Tài liệu Đề xuất mô hình nhà trường giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0250
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8D, pp. 13-19
This paper is available online at
ĐỀ XUẤTMÔ HÌNH NHÀ TRƯỜNG GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP Ở VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Đỗ Thế Hưng
Ban Đảm bảo chất lượng và Khảo thí, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
Tóm tắt. Bài báo này nghiên cứu hệ thống giáo dục nghề nghiệp (GDNN) của một số quốc
gia trên thế giới (Australia, Hà lan, Malaysia, Hàn quốc, Đài Loan...), từ đó làm rõ những
bất cập tiêu biểu trong mô hình nhà trường GDNN ở Việt Nam. Đồng thời, bài báo chỉ
ra những định hướng cơ bản trong đổi mới cơ cấu hệ thống GDNN và đề xuất 2 mô hình
nhà trường GDNN mới (1 – Trường Trung học Kĩ thuật và Nghề nghiệp và 2- Trường Cao
đẳng Kĩ thuật và nghề nghiệp) đảm bảo có sự thống nhất về trình độ đào tạo và chuẩn nghề
nghiệp, có tính liên thông ở trong và ngoài hệ thống. Từ đó có thể xây dựng được cơ cấu tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ và các mô hình quản lí phù h...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 371 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề xuất mô hình nhà trường giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0250
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8D, pp. 13-19
This paper is available online at
ĐỀ XUẤTMÔ HÌNH NHÀ TRƯỜNG GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP Ở VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Đỗ Thế Hưng
Ban Đảm bảo chất lượng và Khảo thí, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
Tóm tắt. Bài báo này nghiên cứu hệ thống giáo dục nghề nghiệp (GDNN) của một số quốc
gia trên thế giới (Australia, Hà lan, Malaysia, Hàn quốc, Đài Loan...), từ đó làm rõ những
bất cập tiêu biểu trong mô hình nhà trường GDNN ở Việt Nam. Đồng thời, bài báo chỉ
ra những định hướng cơ bản trong đổi mới cơ cấu hệ thống GDNN và đề xuất 2 mô hình
nhà trường GDNN mới (1 – Trường Trung học Kĩ thuật và Nghề nghiệp và 2- Trường Cao
đẳng Kĩ thuật và nghề nghiệp) đảm bảo có sự thống nhất về trình độ đào tạo và chuẩn nghề
nghiệp, có tính liên thông ở trong và ngoài hệ thống. Từ đó có thể xây dựng được cơ cấu tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ và các mô hình quản lí phù hợp, thống nhất trong toàn hệ thống
GDNN ở Việt Nam.
Từ khóa: Giáo dục nghề nghiệp, mô hình nhà trường, hệ thống giáo dục.
1. Mở đầu
Hệ thống GDNN có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Phần lớn lao động qua đào tạo được trưởng
thành từ các nhà trường GDNN. Trên cơ sở tiếp cận thực tiễn và qua tìm hiểu về hệ thống GDNN
của một số quốc gia trên thế giới (Australia, Hà lan, Malaysia, Hàn quốc, Đài loan...) [1, 8, 9],
nhóm nghiên cứu đã làm rõ những bất cập tiêu biểu trong mô hình nhà trường GDNN ở Việt Nam,
đó là: 1- Tồn tại những yếu tố không hiệu quả hoặc chưa chú trọng đến việc đáp ứng nhu cầu xã
hội trong mô hình tổ chức, mô hình đầu tư tài chính và liên kết thị trường lao động; 2- Nhà trường
và xã hội chưa xác định rõ chuẩn đào tạo và việc làm phù hợp với từng trình độ đào tạo, gây ra sự
chồng chéo, rườm rà, phức tạp, lãng phí trong quản lí, đào tạo và sử dụng nhân lực; 3- Liên thông
trong và ngoài hệ thống GDNN chưa đảm bảo chất lượng và thiếu tính hệ thống; 4- Quản lí nhà
nước và quản lí chất lượng nhà trường trong hệ thống Giáo dục nghề nghiệp cũng bị chồng chéo;
5- Chất lượng đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp và xã hội.
Chưa khi nào hệ thống GDNN ở nước ta lại có sự đa dạng của các loại hình trường và quy
mô lớn như hiện nay. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo và đặc biệt là việc đáp ứng nhu cầu của xã hội
trong các nhà trường GDNN còn bộc lộ nhiều hạn chế. Mô hình nào cho các nhà trường GDNN ở
Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế? Đó là vấn đề cần được quan tâm giải quyết trong xu
thế đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước ta.
Ngày nhận bài: 10/7/2015. Ngày nhận đăng: 13/10/2015.
Liên hệ: Đỗ Thế Hưng, e-mail: dothehung@utehy.edu.vn
13
Đỗ Thế Hưng
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Những bất cập trong mô hình nhà trường GDNN ở Việt Nam hiện nay
Với tiếp cận mô hình nhà trường GDNN theo chức năng, nhiệm vụ và tổ chức, từ đó làm rõ
về mô hình tổ chức, mô hình đào tạo, mô hình đầu tư tài chính, mô hình liên kết doanh nghiệp, mô
hình liên kết thị trường lao động, mô hình liên thông trong khu vực giáo dục nghề nghiệp với khu
vực giáo dục hàn lâm, mô hình quản lí chất lượng nhà trường v.v. . . , chúng tôi nhận thấy:
- Các trường Trung cấp chuyên nghiệp (TCCN), Trung cấp nghề (TCN), cao đẳng nghề
(CĐN) đều có mô hình tổ chức, mô hình đầu tư tài chính, mô hình liên kết thị trường lao động
tương đương nhau, hoạt động theo những quy định trong điều lệ nhà trường và các quy định khác
của nhà nước nhưng tồn tại những yếu tố không hiệu quả hoặc chưa chú trọng đến việc đáp ứng
nhu cầu xã hội [5].
+ Cơ cấu tổ chức của các nhà trường GDNN gồm có:
a) Hội đồng trường (đối với trường công lập), Hội đồng quản trị (đối với trường tư thục);
b) Hiệu trưởng và các phó hiệu trưởng;
c) Các hội đồng tư vấn do hiệu trưởng thành lập;
d) Các phòng chức năng;
đ) Các khoa, tổ bộ môn;
e) Các lớp học;
f) Các cơ sở phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học;
g) Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam;
h) Các đoàn thể và tổ chức xã hội;
Đối với các trường TCN, CĐN có quy định thêm một thành tố nữa là các đơn vị sản xuất,
doanh nghiệp (nếu có).
Trên cơ sở mô hình cơ cấu tổ chức chung như vậy, tùy vào điều kiện thực tiễn mà quy mô
của mô hình có thể chia nhỏ hoặc gộp lại theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể được các nhà trường
áp dụng cho phù hợp. Điều đó tạo được sự phát triển bền vững trong điều kiện thực tiễn của Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong đa số các trường GDNN, Hội đồng trường hoạt động không hiệu
quả, chỉ mang tính hình thức và chưa phát huy được vai trò tự chủ của một cơ sở giáo dục.
+ Mô hình đầu tư tài chính được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP
ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập và các quy định
hiện hành của nhà nước. Trường tư thục thực hiện việc quản lí tài chính theo quy định tại Nghị
định số 53/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về chính sách khuyến khích
phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập.
Các nhà trường đều xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, nhưng chính sách thu hút đầu tư và
trả công cho đội ngũ cán bộ, viên chức vẫn chưa thực sự thúc đẩy chất lượng đào tạo thực hành và
khích lệ sự sáng tạo, nhiệt huyết của đội ngũ; chủ yếu vẫn mang tính chất khuyến khích giảng dạy
truyền thống hoặc thúc đẩy việc có bằng cấp cao để được chi trả lương cao hơn.
Mặt khác, việc đầu tư chưa trọng điểm, mang tính dàn trải và thiếu chiến lược đã dẫn tới
khó có một mô hình chất lượng cao trong đào tạo nghề ở Việt Nam.
+ Việc kết nối với thị trường lao động và liên kết doanh nghiệp trong những năm gần đây
được các nhà trường thúc đẩy mạnh mẽ hơn thông qua các hoạt động tổ chức hội chợ việc làm,
thực tập doanh nghiệp, hợp tác đào tạo. . . Qua khảo sát và làm việc trực tiếp với 10 trường TCN,
14
Đề xuất mô hình nhà trường giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế...
CĐN, TCCN cho thấy, không có sự khác biệt đặc trưng của các loại hình trường đó về mô hình
liên kết thị trường lao động và doanh nghiệp. Sự thúc đẩy mạnh mẽ các liên kết đó là tùy thuộc
vào chính sách ưu tiên trong quản lí và sự năng động của các trường, cùng lợi thế về truyền thống,
chất lượng, đặc thù về ngành nghề, vị trí địa lí. . .
Ở một số trường đã hình thành các bộ phận quan hệ với doanh nghiệp, thị trường lao động,
những trường khác lại thực hiện chức năng đó thông qua các đơn vị đào tạo và lồng ghép trong các
hoạt động đào tạo. Tuy nhiên, sự liên kết hiện nay chưa có hiệu quả cao, việc đóng góp ý kiến phản
hồi về xây dựng chương trình đào tạo để nhà trường có sự điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu thực
tế của doanh nghiệp vẫn chưa được sự chú trọng, quan tâm của doanh nghiệp; việc khảo sát nhu
cầu nhân lực của doanh nghiệp chưa thực sự chính xác; việc phối hợp cung cấp những thông tin
đào tạo và nhu cầu sử dụng lao động chưa tốt ... dẫn đến tình trạng việc đào tạo vẫn chưa bám sát
vào nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Mặt khác, chưa có cơ chế, chính sách cũng như ràng buộc
đối với dạy nghề trong việc đầu tư, liên kết đào tạo nghề. Điều này cho thấy chưa có một mô hình
liên kết doanh nghiệp và thị trường lao động cũng như tư vấn, hỗ trợ người học một cách chính
thức và thực sự hiệu quả ở cấp trường và trong toàn hệ thống GDNN.
- Mục tiêu giáo dục của hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề là khác biệt nhưng
nhà trường và xã hội chưa xác định rõ chuẩn đào tạo, việc làm phù hợp với những mục tiêu đó, gây
ra chồng chéo, phức tạp, lãng phí trong quản lí, đào tạo và sử dụng nhân lực. Cụ thể là:
+ Mục tiêu giáo dục TCCN “nhằm đào tạo người lao động có kiến thức, kĩ năng thực hành
cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào
công việc”, còn “dạy nghề nhằm đào tạo nhân lực kĩ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có
năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo” (Luật Giáo dục 2005). Nhưng thực tế,
những trường đào tạo các trình độ TCCN, TCN, CĐN rất khó tách bạch các mục tiêu đó trong quá
trình đào tạo của mình, đặc biệt là giữa cao đẳng (CĐ) với CĐN hoặc TCCN với TCN, dẫn đến
khó đánh giá được sự khác biệt về năng lực đầu ra của người học ở các loại hình đào tạo đó. Mặt
khác, thị trường lao động và doanh nghiệp cũng không có sự phân biệt đãi ngộ cũng như vị trí làm
việc theo loại hình đào tạo TCCN hay dạy nghề (không phân biệt đó là TCCN hay TCN; CĐ hay
CĐN), mà nhà tuyển dụng sẽ xuất phát từ yêu cầu của vị trí công việc để tuyển người có trình độ
đào tạo và kĩ năng tay nghề phù hợp.
+ Trong thực tế, xã hội rất cần nhân lực qua đào tạo nghề ở mức thành thạo kĩ năng nghề
chuyên môn nhất định. Vì vậy, đào tạo TCCN hiện nay cũng theo xu hướng tăng cường kĩ năng
thực hành cho người học. Tỉ lệ thời lượng dành cho thực hành, thực tập trong khối kiến thức giáo
dục chuyên nghiệp của chương trình đào tạo TCCN ở các trường là từ 50% - 75%. Tỉ lệ này ở các
chương trình đào tạo đối với hệ TCN chiếm 65% - 85% và 65% - 80% đối với hệ CĐN. Vậy thì tại
sao lại phải đặt ra các hệ TCCN, TCN khi mà mục tiêu của chương trình đào tạo hướng tới đều là
đào tạo người học thành thạo kĩ năng nghề nghiệp chuyên môn phục vụ nhu cầu nhân lực của xã
hội. Mặt khác, các doanh nghiệp thường tuyển những người có trình độ đại học vào các vị trí lao
động gián tiếp (vì số người tốt nghiệp đại học bây giờ không còn hiếm), còn lại sẽ tuyển nhiều vào
vị trí lao động trực tiếp, nên người học ở trình độ TCCN, thậm chí CĐ cũng sẽ được tuyển dụng
vào lao động trực tiếp như những người tốt nghiệp TCN, CĐN.
+ Mặc dù các trường TCCN, TCN, CĐN thuộc 2 hệ đào tạo khác nhau (chuyên nghiệp và
dạy nghề) với điều lệ hoạt động có phần khác nhau: TCCN đào tạo nhân lực có trình độ kiến thức,
kĩ năng cơ bản của một nghề; TCN đào tạo nhân lực kĩ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ ở
trình độ trung cấp nghề, sơ cấp nghề; CĐN đào tạo nhân lực kĩ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch
vụ ở các trình độ CĐN, TCN và sơ cấp nghề. Nhưng trong thực tế, các trường TCCN vẫn tuyển
sinh đào tạo các trình độ sơ cấp nghề, TCN; các trường CĐ (thuộc giáo dục đại học) vẫn tuyển
sinh đào tạo CĐN, TCN, sơ cấp nghề. Điều đó cho thấy sự tồn tại biệt lập giữa các loại hình trường
15
Đỗ Thế Hưng
TCCN và TCN; CĐ và CĐN là rườm rà, phức tạp, thiếu tính thống nhất, lãng phí đầu tư và kéo
theo một loạt hệ lụy trong thể hiện những khác biệt không cần thiết về chương trình, chuẩn đào
tạo, chuẩn nghề nghiệp, chuẩn chất lượng, hệ thống quản lí. . .
+ Thiếu các chuẩn đào tạo được xây dựng một cách hệ thống, đặc biệt các chuẩn trình độ
đào tạo, chuẩn đầu ra, chuẩn chương trình đào tạo.
- Mô hình liên thông giữa các trình độ đào tạo trong hệ thống GDNN và liên thông giữa hệ
thống GDNN với hệ thống giáo dục hàn lâm chưa đảm bảo chất lượng và thiếu tính hệ thống.
+ Học sinh tốt nghiệp TCCN, TCN có thể liên thông lên trình độ CĐ, đại học trong cùng hệ
thống. Về mặt logic thì điều đó rất hợp lí và có lợi cho người học để không ngừng nâng cao trình
độ đào tạo. Nhiều trường TCCN và dạy nghề cũng dựa vào tính liên thông trong đào tạo để thu
hút người học tham gia. Tuy nhiên, cũng chính vì cái logic hình thức ấy cùng với việc quản lí thiếu
chặt chẽ và tâm lí sính bằng cấp của xã hội đã tạo ra lỗ hổng về chất lượng và hiện tượng “dồn
toa” trong đào tạo bậc cao. Học sinh có trình độ đầu vào thấp (không thi đỗ đại học, CĐ) được xét
tuyển gần như không hạn chế vào các trường TCCN, TCN, CĐN, rồi cứ học liên thông dần sẽ có
thể đỗ đạt tiến sĩ như những người có trình độ đầu vào cao (đỗ đạt cao trong kì thi đại học). Trong
xu thế hiện nay, khi người học chưa thực sự yên tâm với cái bằng TCCN, TCN, CĐN vì khó tìm
việc làm cùng với việc mở cửa liên thông trong giáo dục đại học thì hiện tượng “dồn toa” ở các
trường đại học (đào tạo liên thông là chủ yếu) sẽ khó tránh khỏi.
+ Một vấn đề nữa đặt ra là chưa có sự liên thông giữa dạy nghề (TCN, CĐN) với giáo dục
chuyên nghiệp (TCCN, CĐ) mà lại có liên thông giữa dạy nghề với giáo dục hàn lâm (Đại học trở
lên). Đó lại là điều rất thiếu logic.
- Mô hình quản lí nhà nước và quản lí chất lượng nhà trường trong hệ thống GDNN cũng bị
chồng chéo
+ Quản lí nhà nước chồng chéo, cơ cấu hệ thống giáo dục phức tạp, thiếu tính hội nhập.
Phân luồng, liên thông còn chưa triệt để: Số thí sinh tốt nghiệp THCS được tuyển vào học TCCN
năm 2013 là 17.885 học sinh, chiếm 10% và liên tục giảm trong 4 năm trở lại đây [10].
+ Có hai bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng nhà trường GDNN, một bộ dùng cho trường
TCCN do Bộ GD&ĐT ban hành, một bộ dùng cho các trường TCN, CĐN do Bộ LĐTB&XH ban
hành, trong khi đó, mô hình tổ chức, mô hình đầu tư tài chính, mô hình đào tạo, mô hình quản lí
nhà trường không có gì khác biệt đáng kể. Các bộ tiêu chuẩn đó đều thuộc mô hình đảm bảo chất
lượng. Vậy có cần thiết phải sử dụng nhiều công cụ đo khác nhau hay không để dẫn đến tình trạng
khó phân biệt được trường TCCN chất lượng hơn trường TCN, CĐN hoặc ngược lại.
- Chất lượng đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp và xã hội
+ Chất lượng và hiệu quả đào tạo thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu doanh nghiệp, lãng phí
trong đầu tư, không tính đến hiệu quả và tác động; quan hệ với các doanh nghiệp khá hạn chế.
Năm 2011 chỉ có 34% doanh nghiệp hài lòng với chất lượng đào tạo nghề [7].
+ Mặt khác, khảo sát của Bộ GD-ĐT đã cho thấy, hầu hết các trường không dành 70% thời
gian cho thực hành nên sản phẩm ĐT không đáp ứng được yêu cầu thị trường. Cũng bởi thế mà có
tới 50% số HS ra trường đang làm việc tại các doanh nghiệp cần phải đào tạo lại, cần phải được
bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là về kĩ năng thực hành trong khoảng 1- 6 tháng tuỳ
theo lĩnh vực ngành nghề và yêu cầu của cơ sở sử dụng lao động.
+ Động cơ người học thấp, nhìn chung xuất thân từ gia đình khó khăn về kinh tế và năng
lực học vấn thấp, người học cần mảnh bằng hơn là tri thức, kĩ năng làm việc.
Nguyên nhân chủ yếu khiến học sinh theo học tại các nhà trường GDNN là do trường ở gần
nhà chứ không phải xuất phát từ sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nghề nghiệp và xu hướng nghề
của bản thân.
16
Đề xuất mô hình nhà trường giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế...
Hình 1: Nguyên nhân ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề của học sinh [6]
2.2. Một số đề xuất
- Để khắc phục những bất cập nêu trên và có thể hội nhập quốc tế thì hệ thống GDNN nước
ta nói chung và nhà trường GDNN nói riêng cần phải đổi mới dựa trên các định hướng cơ bản sau
[2, 3]:
Hình 2: Sơ đồ cấu trúc hệ thống giáo dục kĩ thuật - nghề nghiệp mới
1) Đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội (nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng...) theo cơ
cấu ngành nghề và các chuẩn mực trong tiêu chuẩn nghề nghiệp quốc gia (loại ngành nghề và bậc
trình độ). Gắn đào tạo với sử dụng nhân lực ở các cấp trình độ.
2) Mở rộng khung trình độ đào tạo nhân lực từ trình độ sơ cấp, trung cấp đến trình độ CĐ
và đại học theo định hướng thực hành nghề nghiệp (bao gồm cả các loại hình trường CĐ, đại học
địa phương, đại học chuyên ngành không có chức năng và định hướng đào tạo sau đại học).
3) Thống nhất các loại hình trường trung cấp (TCN và TCCN) thành loại hình trường trung
học KT&NN và thống nhất loại hình trường Cao đẳng KT&NN (cộng đồng, nghề, kĩ thuật ...) với
nhiều loại chương trình đào tạo theo các cấp trình độ nhân lực (sơ cấp, trung cấp, CĐ).
4) Thống nhất đầu mối quản lí hệ thống giáo dục KT&NN mới trực thuộc Chính phủ hoặc
17
Đỗ Thế Hưng
Bộ GD&ĐT/ Bộ LĐ-TB&XH. Thành lập Tổng cục Giáo dục KT&NN trên cơ sở hợp nhất Tổng
Cục Dạy nghề và Vụ Trung cấp chuyên nghiệp (Bộ GD&ĐT)
5) Phù hợp với phân loại giáo dục quốc tế (ICED -UNESCO 1997 và 2011) và mô hình
hệ thống giáo dục KT&NN (VTE - Vocational and Technical Education) ở các nước trên thế giới
(Australia, Hà lan, Malasia, Hàn Quốc, Đài Loan..).
- Mô hình hệ thống GDNN mới:
- Mô hình các trường GDNNmới: Trung cấp Kĩ thuật và nghề nghiệp; CĐ Kĩ thuật và nghề
nghiệp
Hình 3. Mô hình hệ thống nhà trường và các loại hình trường giáo dục KT&NN [4]
3. Kết luận
Đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống GDNN là nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ đó, trước hết cần xây dựng
được mô hình cơ cấu hệ thống GDNN và mô hình nhà trường GDNN có thể khắc phục những bất
cập hiện nay và đáp ứng với nhu cầu của xã hội về đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, đảm bảo
duy trì một tốc độ phát triển công nghiệp cao theo hướng hiện đại trong quá trình hội nhập quốc
tế. Mô hình nhà trường GDNN mà chúng tôi đề xuất là cơ sở cho sự thống nhất về trình độ đào tạo
và chuẩn nghề nghiệp, đảm bảo được tính liên thông ở trong và ngoài hệ thống. Từ đó có thể xây
dựng được cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và các mô hình quản lí phù hợp, thống nhất trong
toàn hệ thống GDNN ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phan Chí Thành, Đỗ Thế Hưng, 2012. Tìm hiểu mô hình GDNN ở một số nước và bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam. Tạp chí Giáo dục, số 299, trang 11-14.
[2] Nguyễn Đức Trí, 2011. Giáo dục nghề nghiệp - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn. Nxb Khoa
học và Kỹ thuật. Hà nội.
18
Đề xuất mô hình nhà trường giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế...
[3] Nguyễn Đức Trí (Chủ nhiệm đề tài), 2009. Cơ sở khoa học của việc điều chỉnh cơ cấu hệ
thống giáo dục nghề nghiệp trong quá trình hội nhập quốc tế. Báo cáo tổng kết đề tài NCKH
cấp Bộ, mã số B2007-CTGD-03, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
[4] Trần Trung, Nguyễn Đức Trí, Đỗ Thế Hưng, 2013. Đổi mới quản lí nhà trường giáo dục nghề
nghiệp trong quá trình hội nhập quốc tế. Nxb Giáo dục Việt Nam.
[5] Trần Trung, Đỗ Thế Hưng, 2012. Mô hình nhà trường trong hệ thống GDNN ở Việt Nam.
Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số 83, tr. 40 - 41, 55.
[6] Trần Trung, Đỗ Thế Hưng, 2012. Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực trong hệ thống
GDNN ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số 86, trang 37-41.
[7] VCCI, 2011. Báo cáo về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam. Nguồn:
www.pcivietnam.org
[8] Tom McArdler, 2006. Reforms of Technical and Vocational Education and Training in
the World. Conclusion of the 15th Conference of IVETA in Moscow, Russia Republic
21-23/8/2006.
[9] UNESCO - ILO: Technical and Vocational Education and Training for the Twenty-first
Century: Recommendations 2002.
[10] –hoc-sinh-cang–mat-hut.html,
30/7/2014.
ABSTRACT
A proposal for a model of vocational education in Vietnam
in the interest of international integration
Our research team clarified the inadequacies of models of vocational education institutions
in Vietnam in terms of practicality and by comparing them to vocational education systems of
Australia, the Netherlands, Malaysia, South Korea and Taiwan. The inadequacies include: 1. An
underestimate of social needs which includes models of organizations, finance and collaboration
with the employment market; 2. Schools and society have not identified training standards
or employment potential appropriate to each level of training which results in overlapping,
complications and waste in areas of management, training and human resource management; 3.
Interrelationships inside and outside vocational education system does not ensure quality and
unsystematic; 4. State management and quality management from schools of vocational education
system overlap; 5. The quality of training has not satisfied the needs of business or society.
Arising from basic orientations toward a complete innovation for vocational education, twomodels
of new vocational schools are proposed (a- technical and vocational schools, and b- technical
and vocational colleges) to ensure consistency on different levels of training and professional
standards, and to ensure an ability to circulate inside and outside the system. We should be able
to design organizational structures, functions, tasks, and management models appropriate for and
synchronous with the vocational education system in Vietnam.
Keywords: Vocational education models of schools education system.
19
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3816_dthung_5427_2178492.pdf