Tài liệu Đề tài Xuất khẩu quế ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp 1 - Bộ thương mại: Thực trạng và giải pháp: Lời mở đầu
Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ xu hướng toàn cầu hoá đời sống kinh tế, các quốc gia đang tham gia ngày một tích cực vào quan hệ kinh tế quốc tế. Hoạt động kinh doanh quốc tế với các hình thức đa dạng và phong phú đang trở thành một trong những nội dung quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trong đó hình thức xuất nhập khẩu được coi là “chiếc chìa khoá” mở ra những giao dịch kinh tế quốc tế cho mỗi một quốc gia, tạo ra nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho nước đó khi tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu sẽ có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp CNH- HĐH, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế cất cánh trong thiên niên kỷ mới. Vì vậy, Đảng và Nhà Nước đã đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác xuất nhập khẩu và coi đó là một trong ba chương trình kinh tế lớn phải thực hiện.
Quế là cây đặc sản của vùng nhiệt đới được trồng ở nước ta từ lâu. Do giá trị sử dụng ngày càng lớn nên ngày nay Quế trở thành một mặt hàng được các nước tr...
78 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 972 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Xuất khẩu quế ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp 1 - Bộ thương mại: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ xu hướng toàn cầu hoá đời sống kinh tế, các quốc gia đang tham gia ngày một tích cực vào quan hệ kinh tế quốc tế. Hoạt động kinh doanh quốc tế với các hình thức đa dạng và phong phú đang trở thành một trong những nội dung quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trong đó hình thức xuất nhập khẩu được coi là “chiếc chìa khoá” mở ra những giao dịch kinh tế quốc tế cho mỗi một quốc gia, tạo ra nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho nước đó khi tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu sẽ có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp CNH- HĐH, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế cất cánh trong thiên niên kỷ mới. Vì vậy, Đảng và Nhà Nước đã đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác xuất nhập khẩu và coi đó là một trong ba chương trình kinh tế lớn phải thực hiện.
Quế là cây đặc sản của vùng nhiệt đới được trồng ở nước ta từ lâu. Do giá trị sử dụng ngày càng lớn nên ngày nay Quế trở thành một mặt hàng được các nước trên thế giới ưa chuộng. Quế của Việt Nam vốn có điều kiện phát triển và nổi tiếng thế giới từ lâu, càng ngày càng nổi lên như là một đặc sản và có nhiều ưu thế hơn so với các nước khác.
Với thuận lợi này, thời gian qua cùng với các doanh nghiệp khác Công ty XNK tổng hợp 1 đã không ngừng mở rộng hoạt động xuất khẩu quế và đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động xuất khẩu chung của đất nước. Xuất khẩu quế đã chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng giá trị xuất khẩu của Công ty nói riêng và của Việt Nam nói chung. Tuy mới tham gia vào đầu tư xuất khẩu quế, nhưng Công Ty đã thu được những thành tựu đáng khích lệ đó là: Mở rộng thị trường sang nhiều nước và khu vực, tạo được sự tin cậy đối với các bạn hàng trên thế giới, góp phần cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên và mặt hàng này chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong toàn bộ kim ngạch xuất khẩu quế của Việt Nam. Mặc dù vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được Công Ty còn gặp rất nhiều khó khăn cần giải quyết. Đó là, chất lượng hàng xuất khẩu chưa cao, Công ty chủ yếu là xuất khẩu qua sơ chế và xuất khẩu thường phải qua trung gian đã gây nên một thiệt hại không nhỏ cho Công ty. Ngoài ra, công tác tìm nguồn hàng từ khâu thu mua đến khâu xuất khẩu chưa được đồng bộ, thống nhất. Bởi thế, để Công ty phát huy hết tiềm năng, xứng đáng là một doanh nghiệp Nhà Nước lớn thuộc Bộ thương mại thì việc nhìn nhận lại thực trạng kinh doanh xuất khẩu Quế với những đánh giá chân thực về những thành tựu và hạn chế, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu quế là một yêu cầu cần thiết. Với lý do đó, đề tài “xuất khẩu quế ở Công ty XNK tổng hợp 1-Bộ thương mại: Thực trạng và giải pháp ” đã được chọn làm nội dung nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp này.
cấu trúc của khoá luận : Ngoài phần mởi đầu và phần kết luận, bài khóa luận tốt nghiệp này được trình bày thành 4 phần.
- Phần 1: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
- Phần 2: Vài nét về tình hình hoạt động xuất khẩu Quế ở Việt Nam.
- Phần 3: Thực trạng hoạt động xuất khẩu Quế của Công Ty XNK tổng hợp 1.
- Phần 4: Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp 1 – Bộ thương mại.
Phần 1
Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu
1.1- Khái niệm xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện so sánh. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia và phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Thực tế cũng cho thấy nếu một quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của mình, áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao giờ có cơ hội vươn lên để khẳng định vị trí của mình và nâng cao đời sống nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển. Hình thức đầu tiên của hoạt động xuất khẩu là trao đổi hàng hoá giữa các nước cho đến nay xuất khẩu đã được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu gia công, xuất khẩu uỷ thác, buôn bán đối lưu, xuất khẩu theo nghị định thư, gia công quốc tế, xuất khẩu tại chỗ, tạm nhập tái xuất.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị đơn giản cho đến những máy móc công nghệ cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về không gian và thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một thời gian rất ngắn nhưng cũng có thể kéo dài nhiều năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay của nhiều quốc gia khác nhau.
1.2- Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Phương thức cơ bản nhất để mở rộng hoạt động của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài là thông qua xuất khẩu. Xuất khẩu cũng là một hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của doanh nghiệp. Hoạt động này tiếp tục cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình và có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Khả năng sản xuất kém
Thiếu vốn
Công nghệ lạc hậu
Trước hết, xuất khẩu giải quyết vấn đề ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo nguồn vốn để nhập khẩu. ở những nước kém phát triển, phần lớn các doanh nghiệp nằm trong tình trạng thiếu vốn, công nghệ, thừa lao động phổ thông, thiếu lao động đã qua đào tạo. Để giải quyết tình trạng này thì buộc họ phải nhập từ bên ngoài vào những yếu tố mà trong nước chưa có khả năng đáp ứng nhưng làm được điều đó thì cần phải có một khối lượng ngoại tệ rất lớn.
Có thể nói đây là “vòng luẩn quẩn” mà các doanh nghiệp tại các nước này gặp phải. Nếu thiếu vốn, doanh nghiệp không thể nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại, không thể tăng khả năng sản xuất, tạo thế cạnh tranh trên thị trường và cái “vòng luẩn quẩn” đó sẽ ngày càng khép chặt hơn, muốn giảm bớt tình trạng thiếu thì lại càng thiếu hơn, yếu sẽ càng yếu hơn.
Vốn - đây là câu hỏi hóc búa nhất không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn rất nan giải đối với chính phủ và các nhà hoạch định chính sách. Vì vậy, một trong những vật cản chính trong quá trình phát triển của doanh nghiệp là thiếu tiềm lực về vốn. Thực tế cho thấy để có vốn một doanh nghiệp có thể huy động nội lực và ngoại lực. Nguồn vốn huy động từ bên ngoài là vô cùng quan trọng, song để huy động được nguồn vốn này doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Mọi cơ hội để doanh nghiệp được đầu tư hay vay nợ chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng trả nợ của công ty, trong đó họ rất chú ý đến hoạt động xuất khẩu. Và cuối cùng, thì bằng cách này hay cách khác doanh nghiệp cũng phải hoàn lại vốn cho đối tác. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu.
Với đặc điểm của đồng tiền thanh toán phần lớn là ngoại tệ đối với một bên hoặc hai bên, xuất khẩu làm tăng ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo vốn để đổi mới máy móc thiết bị nhập công nghệ mới hiện đại từ các nước phát triển nhằm hiện đại hóa và tạo năng lực sản xuất mới. Vì vậy, xuất khẩu thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển làm tăng giá trị máy móc thiết bị và làm giảm giá trị lao động cấu thành trong giá trị của hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu tư bản. Từ đó, xuất khẩu tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và giúp doanh nghiệp tăng khả năng khai thác lợi thế so sánh của quốc gia. Có thể nói, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của doanh nghiệp. Tóm lại, xuất khẩu là phương tiện quan trọng thu hút lượng ngoại tệ, tạo vốn giúp doanh nghiệp thực hiện tái đầu tư mở rộng sản xuất không những về chiều rộng mà còn về chiều sâu.
Thứ hai, xuất khẩu là bước quan trọng để doanh nghiệp xâm nhập và hội nhập vào thị trường thế giới, một thị trường rộng lớn và đa nhu cầu, một thị trường nhiều triển vọng của doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu. Mục tiêu cuối cùng và bao trùm của mỗi doanh nghiệp là lợi nhuận. Song lợi nhuận sẽ chỉ đạt được thông qua việc thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, hiểu đầy đủ nhu cầu của khách hàng là cơ sở để doanh nghiệp tìm cách thoả mãn tối đa nhu cầu đó. Điều này lại phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố chủ quan và khách quan, vĩ mô và vi mô. Song một thực tế không thể phủ nhận là việc vươn ra thị trường quốc tế làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô khách hàng, cung cấp sản phẩm cho một thị trường rộng lớn đa dân tộc, đa nhu cầu. Đặc biệt, tại thị trường quốc tế sức mua của khách hàng rất phong phú, đa dạng mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có sức mua khác nhau tuỳ theo điều kiện như : Thu nhập, sức mua của đồng tiền, tập tính, thói quen tiêu dùng. Và đây chính là căn cứ giúp doanh nghiệp lựa chọn được những đoạn thị trường phù hợp nhằm tối ưu hoá kết quả kinh doanh. Tham gia hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có thể giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất nhờ quy mô.
Tuy nhiên, lý thuyết này cũng chỉ ra rằng doanh nghiệp chỉ có lợi thế nhờ quy mô khi tăng sản lượng tới một giới hạn cho phép. Và những sản phẩm này phải được thị trường chấp nhận, tiêu thụ. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu của khách hàng cũng như mức độ chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó áp dụng hiệu quả lý thuyết nhờ quy mô.
Đặc biệt, thông qua hợp đồng xuất khẩu, khả năng vượt trội của doanh nghiệp có thể khai thác được. Bởi lẽ, có những sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ cung cấp cho thị trường trong nước mà còn có khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp sẽ tận dụng khả năng vượt trội về chất lượng, uy tín sản phẩm của mình để vươn ra chiếm lĩnh thị trường nước ngoài thông qua hoạt động xuất khẩu. Như vậy, doanh nghiệp sẽ khắc phục quy mô nhỏ bé của thị trường nội địa hay tình trạng trì trệ, giảm sút của nó trong những giai đoạn kinh doanh nhất định. Đồng thời, khả năng phân tán rủi ro cũng là một ưu điểm rất lớn mà hoạt động xuất khẩu mang lại cho doanh nghiệp và khuyến khích doanh nghiệp tham gia lĩnh vực này. Nói tóm lại, hoạ động xuất khẩu giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu cuối cùng và bao trùm của mình là tăng lợi nhuận bằng việc giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm, tăng doanh số bán, hạn chế rủi ro.
Thứ ba, thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới (về giá cả, uy tín, chất lượng). Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường, tạo ra những sản phẩm được tiêu chuẩn hoá cao nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng ngày càng cao của thị trường quốc tế. Thực hiện Marketing quốc tế với những nỗ lực về chính sách giá cả, phân phối, xúc tiến bán hàng, mở rộng thị trường nhằm tăng khả năng thâm nhập vào các thị trường lớn đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh với giá thị trường của nước mình nhằm tăng khả năng phát triển sản phẩm của mình trên thị trường thế giới cũng là những biện pháp cần thiết để từ đó tái đầu tư phát triển sản xuất đặc biệt. Xuất khẩu cũng buộc các doanh nghiệp luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, đây là một yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Cuối cùng, một vai trò đặc biệt quan trọng nữa của hoạt động xuất khẩu đó là thông qua xuất khẩu doanh nghiệp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của mình. Con người luôn là chủ thể trong các quan hệ kinh tế xã hội, vì vậy doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đặt ra trong kinh doanh. Hoạt động xuất khẩu giúp thu hút nhiều lao động, từ đó có thể tuyển lựa được một đội ngũ lao động có khả năng đáp ứng được nhu cầu công việc, có chất lượng và hiệu quả. Đặc biệt doanh nghiệp tham gia xuất khẩu còn nâng cao đời sống của mọi cá nhân trong doanh nghiệp. Đây chính là động lực để người lao động làm việc có chất lượng và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Hơn nữa, do các điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại nếu trình độ của người lao động của toàn doanh nghiệp nói chung và trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý nói riêng được nâng cao, từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, song song với cơ hội cũng là những thách thức mà doanh nghiệp phải đối mặt. Những thách thức này không thể làm nản lòng và hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài, ngược lại điều đó buộc các doanh nghiệp phải nhận thức một cách rõ ràng về sự cần thiết của việc thâm nhập thị trường nước ngoài.
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu có vai trò vô cùng quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp chuyên doanh XNK.
1.3 - Nội dung của hoạt động xuất khẩu
1.3.1 - Nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Nghiên cứu thị trường là một công việc quan trọng trong chu kì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các đơn vị hoạt động ngoại thương thì việc nghiên cứu thị trường quốc tế lại càng có ý nghĩa hơn bởi vì nó liên quan trực tiếp đến việc tiến hành giao dịch, thâm nhập vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp.
* Nghiên cứu thị trường trước tiên cần phải nhận biết hàng hoá
Hàng hoá mua bán phải được tìm hiểu kỹ về khía cạnh thương phẩm để hiểu rõ giá trị, công dụng, nắm bắt được những đặc tính của nó và những yêu cầu của thị trường về hàng hoá đó như: quy cách phẩm chất bao bì, cách trang trí bên ngoài, cách lựa chọn, phân loại vv..
Bên cạnh đó, cần nắm vững tình hình sản xuất của mặt hàng đó như: thời vụ, khả năng về nguyên vật liệu, công nhân tay nghề, nguyên lý cấu tạo… cũng như phải biết mặt hàng đang lựa chọn đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường. Thông thường tiến trình phát triển việc tiêu thụ một mặt hàng gồm bốn giai đoạn: thâm nhập, phát triển, bão hoà và thoái trào. Nắm vững được giai đoạn mà sản phẩm đang tồn tại sẽ giúp ta đưa ra những phương sách hợp lý giúp công ty phát triển cùng với sản phẩm của mình.
* Nắm vững thị trường nước ngoài
Đối với những đơn vị kinh doanh với nước ngoài, việc nghiên cứu thị trường nước ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Vì vậy, khi nghiên cứu cần chú ý đến những điều kiện về chính trị – thương mại chung, luật pháp, chính sách buôn bán, điều kiện về tiền tệ và tín dụng, điều kiện vận tải , tình hình giá cước…
Ngoài ra, đơn vị kinh doanh cần nắm vững những điều có liên quan đến mặt hàng kinh doanh của mình trên thị trường nước ngoài đó như: Dung lượng thị trường, tập quán và thị hiếu tiêu dùng, những kênh tiêu thụ, sự biến động giá cả…
* Lựa chọn khách hàng
Việc nghiên cứu tình hình thị trường giúp cho đơn vị kinh doanh có thể lựa chọn thị trường, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp kết quả hoạt động kinh doanh còn phụ thuộc vào khách hàng. Trong cùng những điều kiện như nhau, việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công với khách hàng khác thì bất lợi. Vì vậy, một nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị kinh doanh trong giai đoạn chuẩn bị là lựa chọn khách hàng. Việc lựa chọn khách hàng thường không căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu mà cần tìm hiểu khách hàng, về thái độ chính trị của thương nhân, khả năng tài chính, lĩnh vực kinh doanh và uy tín của họ trên trường quốc tế.
1.3.2 - Nghiên cứu nguồn hàng và tổ chức thu mua xuất khẩu
Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng: lấy mặt hàng làm đối tượng nghiên cứu và lấy đơn vị sản xuất kinh doanh làm cơ sở nghiên cứu.
*Lấy mặt hàng làm đối tượng nghiên cứu: Theo phương pháp này người ta nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ của từng mặt hàng. Nhờ đó có thể biết được tình hình chung và khả năng sản xuất cũng như nhu cầu xuất khẩu của từng mặt hàng.
* Lấy đơn vị sản xuất kinh doanh làm cơ sở nghiên cứu: Theo phương pháp này người ta theo dõi năng lực sản xuất và cung ứng của từng cơ sơ sản xuất. Năng lực sản xuất này thể hiện ở các chỉ tiêu sau:
+ Số lượng, chất lượng hàng hoá cung ứng.
+ Giá thành
+ Trình độ công nhân
+ Trang thiết bị, máy móc
Phương pháp lấy đơn vị sản xuất kinh doanh làm cơ sở nghiên cứu giúp nắm bắt được tình hình cung ứng của từng xí nghiệp, địa phương nhưng lại không nắm bắt được tình hình sản xuất và tiêu thụ mặt hàng nên thông thường các đơn vị kinh doanh xuất khẩu áp dụng cả hai phương pháp.
Công tác thu mua cũng là một công đoạn quan trọng, do đó cần xây dựng công tác thu mua hợp lý thông qua các đại lý các chi nhánh của mình. Như vậy, sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí thu mua, nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua.
1.3.3 - Lựa chọn đối tác kinh doanh.
Để có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài, doanh nghiệp cần phải lựa chọn được đối tác đang hoạt động trên thị trường và có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Việc lựa chọn này có thể thông qua các bạn hàng đã có quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp trước đó, thông qua tin tức thu thập và điều tra được, các phòng thương mại và công nghiệp, ngân hàng, các tổ chức tài chính để họ giúp đỡ nhằm tìm hiểu về năng lực tài chính, uy tín, kinh nghiệm, năng lực pháp lý… của đối tác kinh doanh đó. Việc lựa chọn đúng đối tác để giao dịch tránh cho doanh nghiệp những phiền toái, rủi ro, mất mát… dễ gặp phải trong quá trình kinh doanh trên thị trường quốc tế, đồng thời có điều kiện để thực hiện thành công các kế hoach kinh doanh của mình.
1.3.4 - Đàm phán và kí kết hợp đồng
Đàm phán, kí kết hợp đồng xuất khẩu là một trong những khâu quan trọng của hoạt động xuất khẩu. Nó quyết định đến khả năng, đều kiện thực hiện những công đoạn mà doanh nghiệp thực hiện trước đó, đồng thời cũng quyết định đến tính khả thi hay không khả thi của các kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp.
Việc đàm phán phải căn cứ vào nhu cầu trên thị trường, vào đối thủ cạnh tranh, khả năng, điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đối tác. Nếu đàm phán diễn ra tốt đẹp thì kết quả của nó là hợp đồng sẽ được kí kết. Mỗi cam kết trong hợp đồng sẽ là một quy định pháp lý quan trọng, vững chắc và đáng tin cậy để các bên thực hiện đúng lời cam kết của mình.
Đàm phán có thể được thực hiện thông qua thư tín, qua điện thoại hay gặp gỡ trực tiếp và được tiến hành qua các bước sau:
+ Chào hàng: Đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của doanh nghiệp, là lời đề nghị kí kết hợp đồng.
+ Hoàn giá: Khi nhận đựơc lời chào hàng và không chấp nhận giá chào hàng đó đồng thời đưa ra những đề nghị gọi là chào hoàn giá.
+ Xác nhận: Là việc xác nhận lại điều kiện mà hai bên đã thoả thuận trước đó. Việc này đồng nghĩa với việc kí kết hợp đồng.
+ Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện chào hàng mà bên kia đưa ra.
Khi kí kết hợp đồng cần chú ý:
* Hợp đồng cần được trình bày rõ ràng, sạch đẹp, nội dung phải phản ánh đúng, đầy đủ các vấn đề đã thoả thuận.
* Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng phải là ngôn ngữ phổ biến và là ngôn ngữ mà cả hai bên cùng thông thạo.
* Người kí kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền kí kết.
* Hợp đồng phải đề cập rõ vấn đề khiếu nại, trọng tài để giải quyết các vấn đề tranh chấp phát sinh nếu có tránh tình trạng tranh cãi, kiện tụng kéo dài thời gian và chi phí tốn kém.
1.3.5 - Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi kí kết hợp đồng mua bán ngoại thương doanh nghiệp xuất khẩu, với tư cách là một bên kí kết, phải thực hiện hợp đồng đó. Việc này đòi hỏi phải có sự tuân thủ những quy định của luật quốc gia và luật quốc tế, cũng như các tập quán quốc tế. Đồng thời, phải bảo đảm được quyền lợi của quốc gia cũng như quyền lợi và uy tín của doanh nghiệp. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc để thực hiện hợp đồng, doanh nghiệp xuất khẩu cần có sự cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch.
Các bước tiến hành để thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
+ Xin giấy phép xuất khẩu.
+ Giục mở L/C và kiểm tra L/C
+ Chuẩn bị hàng để xuất khẩu
+ Kiểm tra hàng hoá
+ Thuê tàu hoặc uỷ thác thuê tàu
+ Mua bảo hiểm
+ Làm thủ tục Hải quan
+ Làm thủ tục thanh toán
+ Khiếu nại trọng tài (nếu có)
1.3.5.1 - Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá
Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác trong quá trình xuất khẩu hàng hoá với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác Quốc tế. Với chiến lược hướng về xuất khẩu như hiện nay, Nhà nước ta đã và đang tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
1.3.5.2 - Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu thông qua việc mua đứt bán đoạn , gia công, hàng đổi hàng, đại lý thu mua, hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu.
Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu có một ý nghĩa quan trọng bởi nó đảm bảo được phẩm chất hàng hoá khi vận chuyển, tạo điều kiện nhận biết và phân loại hàng hoá, đồng thời gây ấn tượng có thể làm người mua thích thú. Trong kinh doanh Quốc tế người ta dùng nhiều loại bao bì khác nhau, thông thường được phân loại theo dụng cụ của nó như: hòm, bao, kiện, ...
Kẻ kí mã hiệu hàng hoá xuất khẩu: Kí mã hiệu là những kí hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng vẽ hình được ghi trên bao bì nhằm thông báo những thông tin cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ, bảo quản. Kí mã hiệu cần phải sáng sủa, rõ ràng, dễ đọc, không phai mờ, không ảnh hưởng tới phẩm chất của hàng hoá.
1.3.5.3 - Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu
Đây là công việc cần thiết, nhằm bảo đảm quyền lợi của nhà nhập khẩu, ngăn chặn kịp thời các hậu quả xấu, phân định trách nhiệm rõ ràng của các khâu trong sản xuất tạo nguồn hàng và đảm bảo uy tín cho nhà xuất khẩu.
Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hoá. Việc kiểm tra chất lượng hàng hoá do hai bên tự chịu trách nhiệm thông qua hợp đồng. Cơ quan nhà nước có chức năng kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu, có quyền thu hồi giấy phép về tự kiểm tra hàng hoá đó đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu tự kiểm nghiệm mà không làm đúng chức năng của mình. Việc kiểm tra có thể tiến hành ở cửa khẩu hoặc tại cơ sở, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng loại hàng hoá.
1.3.5.4 - Thuê tàu
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, người có hàng nhưng lại không có công cụ, phương tiện vận tải biển để chuyên chở cho nên khi giành được “quyền thuê tàu” họ phải đi thuê các tổ chức vận tải biển để chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu. Vì vậy nảy sinh nghiệp vụ thuê tàu. Việc thuê tàu chở hàng dựa vào các căn cứ sau:
+ Những điều khoản hợp đồng mua bán
+ Điều kiện vận tải.
Tuỳ theo điều kiện hàng đối lưu, người ta có thể thuê khứ hồi hoặc chuyên chở liên tục. Nếu hàng hoá không có khối lượng lớn thì người ta thường đăng kí (lưu cước) chỗ của một tàu trọ để chở hàng. Thông thường, trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty vận tải: Letfracht, Transimex...
1.3.5.5 - Mua bảo hiểm:
Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì vậy, trong kinh doanh quốc tế, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Căn cứ vào các điều khoản, phương thức vận chuyển mà nhà xuất khẩu hay nhập khẩu tiến hành mua bảo hiểm hay không. Hợp đồng bảo hiểm có thể chia thành:
+ Hợp đồng bảo hiểm chuyến là hợp đồng bảo hiểm một chuyến hàng từ nơi này đến nơi khác ghi trên hợp đồng bảo hiểm. Trách nhiệm của người bảo hiểm bắt đầu và kết thúc theo điều khoản “từ kho đến kho”.
Hợp đồng bảo hiểm chuyến thể hiện bằng đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm có giá trị pháp lý như nhau.
+ Hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng bảo hiểm nhiều chuyến hàng trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Đối với các chủ hàng có khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu lớn và ổn định, thông thường họ ký kết với công ty bảo hiểm một hợp đồng bảo hiểm bao, trong đó người bảo hiểm cam kết sẽ bảo hiểm tất cả các chuyến hàng xuất nhập khẩu trong năm.
Tuỳ theo phương thức mua bán của nhà kinh doanh xuất khẩu mà mua bảo hiểm nào. Khi kí kết hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm sau:
- Bảo hiểm mọi rủi ro ( Điều kiện bảo hiểm A)
- Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng ( Điều kiện bảo hiểm B)
- Bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng ( Điều kiện bảo hiểm C)
1.3.5.6 - Làm thủ tục hải quan:
+ Khai báo hải quan: Chủ hàng phải khai báo hải quan đầy đủ các chi tiết cần thiết về hàng hoá lên tờ khai. Việc kê khai này đòi hỏi phải trung thực và chính xác.
+ Kiểm tra hải quan : Các hàng hoá xuất khẩu qua biên giới đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là công cụ để quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật của Nhà nước, chống hành vi buôn lậu đồng thời cũng để thống kê số liệu hàng hóa xuất nhập khẩu.
Thủ tục hải quan gồm các bước:
* Khai báo hải quan: Kê khai chi tiết về hàng hoá để kiểm tra và có các giấy tờ khác có liên quan.
* Xuất trình hàng hoá: đưa hàng hoá đến địa điểm kiểm tra để kiểm tra tính hợp lệ của hàng hoá, làm thủ tục hải quan và nộp thuế, sau đó sẽ niêm phong kẹp chì.
* Thực hiện các quyết định của hải quan: Đây là khâu cuối cùng của thủ tục hải quan, các doanh nghiệp phải nghiêm túc thực hiện quyết định này.
Thực hiện các điều kiện giao hàng trong trường hợp hợp đồng đến thời hạn giao hàng, các nhà xuất khẩu hàng hoá phải làm thủ tục giao hàng theo các bước sau:
- Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu để lập bảng đăng kí chuyên chở
- Xuất trình bảng đăng kí chuyên chở cho người vận tải để lấy tờ hồ sơ xếp hàng và bố trí các phương tiện xếp hàng lên tàu.
- Lấy biên lai thuyền phó và đổi lấy vận đơn ( phải có vận đơn hoàn hảo có thể chuyển nhượng) . Vận đơn có giá trị là cơ sở để xử lý các tranh chấp có thể xảy ra đồng thời nó được chuyển về bộ phận kế toán để làm chứng từ thanh toán.
1.3.5.7 - Thanh toán hợp đồng:
Thanh toán là khâu trọng tâm, là kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch trong kinh doanh nên thủ tục này thường rất phức tạp.
Có nhiều phương thức thanh toán nhưng trong xuất khẩu người ta chủ yếu sử dụng các phương thức sau:
+ Thanh toán bằng hình thức chuyển tiền .
+ Thanh toán bằng thư tín dụng ( L/C), đây là một loại giấy mà ngân hàng hứa bảo đảm hoặc hứa trả tiền. Thanh toán bằng L/C là phương thức đảm bảo hợp lý, thuận tiện, an toàn và hạn chế rủi ro cho cả hai bên đặc biệt là bên bán.
+ Thanh toán bằng phương thức nhờ thu. Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán bằng phương thức này sau khi giao hàng, bên xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ cho ngân hàng để uỷ thác.
1.3.5.8 - Giải quyết tranh chấp:
Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, hai bên nên tìm cách hoà giải, khắc phục trong sự hợp tác thiện chí, giúp đỡ lẫn nhau. Nếu không tự giải quyết được thì hai bên phải giải quyết tranh chấp của mình thông qua Trọng tài Quốc tế.
Phần 2
Tình hình hoạt động xuất khẩu Quế ở Việt Nam
2.1 - Vài nét về thị trường xuất khẩu quế trên thế giới
2.1.1 - Nhu cầu về sản phẩm quế trên thế giới
Sản phẩm quế được ưa chuộng và buôn bán trên thị trường thế giới từ rất xa xưa. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sản phẩm quế ngày càng được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như trong sản xuất mỹ phẩm, trong công nghiệp dược phẩm, trong công nghiệp thực phẩm... Theo tài liệu “Plantation Crops”, thị trường của sản phẩm quế hiện nay bao gồm cả Châu Mỹ, Châu á và một phần Châu Phi. Nước tiêu thụ sản phẩm quế nhiều nhất là Mỹ, mỗi năm có nhu cầu 20 - 22 ngàn tấn, nhưng chỉ mua được 12-15 ngàn tấn, Nhật Bản có nhu cầu khoảng 8.000 tấn/năm, nhưng thường chỉ mua được trên dưới 1.000 tấn. Mehico có nhu cầu hơn 3.000 tấn/năm, Đức là 1.000-1.200 tấn/năm, Cộng hoà liên bang Nga, Balan, Bungari cũng có nhu cầu lớn nhưng khả năng nhập khẩu còn ít. Chẳng hạn Nga, có nhu cầu trên dưới 8.000tấn/năm nhưng chỉ nhập khẩu một khối lượng nhỏ, thậm chí chỉ mấy trăm tấn trên một năm. Đó chưa kể các nước sản xuất quế có nhu cầu lớn nhưng để xuất khẩu nên chỉ dành cho tiêu dùng trong nước một phần nhỏ.
Ta nhận thấy nhu cầu về quế là rất lớn, tuy nhiên số lượng thực tế nhập được của các nước là không đáng kể so với lượng nhu cầu ấy. Không một nước nào có thể nhập được khối lượng lớn bằng đúng nhu cầu thực tế của mình. Chênh lệch giữa số lượng của nhu cầu mặt hàng quế với số lượng thực nhập thường cao hơn gấp 3-4 lần (Thái Lan, Mêhico, Pháp) cá biệt có những nước số chênh lệch này lên tới gấp 15-20 lần (Nga, ấn Độ).
Như vậy, nhu cầu sản phẩm quế nói chung là lớn và phạm vi ngày càng rộng. Ngày nay, thế giới đang hướng vào con đường bào chế thuốc chữa bệnh bằng nguyên liệu dược thảo nhiều hơn hoá dược. Sản phẩm quế cũng như các dược liệu khác vì vậy có nhu cầu lớn và tăng nhanh trên nhiều thị trường. Nhu cầu lớn nhưng khả năng sản xuất lại hạn chế. Chính sự mất cân đối giữa cung và cầu đó đã tạo cho quế một giá trị đặc biệt. Giá trị của quế nhiều khi vượt xa giá trị thực tế sản xuất ra nó. Cho nên sản xuất quế đem lại lợi nhuận rất lớn cho người sản xuất, nhất là những nước có điều kiện tự nhiên phong phú, thuận lợi như nước ta. Tuy nhiên, khả năng sản xuất quế bị hạn chế là do một số đặc điểm sau đây:
- Thời gian sản xuất dài là đặc trưng cơ bản của ngành sản xuất quế. Quy trình sản xuất (trồng cây, gieo hạt... cho đến khi thu hoạch) trung bình mất 10-15 năm, thậm chí còn lâu hơn, tuỳ theo yêu cầu sản xuất và đời sống. Đặc điểm này đã hạn chế rất nhiều khả năng sản xuất, kể cả việc mở rộng quy mô cũng như kích thích người sản xuất. Do thời gian sản xuất dài nên ngành sản xuất quế không thể sản xuất ngay một khối lượng lớn sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tăng lên thường xuyên và nhiều khi có tính chất đột biến trên một số thị trường.
- Thời gian sản xuất quế dài nên yêu cầu vốn đầu tư lớn, khiến cho việc mở rộng quy mô sản xuất gặp nhiều khó khăn, vì nói chung hiện nay hầu hết các nước có khả năng sản xuất quế thường là những nước kinh tế đang phát triển. Những vùng có tập quán sản xuất quế lại thường ở vùng trung du miền núi, phần nhiều thuộc các dân tộc ít người với phương thức canh tác còn lạc hậu. Cho nên, cho đến nay, khả năng sản xuất quế vẫn ngày càng cách xa nhu cầu.
Bên cạnh đó cũng phải kể đến những lý do khác nữa khiến cho nhu cầu về sản phẩm quế lớn trong khi khối lượng nhập lại hạn chế. Đó là:
- Sự đa dạng hoá thị trường xuất khẩu của các nước sản xuất quế chính. Trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay, thị trường không còn bó hẹp hạn chế như trước kia, trước năm 1990 khi thế giới còn chia làm hai cực: các nước tư bản chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa. Các nước sản xuất quế chính mở rộng thị trường, mở rộng bạn hàng của mình với nhiều quốc gia khác nhau cho nên lượng quế xuất khẩu bị phân tán.
- Theo quy luật cung cầu về giá nhu cầu lớn trong khi lượng cung cấp không tăng không đáp ứng ngay được nên giá của sản phẩm tất yếu sẽ tăng lên. Với mức giá này nhiều nước có nhu cầu lớn song lại không có khả năng mua với khối lượng lớn. Cho nên họ chỉ mua được ở một khối lượng nhất định nhằm đáp ứng phần nào phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng sản phẩm quế trong nước.
2.1.2 – Tình hình cung cấp sản phẩm quế trên thị trường thế giới
Trong những năm gần đây khối lượng sản phẩm quế trên thế giới không ngừng gia tăng về số lượng xuất khẩu, bình quân mỗi năm trên dưới 30 ngàn tấn. Những nước tiêu dùng nhiều quế lại chính là những nước không tự sản xuất được quế vì thiếu những điều kiện tự nhiên và môi trường. Do đó, điều kiện này chính là yếu tố quyết định, là lợi thế lớn cho những nước sản xuất và xuất khẩu sản phẩm quế chính trên thế giới. Cây quế sinh trưởng và phát triển ở vùng nhiệt đới. Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần trên, ở những nơi này quế cũng chỉ phát triển tốt và thích hợp ở một số vùng. Cung cấp sản phẩm quế trên thị trường thế giới chủ yếu là Indonesia, Trung Quốc, Việt Nam và quần đảo Xrilanca. Trong đó nước có khối lượng xuất khẩu lớn nhất là Indonesia (chiếm khoảng 42% tổng khối lượng xuất khẩu của toàn thế giới), tiếp đó là Trung Quốc (40%), trong đó Việt Nam chỉ chiếm một phần rất nhỏ (10%) mặc dù nước ta phong phú về chủng loại quế, chất lượng quế tốt... Nguyên nhân của việc khối lượng nước ta chiếm một phần nhỏ trong khối lượng xuất khẩu trên thị trường thế giới là do diện tích trồng sản phẩm quế của ta nhỏ so với các nước xuất khẩu chính khác. Bên cạnh đó, một phần cũng do trình độ sản xuất khai thác quế của nước ta còn lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm sản xuất của người dân.
Nhận biết được nhu cầu sản phẩm quế là rất lớn trên thị trường thế giới, những vùng thích hợp cho việc sản xuất quế đã không ngừng mở rộng diện tích trồng quế. Tuy nhiên sản xuất cần thời gian dài, cây quế lại cho thu hoạch một lần nên sự gia tăng về sản lượng quế xuất khẩu của các nước này không mang tính chất đột biến.
Như vậy, so với các sản phẩm xuất khẩu khác trong ngành nông lâm nghiệp (chè, hạt điều, cà phê), quế là sản phẩm có khối lượng xuất khẩu tương đối khiêm tốn mặc dù giá trị xuất khẩu khá cao. Tình hình cung cấp sản phẩm quế so với nhu cầu sản phẩm này có một khoảng chênh lệch khá lớn, nhu cầu sử dụng quế cho sinh hoạt cũng như sản xuất không ngừng tăng cao trong khi nguồn cung cấp tăng lên không đáng kể. Có thể nói rằng sản phẩm này trong thời gian tới vẫn là mặt hàng lâm đặc sản quý hiếm trên thị trường thế giới, lượng cầu tăng lên nhưng lượng cung chỉ có hạn do đó giá cả vẫn còn tiếp tục tăng.
2.2 - Thực trạng hoạt động nuôi trồng quế ở Việt Nam
2.2.1 - Một số giống quế được trồng ở Việt Nam.
Quế có nhiều loại, mỗi loại quế có vị và hàm lượng tinh dầu khác nhau. Xét về tổng thể, quế có khoảng gần 10 loại khác nhau. Trong đó phổ biến trên thế giới là hai loại quế Trung Quốc (tên khoa học là Cinamomum cassia BL) và quế Xrilanca (Cinamomum zeylanicum), thì ở nước ta ngoài hai loại quế trên còn có quế Thanh (Cinamomum loureiri Ness) thường trồng ở Thanh Hoá, Nghệ An. Ngoài ra còn một số quế địa phương mọc tự nhiên ở các vùng Nghĩa Lộ , Tuyên Quang, Yên Bái... Như vậy, nước ta là một nước có nhiều giống quế quí, kể cả quế mọc tự nhiên cũng như quế trồng. Đó là một sự thuận lợi lớn cho nước ta khi phát triển sản phẩm quế. Việt Nam có nhiều loại quế, trong đó có 3 loại quế chính được trồng và mọc hoang có số lượng lớn là quế thanh (còn gọi là quế quỷ), quế quan (còn gọi là quế Srilanca) và quế đơn (còn gọi là quế Trung Quốc).
2.2.1.1 - Quế thanh ( quế quỷ )
Loại quế này có tên khoa học là Cinnaomon Loreirli Gare EBI. Loại quế này có thân cao từ 12-20 mét, cành non vuông nhẵn, lá cây gần như bầu dục, thuôn lại ở hai đầu gần như mọc đối, mũi nhọn, ba gân rõ. Hoa quế họp thành chuỳ, quả hình trứng, non có màu lục, khi chín có mầu nâu tím, sáng bóng. Quả đựng trong đấu có bao hoa tồn tại dưới quả, thuỳ cắt cụt gần đỉnh. Đây là giống quế thuộc dòng Cinnamon. Quế Thanh có giá trị dược liệu cao, nhân dân ta thường dùng để chữa nhiều loại bệnh và bồi bổ sức khoẻ.
2.2.1.2 - Quế quan ( quế Srilanca )
Loại này có tên khoa học là cinamunon Zeylanicum Gare EXBI. Loại này có thân cao khoảng 20-25 mét, cành non vuông, có lông ngắn và rải rác. Lá quế quan mọc đối, dài, hình bầu dục, nhẵn bóng hơi nhọn ở gốc, tù ở hai đầu. Hoa mọc thành chuỳ, quả mọng hình bầu dục có bao hoa tồn tại, thuỳ cắt cụt ở giữa. Loại quế này cũng thuộc dòng Cinnamon. Loại Quế này được trồng chủ yếu ở một số nơi: Thanh Hoá, Nghệ An, Vũng Tàu, Tây Ninh... So với hai loại quế trên, đây là loại quế không được ưa chuộng bằng trên thị trường thế giới. Do giống cây nhỏ và lượng tinh dầu cũng ít hơn. Có thể nói, đây là giống quế kém năng suất hơn hai loại quế đơn và quế thanh.
2.2.1.3 - Quế đơn (quế Trung Quốc)
Đây là loại quế có tên khoa học là Cinnamon Cassa Nees EXBI. Thân cao 12-17 mét, lá quế mọc cách, dai, sáng bóng và hoa mọc thành chuỳ. Quả hình bầu dục đựng trong đấu nguyên hoặc hơi chia thuỳ. Loại quế này thuộc dòng Cassia. Loại Quế này trồng ở Quảng Ninh, Yên Bái, Quảng Nam-Đà Nẵng, chủ yếu để làm gia vị thực phẩm. Đây là loại quế tốt, loại quế đặc biệt, các nước thường mua với giá rất cao để làm dược liệu chữa bệnh và làm thuốc bổ.
Hiện nay, ở Việt Nam loại quế thanh và quế quan tuy cũng có nhưng số liệu không nhiều như quế đơn. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chủ yếu là xuất khẩu quế đơn. Như vậy có thể nói rằng nước ta có ưu thế về giống quế đơn. Trong kinh doanh xuất khẩu, giống tốt sẽ cho năng suất cây trồng cao và chất lượng sản phẩm tốt. Điều đó rất có ý nghĩa trong việc mở rộng thị trường và nâng cao giá bán của sản phẩm .
2.2.2 - Những sản phẩm chính của Quế.
Quế là loại thực vật thân gỗ, sống lâu năm. Nhưng sản phẩm chính của sản xuất quế lại là Vỏ. Và việc buôn bán, trao đổi trên thế giới khi nói đến quế là hàm ý tới vỏ quế. Ngoài vỏ còn có gỗ, lá dùng để chưng cất tinh dầu. Về mặt giá trị xuất khẩu thì chủ yếu là vỏ quế và bên cạnh đó tinh dầu cũng là một mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao (tuy nhiên, lượng tinh dầu xuất khẩu của nước ta chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so với mặt hàng vỏ quế ). Gỗ của sản phẩm quế chủ yếu được dùng cho ngành công nghiệp trong nước.
2.2.2.1 - Vỏ quế.
Đặc điểm cơ bản của sản xuất quế, cũng như đặc điểm cơ bản của nghề rừng là có thời gian sản xuất dài. Tuỳ theo yêu cầu kinh tế đối với sản phẩm quế mà quyết định thời gian kinh doanh sản xuất quế từng luận kỳ nhất định, nhưng nói chung sản xuất quế ít nhất cũng phải 10-15 năm mới cho thu hoạch vỏ. Năng suất vỏ quế tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện tự nhiên như đất đai, khí hậu..., giống cây trồng, thời gian kinh doanh dài hay ngắn, mức độ đầu tư, thâm canh. Tính trung bình một cây quế loại thông thường như quế Yên Bái, Quảng Ninh, Quảng Nam Đà Nẵng 10-15 năm có thể có đường kính 20-30cm, có thể cho thu hoạch 20-40 kg vỏ các loại. Các loại vỏ này có thể dùng làm gia vị thực phẩm, làm nguyên liệu chế biến hàng tiêu dùng, xuất khẩu vỏ dưới dạng vỏ nguyên liệu. Một số vùng sản xuất quế ỏ Yên Bái với mật độ gây trồng 2500 cây/ha sau 10 năm đạt năng suất 20-22 tấn. Vỏ quế đạt tiêu chuẩn sử dụng vào một số lĩnh vực kinh tế nhất định như gia vị thực phẩm, nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng chỉ cần trồng trong 10 năm là có thể thu hoạch được. Tuy nhiên, nếu kinh doanh quế làm dược liệu thì thời gian trồng và sản xuất phải lâu hơn, có khi tới 20-30 năm. Song, do nhu cầu dược liệu trong nước cũng như xuất khẩu hiện nay còn hạn chế, trong khi nhu cầu quế nguyên liệu làm gia vị thực phẩm sản xuất một số hàng tiêu dùng rất lớn mà với thời gian kinh doanh nói trên (10 năm) có thể đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, đồng thời yêu cầu kinh doanh cũng đem lại hiệu quả cao.
2.2.2.2 - Gỗ và tinh dầu
Trong sản xuất kinh doanh quế, ngoài vỏ - sản phẩm chính - còn thu được một sản lượng gỗ, tinh dầu chưng cất ở lá, cành non, rễ. Giá trị các sản phẩm này đem lại cũng tương đối lớn và có công dụng không kém phần quan trọng. Sau khi lột vỏ, quế cho 8-10 m3 gỗ/ha/năm. Ngoài ra bình quân mỗi hecta quế còn cho đến 5-8 ste củi, cành, ngọn. Quế có giá trị sử dụng nhiều mặt, vì thời gian sản xuất dài nên gỗ có thể đáp ứng cho nhiều nhu cầu: xây dựng, gia công đồ mộc, làm gỗ trụ mỏ. Cây quế được trồng trong khoảng 10 năm với mật độ thích hợp đem lại năng suất vỏ cũng như sản lượng gỗ cao, đáp ứng yêu cầu chất lượng cả về vỏ lẫn gỗ. Năng suất gỗ nói trên tương đương với năng suất gỗ của rừng trồng thuần loại như bồ đề, bạch đàn, mỡ..., và cao hơn 2-3 lần rừng tự nhiên hiện đang khai thác. Như vậy, chỉ trong khoảng 10 năm, ngành sản xuất quế đáp ứng được 2 loại nhu cầu: vỏ và gỗ với năng suất cao. Hơn nữa, gỗ quế thẳng và cứng, có tinh dầu nên ít bị mối, mọt, dùng làm trụ mỏ vừa đạt yêu cầu kỹ thuật (phù hợp với kích cỡ gỗ trụ mỏ 15-20 cm) vừa bền hơn các loại gỗ khác. Do đó, có thể coi kinh doanh sản xuất gỗ quế - bên cạnh sản phẩm chính là vỏ - cũng là một hướng quan trọng để giải quyết yêu cầu gỗ trụ mỏ công nghiệp địa phương và nhu cầu gỗ dân dụng, chất đốt.
Ngoài ra, quế còn thu được tinh dầu khá lớn ở lá, cành non và rễ. Chẳng hạn tinh dầu ở lá, hoa và rễ có thể thu được của quế trồng ở Quảng Ninh, Quảng Nam - Đà Nẵng khoảng 30-60 kg/ha/năm, quế trồng ở Yên Bái: 30-50kg/ha/năm. Đó chưa kể nếu dùng các cành nhỏ, mầm non để chưng cất tinh dầu cũng có thể cho sản lượng 20-30kg/ha. Nói về tinh dầu quế ở trên thế giới, nước sản xuất và xuất khẩu lớn nhất là Xrilanca và Trung Quốc. Xrilanca là nước lớn nhất và có lẽ là duy nhất xuất khẩu loại tinh dầu Quế Cinamomum zeylanicum. Việt Nam , Indonesia và Đài Loan cũng có sản xuất tinh dầu Quế song lượng xuất khẩu nhỏ, không đáng kể, chủ yếu để tiêu dùng trong nước.
Có thể nói rằng cây quế là một loại cây cho giá trị cao cả về sản phẩm chính là vỏ quế lẫn sản phẩm phụ-gỗ và tinh dầu. Tuy nhiên đối với Việt nam, hiện nay chúng ta chỉ xuất khẩu chủ yếu là vỏ quế (chiếm 100%), còn gỗ và tinh dầu được dùng trong nước. Trong khuôn khổ khoá luận tốt nghiệp này, khi đề cập tới sản phẩm quế là tác giả muốn nói tới vỏ quế.
2.2.3 - Diện tích và năng suất
Theo con số thống kê năm 1999, ở nước ta, đất lâm nghiệp chiếm khoảng 24% diện tích đất cả nước (tức là khoảng 10.884,5 nghìn ha), trong đó diện tích trồng cây lâu năm chiếm 18%. Hơn nữa theo thống kê của cục quản lý lâm nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, diện tích có khả năng sản xuất quế ở nước ta rất lớn (70.000-80.000 ha) trong khi diện tích sản xuất quế hiện nay chỉ khoảng 18-20 nghìn ha. Điều này chứng tỏ nước ta có nhiều thuận lợi cho việc mở rộng diện tích và mở rộng quy mô sản xuất quế phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu nhưng chưa tận dụng được hết thuận lợi này. Chúng ta có thể kể ra đây rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này: người nông dân chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức và kỹ thuật cần thiết cho việc trồng quế; thời gian trồng quế dài đòi hỏi phải đầu tư một lượng vốn lớn thời gian thu hồi vốn khá lâu nếu không có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước thì người nông dân không thể mở rộng diện tích trồng quế; sản lượng quế phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện khách quan như khí hậu, thời tiết, hơn nữa giá quế xuất khẩu lại lên xuống liên tục khiến cho người nông dân gặp rất nhiều rủi ro…Sau đây là bảng thống kê diện tích sản xuất quế được phân theo ba vùng sản xuất quế chủ yếu: Yên Bái, Quảng Ninh và Quảng Nam - Đà Nẵng qua các năm:
Bảng 1
Diện tích trồng Quế của các vùng trồng Quế chính ở nước ta.
Đơnvị:hecta
Năm
1993
1994
1996
1997
1999
2002
Tổng diện tích
10.590
10.800
11.260
11.400
11.700
12.000
Yên Bái
5.260
5.500
5.700
5.700
5.800
5.850
Quảng Nam - Đà Nẵng
3.130
3.160
3.260
3.300
3.500
3.600
Quảng Ninh
2.200
2.240
2.300
2.400
2.400
2.500
(Nguồn: Tài liệu thống kê của Cục quản lý lâm nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn)
Từ năm 1993 đến 2002, tổng diện tích trồng quế ở 3 vùng trồng quế chính ở nước ta tăng liên tục. Tuy mức độ tăng chưa nhiều nhưng đây cũng là một tín hiệu đáng mừng. Điều này có được có thể do người nông dân đã bước đầu nhận thức được giá trị to lớn của quế, Nhà nước cũng đã có những biện pháp hỗ trợ kịp thời cho người trồng quế, …
Yên Bái là vùng sản xuất quế lớn chiếm 47,5% diện tích trồng của cả nước. Đạt được điều này, một phần do Yên Bái có điều kiện tự nhiên thích hợp, đồi núi nhiều, hơn nữa lại được sự quan tâm của chính quyền sở tại, coi sản xuất quế là ngành mũi nhọn trong tỉnh. Nhận thấy sản xuất quế cho giá trị xuất khẩu cao hơn nhiều loại cây trồng khác, nên những vùng có điều kiện khí hậu, đất đai phù hợp với sản xuất quế đã không ngừng mở rộng diện tích trồng quế. Tuy nhiên phải sau khoảng 10 năm quế mới cho thu hoạch, nên những vùng này rất cần sự quan tâm hỗ trợ của chính quyền địa phương về vốn, giống để ngành sản xuất quế có thể và đi vào chuyên môn hoá.
Bên cạnh đó, quế trồng ở các vùng khác nhau cũng cho năng suất khác nhau, tuỳ thuộc vào số lượng cây trên một đơn vị diện tích và điều kiện thổ nhưỡng. ở vùng Quảng Ninh, với mật độ 4.000 cây/ha, sau 8-9 năm, năng suất đạt khoảng 10-12 tấn. Một số vùng sản xuất quế ở Yên Bái, với mật độ gây trồng 2500 cây/ha, sau 10 năm đạt năng suất 20-22 tấn. Tại Quảng Nam- Đà Nẵng, quế được trồng trên đất đỏ bazan màu mỡ với mật độ 1.500 cây/ha, sau 25 năm đạt năng suất 28-30 tấn. Như vậy xét về kinh doanh sản xuất vỏ là sản phẩm chủ yếu của ngành quế, thì năng suất trên đơn vị diện tích của quế trồng ở Quảng Nam Đà Nẵng đạt cao nhất, sau đó là quế trồng ở Yên Bái, Quảng Ninh. Song nếu tính năng suất bình quân/ha/năm, chỉ tiêu năng suất cơ bản tính cho cây dài ngày, thì quế trồng ở Yên Bái đạt năng suất cao nhất: 2-2,2 tấn, sau đó là quế trồng ở Quảng Nam Đà Nẵng: 1,5-2 tấn, cuối cùng là quế trồng ở Quảng Ninh: 1,2-1,5 tấn.
Nếu xét về tổng sản lượng của toàn ngành, ta thấy rằng sản lượng quế không ngừng tăng lên, từ 2520 tấn (năm 1993) lên 4.000 tấn (năm 2002).
Bảng 2: Sản lượng quế của 3 vùng trồng quế chính ở nước ta.
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1999
2002
Tổng sản lượng
2520
2700
6500
3100
3656
3500
4000
Yên Bái
1270
1400
4560
1500
1750
1800
2000
Quảng Nam-Đà Nẵng
750
80
980
900
1000
76
1200
Quảng Ninh
500
520
960
700
906
724
800
Đơn vị: Tấn
(Nguồn: Tài liệu thống kê của Cục quản lý Lâm nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn).
Tổng sản lượng quế ở 3 vùng trồng quế chính ở nước ta nhìn chung là tăng đều qua các năm. Đạt được những thành tựu trên là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân bao trùm có ý nghĩa quyết định là nhờ chính sách và cơ chế quản lý mới, chính sách phát huy nhiều thành phần kinh tế, chính sách giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho người dân, chính sách thuế, chính sách tín dụng, chính sách tự do lưu thông, chính sách đối với vùng sâu vùng xa... Hàng loạt chính sách mới này cùng với cơ chế quản lý mới đã phát huy được tiềm năng to lớn của nguồn sản xuất lâm nghiệp nước ta, từng bước góp phần nâng cao đời sống của nhân dân cũng như của đồng bào dân tộc, trong đó có người sản xuất quế.
Hai bảng trên đã cho thấy diện tích trồng và sản lượng quế đã tăng khá nhanh và đồng đều trong những năm gần đây. Diện tích và sản lượng quế không ngừng tăng. Hai bảng trên cũng cho thấy diện tích sản xuất quế còn tăng nữa, tuy nhiên tốc độ tăng đã có phần giảm so với những năm trước. Riêng sản lượng, ta thấy ở đây có sự tăng lên không đều. Trong những năm từ 1993 đến 1998 sản lượng quế tăng liên tục thì đến năm 1999 sản lượng quế ở hai vùng Quảng Nam - Đà Nẵng và Quảng Ninh sụt giảm đáng kể. Nếu như có thể nói diện tích tăng là do người sản xuất đã ý thức được nhu cầu lớn của sản phẩm trên thị trường nên đã không ngừng khai hoang mở rộng diện tích gây trồng... thì sản lượng tăng hay giảm là do các yếu tố giống, kỹ thuật sản xuất và thời tiết. Do quế là loại cây cho thu hoạch sau 8-10 năm cho nên trong khoảng thời gian này nếu xảy ra sâu bệnh hoặc giống không tốt... thì ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng sau này. Chính vì vậy mà trong sản xuất quế, vấn đề kỹ thuật sản xuất cần phải được coi trọng và phổ biến rộng rãi cho bà con nông dân để khi họ quyết định sản xuất quế, họ sẽ được lãi (hay chí ít là hoà vốn) sau khoảng thời gian 8-10 năm.
2.3 - Thực trạng hoạt động xuất khẩu quế ở Việt Nam trong những năm gần đây
Cũng như các mặt hàng nông sản khác, quế sớm được buôn bán trên thị trường thế giới. Song do quế là đặc sản riêng có của một số vùng có khí hậu nhiệt đới thích hợp nên khả năng sản xuất hạn chế, trong khi đó nhu cầu sản phẩm quế lại tương đối lớn và rộng khắp trên lục địa. Cho nên kinh doanh xuất khẩu quế là lợi thế cho những nước có điều kiện sản xuất quế. Những nước này chủ yếu sản xuất để xuất khẩu vì tiêu dùng trong nước không nhiều.
2.3.1 - Kim ngạch xuất khẩu và khối lượng xuất khẩu .
2.3.1.1 - Kim ngạch xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm quế trong những năm gần đây của cả nước có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên sự gia tăng này không đồng đều.
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu quế giai đoạn 1994-2002
Năm
KNXK lâm sản (triệu USD)
KNXK quế (nghìn USD)
1994
111,6
5.127
1995
153,9
7.259
1996
212,2
6.753
1997
225,2
7.421
1998
191,4
1.689
1999
175,5
4.868
2000
206,3
8.177
2001
218,9
9.008
2002
220,4
9.594
Nguồn: 1. Xuất nhập khẩu hàng hoá - NXB Thống kê 2000
2. Niên giám thống kê năm 2002
Trong những năm từ 1994 đến 2002, kim ngạch xuất khẩu quế của cả nước lên có sự thay đổi, lên xuống đáng kể. Nguyên nhân của sự tăng-giảm kim ngạch xuất khẩu này một phần là do khối lượng xuất khẩu không đồng đều, và do phẩm chất quế đã ảnh hưởng tới giá trị xuất khẩu. Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm quế của cả nước là 7.259 nghìn USD, tăng gấp 1,42 lần so với năm 1994. Năm 1996 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm quế của cả nước chỉ đạt 6.753 nghìn USD, giảm 17% so với năm 1995. Đến năm 1997, kim ngạch xuất khẩu lâm sản và kim ngạch xuất khẩu quế đều tăng, tuy nhiên mức tăng không đáng kể. Năm 1998, kim ngạch xuất khẩu quế giảm mạnh cùng với sự giảm sút của kim ngạch xuất khẩu lâm sản của cả nước. Nguyên nhân của sự suy giảm này có thể nói là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á gây ra. Đông Nam á chiếm khoảng 50% kim ngạch xuất khẩu quế của nước ta nên khi cuộc khủng hoảng xảy ra tất yếu kim ngạch xuất khẩu quế của ta bị ảnh hưởng và giảm sút đáng kể. Cũng trong thời kỳ khủng hoảng này, một số nước mặc dù nhu cầu về quế cao nhưng không thể đáp ứng được do nền kinh tế bị suy thoái. Sự suy giảm về kim ngạch xuất khẩu lâm sản vẫn còn tiếp tục cho đến hết năm 1999. Tuy vậy, trong năm này kim ngạch xuất khẩu lại tăng, đạt mức 4.868 nghìn USD, gấp 4 lần năm 1998. Điều này là do phẩm chất quế cũng như chất lượng quế của chúng ta được nâng cao làm cho giá quế xuất khẩu tăng lên. Do vậy, tuy khối lượng xuất khẩu quế không tăng nhưng kim ngạch xuất khẩu quế vẫn tăng cao. Sang năm 2000, tình hình được cải thiện rõ rệt, kim ngạch xuất khẩu lâm sản và xuất khẩu quế đều tăng. Điều này được lý giải bởi cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á đã giảm, một số nước đã bước đầu phục hồi được nền kinh tế của mình và có khả năng đáp ứng được yêu cầu về quế của chính mình. Năm 2001, 2002, kim ngạch xuất khẩu quế và lâm sản vẫn tiếp tục tăng cao mặc dù khối lượng tăng không nhiều. Điều này khẳng định chúng ta đã có những cố gắng nâng cao giá của sản phẩm quế cũng như khối lượng xuất khẩu thông qua việc nâng cao chất lượng, tận dụng hết những gì khai thác được (xuất khẩu cả quế vụn), đồng thời tiến hành xuất khẩu trực tiếp đến nước tiêu dùng cuối cùng chứ không qua trung gian và giảm bớt việc xuất khẩu sản phẩm quế chưa qua chế biến để qua đó nâng cao được kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu quế cả nước chiếm khoảng 3-5% tổng kim ngạch xuất khẩu lâm sản và 0,1% tổng kim ngạch mặt hàng xuất khẩu cả nước.
Qua bảng trên, ta thấy cũng thấy rằng, năm 1994 và 1995 kim ngạch xuất khẩu quế so với kim ngạch xuất khẩu lâm sản của cả nước đạt cao nhất (5%). Tuy nhiên, đến năm 1998, tỷ lệ này chỉ còn 1%. Nhưng trong những năm 1999 – 2002, tỷ lệ này đã từng bước nâng lên chiếm 3-4%. Con số này còn quá nhỏ bé so với các nhóm ngành hàng khác (như cà phê, chè, hồ tiêu...) nhưng cũng chứng tỏ được giá trị xuất khẩu to lớn của sản phẩm quế.
Trong những năm gần đây, ngành xuất khẩu lâm sản có sự chuyển hướng từ xuất khẩu nguyên liệu sang xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến, nâng cao giá trị xuất khẩu của hàng lâm sản. Trong khi đó, mặt hàng quế chúng ta mới chỉ xuất khẩu dưới dạng thô - xuất khẩu sản phẩm vỏ là chủ yếu. Sơ chế quế chủ yếu là qua máy sấy, làm sạch bụi bẩn ở ngoài... là chủ yếu, cho nên kim ngạch xuất khẩu quế không có sự tăng đột biến, mà phần nhiều còn phụ thuộc vào khối lượng vỏ quế xuất khẩu .
2.3.1.2 - Khối lượng quế xuất khẩu.
Khối lượng quế xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào diện tích gây trồng trước đó, cho nên cùng với quá trình chuyển dịch nền kinh tế, sản lượng quế xuất khẩu của nước ta cũng có nhiều thay đổi.
Bảng 4: Khối lượng quế xuất khẩu của Việt Nam
Đơn vị: tấn
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Khối lượng
6.356
2.834
3.399
804
3.160
3.600
3.950
4.090
Nguồn:1. Niên giám thống kê 2002.
2. Tạp chí Ngoại thương năm 2001.
Năm 1995 là năm nước ta xuất khẩu với số lượng lớn nhất trong thời gian qua (6.356 tấn), tuy nhiên, ngay sau đó (năm 1996) sản lượng xuất khẩu đã sụt giảm xuống còn 2.834 tấn, cho đến năm 1998, con số này xuống còn 804 tấn. Sở dĩ năm 1995 khối lượng quế xuất khẩu lớn là do diện tích trồng đến thời kỳ khai thác lớn, nhiều doanh nghiệp, địa phương tham gia vào quá trình thu gom và xuất khẩu sản phẩm quế nhằm thu lợi nhuận. Tuy khối lượng quế xuất khẩu khá lớn song kim ngạch xuất khẩu năm này lại không cao hơn so với năm 1997 (xem bảng 3 và 4). Có sự chênh lệch này là do khối lượng xuất khẩu nhiều nhưng xét về mặt chất lượng thì không cao. Với sự khai thác ồ ạt trong năm 1995, đến năm 1996, khối lượng sản phẩm quế khai thác và xuất khẩu chỉ còn bằng hơn 1/3 của năm trước. Năm 1998, khối lượng xuất khẩu giảm mạnh chỉ còn 804 tấn. Điều này phần lớn là do cơ cấu thị trường xuất khẩu của ta còn chưa đồng đều, vẫn phụ thuộc nhiều vào bạn hàng ở khu vực Đông Nam á chiếm khoảng 50% khối lượng Quế xuất khẩu của Việt Nam. Năm 1998 là thời kỳ khu vực này bị khủng hoảng trầm trọng, dẫn tới không chỉ mặt hàng quế mà nhiều sản phẩm khác của nước ta cũng chịu tình trạng chung về khối lượng xuất khẩu cũng như giá trị xuất khẩu giảm mạnh.
Tuy nhiên, năm 1999 trở lại đây, khối lượng quế xuất khẩu đã gia tăng trở lại. Năm 2002, khối lượng quế xuất khẩu tăng gần 3% so với năm 1999. Đạt được điều này chủ yếu là do các địa phương cũng như các công ty xuất khẩu quế đã có những biện pháp về tài chính giúp đỡ người gây trồng và sản xuất quế từ khâu gây trồng đến khâu thu hoạch. Từ đó góp phần tăng diện tích sản xuất cũng như tăng năng suất quế thu hoạch trên một đơn vị hecta.
2.3.2 - Giá cả xuất khẩu.
Trên thế giới, nước xuất khẩu quế lớn nhất là Indonexia và Trung Quốc. Do vậy giá quế của hai nước này được niêm yết tham khảo trên thị trường thế giới. Còn quế của Việt Nam tuy chất lượng sản phẩm tốt hơn nhưng do lượng xuất khẩu hàng năm chỉ chiếm khoảng hơn 10% lượng xuất khẩu trên thế giới nên giá quế xuất khẩu của nước ta tuỳ thuộc vào từng công ty xuất khẩu riêng. Đây chính là một hạn chế cho công việc xuất khẩu Quế của các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này bởi lẽ khi giá cả không thống nhất sẽ khiến cho khách hàng lúng túng khi lựa chọn nhà cung cấp và việc đánh thuế dễ mắc sai lầm. Tuy nhiên, đây cũng là một thuận lợi để các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của ta nâng cao khả năng kinh doanh trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tự các doanh nghiệp sẽ phải tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm của mình để có thể cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.
Cũng giống như các sản phẩm xuất khẩu khác, giá sản phẩm quế xuất khẩu phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tình hình cung - cầu trên thế giới, chất lượng sản phẩm.... Xét về chất lượng quế xuất khẩu, quế được chia làm 6 loại chính - tuỳ thuộc vào lượng tinh dầu có trong sản phẩm: quế 5%, 4,5%, 4%, 3,5%, 3%, 0,8%; bên cạnh đó nhiều vùng còn chia theo quế bình thường và quế vụn. Với mỗi loại quế khác nhau, giá cả cũng có sự chênh lệch nhau rất lớn.
Khi xác định giá bán, một yếu tố không thể tách rời được đó là tỷ giá, khi xuất khẩu thu ngoại tệ nhưng khi thu mua hàng trong nước (gom hàng) lại sử dụng đồng tiền Việt nam và trong những năm qua sự biến động về tỷ giá đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của ngành hàng này.
Bảng 5: Giá xuất khẩu quế 5% cùng kỳ qua các năm.
Năm
Giá bán (USD/tấn)
Tỷ giá VND/USD
Đơn giá tiền việt (đồng)
2000
2.900
1.3500
3.9150.000
2001
3.350
1.4000
4.6900.000
2002
3.700
1.4800
5.4760.000
Nguồn: Công ty xnk Tổng hợp I.HN
Nếu tính cùng một thời điểm tháng 7 qua 3 năm (2000-2001-2002) với một loại quế 5% (như bảng 5 dưới đây), ta thấy rằng sự biến đổi của tỷ giá trên thị trường sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả kinh doanh. Bởi vì nếu tỷ giá của đồng ngoại tệ đó so với VNĐ xuống thấp hay tỷ giá VNĐ so với ngoại tệ đó lên cao, giá bán qui đổi ra đồng Việt nam sẽ cao hơn và khi đó tuỳ theo yêu cầu của kinh doanh chúng ta có thể nâng giá mua để bảo đảm khả năng tổ chức thu mua hàng được hiệu quả cao.
Theo bảng số liệu trên, năm 2000 ta có giá bán 2900 USD/ tấn Quế, tỷ giá VNĐ/USD = 13500, đơn giá tiền Việt là 39.150 nghìn VNĐ. Nếu cùng giá bán này với tỷ giá năm 2001 là 14000 VNĐ/ USD thì đơn giá tiền Việt sẽ tăng lên đến40.600 nghìn VNĐ và như thế doanh nghiệp sẽ thu thêm được 1.450 nghìn VNĐ. Như vậy, tỷ giá tăng sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên (nếu giá bán và các khoản chi phí khác không đổi).
Ngoài ra, giá xuất khẩu của nước ta đa phần là giá FOB (Free on board). Theo cách tính giá này, người bán giao hàng khi hàng hoá đã qua lan can tầu tại cảng bốc hàng quy định trong hợp đồng. Với giá FOB, người mua phải chịu trách nhiệm về việc vận chuyển hàng hoá và gánh chịu mọi rủi ro về mất mát hư hại đối với hàng hoá kể từ sau điểm gianh giới đó. Điều này có mặt lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu quế : khi giao hàng qua lan can tầu là chúng ta hết trách nhiệm, tránh được rủi ro trong quá trình vận chuyển. Hơn nữa, đây cũng là một giá “truyền thống” cho các mặt hàng xuất khẩu của nước ta, do trước kia đội tàu của nước ta khá cũ kỹ, không chiếm được ưu thế hơn so với đội tàu nước ngoài. Nhưng trong những năm gần đây, đội tàu của Việt Nam đã có những trang thiết bị khá hiện đại, khoảng cách về kỹ thuật, độ an toàn...so với đội tàu các nước trong khu vực đã xích lại rất gần. Chúng ta có thể tin tưởng rằng trong tương lai không xa, giá quế xuất khẩu của nước ta sẽ là giá CIF (Cost, insurance and Freight), do chính những con tàu của Việt Nam chuyên chở giao hàng. Theo giá CIF, người bán giao hàng khi hàng hoá đã qua lan can tàu tại cảng đến, người bán phải trả các phí tổn và cước vận tải cần thiết để đưa hàng hoá tới cảng đến, người bán phải mua bảo hiểm hàng hải để bảo vệ cho người mua trước những rủi ro, mất mát và hư hại trong quá trình chuyên chở. Với giá CIF, chúng ta sẽ nâng được vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới, lượng ngoại tệ thu về cho nền kinh tế nhiều hơn (thông qua việc thuê tàu chuyên chở và mua bảo hiểm trong nước) và qua đó cũng nâng cao được trình độ của cán bộ công nhân viên của các công ty ngoại thương....
Bên cạnh đó, tuỳ từng thị trường, bạn hàng khác nhau mà giá cũng có sự tăng hay giảm. Như cùng một loại quế 3,5%, khi xuất sang thị trường Singapo và Hồng Kông, giá xuất khẩu thường ở mức 1.300–1.400USD/tấn, sang thị trường Nga, Đông Âu có thể chỉ ở mức 1.200–1.250 USD/tấn (theo bảng giá của Công ty xnk Tổng hợp 1). Có sự chênh lệch này là do chúng ta không khuyến khích xuất sang những nước trung gian (như Singapo hay Hồng Kông). Giá ưu đãi chỉ dành cho những nước hay nhóm nước có quan hệ “đặc biệt” với nước ta. Khi chúng ta xuất khẩu với giá “mềm” hơn thì họ cũng cho ta hưởng một sự ưu đãi nhất định về một mặt hàng, nhóm mặt hàng nào đó. Ngoài ra, một phần cũng do chúng ta trả nợ bạn hàng cho những ưu đãi trong quá khứ như Nga....Tuy nhiên, sự chênh lệch giá này chiếm một phần không lớn trong quan hệ bạn hàng với các nước khác nhau. Với các bạn hàng, có sự chênh lệch về giá phần lớn là do chất lượng sản phẩm quyết định, một phần là do vị trí địa lý...
Nói chung, giá quế xuất khẩu của nước ta tăng đều hàng năm, phù hợp với thực trạng nhu cầu quế ngày càng tăng trong khi đó lượng cung trên thế giới lại có hạn. Điều này cho thấy các công ty kinh doanh xuất khẩu quế đều có lãi, mặt khác, ý nghĩa lớn hơn là người nông dân sản xuất quế cũng tăng thu nhập ( do giá quế xuất khẩu tăng vì vậy giá quế sản xuất trong nước cũng tăng theo – Bảng 5). Từ đó khuyến khích người dân sản xuất quế: mở rộng diện tích, nâng chất lượng sản phẩm quế thông qua việc chọn cây giống, kỹ thuật chăm bón, tách vỏ....
2.3.3 - Thị trường xuất khẩu sản phẩm quế của Việt Nam
Cùng với việc giữ bạn hàng cũ, các công ty xuất khẩu quế của nước ta không ngừng mở rộng tìm kiếm bạn hàng mới, cho dù những bạn hàng này nhập với khối lượng không lớn và trị giá không đáng kể. Năm 1999, chúng ta xuất sang Anh 1 tấn, trị giá 2.000 USD; Irắc 14 tấn, trị giá 18.000 USD… cũng năm này, chúng ta bắt đầu xuất sang ấn Độ và Malaixia với một lượng đáng kể, ấn Độ: 108 tấn; Malaixia: 82 tấn.
Bảng 6: Sản lượng quế xuất khẩu phân theo nhóm nước.
Đơn vị: tấn
Năm
1994
1995
1996
1997
1999
2000
2001
2002
Tổng
2.622
6.356
2.834
3.399
3.160
3.600
3.950
4.090
Hàn Quốc
555
950
298
397
1.040
1.134
1.140
1.150
Mỹ
88
136
230
422
829
1.020
1.030
1.100
Đài Loan
273
210,3
482
731
498
579
600
612
Nhật
186
205,7
293
303
295
310
323
330
ấn Độ
18
20
35
40
Thái Lan
45
26
24
161
101
150
178
183
Malaixia
82
70
85
89
Hungari
123
181
109
117
53
75
85
93
Singapo
267
102
70
81
52
59
73
78
Hà Lan
225
436
262
694
49
170
195
200
Đức
140
81
103
297
24
92
110
124
Hồng Kông
82
117
39
23
20
20
23
34
Irắc
14
20
28
32
Anh
10
21
1
15
35
35
Nguồn: 1. Niên giám thống kê Thương mại năm 2000.
2. xnk hàng hoá (International Merchandise )-NXB Thống kê 2002.
3. Tạp chí Ngoại thương số 23 năm 2001
Xét về sản lượng quế xuất khẩu, tuỳ theo nhu cầu hàng năm của các nước mà sản lượng có sự tăng giảm mỗi năm. Xét về tổng thể, Hàn Quốc nhập với khối lượng lớn một cách đều đặn. Năm 1999, nước này nhập với khối lượng 1.040 tấn, gần bằng 1/3 khối lượng xuất khẩu quế của nước ta (3.160 tấn). Đến năm 2002, con số tương ứng là 1.150 tấn chiếm khoảng 30% tổng khối lượng quế xuất khẩu của cả nước. Đài Loan cũng là một bạn hàng cố định, hàng năm luôn nhập một khối lượng lớn quế của nước ta để sản xuất tinh dầu quế và một phần dành cho các ngành công nghiệp mỹ phẩm, thực phẩm.... bên cạnh đó, các nước Nhật, Hà Lan, Hungari cũng là những nước có khối lượng nhập lớn cố định sản phẩm quế của nước ta. Hai thị trường trung gian lớn trên thế giới là Hồng Kông và Singapo có khối lượng nhập ngày càng giảm (ví dụ như Singapo, năm 1994 nhập 267 tấn, năm 1995: 102 tấn và năm 1999 xuống còn 52 tấn, Hồng Kông nhập 117 tấn năm 1995 và xuống còn 20 tấn năm 2000. Đây là một dấu hiệu đáng mừng, bởi như vậy các công ty xuất khẩu quế của nước tav đã trực tiếp bán đến tận nơi có nhu cầu mà không qua trung gian. Điều này góp phần nâng vị thế về sản phẩm cũng như hình ảnh của nước ta đối với bạn hàng. Hơn nữa, qua đó cũng mở rộng quan hệ hợp tác giữa nước ta với nước bạn, từ đó thúc đẩy xuất khẩu không những mặt hàng quế mà còn nhiều mặt hàng khác nữa.
Đáng chú ý là bạn hàng Mỹ. Sản lượng quế xuất khẩu sang thị trường này không ngừng tăng kể từ năm 1994 trở lại đây. Nguyên nhân chính là nước ta đã chính thức nối lại quan hệ với Mỹ từ năm 1995. Đây là một lợi thế lớn cho Việt Nam, bởi Mỹ là một thị trường lớn đối với nhiều loại sản phẩm trong đó có quế. Khối lượng quế xuất khẩu sang thị trường này gần như tăng gấp đôi hàng năm Năm 1995 xuất 136 tấn, gấp 1,55 lần so với năm 1994 (88 tấn); năm 1996 xuất 230 tấn, gấp 1,69 lần so với năm 1995; và năm 1999 xuất 498 tấn, gấp 6,42 lần năm 1994; 6,1 lần năm 1995, và cho đến năm 2000, con số này đã vượt trên 1.000 tấn. Sang đến năm 2002 và những năm tiếp theo, sản lượng này còn tăng nhiều hơn do Việt Nam và Mỹ đã kí kết hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
Xét về trị giá của sản phẩm quế, tuỳ theo khối lượng nhập và chất lượng của sản phẩm quế mà trị giá xuất khẩu của từng nước có khác nhau, tăng hay giảm qua từng năm. Có nước nhập khẩu với khối lượng lớn nhưng giá trị lại thấp do quế loại 0,8%; 3% hay quế vụn- bởi họ có nhu cầu nhập những loại quế này về chế biến thức ăn gia súc (Hà Lan). Cũng có những nước nhập khẩu với khối lượng không lớn lắm song giá trị lại rất cao, do nhập quế loại tốt, giá cao hơn các loại quế khác (Đài Loan, Nhật...).
Bảng 7: Trị giá xuất khẩu của quế phân theo nhóm nước.
Đơn vị: nghìn USD.
Năm
1994
1995
1996
1997
1999
2000
2001
2002
Tổng
5.127
7.259
6.754
7.121
4.868
8.177
9.008
9.594
Đài Loan
1.137
1.703
2.021
1.891
1.322
2.170
2.306
2.380
Hàn Quốc
1.225
2.091
632
670
1.258
1.795
1.921
1.990
Mỹ
227
488
759
764
1.066
1.700
1.983
1.998
Nhật
408
893
812
739
555
685
850
1060
Malaixia
161
136
303
365
ấn Độ
121
150
290
400
Thái Lan
43
66
50
251
84
210
250
288
Hà Lan
301
461
291
616
72
635
750
758
Singapo
753
304
148
143
71
162
112
110
Hungari
273
488
759
764
52
96
115
119
Hồng Kông
160
383
142
67
30
35
30
28
Đức
134
88
114
238
29
40
76
98
Nguồn: 1. Niên giám thống kê Thương Mại năm 2000.
2. XNK hàng hoá - NXB Thống kê 2001.
3. Tạp chí Ngoại thương năm 2002
Trong cả quá trình từ năm 1994 đến năm 2002, Đài Loan là nước có trị giá nhập khẩu quế của nước ta lớn nhất. Có thể nói đây là bạn hàng lớn và cố định của nước ta. Năm 1996, Đài Loan nhập với trị giá 2.021 nghìn USD, chiếm gần 1/3 tổng trị giá xuất khẩu quế của cả nước (6.754 nghìn USD). Đến năm 2002, nước này nhập với trị giá 2.380 nghìn USD lớn hơn trị giá xuất khẩu của các năm trước đó vào thị trường này. Trị giá xuất khẩu sản phẩm của ta sang Đài Loan luôn luôn trên một triệu USD. Xét về sản lượng thì Đài Loan là nước đứng thứ 2-3 sau Hàn Quốc hoặc Mỹ, song về trị giá thì Đài Loan là nước chiếm vị trí thứ nhất. Nguyên nhân là do Đài Loan nhập từ nước ta loại quế tốt, trị giá cao (quế 5%, 4,5%, 4%...) để chế biến tinh dầu chất lượng cao. Xét về lâu dài thì Đài Loan vẫn là bạn hàng cố định và đòi hỏi cao ở nước ta.
Hàn Quốc cũng là một bạn hàng lớn sau Đài Loan cả về mặt giá trị, kim ngạch lẫn sản lượng xuất khẩu của nước ta. Năm 1995 là năm mà trị giá nhập khẩu quế Việt Nam của Hàn Quốc lớn nhất trong thời gian vừa qua (2.091 nghìn USD, gấp 1,71 lần năm 1994; 3,31lần năm 1996). Có được điều này là do sản lượng quế xuất sang Hàn Quốc khá lớn (năm 1995 sản lượng quế xuất sang Hàn Quốc gần bằng 1/3 sản lượng quế xuất khẩu của cả nước). So với Đài Loan, Hàn Quốc nhập loại quế có chất lượng kém hơn, thông thường là loại quế 4%, 3,5% hay 3% để dùng cho công nghiệp chế biến mỹ phẩm...
Như trên đã trình bầy, Mỹ là một bạn hàng có nhiều tiềm năng và có thể nói rằng đây là một bạn hàng khá “dễ tính” với chủng loại, chất lượng sản phẩm phong phú. Cùng với sự gia tăng của sản lượng xuất khẩu sang Mỹ, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này cũng không ngừng tăng lên. Hàng năm, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này tăng gấp đôi so với năm trước: năm 1995 đạt 488 nghìn usd, gấp 2,15 lần năm 1994 (227 nghìn USD); năm 1999 đạt 1.066 nghìn USD, tăng 1,4 lần năm 1996, 1997, gấp 4,7 lần năm 1994. Tuy nhiên sự gia tăng về kim ngạch này là sự tất yếu- do có sự gia tăng về khối lượng xuất khẩu. Mỹ nhập khẩu quế của nước ta chủ yếu là dùng để làm hương liệu, đặc biệt là dùng trong công nghiệp thực phẩm, đồ uống... Xu hướng trong những năm tới, có thể Mỹ sẽ vươn lên dẫn đầu làm nước nhập khẩu lớn nhất và có tổng kim ngạch nhập khẩu lớn nhất sản phẩm quế của Việt Nam , đặc biệt là sau khi ta và Mỹ kí hiệp định thương mại.
Với những bạn hàng khác như: Nhật- chủ yếu nhập khẩu sản phẩm quế chất lượng cao dùng trong công nghệ chế biến thực phẩm, cũng là một bạn hàng truyền thống của nước ta song đòi hỏi về chất lượng sản phẩm của nước này khá khắt khe; Đức, Hà Lan, Hungari,... cũng là những nước có khối lượng cũng như giá trị xuất khẩu quế của nước ta đều đặn, với chất lượng sản phẩm quế không đòi hỏi cao...
Nhận biết được nhu cầu về sản phẩm quế trên thế giới, nắm vững được tình hình khai thác, chế biến quế và tình hình xuất khẩu quế của nước ta là một việc làm cần thiết để Công ty đưa ra những đối sách hợp lý nhằm phát triển hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, Công ty cũng cần phải nắm rõ tình hình hoạt động của chính mình và trên cơ sở đó khắc phục nhược điểm, phát huy những ưu điểm, từng bước tháo gỡ vướng mắc đưa công ty phát triển cùng với nhịp độ chung của thế giới.
Phần 3
Tình hình Hoạt động xuất khẩu quếcủa
công ty xuất nhập khẩu tổng hợp 1
3.1 - Thực trạng hoạt động xuất khẩu quế của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp 1
3.1.1 - Nghiệp vụ thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Bao gồm các khâu: Nghiên cứu chọn lọc nguồn hàng, phương thức mua, kí kết hợp đồng mua bán, thực hiện hợp đồng.
Nhiệm vụ chủ yếu ở đây là tìm kiếm nguồn hàng, lựa chọn khu vực đặt hàng, địa điểm tập kết giao hàng, phương thức mua bán nhằm có được hàng đúng chất lượng, đúng thời gian, thuận tiện cho vấn đề tài chính, huy động vốn.
Cũng như bất kỳ sản phẩm Nông Nghiệp nào khác, quế được trồng ở nhiều vùng rải rác khắp đất nước từ Yên Bái, tới tận Quảng Nam với sản lượng khác nhau nên việc thu mua chế biến để chuẩn bị đầu vào cho xuất khẩu là khâu quan trọng, được Công Ty hết sức chú trọng. Mọi người đều nhận thức được rằng nếu làm tốt khâu thu mua, chế biến thì có điều kiện hạ giá thành sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Những năm trước đây, do sự nhận biết của người dân và cơ quan quản lý còn kém nên dẫn tới tình trạng khai thác bừa bãi, gây lãng phí rất lớn cho đất nước. Hàng năm, bao nhiêu tấn quế được khai thác thì ít nhất cũng có một nửa số dư sản phẩm và cây lá bị vứt bỏ. Với giá dầu quế hiện nay khoảng 220 USD/kg, thì hàng năm chúng ta bị lãng phí khoảng 3.500.000 USD. Việc khai thác bừa bãi còn ảnh hưởng đến sản lượng khai thác năm sau.
Ngoài sự lãng phí trong việc khai thác, chính sách quản lý Nhà Nước cũng chưa thoả đáng cho các doanh nghiệp thu mua quế. Nhà Nước trực tiếp đứng ra thu mua quế từ nông dân, từ người trồng trọt để sau đó bán lại cho các doanh nghiệp tiến hành chế biến và xuất khẩu. Việc làm này vô hình chung đã làm cho giá xuất khẩu quế tăng cao lên, làm giảm khả năng cạnh tranh gây thiệt hại cho doanh nghiệp xuất khẩu và cả Nhà Nước.
Sau một thời gian, Nhà Nước cũng nhận thấy một số thiếu sót trong chính sách quản lý thu mua quế và có những sửa đổi bổ sung nhưng những sửa đổi này mang tính chất chắp vá lại thiếu tính hiện thực nên không mang kết quả khả quan. Chỉ đến cuối những năm 80 đầu những năm 90, khi Nhà Nước thay đổi cơ chế quản lý trao quyền tự do kinh doanh cho doanh nghiệp thì hoạt động này với dần đi vào nề nếp.
Với Công ty XNK tổng hợp 1, trong giai đoạn đầu, chính sách thu mua của Công ty cũng bị lệ thuộc chặt chẽ vào các quy định của Nhà Nước. Là một doanh nghiệp Nhà Nước nên Công ty không tham gia thu mua trốn lậu thuế (thuế khai thác tài nguyên ) như tư thương làm, làm cho giá quế xuất khẩu quá cao, khó có thể cạnh tranh với các đơn vị khác, đặc biệt là tư thương. Hơn nữa, đây là giai đoạn Công ty mới thành lập và đi vào hoạt động, đội ngũ cán bộ công nhân còn non kém, có tư tưởng chờ việc, chờ bạn hàng đến giao dịch, uỷ thác xuất khẩu nên phần thu mua còn yếu kém. Ngoài ra, khó khăn về vốn trong giai đoạn đầu cũng cản trở công việc của Công ty, để cho các đơn vị bạn lấn lướt. Lãnh đạo và tập thể công nhân viên cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của khâu thu mua tạo nguồn hàng và đề ra một số biện pháp, nhưng trong giai đoạn này không phát huy được do sự quản lý của Nhà Nước. Chúng ta có thể thấy khó khăn này khi xuất khẩu của Công ty năm 1987 là 59 tấn, năm 1988 là 55 tấn, năm 1989 là 86 tấn.... trong khi sản lượng quế khai thác ở Việt Nam năm 1989 xấp xỉ là 1.500 tấn.
Sang đầu thập niên 90, khi cơ chế quản lý cũ bị xoá bỏ, cơ chế quản lý mới được hình thành và hoạt động có hiệu quả, Nhà nước chỉ làm nhiệm vụ quản lý mới hình thành và hoạt động có hiệu quả, Nhà nước chỉ làm nhiệm vụ quản lý, còn các doanh nghiệp tự do kinh doanh trong phạm vi giấy phép kinh doanh. Nhà nước xoá bỏ độc quyền thu mua quế, cho phép các doanh nghiệp được phép thu mua quế theo quy luật thị trường dựa vào nhu cầu của từng doanh nghiệp. Những quyết định, thay đổi này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu quế nói chung, Công ty XNK tổng hợp 1 nói riêng trên con đường kinh doanh của mình.
Công ty ký hợp đồng với các đại lý thu mua của từng địa phương. Theo đó, các đại lý thu mua này sẽ làm công tác thu mua, gom hàng từ người trồng ở địa phương, sau đó thực hiện các hợp đồng với Công ty. Tuỳ tình hình cụ thể, các cơ sở thu mua này sẽ được Công ty tạm ứng một phần tiền mua hàng để giúp đỡ họ về vốn kinh doanh. Hình thức này có một ưu điểm là Công ty không phải trực tiếp đứng ra thu mua, có quyền đòi hỏi về chất lượng hàng hoá của mình đã quy định trước cho người thu mua. Mặt khác, qua đó Công ty xác định được sơ bộ giá thành từ đó xác định giá cả xuất khẩu, sao cho có lợi nhất và có khả năng cạnh tranh cao nhất. Ngoài tính tích cực, hình thức này cũng có những hạn chế của nó như làm tăng chi phí trung gian cho các đại lý thu mua, phụ thuộc vào kết quả thu mua của họ làm ảnh hưởng đến kế hoạch xuất khẩu của Công ty.
Để hạn chế những nhược điểm trên, đồng thời làm tăng tính chủ động trong việc chuẩn bị nguồn hàng. Công ty đã thực hiện biện pháp ký kết hợp đồng trực tiếp với người trồng thông qua các chi nhánh của mình ở từng địa phương. Người trồng khi kí hợp đồng sẽ được Công ty hỗ trợ một phần tiền và kỹ thuật phát triển cây quế, sau đó Công ty xẽ thu mua lại sản phẩm này. Hiện nay, trong khâu thu mua quế, Công ty áp dụng cả hai biện pháp thu mua đại lý và thu mua trực tiếp của người trồng để kết hợp, phát huy những ưu điểm và khắc phục những nhược điểm của từng biện pháp chính vì có sự linh hoạt trong thu mua mà nguồn hàng xuất khẩu của Công ty luôn được đảm bảo.
3.1.2 - Chế biến và bảo quản.
Từ trước đến nay Công ty XNK tổng hợp 1 vẫn thuê ngoài gia công chế biến. Căn cứ vào hợp đồng ký kết với các đối tác nước ngoài về quy cách, chất lượng hàng hoá, Công ty lên kế hoạch thu mua và thuê các cơ sở chế biến. Việc chế biến hiện nay vẫn theo phương pháp thủ công, quá trình chế biến phải trải qua nhiều giai đoạn: Ngâm quế, phơi khô, ủ quế rồi lại tiếp tục phơi. Cứ thế phải 15 ngày mùa hè và 1 tháng mùa đông mới hoàn chỉnh. Quy trình bảo quản quế rất công phu, quế phải được làm sạch sẽ, đóng gói cẩn thận và bảo quản nơi khô ráo. Việc duy trì hương vị của quế được đưa lên hàng đầu.
Nhận thấy việc thuê ngoài ra công chế biến là không có lợi nên Công ty đã lập luận chứng xây dựng nhà máy chế biến quế và nông sản xất khẩu. Dự án đã được Bộ thương mại thông qua. Công Ty đã đầu tư 1,5 tỷ đồng để xây dựng nhà máy tại Gia Lâm và đến cuối năm 2002 đã đưa vào hoạt động.
3.1.3 - Hợp đồng Xuất khẩu quế
Hợp đồng xuất khẩu quế cũng như các hợp đồng xuất khẩu hàng hoá khác, nó cũng có đầy đủ các điều khoản thông thường mà một hợp đồng xuất khẩu phải có. Tuy nhiên, trong từng điều khoản của nó lại có sự khác biệt với các hợp đồng hàng hoá khác mà cần được chú ý khi kí kết hợp đồng, đó là:
* Về số lượng.
Quế cũng như các loại nông sản khác, nó là sản phẩm Nông nghiệp nên có quan hệ mật thiết (nói cách khác là chịu ảnh hưởng) của các yếu tố về khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm... trong hợp đồng xuất khẩu quế, khi quy định về số lượng người ta không xác định một cách chính xác mà thường quy định phần dung sai này phòng khi có sự tăng giảm về số lượng do thiên nhiên gây ra để hai bên khỏi tranh chấp, nghi ngờ lẫn nhau.
* Về chất lượng:
Chất lượng ghi trong hợp đồng là tổng hợp các đặc tính quy cách, tác dụng nói lên mặt chất của hàng hoá. Trong hợp đồng mua bán, chất lượng là cơ sở để hai bên mua bán đàm phán về giao nhận hàng và quyết định mức giá cả của hàng hoá.
Đối với hợp đồng xuất khẩu quế của Công ty, ngoài những quy định rõ ràng về hình thức và đặc tính hoá học một cách chi tiết, Công ty còn đặc biệt chú ý đến hàm lượng tinh dầu trong quế vì hàm lượng này quyết định chất lượng cũng như giá cả của quế. Khi nói đến hàm lượng tinh dầu người ta thường nói đến hai loại sau:
- Hàm lượng tinh dầu tương đối: Là hàm lượng dầu được đo ở độ ẩm bình thường của môi trường.
- Hàm lượng tinh dầu tuyệt đối: Là hàm lượng tinh dầu được đo trong điều kiện độ ẩm là 0%.
Trong quá trình ký kết hợp đồng, thông thường khách hàng muốn mua quế theo cách tính hàm lượng tinh dầu tương đối, còn người bán thì muốn tính với hàm lượng tinh dầu tuyệt đối. Đây là vấn đề về nghệ thuật đàm phán kinh doanh mà chúng ta phải cố gắng sao cho có lợi nhất về mình. Về mặt này, do biết vận dụng các kỹ thuất trong đàm phán, biết tận dụng những điểm mạnh của mình tấn công vào yếu điểm của đối phương nên Công Ty XNK tổng hợp 1 đã có những thành tựu đáng kể trong vài năm gần đây, họ thường ký hợp đồng với cách tính hàm lượng tinh dầu tuyệt đối.
* Về thanh toán: Trong buôn bán quốc tế, hình thức thanh toán phổ biến là L/C (letter of credit) trong hệ thống ngân hàng. Thư tín dụng là văn bản thể hiện sự cam kết của ngân hàng nước người mua đối với người bán để thực hiện nghĩa vụ trả tiền quy định trong điều khoản thanh toán của hợp đồng mua bán, nó được mở ra trên cơ sở hợp đồng mua bán. Đây là cam kết của ngân hàng phát hành đảm bảo thanh toán cho người hưởng lợi khi bộ chứng từ được xuất trình hợp lệ. Hình thức này thường được áp dụng khi ta ký hợp đồng với khách hàng mới mà ta chưa biết gì về họ, nó an toàn cho cả người bán và người mua vì có một ngân hàng nào đó đứng ra trả tiền cho người bán nếu người bán trình đủ chứng từ hợp lệ ngay cả trong trường hợp người mua vì lý do nào đó không trả tiền cho ngân hàng này. Tuy nhiên, với bạn hàng quen thuộc đã có sự tin cậy lẫn nhau thì không nhất thiết phải áp dụng theo phương thức L/C mà có nhiều phương thức khác như phương thức chuyển tiền, phương thức thanh toán ghi sổ, phương thức nhờ thu.
Bạn hàng nhập khẩu quốc tế của Công ty XNK tổng hợp 1 chủ yếu từ các nước Singapore, Hồng Kông... có quan hệ làm ăn lâu năm đã có được sự tin cây lẫn nhau. Những năm trước đây, khi tình hình tài chính của Công ty còn nhiều khó khăn, các bạn hàng đã giúp đỡ Công ty bằng cách thanh toán trước một phần để Công ty có vốn thu gom và chế biến hàng. Hiện nay, tình hình tài chính của Công ty nhìn chung đã đảm bảo cho hoạt động chuẩn bị cho nguồn hàng xuất khẩu, mặt khác muốn giữ quan hệ làm ăn lâu dài nên Công ty thường nhận tiền thanh toán sau khi giao hàng.
Với bạn hàng mới làm ăn lần đầu, để đảm bảo an toàn, Công ty nhất thết phải sử dụng thanh toán bằngL/C . Sau này khi đã trở thành bạn hàng quen thuộc có được sự tín nhiệm lẫn nhau thì có thể dùng nhiều phương pháp thanh toán khác.
* Về phương tiện vận tải:
Việc xuất khẩu của Công ty cho đến nay vẫn theo hình thức FOB (Free on Board) nên trong hợp đồng, việc thuê vận tải là do đối tác nước ngoài. Việc làm này cũng làm thiệt hại một số ngoại tệ nhất định nhưng do lúc đó đội tàu của ta khá cũ kỹ, không chiếm được ưu thế so với đội tàu nước ngoài. Trong những năm gần đây, đội tàu của Việt Nam đã có những trang thiết bị khá hiện đại, khoảng cách về kỹ thuật, độ an toàn,… so với đội tàu các nước trong khu vực đã xích lại rất gần. Chúng ta có thể tin tưởng rằng trong tương lai không xa, khi sản lượng xuất khẩu tăng lên, giá quế xuất khẩu của nước ta sẽ là giá CIF (Cost, insurance, Freigh), do chính những con tàu của Việt Nam chuyên chở giao hàng. Với giá CIF, chúng ta sẽ nâng được vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới, lượng ngoại tệ thu về cho nền kinh tế nhiều hơn và qua đó cũng nâng cao được trình độ của cán bộ công nhân viên của các công ty ngoại thương... Đồng thời tạo điều kiện cho các nghành khác như : Vận tải, bảo hiểm có điều kiện phát triển tăng thêm bạn hàng.
* Về bảo hiểm hàng hoá:
Quế cũng như các loại sản phẩm Nông nghiệp khác, là mặt hàng rất dễ hư hỏng trong quá trình vận chuyển, người ta thường mua bảo hiểm cho nó với mức bảo hiểm cao nhất - bảo hiểm mọi rủi ro.
Do xuất khẩu quế của Công ty lâu nay vẫn theo hình thức FOB (Free on Board) nên việc mua bảo hiển thuộc về người mua hàng ở các nước ngoài. Hình thức này có ưu điểm là trách nhiệm của Công ty cho đến sau khi giao hàng là hết, còn mọi rủi ro sau đó thuộc về người mua hàng, nhưng nó có nhược điểm là giá thành xuất khẩu thấp, không tạo điều kiện cho ngành vận tải quế và bảo hiểm quế phát triển. Trong tương lai, Công ty sẽ cố gắng xuất khẩu theo hình thức CIF (Cost, Insurance and Freigh). Khi đó, việc mua bảo hiểm và chuyên chở hàng hoá sẽ thuộc về chúng ta. Điều này góp phần làm cho ngành bảo hiểm và vận tải phát triển đồng thời cũng thu về cho nền kinh tế nhiều ngoại tệ hơn.
3.1.4 - Giá cả (giá xuất khẩu).
Cũng như với bất cứ mặt hàng nào khác, giá cả xuất khẩu quế về nguyên tắc phải đáp ứng yêu cầu: giá cả phải bù đắp mọi chi phí sản xuất trong nước, có lãi và bảo đảm sức cạnh tranh trên thế giới.
Trước năm 1990, việc xuất khẩu quế của Công ty XNK tổng hợp 1 cũng như các Công ty khác chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Liên Xô (cũ) và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa Đông âu theo nghị định thư được ký kết cấp chính phủ. Vì vậy, giá cả xuất khẩu quế đã được ấn định trước và tương đối ổn định. Cùng thời gian đó, chỉ có một số lượng ít công ty khai thác ngoài phần thực hiện nghĩa vụ với Nhà Nước được bán với giá linh hoạt. Nhưng với phần xuất khẩu này Công ty lại xuất khẩu với mức giá chênh lệch lớn hơn giá trên thị trường thế giới và thường bị tư thương nước ngoài ép giá do kinh nghiệm buôn bán trên thị trường thế giới còn non nớt.
Từ năm 1990 trở lại đây, do chuyển sang cơ chế thị trường, Nhà Nước bãi bỏ chế độ quản lý giá đối với mặt hàng quế và giá quế hiện nay do thị trường quyết định. Tình trạng thực tế là quế xuất khẩu của Công ty hay Việt Nam nói chung vẫn còn chênh lệch so với giá quốc tế khá lớn. Chúng ta có thể thấy qua bảng sau (bảng 8).
Trên thế giới chỉ có rất ít nước mà giá quế xuất khẩu của họ được niêm yết tham khảo trên thị trường thế giới. Quế của Việt Nam không được niêm yết thống nhất mà tuỳ thuộc vào từng công ty.
Nhìn chung giá quế xuất khẩu của Việt Nam thường cao hơn giá quế trên thị trường thế giới. Có sự chênh lệch này là do quế của ta có chất lượng tốt hơn. Ngoài ra, do vẫn khai thác chế biến theo phương pháp thủ công, năng suất trồng quế không cao mặc dù chất lượng tốt. Đây là một hạn chế mà không chỉ Công ty XNK tổng hợp 1 mà các doanh nghiệp của ta cũng cần phải tìm mọi cách để khắc phục.
Bảng 8 giá cả xuất khẩu quế của Công Ty và giá cảthị trường quốc tế năm 2002
Quy cách, phẩm chất
Đơn giá của Công ty XNK tổng hợp 1 (USD/ tấn)
Đơn giá quốc tế
(USD/ tấn)
Quế 5%
3.700
2.750
Quế 4,5%
2.850
2.780
Quế 4%
2.200
2.100
Quế 3,5%
1.500
1.650
Quế 3%
920
1.280
Quế 0,8%
560
430
Quế thân cành
1.880
1.850
(Nguồn: Tài liệu phòng nhiệp vụ 7)
Nhìn vào bảng số liệu trên, nhiều người cho rằng với giá cao hơn giá quốc tế Công ty sẽ thu được khoản lợi nhuận cao hơn các doanh nghiệp khác nhưng trên thực tế không phải như vậy. Giá xuất khẩu của Công ty cao nhưng chi phí mà công ty bỏ ra trong quá trình thu gom, chế biến cũng rất lớn.
Như đã biết, quế được trồng rải rác trên khắp đất nước, việc thu gom quế phải mất chi phí lớn. Công ty thường ký hợp đồng với đại lý thu mua ở từng địa phương. Theo đó, các đại lý thu mua này sẽ làm công tác thu mua, gom hàng từ người trồng ở địa phương, sau đó thực hiện các hợp đồng với công ty. Công ty không phải trực tiếp đứng ra thu mua mà vẫn có quyền đòi hỏi về chất lượng sản phẩm đã quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên hình thức này cũng có hạn chế, nó phụ thuộc vào kết quả thu mua của họ làm ảnh hưởng đến kế hoạch, làm tăng chi phí trung gian cho các đại lý thu mua và do đó đẩy giá thành sản phẩm lên cao. Không chỉ có vậy, việc chế biến quế của công ty từ trước đến nay vẫn phải thuê ngoài gia công làm cho chi phí chế biến tăng. Cuối năm 2002, xí nghiệp chế biến quế và nông sản xuất khẩu đã đi vào hoạt động nhưng do mọi thứ vẫn còn mới mẻ nên hoạt động của Xí nghiệp này vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của Công ty.
Tóm lại, dù giá xuất khẩu cao hơn giá quốc tế nhưng hiệu quả kinh doanh của Công ty lại không cao. Điều này buộc Công ty phải đẩy mạnh hơn nữa công tác thu mua, gom hàng và chế biến sao cho có hiệu quả hơn để giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong cùng lĩnh vực.
3.1.5 – Tiếp cận thị trường và đối tác kinh doanh
Trong kinh doanh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu quế nói riêng, việc tìm kiếm thị trường là vấn đề quan trọng bảo đảm cho việc kinh doanh diễn ra đạt hiệu quả cao.
Các thị trường chủ yếu là:
3.1.5.1 - Thị trường các nước Châu á.
Các nước Châu á có buôn bán quế với Việt Nam chủ yếu lá Singapore, Hồng Kông, Nhật Bản, gần đây có thêm một số thị trường khác như : Hàn Quốc, Malayxia... Nhìn chung, đây đều là các bạn hàng truyền thống có hoạt động buôn bán lâu năm với Công ty nên biết khá rõ về nhau. Các nước Châu á chủ yếu nhập khẩu của ta để tái xuất sang nước thứ ba còn lượng sử dụng trong nước họ rất ít. Lượng quế sử dụng ở Châu á tuy nhỏ nhưng lại có yêu cầu chất lượng rất cao do họ sử dụng quế trong y học, còn cho mục đích làm gia vị hay thực phẩm thì không đáng kể. Do vậy, họ chấp nhận giá cao cho loại quế này, có khi lên tới 70 USD/ kg (gấp 30-35 lần loại quế thông thường).
Những năm gần đây, Công ty XNK tổng hợp 1 đã đầu tư cho sản xuất và chế biến để nâng cao chất lượng quế xuất khẩu, phục vụ cho thị trường này. Bên cạnh đó, Công ty không ngừng gia tăng sản lượng quế xuất khẩu với loại quế thông thường như quế ống, quế vụn đã qua chế biến. Như vậy, một mặt vừa hạn chế được những thiệt hại cho việc xuất khẩu sản phẩm thô, mặt khác còn làm giảm sự cạnh tranh từ nước tái xuất ở các thị trường các nước tiêu thụ. Theo Công ty, đến cuối năm 2002, khi nhà máy chế biến quế và lâm sản đi vào hoạt động, Công ty chỉ xuất khẩu quế qua khâu chế biến và làm sạch cho các thị trường tiêu thụ là chính, còn lượng xuất khẩu qua các nước tái xuất như Singapore, Hồng Kông giảm đi đáng kể.
3.1.5.2 - Thị trường Mỹ.
Thị trường Mỹ là thị trường tiêu thụ hàng hoá khổng lồ, trung bình mỗi năm tiêu thụ khoảng 16.000 tấn quế gấp 40 lần sản lượng của Công Ty XNK tổng hợp 1. Qua đó ta thấy được độ lớn của thị trường Mỹ, nếu làm tốt công tác tiếp thị thị trường thì bao nhiêu quế xuất khẩu sang Mỹ cũng không đủ.
Trước khi bỏ cấm vận với Việt Nam, hàng hoá xuất sứ từ Việt Nam không được chấp nhận tại thị trường Mỹ. Vì thế giai đoạn này Công ty không trực tiếp buôn bán với bạn hàng Mỹ mà phải qua nước thứ ba, gây ra thiệt hại đáng kể. Sau khi Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam và bình thường hoá quan hệ ngoại giao, Công ty được sự giúp đỡ của bộ thương mại đã nghiên cứu, tìm đối tác để thực hiện xuất khẩu trực tiếp sang thị trường này không qua trung gian nhưng số lượng chỉ đạt 176 tấn năm 2002 (chiếm khoảng 30% sản lượng xuất khẩu của Công ty và chưa đầy 1% thị phần Mỹ), chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của cả hai bên. Sau khi dỡ bỏ hoàn toàn mọi trở ngại còn tồn tại giữa hai nước thông qua việc kí kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ, quế của Việt Nam nói chung và của Công ty XNK tổng hợp 1 nói riêng đã tạo được chỗ đứng trên thị trường to lớn này, sản lượng quế xuất khẩu sang thị trường này tăng lên đáng kể từ 142 tấn năm 1996 lên đến 176 tấn năm 2002.
3.2.2.3 - Thị trường các nước châu Mỹ khác.
ở Châu Mỹ, ngoài Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ quế khổng lồ cũng còn nhiều nước tiêu thụ quế thuộc loại khá lớn trên thế giới như Mexico (khoảng 3000 tấn/ năm)... Các nước Châu Mỹ nói chung là nước sử dụng gia vị lớn nhất trên thế giới do đặc tính văn hoá, dân tộc và món ăn truyền thống của họ. Tuy vậy, họ còn quá xa lạ đối với quế Việt Nam. Với công việc nghiên cứu thị trường cho mình, Công Ty coi đây là thị trường tiềm năng trong tương lai của mình trong vòng 5-10 năm tới khi sản lượng quế trồng ở Việt Nam khai thác được khoảng 20.000- 25.000 tấn/ năm. Trước mắt, Công Ty chỉ thực hiện xuất khẩu các nước này thông qua từng hợp đồng ký kết với các đối tác tại các nước nói trên chứ chưa thông qua công tác marketing trên thị trường. Để phát triển hơn nữa hoạt động của mình trong thời gian tới công ty cần phải tiến hành công tác marketing một cách rộng rãi hơn.
2.4.2.4 - Một số thị trường khác.
Thị trường các nước Châu Âu như: Đức, Anh , Hà Lan... có thói quen dùng loại quế làm gia vị, nguyên liệu cho Công nghiệp thực phẩm nên không yêu cầu chất lượng cao và họ thường nhập quế vụn với giá rẻ. Với các loại quế vụn thu được từ khâu khai thác và chế biến thì đây là thị trường lý tưởng cho xuất khẩu loại quế này.
Với thị trường úc, một thị trường có mức tiêu thụ trung bình trên thế giới (khoảng 1000 tấn / năm) nhưng ở gần Việt Nam thì đó cũng là một thị trường lý tưởng do chi phí vận chuyển thấp, chúng ta có khả năng xâm nhập và cạnh tranh trên thị trường này.
Thời kỳ trước năm 1990, thị trường xuất khẩu quế của Công Ty chủ yếu là các nước XHCN cũ ở Đông âu và Liên Xô, sản phẩm xuất cho các nước này chủ yếu là nguyên liệu ở dạng sơ chế nên giá không cao. Ngoài chỉ tiêu thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà Nước, phần còn lại, Công Ty xuất khẩu sang các nước khác như: Singapore, Hồng Kông để thu ngoại tệ mạnh và nhập khẩu những hàng hoá thiết yếu phục vụ cho đời sống xã hội như vải vóc, ti vi, tủ lạnh... nhưng quế Việt Nam xuất khẩu ở dạng sơ chế nên gây bất lợi cho Công ty XNK tổng hợp 1 nói riêng và Việt Nam nói chung.
3.2 - Kết quả xuất khẩu Quế
3.2.1 - Về giá trị sản lượng và kim nghạch xuất khẩu.
Việt Nam có khí hậu và điều kiện phù hợp với điều kiện sinh trưởng và phát triển của quế và do quế là mặt hàng có giá trị nên nó được coi là mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Trước năm 1990 do tình hình thu mua và chế biến quế gặp nhiều khó khăn nên sản lượng xuất khẩu của Công ty XNK tổng hợp 1 chỉ khoảng 50-70 tấn/năm, giá trị kim nghạch 70.000-100.000 USD.
Từ năm 1991-2002 sản lượng kim ngạch xuất khẩu quế của Công ty không ngừng tăng lên, năm 1998 sản lượng và kim ngạch tăng gấp 5,6 lần so với năm 1992, năm 1999 tình hình xuất khẩu quế giảm so với năm 1998, nguyên nhân là do Công ty cũng chịu ảnh hưởng không tốt từ cuộc khủng hoảng tiền tệ cùng với những chính sách mới của Nhà Nước làm hạn chế xuất khẩu do đó làm giảm kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Sang những năm 2000 - 2002 do Công Ty có những chính sách phù hợp như xây dựng xí nghiệp chế biến quế và nông sản, cấp tín dụng cho người trồng quế, thiết lập các đại lý thu gom hàng ở nhiều địa phương, giảm xuất khẩu quế chưa qua chế biến, tận dụng hết lượng quế khai thác được (xuất khẩu cả quế thân cành, quế vụn), giảm xuất khẩu qua các thị trường trung gian,… làm cho kim ngạch xuất khẩu quế lại tiếp tục tăng lên. Điều này thể hiện rất rõ qua bảng số liệu sau:
Bảng 9
Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp 1.
Năm
Sản lượng (tấn)
Kim ngach (USD)
1991
95
171.000
1992
120
216.000
1993
197
374.300
1994
240
456.000
1995
320
624.000
1996
390
780.000
1997
475
850.000
1998
530
950.000
1999
500
900.000
2001
556
1.000.000
2002
664
1.200.000
Bảng 10: So sánh về giá trị tổng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu qua các năm (năm sau/ năm trước)
Tỉ lệ%
Chỉ tiêu
92/93
94/93
95/94
96/95
97/96
98/97
99/98
01/00
02/01
Sản lượng
164,2
121,8
133,3
121,9
120,0
111,6
94,34
111,2
119,4
Kim ngạch
173,1
121,9
136,8
125
111,7
111,8
94,74
111,1
120,0
(Nguồn: Tài liệu phòng kế toán tổng hợp)
3.2.2 – Kết qủa xuất khẩu quế theo thị trường
Sau năm 1990, để bù đắp cho thị trường giảm sút từ các nước Đông âu là sự tăng lên cả về sản lượng lẫn kim ngạch ở thị trường các nước ở cả Châu á lẫn Châu Mỹ. Ta có thể thấy qua bảng sau:
Bảng 11: kết quả xuất khẩu theo thị trường.
Năm
Thị
Trường
1996
1997
1998
1999
2002
Sản lượng (tấn )
Tỷ trọng (%)
Sản lượng ( tấn)
Tỷ trọng (%)
Sản lượng (tấn)
Tỷ trọng (%)
Sản lượng (tấn)
Tỷ trọng (%)
Sản lượng ( tấn)
Tỷ trọng (%)
Singapore
170
43,6
133
28
135
25,5
124
24,8
118
21,2
Nhật Bản
92
23,6
110
23,2
120
22,6
112
22,4
120
21,58
Hồng công
41
10,5
51
10,8
63
11,9
96
19,2
104
18,7
Mỹ
-
-
142
30
165
31,1
160
32
176
31,65
đông âu
40
10,2
-
-
-
-
-
-
-
-
Khu vực khác
47
12,1
39
8
47
8,9
8,0
1,6
38
6,8
Tổng cộng
390
100
475
100
530
100
500
100
556
100
(Nguồn: Tài liệu phòng nghiệp vụ 7)
Bảng trên cho ta thấy, sang đầu năm 1997, lượng quế xuất khẩu chủ yếu tăng vào thị trường Mỹ. Đây là thị trường lớn, có nhiều hứa hẹn. Hy vọng trong những năm tới, Công Ty sẽ có nhiều hợp đồng với thị trường này. Mặc dù năm 1999 lượng quế xuất khẩu có giảm nhưng sau đó đã tăng lên đáng kể. Đây chính là dấu hiệu khả quan để chúng ta có thể tự tin phát triển hơn nữa hoạt động xuất khẩu của mình trong tương lai.
Tóm lại, dù có sự phân chia, phân tích xác định các thị trường tiêu thụ hiện tại và tương lai, nhưng cho đến nay buôn bán quế chủ yếu của Công Ty XNK tổng hợp 1 vẫn tiến hành chủ yếu với các nước Châu á truyền thống. Việc phân chia này mang tính chất định hướng cho tương lai, khi sản lượng cũng như kim nghạch xuất khẩu của Công Ty lớn mạnh lên, chúng sẽ giúp ích cho Công Ty không chỉ về quế mà còn ở các ngành khác.
Trong những năm qua, định hướng của Công ty là giảm bớt việc xuất khẩu quế qua thị trường trung gian. Điều này đã và đang được công ty thực hiện tốt bởi Singapore là thị trường trung gian lớn nhất của ta nhưng sản lượng xuất khẩu sang thị trường này trong những năm qua giảm mạnh. Nếu năm 1996 sản lượng xuất khẩu sang thị trường này là 170 tấn (chiếm 43,6%) thì đến năm 200 chỉ còn 118 tấn (chiếm 21,2%). Như vậy, qua 6 năm tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Singapore đã giảm xuống còn một nửa.
Một điều đáng tiếc là đến năm 1996 Công ty đã bị mất đi thị trường Đông Âu, một thị trường lớn đầy tiềm năng. Vì vậy trong thời gian tới việc tìm lại thị phần của mình ở Đông Âu là một mục tiêu quan trọng của Công ty.
3.3 - đánh giá kết quả xuất khẩu quế của Công ty
3.3.1 - Những thành công
Trong thời gian qua, Công Ty XNK tổng hợp 1 đã có nhiều cố gắng trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu quế đạt được những thành tích đáng mừng, bước đầu gây dựng được uy tín của mình trên thị trường quốc tế. Bảng 9, 10 cho ta thấy năm sau Công ty xuất khẩu nhiều hơn năm trước gấp nhiều lần. Nếu năm 1990 sản lượng mới chỉ đạt được là 59 tấn, kim ngạch xuất khẩu là 171.000 USD thì năm 1995 sản lượng là 320 tấn, kim ngạch xuất khẩu là 624.000 USD tăng 3,3 lần so với năm 1990. Đến năm 1999 sản lượng là 500 tấn và kim ngạch xuất khẩu là 900.000 USD, tăng 5,2 lần so với năm 1990 và tăng 1,56 lần so với năm 1995 về sản lượng. Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng chung của các doanh nghiệp xuất khẩu quế ở Việt Nam.
Chất lượng của quế xuất khẩu ngày càng được quan tâm và được đánh giá là có hàm tinh dầu cao. Có được điều này là do chất lượng quế được nâng lên từ khâu thu mua đến khâu chế biến. Do được hỗ trợ về vốn và kỹ thuật nên chất lượng quế cũng như năng suất trồng quế đều cao. Hơn nữa việc đưa xí nghiệp chế biến quế và nông sản xuất khẩu vào hoạt động cũng làm cho chất lượng quế được nâng cao và đồng đều hơn do Công ty kiểm soát được quá trình chế biến. Công ty đang hạn chế dần xuất khẩu quế sơ chế, tăng lượng quế xuất khẩu đã qua chế biến nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.
Thị trường của Công ty ngày càng được mở rộng và phát triển. Trước đây thị trường của Công ty chủ yếu là Châu á, giờ đây Công Ty nhằm vào mọi thị trường lớn có nhu cầu trên thế giới, nhất là thị trường Mỹ, là một thị trường khổng lồ và đầy hứa hẹn. Công ty XNK tổng hợp 1 - một trong những nhà xuất khẩu quế lớn nhất Việt Nam – ngày càng có tỷ trọng lớn trong giá trị xuất khẩu quế của cả nước và tỷ trọng này không ngừng tăng cao.
Năm 1992, kim ngạch xuất khẩu quế của Công Ty chiếm 9,85% của cả nước thì năm 1998 đã lên tới 15,32%. Nhưng năm 1999 kim ngạch xuất khẩu quế của Công Ty giảm do tác động của một số yếu tố khách quan mà điển hình là cuốc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á và do Công ty đã mất thị phần trên thị trường Đông Âu từ 1997 làm cho lượng quế xuất khẩu sang thị trường Châu âu bị giảm sút. Sang 2000 kim ngạch xuất khẩu quế của Công Ty tiếp tục tăng và đến năm 2002 thì Công Ty đã chiếm một tỷ trọng khá lớn về lĩnh vực xuất khẩu quế trong cả nước góp phần không nhỏ vào việc làm cho xuất khẩu quế trong nước tăng lên đáng kể. Công ty đặt ra chỉ tiêu phải thực hiện được sản lượng xuất khẩu quế trong năm 2003 là 1000 tấn với kim ngạch xuất khẩu khoảng 2.300.000 USD.
Bảng số liệu sau đây sẽ thể hiện một cách đầy đủ, rõ nét về vấn đề trên:
Bảng 12 : Tỷ trọng xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp 1
Năm
Giá trị xuất khẩu của Công Ty (USD)
Giá trị xuất khẩu của toàn ngành quế Việt Nam (USD)
Tỷ trọng (%)
1993
374.000
3.800.000
9,85
1994
456.000
4.600.000
9,91
1995
624.000
4.700.000
13,28
1996
780.000
5.400.000
14,44
1997
850.000
5.700.000
14,91
1998
950.000
6.200.000
15,32
1999
900.000
6.000.000
15
2000
1.000.000
6.140.000
16,29
2001
1.200.000
6.200.000
19,35
2002
1.350.000
7.410.000
19,5
(Nguồn: Báo cáo của phòng nghiệp vụ 7 qua các năm 1992-2002)
2.5.2 - Những tồn tại và nguyên nhân.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, Công ty không tránh khỏi gặp nhiều khó khăn.
Hiệu quả kinh doanh và xuất khẩu quế của công ty chưa cao do Công ty chủ yếu là xuất khẩu sản phẩm sơ chế. Các doanh nghiệp nước ngoài sau khi mua sản phẩm của Công ty thường đem tinh chế và bán sản phẩm sang nước thứ ba. Điều này đã gây ra những thiệt hại đáng kể cho Công ty.
Mặc dù sản lượng hàng năm của Công ty tương đối lớn, nhưng nếu so với nhu cầu đáp ứng thì đây chỉ là con số quá nhỏ. Công ty đã gặp phải một số khó khăn trong việc kinh doanh xuất khẩu quế từ khâu thu mua, gom hàng và chế biến.
2.5.2.1 - Hoạt động thu mua, gom hàng.
Quế là loại nông sản trồng được trên phạm vi cả nước, kéo dài từ Yên Bái đến tận Quảng Bình nên công tác thu mua gom hàng thực sự gặp nhiều khó khăn. Do quế được trồng rải rác ở nhiều nơi, việc thu gom quế về nơi chế biến đòi hỏi một khối lượng lớn nhân viên và chi phí. Đồng thời Công ty mới chỉ mua được từ người nông dân một lượng nhỏ, còn lại là mua từ các cơ sở trung gian khác, bị ép giá và đẩy giá thành lên cao. Công Ty đã và đang tìm những biện pháp thích hợp để thu mua trực tiếp từ người nông dân.
2.5.2.2 - Về chất lượng sản phẩm.
Quế Việt Nam được đánh giá là có hàm lượng tinh dầu cao so với quế Indonesia, Trung Quốc... Hàm lượng này khoảng 3- 3,5%. Ngoài quy định về hàm lượng tinh dầu, chất lượng quế còn phụ thuộc vào khâu làm sạch và chế biến.
Quế của Công Ty nói chung đạt tiêu chuẩn về hàm lượng tinh dầu nhưng khâu chế biến còn sơ sài , trình độ công nghệ còn lạc hậu, chủ yếu là sơ chế. Công ty đã đầu tư xây dựng nhà máy chế biến để gia tăng chất lượng về quế nhưng đến nay do mới đi vào hoạt động nên hiệu quả chưa cao. Hi vọng trong thời gian tới, với trình độ kỹ thuật ngày càng được nâng cao sản lượng cũng như chất lượng quế của công ty sẽ tăng lên đáng kể.
2.5.2.3 - Chi phí sản xuất.
Chi phí đầu vào của quế bao gồm chi phí thu mua, vận chuyển và chi phí chế biến. Việc phải đi thuê ngoài chế biến làm giảm lợi nhuận của Công Ty. Công Ty đã có biện pháp thích hợp khắc phục khó khăn này.
2.5.2.4 - Trình độ cán bộ công nhân viên.
Trình độ, kinh nghiệm của cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu còn yếu kém, chênh lệch so với đối tác nước ngoài. Đội ngũ cán bộ Công Ty XNK tổng hợp 1 mặc dù đã được đào tạo và đào tạo lại một cách cơ bản nhưng do kinh nghiệm thực tế còn thiếu và phương tiện làm việc không đầy đủ đã cản trở họ trong công việc giao dịch, ký kết hợp đồng với các đối tác. Mặt khác, vì Công Ty kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau, đội ngũ cán bộ công nhân viên cần phải có sự phân công chuyên môn hoá theo từng nhóm ngành hàng để hoạt động có hiệu quả hơn. Với sự giúp đỡ của Nhà nước, Quốc tế, Công Ty đã và đang cố gắng đầu tư nâng cao trình độ của cán bộ mình.
Phần 4
Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu quế của Công ty xnk tổng hợp 1
Cũng như các mặt hàng nông sản khác, quế sớm được buôn bán trên thị trường thế giới. Song do quế là đặc sản riêng có của một số vùng có khí hậu nhiệt đới thích hợp nên khả năng sản xuất hạn chế, trong khi đó nhu cầu sản phẩm quế lại tương đối lớn và rộng khắp trên lục địa. Cho nên kinh doanh xuất khẩu quế là lợi thế cho những nước có điều kiện sản xuất quế.
4.1 - Dự báo triển vọng thị trường sản phẩm quế trên thế giới
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các nhà khoa học đã tìm ra những chất có trong sản phẩm quế để nâng cao giá trị sử dụng của sản phẩm này. Ngày nay, những chất được chiết suất từ sản phẩm quế là một trong những thành phần quan trọng trong công nghệ thực phẩm, mỹ phẩm, hàng tiêu dùng...
Trong những năm tới, nhu cầu về sản phẩm quế v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100801.doc