định kết quả định lượng cũng phản ánh thêm rằng yếu tố biến đổi khí hậu hay những áp lực về thời tiết, môi trường đang dần được nhận diện là động cơ trực tiếp thúc đẩy di cư khi đã có 11% số hộ gia đình có người di cư cho rằng sự tác động của các áp lực môi trường, thời tiết trong thời gian gần đây đã ảnh hưởng đến quyết định thực hiện di cư của hộ gia đình. Mặc dù, kết quả cho thấy không nhiều gia đình nhận diện được sự ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố thời tiết và môi trường trong quyết định di cư của hộ gia đình. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc sẽ không tồn tại một ảnh hưởng gián tiếp nào. 260 Theo ADB, sự thay đổi về môi trường hay nói một cách chung nhất là biến đổi khí hậu đã được nhận diện ngày càng rõ ràng như là một động lực thúc đẩy quá trình di cư trên toàn cầu. Tuy nhiên, sự thay đổi của các yếu tố môi trường và thời tiết không phải là yếu tố thúc đẩy trực tiếp buộc người dân phải di dời nơi ở, mà trong điều kiện đó di dân được xem là một trong những hành động, là một giải pháp thích ứng mang lại nhiều tiềm năng cho các hộ gia đình đang mong muốn tìm phương thức sinh tồn trước những hiểm họa thời tiết, cũng như tìm các cơ hội ở những mảnh đất mới (UNDP, 2014:8). Trong nhiều nghiên cứu về biến đổi khí hậu của Care (2008), UNDP (2014) Lương Ngọc Thúy, Phan Đức Nam (2015), đã cho thấy rõ một trong những nhân tố chính thúc đẩy quá trình di dân xuất phát từ sự sụp đổ của các mô hình sinh kế vốn phụ thuộc vào thiên nhiên. Những sự thay đổi môi trường đã khiến cho cá nhân và gia đình họ kiếm sống khó khăn. Trong một dự án của EACH-FOR cho rằng những nông dân trồng lúa là đối tượng dễ bị tổn thương trước nhất khi những hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra đã liên tục làm phá hoại mùa màng, sinh kế của người nông dân. Từ đó, đã thúc đẩy người dân phải lựa chọn quyết định di cư đến các khu vực tập trung đông đúc khu công nghiệp như Bình Dương, Đồng Nai và khu vực Thành phố Hồ Chí Minh để tìm việc làm cải thiện sinh kế (UNDP, 2014:15). Một nhân tố chính hiện nay đang tác động đến các hoạt động sinh kế của người dân vùng ĐBSCL nói chung và Vĩnh Lộc nói riêng phải nhắc đến tình trạng hạn hạn, cùng với sự thiếu hụt và diễn biến ngày càng bất thường của mùa lũ. Có thể nói mỗi năm mùa lũ về đã mang lại một sức sống, một luồng sinh khí mới cho vùng quê hoang sơ. “Tại An Giang, mỗi năm mùa nước nổi mang lại trên dưới 1.500 tỉ đồng thu nhập cho người dân từ các ngành nghề chăn nuôi, trồng trọt, dịch vụ, khai thác sản vật thiên nhiên, mang lại việc làm cho trên 650.000 lao động nông thôn trong tỉnh.”(Phạm Xuân Phú, 2013:2). Đối với người dân ĐBSCL nói chung và ở Vĩnh Lộc nói riêng từ trước đến nay những rủi ro do lũ về là không đáng kể, mỗi một mùa nước nổi đi qua đã mang một lượng phù sa rất dồi dào bồi đắp cho những con sông, cho cánh đồng thêm màu mỡ hơn sau mấy mùa canh tác, mùa màng bội thu mà chi phí thì không phải tốn kém nhiều. Chính những người nông dân nơi đây đã công nhận vai trò của lũ là rất lớn đối với bà con, mỗi lần lũ rút đi là ruộng được phù sa bồi đắp từ 3-5 phân, người nông dân không cần phải tốn chi phí để vệ sinh đồng ruộng, cỏ rác, gốc rạ điều đã được dọn sạch nhờ lũ, những loài chuột, bọ, dịch bệnh cũng không tồn tại được. Người dân chỉ chờ nước rút và cày sơ qua một lần là có thể xuống giống cho vụ đông xuân. Nhờ đó mà năng suất thu được rất cao trên 8 tấn/ha có những vùng lúa trúng lên đến 9 tấn lúa khô. Từ đó cải thiện được thu nhập của bà con (PVS Chú Long, 1973, Nông dân xã Vĩnh Lộc). Nhưng hiện nay như đã đề cập ở phần đầu, miền Tây không còn được sự ưu đãi từ lũ như trước nữa. Do biến đổi khí hậu hay hoạt động của các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông đã làm cho lũ cằn cỏi đi không còn đủ sức để cưu mang bà con vùng đồng bằng hạ lưu nữa. Những năm qua lũ về rất thấp thậm chí có năm không về đã làm cho mùa màng giảm đi rất đáng kể, giảm từ 1-1,5 tấn/ha, lợi nhuận giảm đi từ 30% so với điều kiện lũ (bình thường PVS 261 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH Lãnh đạo Hội Nông dân). Vì đất không những không được bồi đắp phù sa mà chi phí vệ sinh đồng ruộng lại tăng gấp nhiều lần. Nếu bình thường chỉ cần cày, xới một lần thì trong điều kiện này người nông dân phải cày, xới đến 3 lần thì mới có thể xuống giống được. Chưa kể dịch bệnh trên lúa gia tăng nhiều hơn, nếu trước đây đến cuối vụ chỉ tốn ba lần thuốc thì hiện tại phải tốn gấp đôi (6 lần), cộng thêm chuột, bọ phá hoại mùa màng nhiều hơn làm cho thu nhập của bà con giảm đi rất nhiều. Một điều mà nhóm nghiên cứu còn nhận thấy được những thiệt thòi hơn thế nữa khi năng suất giảm, chi phí tăng cao mà giá lúa thị trường lại bị thương lái ép giá. Vì rất dễ hiểu khi nước lũ về thấp đồng thời sẽ kết thúc rất sớm vì vậy người dân cũng phải xuống giống sớm hơn bình thường nên đến khi thu hoạch lại rơi vào thời gian trước tết, không những lúa không có năng suất do thời tiết không phù hợp mà giai đoạn này lại rất khó bán do thương lái không mua vì cận tết, người nông dân đành bán giá rẻ hơn (PVS Chú Long, 1973, nông dân xã Vĩnh Lộc). Những thiệt hại đó đối với những người nông dân ít đất đã trở nên rất khó khăn để duy trì cuộc sống gia đình, chưa kể đến những gia đình còn có người phụ thuộc. Điều này đều được địa phương nhắc đến trong tất cả các cuộc trò chuyện. Điển hình trong một chia sẻ của lãnh đạo Đảng ủy xã Vĩnh Lộc cho biết khi tình trạng môi trường trở nên khó khăn, năng suất mỗi năm giảm khi lũ thất thường, nhiều hộ gia đình sở hữu khoảng 1 ha đất cũng không đủ nuôi sống hai vợ chồng và hai đứa con. Và một trong những cách họ đã chọn để duy trì cuộc sống là cho mướn hoặc sang bán lại cho những hộ nông dân có điều kiện hơn để rời khỏi địa phương lên Bình Dương, Thành phố tìm việc làm sẽ ổn định hơn. Đáng lưu ý, theo số liệu của địa phương đất nông nghiệp toàn xã Vĩnh Lộc chỉ hơn 3700 ha/3120 hộ gia đình, chưa kể 1/3 trong tổng diện tích đất nông nghiệp của xã thuộc sở hửu về dân của các khu vực lân cận. Nhưng trên thực tế chỉ có 70% hộ gia đình có đất nông nghiệp trung bình mỗi hộ có khoảng 1-1,5 ha, nhiều nhất là 25 ha, ít nhất là 3, 4 công. Vì vậy, nếu trong điều kiện thời tiết, khí hậu như thế này thì số lượng hộ gia đình bỏ đất nông nghiệp lên Bình Dương, Thành phố sẽ tiếp tục gia tăng đáng kể hơn trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Vĩnh Lộc là một vùng chỉ sản xuất lúa hai vụ trong khi tổng thu nhập từ hai vụ lại rất thấp nếu chia trung bình cho hàng tháng sẽ không đủ cho đời sống của cả hộ cho nên cuộc sống của họ, đặc biệt là người nông dân ít đất chủ yếu nhờ vào lợi thế nước lũ để tìm thêm thu nhập. Nhưng hiện nay mùa lũ lại thiếu hụt trầm trọng, lượng cá cũng không còn dồi dào như trước nên người dân đã mất đi một nguồn thu nhập rất lớn. Vì vậy, họ không thể ở lại quê nhà chịu đựng tình trạng gián đoạn việc làm trong vòng 4-5 tháng. Trong khi nếu so sánh khi rời khỏi địa phương, bình quân công nhân lao động ở các công ty, xí nghiệp của Bình Dương, Thành phố có thu nhập từ 4-5 triệu/tháng chưa tính tăng ca. Chính sự so sánh đó sau khi thu hoạch xong nhiều người dân đã quyết định đi làm ăn xa ở các thành phố lớn, tỉnh thành phát triển công nghiệp. Dần dần từ di cư mùa vụ cho đến khi thấy được sự ổn định hơn về việc làm ở nơi mới đến họ đã chuyển dần sang quyết định di cư lâu dài (PVS Lãnh đạo UBND xã Vĩnh Lộc). 262 Ngoài ra, hình ảnh lớp trẻ nối tiếp nghề nông hiện nay ở địa phương rất ít xuất hiện. Bởi vì, nếu một gia đình đất nông nghiệp ít mà tất cả thành viên đều phụ thuộc vào nó thì không sống nổi, chính điều đó đã buộc những thanh niên trẻ rời khỏi địa phương để tìm việc làm ở các công ty, xí nghiệp Bình Dương, Thành phố càng trở nên nhiều hơn. Còn riêng làm ruộng ở nông thôn sẽ do các thành viên lớn tuổi đảm nhiệm nếu còn đủ sức, hoặc sẽ cho thuê, mướn. Từ đó có thể đa dạng hóa nguồn thập nhập của gia đình, cải thiện đời sống (PVS Lãnh đạo Hội Nông dân xã Vĩnh Lộc). Một điểm lưu ý khác, hiện tượng lũ không còn về đúng như quy luật hằng năm, cụ thể là trễ hơn nên nó đã để lại nhiều thiệt hại trong sản xuất của người nông dân, cùng theo đó cũng là lúc người dân rời bỏ địa phương để tìm nguồn thu nhập từ những việc làm ở thành phố lớn. Nước lũ bất thường làm cho người dân hoang mang trong việc xuống giống, vì không biết khi nào nước lên. Trong trường hợp này, những năm qua đã tồn tại hai xu hướng giải quyết, tuy nhiên đều dẫn thất bại và có một kết quả chung là nhiều hộ gia đình phải di cư đến các thành phố lớn hoặc các tỉnh thành khác để sinh sống. Thứ nhất, một nhóm người dân thụ động phải chờ nước lũ có lên hay không mới đưa ra quyết định xuống giống, nhưng trong quá trình chờ đợi họ không thể nào duy trì cuộc sống hiện tại mà không làm gì tạo ra thu nhập. Nếu trước đây có mùa lũ người nông dân cũng tranh thủ kiếm thêm thu nhập bằng các hoạt động đánh bắt cá, hái bông súng, bông điên điển, một ngày một người có thể kiếm được từ hai đến ba trăm ngàn nên có thể duy trì cuộc sống tốt, thì hiện nay các hoạt động này đã không còn tồn tại khi nước lũ không về hoặc rất thấp. Chính điều này đã thúc đẩy người dân nhanh chóng đi đến quyết định di dân hơn (PVS Lãnh đạo Hội Nông dân xã Vĩnh Lộc). Thứ hai, một nhóm nông dân vì nước lũ mãi đến giữa mùa mà vẫn chưa thấy về, chủ quan năm nay nước lũ cũng như năm 2015 cũng sẽ không về nên quyết định xuống giống thêm một vụ. Tuy nhiên, chỉ sau hai tuần xuống giống nước lũ đã tràn đồng nên đã gây thiệt hại lớn cho lúa và hoa mùa, theo số liệu thu thập được của Hội Nông dân địa phương đã có đến 40-50 ha lúa và hoa màu bị thiệt hại. Vì vậy một số hộ cũng phải đi theo các hộ gia đình khác lên Bình Dương kiếm sống. (PVS chú Tấn, 1950 tuổi, Nông dân xã Vĩnh Lộc) Bên cạnh đó, trong bối cảnh lũ thiếu hụt ở địa phương đã có một sự cộng hưởng của hạn hán, làm cho dịch bệnh trên cây trồng, sâu bọ, phát triển nhanh hơn dẫn đến những cánh đồng của người nông dân mất mùa, lợi nhuận thấp, kèm theo đó là tiền chi phí thuốc, phân bón không trả được cho đại lý vật tư nông nghiệp. Có nhiều người mặc dù có đất tương đối nhiều nhưng cũng phải cho thuê mướn lại và rời khỏi địa phương đến Bình Dương hoặc Thành phố (PVS cô Thài, 1985 tuổi, Nông dân xã Vĩnh Lộc). Di cư do biến đổi khí hậu và áp lực môi trường có thể nói, nó không hề loại trừ một ai, không loại trù người có hay không có nguồn lực đất đai. Như đã phân tích ở trên đó là những trường hợp may mắn còn có một nguồn vốn vật chất, còn 30% còn lại là những người thật sự đang gặp nhiều khó khăn và là đối tượng dễ rời bỏ quê hương nhất khi họ không có đất đai và các công việc của họ dần mất đi do áp lực từ khí hậu, môi trường. 263 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH Trước hết phải nhắc đến lũ lụt, vì đối với ĐBSCL nói chung nó không chỉ có vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái, góp phần vào quá trình hình thành khu vực này. Mà nó còn nuôi sống biết bao cư dân nơi đây bằng các nguồn lợi mà nó mang lại. Tuy nhiên, sự thay đổi trong mùa lũ dưới nhiều yếu tố tác động như đã phân tích là yếu tố BĐKH và đập thủy điện đã làm cho những nguồn lợi sinh ra từ lũ đã dần mất đi, kéo theo các hoạt động sinh kế gắn với lũ cũng không thể sinh tồn. Đồng thời, với nhu cầu tìm kiếm nguồn sinh sống mới họ phải di cư đến các thành phố. Một số thông tin từ người dân cho biết: “Những hộ gia đình trước đây sống nhờ vào nghề đánh bắt cá vào mùa lũ thì hiện nay họ cũng đi lên các Thành phố nhiều hơn, do những năm nay lũ lụt thất thường, mực nước lũ ít cho nên lượng cá tự nhiên cũng suy giảm theo, làm cho người dân khó khăn hơn kéo theo đi Bình Dương vậy”. (PVS cô Thúy, 1985 tuổi, xã Vĩnh Lộc.) Nhiều trường hợp khác, nó không chỉ đơn thuần như vậy, mà nó là một quá trình đầy khó khăn và liên tục đặt ra những thách thức cho những trường hợp chuyên sống bằng nghề đánh bắt cá, khi thiên nhiên không còn ưu đãi, họ không thể gắn bó tiếp tục với loại hình nghề nghiệp này mà họ phải có những sự lựa chọn khác, họ phải chuyển lên bờ để sinh sống bằng các công việc làm thuê, mướn chủ yếu là thuê mướn trong nông nghiệp, vì ở địa phương rất ít cơ hội việc làm phi nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay những chủ vườn, chủ ruộng còn không thể cứu lấy mình thì huống chi tính đến chuyện thuê, mướn thêm nhân công lao động, chưa kể đến sự áp dụng khoa học, kỹ thuật trong nông nghiệp. Dần dần lực lượng không có việc làm này phải di cư đến các thành phố để tìm nguồn sinh kế khác. “Ở đây bây giờ chủ đất người ta làm ăn thua lỗ do thời tiết bây giờ mưa gió, nắng nóng nhiều hơn người ta cũng đi Bình Dương nên người làm mướn ở đây cũng thất nghiệp. Rồi cũng đi Bình Dương luôn chỉ có người già đi không nổi thì mới ở nhà thôi. Ở đây nếu không có các chủ đất thì bà con ở khu dân cư này đói hết” (PVS cô Thu, 1969, xã Vĩnh Lộc). Tương tự, trong những chia sẻ của chú Nhân (1973) đối với ấp Vĩnh Thạnh, xã Vĩnh Lộc 30% người dân trông chờ vào công việc hái ớt thuê, tuy nhiên năm 2015 vừa qua các hộ trồng ớt hầu hết đều thất mùa hoặc bị nước ngập do sự chủ quan đối với những dự báo về mực nước lũ đã làm cho lực lượng này mất đi hoạt động kiếm sống này chính trong điều kiện đó họ phải rời khỏi địa phương để tìm nguồn sinh kế mới. Nhìn chung lại, trước mắt chiến lược di dân từ nông thôn đến các đô thị lớn đã trở thành một phương thức duy nhất của nhiều hộ gia đình giúp giải quyết bài toán sinh kế trước bối cảnh BĐKH. Đặc biệt trong thời gian gần đây, dường như cụm từ “đi Bình Dương hay Thành phố” đã trở thành câu nói cửa miệng của không chỉ người dân Vĩnh Lộc mà là của toàn vùng ĐBSCL khi nhắc đến đời sống kinh tế. 4. Cộng đồng gốc trong điều kiện biến đổi khí hậu, những vấn đề đặt ra trong câu chuyện di dân và phát triển bền vững. Trong điều kiện các tác nhân môi trường đang tác động mạnh mẽ, làm cho các hoạt động sinh kế ở địa phương không còn hiệu quả, thì quyết định để 264 các thành viên trong gia đình di cư lên những thành phố lớn để tìm kiếm việc làm giúp gia đình vượt qua những lúc đói nghèo, làm tăng nguồn thu nhập là một trong những chiến lược quan trọng bậc nhất. Nên khi chúng ta nói đến các tác động của di dân đối với cộng đồng nơi xuất cư, chúng ta không thể không thừa nhận những đóng góp tích cực của nó đối với địa phương nói chung và cho chính gia đình có người di cư nói riêng, thông qua dòng tiền gửi về từ những người đi làm ăn xa. Trong các nghiên cứu trước đây như Đặng Nguyên Anh (2005), Nguyễn Ngọc Diễm, Nguyễn Thị Minh Châu (2005), Trần Nguyệt Minh Thu (2013) cũng đã cho thấy nguồn tài chính được hỗ trợ từ người di cư còn giúp gia đình, đặc biệt là các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp có nguồn vốn để chăm sóc cây trồng, vật nuôi tốt hơn, giảm được những rủi ro trong sản xuất. Nó còn giúp giảm tỷ lệ buôn bán sản phẩm nông nghiệp khi gặp khó khăn, đảm bảo được an ninh lương thực cho vùng nông thôn, hay chính nguồn lực tài chính được cũng cố đã tạo điều kiện cho người nông dân mạnh dạng hơn trong việc lựa chọn thời cơ bán nông sản với giá hợp lý hơn, và có cơ hội tích trữ vốn dành cho những chi tiêu lớn. Không dừng lại ở đó, nó còn khẳng định vai trò của mình nhiều hơn trong những trường hợp nếu không có sự hỗ trợ của người di cư thì người dân nông thôn sẽ không thể trang trãi nợ nần, xây dựng, sửa chữa lại nhà cửa, và đặc biệt là trong vấn đề đầu tư cho giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, chiến lược di dân đến các khu vực đô thị bên cạnh đem lại những lợi ích, thì ở khía cạnh nào đó nó cũng đang tạo ra những áp lực cho chính cộng đồng ở lại. Như UNDP (2014) đã từng nhận định “kể cả những người có tuổi di cư, nếu một thành viên di chuyển khỏi gia đình tương ứng sẽ tác động đến những người còn lại, những hệ lụy, những gánh nặng sẽ đặt lên vai những người ở lại” (UNDP, 2014:15). Những tác động đó thể hiện trên tất cả các mặt kinh tế-xã hội, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và những người ở lại quê gốc là những người phải chịu áp lực môi trường nặng nề nhất, phải đối mặt với suy thoái môi trường, hiểm họa thời tiết, gánh nặng công việc, bệnh tật, cũng như những khó khăn trong các hoạt động đối phó với thiên tai, Trên thực tế, có thể nói những đóng góp tích cực từ chiến lược di dân vừa mới được nhắc đến chỉ xảy ra đối với những gia đình có nhiều thành viên di cư cùng đóng góp. Còn lại những trường hợp di cư từ 1 đến 2 thành viên trong gia đình cũng sẽ không giúp ích được gì nhiều trong việc cải thiện kinh tế hộ gia đình khi phần lớn các thành viên còn lại phải phụ thuộc vào dòng tiền gửi về. “Những gia đình đi làm Bình Dương, Thành Phố đông thì mới có dư giã hỗ trợ cho gia đình thoát nghèo làm một người thì chi phí cũng vô đó chứ không dư giả gì”. (PVS chú Đương, 1975, xã Vĩnh Lộc, huyện An Phú, An Giang). “Đi làm nhiều người thì mới dư nhiều, có nhiều người về quê mua đất lúa rồi cho mướn lại nhưng vì do nhà mình chỉ có 1,2 người làm mà nuôi cả gia đình thì chết đói” (PVS chú Sang, 1946, xã Vĩnh Lộc, huyện An Phú, An Giang). Một phần giúp khẳng định mạnh mẽ hơn nhận định này, kết quả khảo sát đã cho thấy trung bình trong một hộ gia đình có người di cư thì có khoảng 2,2 265 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH thành viên trên tổng số gần 5 thành viên trong một hộ (4,76). Nhìn chung quy mô di cư đa phần vẫn đơn lẻ, cụ thể tỷ lệ hộ gia đình có một người di cư chiếm cao nhất 41,7%, tiếp đến có 26,4% gia đình có từ 2 người di cư và tiếp tục giảm dần khi số người di cư tăng lên, chính vì vậy đặc trưng này đã làm ảnh hưởng đến đến hiệu quả của chiến lược di cư. Trong nghiên cứu của Đặng Nguyên Anh (1998) cũng đã đề cập mô hình di cư để cha, mẹ và con cái ở lại địa phương, là một trong những mô hình phổ biến nhằm giảm thiểu số lượng thành viên phụ thuộc, giảm thiểu các chi phí sinh hoạt khi di cư và để đảm bảo nguồn hỗ trợ hàng tháng về cho gia đình, điều đó đối với họ là chấp nhận được. Tuy nhiên, những đặc trưng này trước mắt có thể là một lựa chọn không thể làm khác được nhưng nó sẽ là những thách thức rất lớn cho cộng đồng gốc trong một số bối cảnh. Tại Vĩnh Lộc, theo khảo sát lực lượng còn lại ở địa phương gốc chủ yếu là người phụ thuộc (Người già, trẻ em) hơn ½ là người cao tuổi và trẻ em (51,4%) cụ thể trong đó có 29,5% là trẻ em và 21,9% là người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên. Nếu riêng trẻ em, thì trong những trường hợp hộ gia đình có di cư đã có đến 18 trường hợp trẻ em dưới 6 tuổi được gửi lại cho ông bà chăm sóc, chỉ có 2 trường được cha mẹ đem theo. Riêng trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi có 9 trường hợp nhưng hoàn toàn được gửi lại cho ông bà chăm sóc và sẽ gửi tiền về hàng tháng. Tuy nhiên, số tiến gửi về cũng không đáng kể nếu tính trung bình toàn xã Vĩnh Lộc mỗi người đi làm ăn xa mỗi tháng chỉ gửi về cho hộ gia đình khoảng 782 ngàn đồng. Với số tiền như vậy hàng tháng phụ cấp cho gia đình ở quê cũng chỉ từ thiếu đến vừa đủ để lo cho những đứa trẻ được gửi lại ở quê, còn lại các chi phí khác lại là một câu chuyện khác của những người ở lại. Không chỉ dừng lại ở đó, đối với những trường hợp gia đình có con cái gửi cho ông, bà chăm sóc, chiến lược di cư có vẻ đã không phát huy được vai trò của mình trong việc hỗ trợ cải thiện kinh tế hộ gia đình. Mặt khác nó còn ảnh hưởng, gây cản trở việc đa dạng hóa thu nhập của những người ở lại quê gốc, câu truyện của cô Bảy là một trong những trường hợp điển hình cho vấn đề này, để người con gái của cô đi làm ở Thành phố dễ dàng hơn cô phải chấp nhận giữ thêm 2 người cháu ngoại, một em 11 tuổi và một em 5 tuổi, trong khi đó cô vẫn có thể đi làm mướn thêm hoặc buôn bán. Vì vậy, hiện tại gia đình ở quê chỉ có chú (chồng cô) là có thể đi làm mướn trong địa phương, có nghĩa gia đình mất đi một lao động tạo thu nhập, còn tiền con gửi về thì đủ để lo cho cháu nhỏ tiền học hành, ăn uống, (PVS cô Nguyễn Thị Bảy, 1966, ấp Vĩnh Thạnh). Trong những trường hợp đó, có thể nói việc di cư thậm chí không giúp gì được cho gia đình ở quê mà còn làm cho họ khó có khả năng vượt qua nghèo đói, những lúc căng thẳng khi thất mùa, không có việc làm, do họ không thể chủ động trong việc đa dạng nguồn sinh kế của mình. Tiếp theo ở góc độ sức khỏe, sự thay đổi cơ cấu dân cư của địa phương gốc khi lực lượng còn lại đa phần là người phụ thuộc (Người già, trẻ em) sau chiến lược di dân. Trong khi, đây lại là địa điểm đang đối mặt với các hiện tượng thời tiết cực đoan mưa, nắng thất thường, dịch bệnh do thiên tai đem lại. Vì vậy, trong điều kiện đó những đối tượng này trở nên dễ bị tổn thương về mặt sức khỏe hơn bao giờ hết, nó tạo ra một gánh nặng cho chính công tác chăm sóc 266 sức khỏe của địa phương, cụ thể là sức khỏe của người già và trẻ em. Đồng thời, nó còn làm gia tăng tỷ lệ thương vong do lực lượng dân cư còn lại cộng đồng chủ yếu là nhóm dễ thương tổn trước điều kiện BĐKH. Nếu tình hình dân số cứ tiếp tục diễn biến theo xu hướng trên một hệ quả cũng khá nghiêm trọng đối với cộng đồng gốc là phải đối mặt với tình trạng thiếu nguồn lực để ứng phó lại với điều kiện biến đổi khí hậu có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đặc biệt, đối với hộ gia đình có người sống xa quê chỉ còn người già, trẻ em, phụ nữ thì việc ứng phó lại với các áp lực của thời tiết và môi trường là một điều không hề dễ dàng, nó còn như là một sự “áp bức” đối với những đối tượng này đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái. “Một số hộ kia thì người ta có chồng, có đàn ông ở nhà thì ví dụ như có bão lúc đó thì người ta chạy cũng được, còn mình không có đàn ông này kia thì mình phải chuẩn bị trước, tôi phải di dời tất cả mọi thứ trước mọi người. Người ta phải lo an toàn cho tất cả những người đó trước. Nó thiếu nguồn nhân lực”. Việc người chồng đi làm ăn xa về hỗ trợ những lúc khó khăn trong thiên tai bão, lũ là một vấn đề hiếm hoi, không bao giờ có được:“Giúp đỡ cái gì, mày đi mần mướn, mần thuê, mày nghỉ thì được 1,2 ngày chứ đầu có được nghỉ nhiều. Ví dụ: Đi mần mướn, mần thuê xa như Bình Dương đi thì cưng nghỉ cũng được có 1 ngày, 2 ngày thôi chứ cưng nghỉ lâu ngày nó đuổi mình luôn.” (PVS Lãnh đạo Hội liên hiệp phụ nữ huyện An Phú). Như vậy, qua những khía cạnh được đề cập xuyên suốt trong quá trình phân tích về chiến lược di dân, có thể nói di dân chỉ đơn thuần được xem là phương thức để duy trì sự tồn tại chứ không bao hàm các hoạt động để bảo vệ lại môi trường. Có nghĩa con người đang hoạt động theo một quy luật chung, khi thiên nhiên còn không ưu đãi con người phải tìm nơi sinh sống mới, vậy trách nhiệm bảo vệ môi trường còn lại sẽ do ai thực hiện có lẽ chỉ là người già, trẻ em và phụ nữ. Liệu câu chuyện này sẽ đi về đâu? Sự an toàn của địa phương hay chung nhất cho ĐBSCL hay đặc biệt hơn là những đối tượng dễ tổn thương (trẻ em, người già, phụ nữ) sẽ như thế nào trong tương lai, khi con người cứ loay hoay trông về một nơi khác như hiện tại. Có thể nói, mặc dù di cư có thể duy trì được sự tồn tại của cá nhân, của gia đình nào đó nhưng thật sự điều này không công bằng chút nào với những người còn lại nếu như các hoạt động này cứ diễn ra tiếp tục một chiều. Xét ở góc độ giới qua một số công trình nghiên cứu trước đây cũng đã cho thấy: Di dân cũng tồn tại những tác động tiêu cực đến vấn đề này. Với xu hướng nam giới di cư tìm việc làm ở đô thị đã tạo ra sự thay đổi quan trọng trong vai trò giới, nhiều phụ nữ ở lại địa phương trở thành chủ hộ (chủ hộ thực tế). Đồng thời, tạo gánh nặng công việc lớn hơn cho họ. Một xu hướng được tạo ra từ vấn đề di dân của nam giới là “Phụ nữ hóa nông nghiệp”. Tại các cộng đồng nông thôn người phụ nữ phải đảm nhiệm các công việc đồng án mà vốn dĩ trước đây người dân đều cho rằng đó là nhiệm vụ của nam giới, cũng như họ phải chuẩn bị ứng phó với thiên tai trong lúc nam giới làm ăn xa ở các vùng đô thị (Oxfam, 2009:34). Bên cạnh những công việc đồng án, người phụ nữ còn phải hoàn thiện vai trò nội trợ, chăm sóc con cái, người bệnh trong gia đình,... Vì vậy, người phụ nữ đang gánh ròng cả hai nhiệm vụ của cả người chồng và 267 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH người vợ, làm gia tăng mức độ tổn thương của họ. Tiếp tục khẳng định những quan điểm trên, những thông tin có được từ Hội phụ nữ đã giúp hiểu rõ hơn những thách thức đối với phụ nữ trong điều kiện bão, lũ,.. xảy ra: “Nó khó khăn nhiều như chị nói là công sức của họ làm thì nhiều hơn người khác hơn rồi! Chồng đi vắng thì ở nhà thì họ phải đảm nhiệm hết công việc cơm, áo, gạo, tiền, giằng chống nhà cửa tất cả mọi thứ. Cái gì họ cũng phải lo, ví dụ nhà mà có người già, trẻ em thì họ phải lo hết luôn thì gánh nặng của họ nhiều hơn, họ phải chăm lo. Trước khi có bão họ cũng phải lo, như dự báo là có bão xảy ra thì những hộ này họ phải nghiên cứu di dời, nhà họ mà có người già, trẻ em thì họ phải di dời trước mấy hộ kia nữa.” (PVS Lãnh đạo Hội liên hiệp phụ nữ huyện An Phú). Mặc dù vậy, các động thái trong quan hệ quyền lực, nữ giới vẫn luôn bị kiểm soát kể cả ở các thể chế chính thức hay phi chính thức. Cho dù người phụ nữ phải gánh vác các trách nhiệm của người chồng, vừa phải đối phó với thiên tai. Nhưng họ lại không có được những cơ hội bình đẳng trong việc sử dụng các nguồn lực, trong đó là quyền sử dụng và quyết định sử dụng đất đai từ đó gây cản trở tiếp cận tín dụng. Điều đó, đã làm hạn chế người phụ nữ đa dạng nguồn sinh kế khi bị tác động bởi thiên tai và làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng giới (Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường, và các nhà khoa học, 2010:11). Bên cạnh đó, qua trường hợp của gia đình cô Lợi (1973) một gia đình đang đối mặt với tình trạng mất nhà ở do sạt lở nhưng không có điều kiện để di dời nhà nên hàng ngày phải có người trông coi để phòng lúc thiên tai xảy ra có thể kịp thời ứng phó. Nhưng nhiệm vụ quan trọng đó không phải giao cho một thành viên nào khác mà chính là cô. Cô là người phải ở nhà để thực hiện vai trò giữ ngôi nhà trước điều kiện sạt lở, còn người chồng của cô phải tiếp tục đi làm thuê để duy trì cuộc sống của gia đình. Cô còn phải vô những bao đất để tấn lại bờ để kéo dài thời gian tồn tại của ngôi nhà. Chính qua câu truyện của Cô Lợi (1973) đã minh chứng rằng, không phải là ai khác, thanh niên hay nam giới mà chính người phụ nữ là những người phải đối mặt với thiên tai, khắc phục những hậu quả do thiên tai nhiều nhất. Một điều dễ hiểu do những cái được gọi là “nữ tính” mà người phụ nữ luôn phải là những người lên tiếng bảo vệ môi trường nhiều hơn nam giới, phải chịu áp lực nhiều hơn do vai trò “phụ nữ” của họ, vai trò phải đảm bảo sự an toàn của những đứa con, những thành viên trong gia đình họ. Tuy nhiên, tiếng nói của người phụ nữ trong các kế hoạch chống lại biến đổi khí hậu vẫn còn là một khoảng cách lớn. Như trong báo cáo của mình Oxfarm (2009) đã nêu lên, “mặc dù bình đẳng giới được xác định là nguyên tắc chủ đạo trong chương trình mục tiêu quốc gia Ứng phó với biến đổi khí hậu, nhưng sự tham gia của phụ nữ trong các cuộc tham vấn lại bị hạn chế và không có chỉ tiêu giới nào được xây dựng.”(Oxfam, 2009:32). Cũng nằm trong những hệ lụy sau chiến lược di dân của người dân đó là những gánh nặng về vấn đề giáo dục đối với những trẻ em tại cộng đồng do cha mẹ để lại trong quá trình di cư. Đối với lứa tuổi bắt đầu quá trình hình thành nhân cách thì vai trò giáo dục của cha, mẹ là điều vô cùng quan trọng, thế nhưng quá trình này lại bị gián đoạn trong điều kiện phải di cư đi làm ăn xa nhằm bảo toàn điều kiện sống của gia đình. Chính vì vậy, những đứa trẻ bị bỏ 268 lại quê gốc một lần nữa trở thành nạn nhân phải gánh chịu những tổn thương, thiệt thòi song song với quá trình di cư mà cha mẹ chúng đang phải thực hiện. Những thông tin ghi nhận được từ lãnh đạo địa phương cũng đã cho thấy trẻ em được gửi lại quê cho ông bà chăm sóc là một vấn đề bất cập. Người già không thể chăm sóc lực lượng này tốt bằng chính cha mẹ của chúng. Ngay trong việc giáo dục ông, bà không đủ khả năng để đảm nhiệm vai trò này mà phải phó mặt cho những đứa trẻ tự học, đồng thời việc chăm sóc cũng không thể nào kỹ lưỡng bằng cha mẹ. (PVS Lãnh đạo Hội nông dân, xã Vĩnh Lộc). Một số người dân cũng cho biết “việc cha mẹ để con cái lại một mình ở nhà hay gửi cho ông bà không được cha mẹ coi sóc rồi đây sẽ rất dễ tập tụ bạn bè, chơi bời nhiều khi dẫn đến những thói hư tật xấu, con mà có cha mẹ ở nhà thì nó đỡ hơn, lo lắng cho nó học hành. Mấy đứa 12-13 tuổi là cha mẹ bỏ cho ở nhà một mình rồi, bây giờ buôn ra là nó dễ hư lắm, học không đi học toàn vô tiệm game không hà, rồi nhiều khi nó buôn vô hút chích cũng không chừng nữa đó là những nguy cơ con em ở lại”. (PVS Chú Long, 1969, xã Vĩnh Lộc, An Phú, An Giang). 5. Kết Luận Tựu chung lại, vấn đề di dân hiện nay tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong đó có trường hợp xã Vĩnh Lộc, huyện An Phú, tỉnh An Giang nói chung đang là vấn đề được cảnh báo. Nơi mà có nguy cơ mất đi gần 50% diện tích đất canh tác và hàng triệu người phải di dời nơi ở trong điều kiện biến đổi khí hậu. Khi nói đến nguồn gốc di dân có thể nó xuất phát từ nhiều yếu tố, nó là một một chuỗi các liên hệ phức tạp với nhau và không tách rời nhau. Xét dưới điều kiện biến đổi khí hậu, tuy nó không được xem là động cơ trực tiếp nhưng chính những hiểm họa thời tiết đang gây áp lực lên chính các hệ thống các mô hình sinh kế mà người dân phụ thuộc vào. Đó chính là, nguyên nhân chủ đạo thúc đẩy di cư ngày càng cao. Đồng thời, những hệ quả của quá trình di dân trong bối cảnh biến đổi khí hậu, áp lực môi trường đã để lại cho cộng đồng gốc rất đa dạng, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội mà yêu cầu địa phương và toàn vùng phải giải quyết để đảm bảo được mục tiêu phát triển bền vững trong bối cảnh hiện nay: Từ hệ quả làm hạn chế sự đa dạng sinh kế, cơ hội thoát nghèo việc phải chăm sóc con cái người di cư cho đến những vấn đề đối mặt với thiên tai, dịch bệnh, suy thoái môi trường. Bên cạnh đó là những khó khăn trong việc thiếu nguồn nhân lực trong các hoạt động khắc phục thiên tai, Đồng thời, di dân có thể nói nó đang tác động làm gia tăng các khoảng cách bất bình đẳng giới trong điều kiện biến đổi khí hậu, khi người phụ nữ phải gánh nhiều công việc, phải đối diện trực tiếp trong công tác đối phó với thiên tai trong khi không có những cơ hội trong việc tiếp cận nguồn lực.Vì vậy, cần phải có nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau về di dân của những cộng đồng đang chịu áp lực môi trường để di dân vừa có thể được coi là một chiến lược tiềm năng vừa hạn chế tối đa nguy cơ trở thành một thất bại trong trong các hoạt động ứng phó. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đặng Nguyên Anh.1998. “Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư”, Tạp chí Xã hội học số 2(62). 269 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH 2. Đặng Nguyên Anh, 2005, “Chiều cạnh giới của di dân lao động thời lỳ Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Xã hội học số 2(90). 3. Mai Thị Vân Anh. 2010. “Bảo vệ tài nguyên nước trong điều kiện biến đổi khí hậu trên địa địa bàn tỉnh an giang” 4. . 958b5bcc4472/2010037.doc?MOD=AJPERES. Truy cập ngày: 16/03/2017. 5. Care. 2008. Tìm kiếm nơi trú ẩn: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lên tình trạng di cư và mất chỗ ở của con người. 6. Nguyễn Ngọc Diễm, Nguyễn Ngọc Minh Châu, 2005, “Đi làm ăn xa- phương thức tăng thu nhập gia đình”, Tạp chí Xã hội học số 2(90). 7. IMO. 2016. Thích ứng với Biến đổi khí hậu thông qua di cư, Một nghiên cứu về trường hợp Đồng bằng sông Cửu long. 8. Cửu Long.2016. “Miền tây hạn mặn nghiêm trọng nhất 100 năm”, Vnexpress truy cập: man-nghiem-trong-nhat-100-nam-3356338.html, truy cập ngày 24/08/2017. 9. Lê Đức Nam.2016. “Đồng bằng sông Cửu Long - Nổi lo còn đó”. Kỷ yếu hội thảo 55 năm (1961-2016) Viện quy hoạch thủy lợi, Đơn vị anh hùng lao động, Nxb: Khoa học kỹ thuật. 10. Dương Văn Ni.2015. “Nước và Văn hóa chia sẻ ở Đồng bằng sông cửu long”. Trích từ ấn phẩm Chuyện Nước và Con người ở Đồng bằng sông Cửu Long của Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Đào Trọng Tứ, Lê Phát Qưới và Nguyễn Đức Tú. Nxb. Giao thông vận tải. 11. Oxfam. 2009. Thảo luận chính sách Ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Các cơ hội cải thiện bình đẳng giới. 12. Phạm Xuân Phú. 2013. “Tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân dễ bị tổn thương ở tỉnh An Giang”. Tạp chí Khoa học Trường Đại học An Giang, Số 01. 13. Lê Thanh Sang. 2009. “Biến đổi khí hậu và sự quan tâm của người dân Đồng bằng sống Cửu Long”. Tạp chí Khoa học xã hội, số 9 (133). 14. Tổng cục thống kê, 2015, Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm 1/4/2014: Các kết quả chủ yếu, Nxb: Thống kê. 15. Phạm Thị Huyền Trang, Trương Văn Tuấn. 2016. “Lũ Lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long : Nguyên nhân và giải pháp”. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Tp.HCM, Số 3 (81). 16. Phạm Thị Ngọc Trầm. 2010. “Biến đổi khí hậu-một trong những cản trở, thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững”. Tạp chí Triết Học, số 12 (235). 270 17. Nguyễn Văn Trọng. 2004. Lũ lụt và những tác động của nó đến môi trường tự nhiên và xã hội vùng tứ giác Long Xuyên. Luận văn thạc sĩ Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG-TP.HCM. 18. Lê Anh Tuấn.2010. Đồng bằng sông Cửu Long: Từ “Sống chung với lũ” đến “Sống chung với Biến đổi khí hậu). Bài báo cáo tại hội thảo quốc tế về Giải pháp Thích nghi với Biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Ngày 24/06/2010, tại Thành phố Rạch Giá, Kiên Giang. 19. Lê Anh Tuấn, Lê Anh Dũ, Trương Quốc Cần, Phạm Thị Bích Ngọc, Vũ Thế Thường. 2011. Báo cáo: Tổng hợp một số hoạt động ứng phó với Biến đổi khí hậu ở vùng Đồng bằng sông Cửu long. Dự án Xây dựng năng lực về biến đổi khí hậu cho các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam. 20. Lê Anh Tuấn. 2015. “Tiếp sau sự kiện Xayabury: Những chuyện gì sẽ đến trên dòng sông Mê Kông?”. Trích từ Chuyện nước và con người ở Đồng bằng sông Cửu long, Lê An Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Đào Trọng Tứ, Lê Phát Qưới và Nguyễn Đức Tú. Nxb. Giao thông vận tải. 21. Hoàng Minh Tuyển.2016. “Tình hình thủy văn hạ lưu sông Mê-Kông mùa khô năm 2015-2016”. Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu, truy cập: thuy-van-ha-luu-song-Me-Cong-mua-kho-nam. Truy cập ngày 24/08/2017. 22. Đào Trọng Tứ. 2015. “Cộng đồng và xã hội dân sự tự cứu dòng sông Mê Kông khởi sự tàn phá do sự phát triển vì lợi ích thiển cận”. Trích từ Chuyện nước và con người ở Đồng bằng sông Cửu long, Lê An Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Đào Trọng Tứ, Lê Phát Qưới và Nguyễn Đức Tú. Nxb. Giao thông vận tải. 23. UNDP. 2014. Báo cáo: Di cư, Tái định cư và Biến đổi khí hậu tại Việt Nam: giảm nhẹ mức độ phơi bày trước hiểm họa và tổn thương từ khí hậu cực đoan thông qua di cư tự do và di dân theo định hướng. 24. Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường, và các nhà khoa học. 2010. Một số vấn đề về giới và Biến đổi khí hậu trong hoạt động của đại biểu quốc hội Việt Nam. Hà Nội: Nxb.Chính trị quốc gia, trang 74-76; UNDP. 2014. Di cư, Tái định cư và Biến đổi khí hậu tại Việt Nam: giảm nhẹ mức độ phơi bày trước hiểm họa và tổn thương từ khí hậu cực đoan thông qua di cư tự do và di dân theo định hướng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf20_0839_2207237.pdf
Tài liệu liên quan