Tài liệu Đề tài Xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội – thực trạng và phương hướng phát triển: Lời mở đầu
Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển mà không mở cửa nền kinh tế của mình. Xuất khẩu là một trong những cách thức mở cửa nền kinh tế được nhiều quốc gia áp dụng nhất, xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia. Vì thế nhiều quốc gia xem việc thúc đẩy xuất khẩu là rất quan trọng. Thúc đẩy xuất khẩu giúp các nước trên thế giới có thể khai thác triệt để tiềm năng, thế mạnh của mình, đồng thời giảm thiểu được những bất lợi từ đó tạo ra được nhiều hàng hoá hơn, giúp người tiêu dùng có thể được tiêu dùng nhiều hơn với giá cả thấp hơn. cũng nhờ đó các quốc gia trên thế giới có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ hơn, giảm dần chênh lệch giữa các quốc gia, góp phần làm cho quá trình phân công lao động quốc tế được thuận lợi hơn.
Đối với Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đây là một hướng đi đúng đắn cho các doanh...
54 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1098 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội – thực trạng và phương hướng phát triển, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển mà không mở cửa nền kinh tế của mình. Xuất khẩu là một trong những cách thức mở cửa nền kinh tế được nhiều quốc gia áp dụng nhất, xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia. Vì thế nhiều quốc gia xem việc thúc đẩy xuất khẩu là rất quan trọng. Thúc đẩy xuất khẩu giúp các nước trên thế giới có thể khai thác triệt để tiềm năng, thế mạnh của mình, đồng thời giảm thiểu được những bất lợi từ đó tạo ra được nhiều hàng hoá hơn, giúp người tiêu dùng có thể được tiêu dùng nhiều hơn với giá cả thấp hơn. cũng nhờ đó các quốc gia trên thế giới có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ hơn, giảm dần chênh lệch giữa các quốc gia, góp phần làm cho quá trình phân công lao động quốc tế được thuận lợi hơn.
Đối với Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đây là một hướng đi đúng đắn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi mà thị trường trong nước ngày càng chật hẹp và sức cạnh tranh từ hàng hoá ngoại nhập ngày càng tăng. Nhờ thúc đẩy xuất khẩu doanh nghiệp có thể:
+ Có cơ hội mở rộng thị trường: được hoạt động trên thị trường thế giới rộng lớn, nhu cầu phong phú và đa dạng, sức tiêu thụ hàng hoá cao, khả năng thu được nhiều lợi nhuận hơn.
+ Cơ hội mở rộng mối quan hệ làm ăn kinh doanh với các đối tác nước ngoài, có thêm điều kiện học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng để hoàn thiện hoạt động kinh doanh của mình.
+ Góp phần cải thiện đời sống người công nhân, giảm tỉ lệ thất nghiệp, gia tăng kim ngạch xuất khẩu.
Ngày 01/01/2007 Việt Nam chính thức tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO, rào cản thương mại được dỡ bỏ, cơ hội kinh doanh được mở rộng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam. Hoàn thiện việc thực hiện chiến lược kinh doanh hợp lý đủ sức cạnh tranh được với doanh nghiệp trong và ngoài nước là yếu tố sống còn đối với mỗi doanh nghiệp Việt Nam.
A: Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu, hệ thống những vấn đề trong việc Xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội – thực trạng và phương hướng phát triển, hiệu quả trong việc thúc đẩy sự ảnh hưởng của nó.
Đánh giá những khó khăn và hạn chế trong việc phát triển ngành Công nghệ thông tin và Xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội. Trên cơ sở đó để có những giải pháp khắc phục những vấn đề còn tồn tại.
B: Phương pháp nghiên cứu
Bằng việc thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp, từ Internet, sách báo, tạp chí, các báo cáo tổng kết chiến lược của ngành Công nghệ thông tin trong những năm qua, sử dụng những số liệu để xử lý, phân tích và đánh giá số liệu trong quá khứ, làm cơ sở rút ra những nhận xét xác đáng, tìm ra giải pháp khắc phục khó khăn.
C: Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp của thành phố Hà Nội. Nghiên cứu tổng quan về xuất khẩu không đi sâu vào khía cạnh nghiệp vụ xuát khẩu, nghiên cứu ở cấp độ ngành sản phẩm.
D: Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
Mục lục
Lời mở đầu:………………………………………………………………….
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp
1.1: Đặc điểm sản phẩm phần mềm
1.1.1: Khái niệm và phân loại sản phẩm phần mềm
1.1.2: Quá trình sản xuất sản phẩm phần mềm
1.1.3: Đặc trưng sản phẩm phần mềm
1.2: Một số lý thuyết áp dụng trong xuất khẩu phần mềm
1.2.1: Lý thuyết lợi thế so sánh
1.2.2: Lý thuyết lợi thế cạnh tranh
1.2.3: Lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu
1.3: Đặc điểm một số thị trường nhập khẩu phần mềm của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
2.1: Tổng quan về các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội
2.1.1: Thực trạng trình độ và nguồn lực sản xuất phần mềm
2.1.2: Thực trạng nguồn lực cho sản xuất phần mềm
2.1.3: Lợi thế và hạn chế của các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội
2.2: Phân tích thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
2.2.1: Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
2.2.2: Thị trường xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
2.2.3: Khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
2.2.4: Cơ chế, chính sách của Thành phố Hà Nội trong thúc đẩy xuất khẩu phần mềm
2.3: Đánh giá thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
3.1: Phương hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
3.1.1: Cơ hội và thách thức trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
3.1.2: Phương hướng phát triển sản xuất phần mềm
3.1.3: Phương hướng xuất khẩu phần mềm
3.2: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
3.3: Kiến nghị
Chương 1
Lý luận chung về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp
1.1: Đặc điểm sản phẩm phần mềm
1.1.1: Khái niệm và phân loại sản phẩm phần mềm
Khái niệm:
Phần mềm được hiểu là chương trình, là tài liệu mô tả chương trình, tài liêu hỗ trợ, nội dung thông tin số hoá.
- Chương trình là một tập hợp của các lệnh, câu lệnh được mô tả bằng bất kỳ ngôn ngữ, mã hay hệ thống ký hiệu nào và được thể hiện hoặc lưu trữ trong các vật mang tin (có hoặc không kèm theo các thông tin liên quan), được dùng trực tiếp hoặc dùng gián tiếp sau khi qua một hoặc cả hai khâu sau:
Tái tạo sang một vật mang tin khác; làm cho một dụng cụ có khả năng xử lý thông tin thực hiện một chức năng nào đó.
Chuyển đổi sang môt ngôn ngữ, mã, hệ thôngs ký hiêu khác.
- Tài liệu mô tả chương trình và tài liệu hỗ trợ là tài liệu được thể hiện dưới bất kỳ dạng nào có nội dung mô tả chương trình, giới thiệu, hướng dẫn cách cài đặt, sử dụng, nâng cấp, sửa lỗi hoặc các hướng dẫn khác liên quan đến sử dụng và khai thác chương trình.
- Nội dung thông tin số hoá bao gồm:
Cơ sở dữ liệu là tập hợp dữ liệu được sắp xếp và lưu trữ dưới dạng điện tử số hoá.
Sưu tập tác phẩm số hoá là sưu tập tác phẩm được lưu trữ dưới dạng điện tử số hoá.
* Mặc dù chúng ta không thể định nghĩa nhưng khái niệm sản phẩm phần mềm được hiểu như là một hệ thống chương trình thực hiện một nhiệm vụ tương đối độc lập nhằm phục vụ cho một ứng dụng cụ thể trong cuộc sống của con người (và có thể được thương mại hoá).
Sản phẩm phần mềm là là phần mềm được sản xuất và được thể hiện hay lưu trữ ở bất kỳ một dạng vật thể nào có thể được mua bán hoặc chuyển giao cho đối tượng khác sử dụng. Ví dụ các sản phẩm phần mềm:
Hệ điều hành: MS – DOS, OS/2, Unix OS…
Hệ điều hành mạng máy tính: Unix, Novell Netware, Windows NT… và các ứng dụng trên mạng LAN, WAN, Internet/Intranet (các Browsers, các dịch vụ khai thác Internet…).
Các ngôn ngữ lập trình (chương trình dịch): Turbo Pascal, Turbo C…
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu: Microsoft Foxpro, Microsoft Access, Oracle…
Microsoft Windows và các ứng dụng trên Windows.
Các trò chơi (Games)
Dưới đây là bảng tóm tắt quá trình tiến hoá của sản phẩm phần mềm:
Thời kỳ đầu tiên
1950 – 1960
Xử lý theo lô (Batch Processing)
Phần mềm được viết theo đơn đặt hàng
Thời kỳ thứ hai
1969 – 1970
Đa người dùng (Multiusers)
Thời gian thực (Real Time)
Cơ sở dữ liệu (Database)
Phần mềm sản phẩm)
Thời kỳ thứ ba
1970 – 1990
Hệ thống xử lý phân bổ (Distributed processing system)
Thông minh (Intelligence)
Phần cứng giá thành hạ
Hiệu quả tiêu thụ
Thời kỳ thứ tư
1990 trở đi
Hệ thống để bàn (Desktop – Personal – Notebook Computers)
Lập trình hướng tới đối tượng (Object oriented programming)
Lập trình trực quan (Visual programming)
Hệ chuyên gia (Expert system)
Mạng thông tin toàn cầu (Worldwide communication network)
Xử lý song song (Paralell processing)
…
Phân loại:
- Phần mềm nhúng là phần mềm được nhà sản xuất thiết bị cài sẵn vào thiết bị và chúng được sử dụng ngay cùng với thiết bị mà không cần có sự cài đặt của người sử dụng hay người thứ ba.
- Phần mềm đóng gói là sản phẩm phần mềm có thể sử dụng được ngay sau khi người sử dụng hoặc nhà cung cấp dịch vụ cài đặt vào các thiết bị hay hệ thống. Các phần mềm này thường được cung cấp qua dạng đĩa mềm, đĩa CD; qua bất kể vật mang tin nào khác hay thông qua mạng máy tính. Phần mềm đóng gói thường được phân ra hai loại: phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng.
Ví dụ: hệ điều hành, các công cụ phát triển, các ngôn ngữ lập trình, xử lý văn bản, bảng tính, diệt virus, kế toán, dạy học, quản lý tài chính, quản lý vật tư, các phần mềm tính toán khoa học kỹ thuật, đồ hoạ, v.v…
- Phần mềm chuyên dụng là sản phẩm phần mềm được phát triển theo yêu cầu cụ thể và riêng biệt của khách hàng. Phần mềm chuyên dụng có thể được phát triển từ đầu hoặc được thiết kế theo yêu cầu của khách hàng dựa trên cơ sở các phần mềm có sẵn trên thị trường.
- Sản phẩm thông tin số hoá là nội dung thông tin số hoá được lưu trữ trên một vật thể nào đó.
1.1.2: Quá trình sản xuất sản phẩm phần mềm
Về mặt thiết kế
Tùy theo mức độ phức tạp của phần mềm tạo ra, người thiết kế phần mềm sẽ ít dùng đến các phương tiện để tạo ra mẫu thiết kế theo ý muốn (chẳng hạn như các sơ đồ khối, các lưu đồ, các thuật toán và các mã giải), sau đó mẫu này được mã hóa bằng các ngôn ngữ lập trình và được các trình dịch chuyển thành các khối lệnh “module” và các tập khả thi. Tập hợp các tệp khả thi và các khối lệnh làm thành một phần mềm. Thường khi một phần mềm được tạo thành, để cho hoàn hảo thì phần mềm đó phải được điều chỉnh hay sửa chữa từ khâu thiết kế cho đến khâu tạo thành phiên bản phần mềm một số lần. Một phần mềm thông thường sẽ tương thích với một hay nhiều hệ điều hành, tùy theo cách thiết kế, cách viết mã nguồn và ngôn ngữ lập trình được dùng.
Về mặt sản xuất phần mềm
Việc phát triển và đưa ra thị trường của một phần mềm là đối tượng nghiên cứu của bộ môn công nghệ phần mềm kĩ thuật phần mềm hay còn gọi là công nghệ phần mềm “Software Engineering”. Bộ môn này nghiên cứu các phương pháp tổ chức, cách thức sử dụng nguồn tài nguyên, vòng quy trình sản xuất, cùng với các mối quan hệ với thị trường, cũng như liên hệ giữa các yếu tố này với nhau. Tối ưu hóa quy trình sản xuất phần mềm cũng là đối tượng được xét của bộ môn.
Có thể mô tả quá trình sản xuất một sản phẩm phần mềm trải qua các giai đoạn bằng hình sau:
Bước 1: Người đặt hàng Bước 2: Thiết kế của chủ trì đề tài(Công ty công viên)
Bước 3: Sản phẩm của người Bước 4: Sau khi sửa sai với
lập trình những sáng kiến cải tiến
Bước 5: Triển khai đến khách Bước 6: Ước mơ của người sử
hàng dụng
1.2: Một số lý thuyết áp dụng trong xuất khẩu phần mềm
1.2.1: Lý thuyết lợi thế so sánh
* Lý thuyết của Adam Smith
Lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối ra đời vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX, người đề xướng đầu tiên là David Hume (1752) tiếp đến là Adam Smith (1723 – 1790) và sau đó được tục phát triển bởi những người kế tục của ông. Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất, khi sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất một loại sản phẩm có thể do các lợi thế tự nhiên hoặc các lợi thế có được do kỹ thuật và sự lành nghề.
Theo lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối thì các quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hoá này sang quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngoài có lợi thế hơn. bằng việc chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối cả hai quốc gia đều có lợi khi quan hệ thương mại với nhau.
Ví dụ: Nước Mỹ có điều kiện tự nhiên thuận lợi trong việc trồng lúa mỳ, ngược lại nước Anh có nhiều thuận lợi trong sản xuất vảI vóc. Khi đó nước Mỹ sẽ chuyên môn hoá sản xuất lúa mỳ còn nước Anh sẽ chuyên môn hoá sản xuất vải vóc. Nước Anh sẽ sản xuất được nhiều vải vóc hơn và nước Mỹ cũng sẽ sản xuất được nhiều lúa mỳ hơn so với khi hai nước đó còn ở tình trạng tự cung tự cấp. Nước Mỹ sẽ tiến hành trao đổi một phần lúa mỳ để đổi lấy một lượng vải vóc của nước Anh. Người ta cũng chứng minh được rằng cả hai nước Mỹ và Anh sẽ cùng được hưởng lợi nhờ quan hệ thương mại lẫn nhau.
* Lý thuyết của David Ricardo hay còn gọi là lý thuyết về lợi thế so sánh
Nhược điểm của lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối của Adam Smith là không lý giải được hoạt động thương mại khi một trong hai nước có lợi thế tuyệt đối sản xuất tất cả các mặt hàng. David Ricardo đã phát triển và đưa ra một lý thuyết tổng quát hơn về thương mại so với lý thuyết của Adam Smith đó là Lý thuyết lợi thế so sánh. Lý thuyết này được trình bày trong tác phẩm “Những nguyên lý của kinh tế chính trị học 1817”. Theo David Ricardo thương mại giữa hai quốc gia dựa trên lợi thế tương đối, lợi thế tương đối hay còn gọi là lợi thế so sánh đề cập tới việc các quốc gia có thể sản xuất ra khối lượng các mặt hàng giống nhau khi sử dụng các nguồn lực như nhau nhưng với chi phí khác nhau.
Do sự không đồng đều về lợi thế tuyệt đối, nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào sản xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối hơn và dùng một phần để trao đổi với nước khác bằng mặt hàng có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn thì cả hai nước sẽ cùng thu được lợi ích thông qua thương mại.
Ví dụ:
Có 2 nước X và Y và cùng có 2 loại hàng dệt may và lúa mỳ.
Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước X và Y là: a
Chi phí sản xuất lúa mỳ của nước X và Y là: b
+ Nếu a< b thì nước X nên chuyên môn hóa vào sản xuất và nhậo khẩu hàng dệt may và ngược lại nước Y chuyên môn hoá vào sản xuất và xuất khẩu lúa mỳ. Sau quá trình chuyên môn hoá và thương mại, tổng sản phâmr hàng dệt may và lúa mỳ mà 2 nước sản xuất đều tăng lên về số lượng hàng hoá mà người dân của mỗi nước có thể tiêu dùng đều được cải thiện.
* Lý thuyết của Haberler về lợi thế so sánh
Lợi thế tương đối là một khái niệm rất quan trọng của kinh tế học. Hạn chế của David Ricardo ở chỗ mới chỉ đề cập đến khái niệm lợi thế tương đối trên cơ sở lý thuyết về lao động, trong khi đó lao động lại chỉ là một yếu tố của sản xuất. Haberler đã đưa ra cách giải thích toàn diện hơn dựa trên lý thuyết về chi phí cơ hội. Theo Haberler, chi phí cơ hội của hàng hoá là số lượng các hàng hoá khác phải cắt giảm để nhường lại đủ các ngồn tài nguyên để sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá thứ nhất. Một nước có lợi thế tương đối về sản xuất một mặt hàng nào đó so với nước khác khi nó có thể sản xuất mặt hàng đó với chi phí cơ hội thấp hơn so với nước khác.
Ví dụ: ở 2 nước X và Y khi không có thương mại quốc tế thì X phải bỏ đI 2/3 số đơn vị của vải để sản xuất thêm một đơn vị của thép. Còn ngược lại, chi phí cơ hội về thép ở nước Y là 1 thép = 2 vải. Vởy là nước X có lợi thế về sản xuất thép còn nước Y có lợi thế tương đối trong sản xuất vải. Theo lập luận của lý thuyết này thì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh với một một quốc gia khác trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà chi phí cơ hội để sản xuất…
1.2.2: Lý thuyết lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh tồn tại khi có sự phù hợp giữa những khả năng đặc biệt của một hãng với những nhân tố quyết định thành công trong ngành, điều này cho phép hãng hoạt động tốt hơn các đối thủ cạnh tranh khác. Có 2 cách cơ bản để đạt được lợi thế cạnh tranh. Thứ nhất, lợi thế cạnh tranh có thể đạt được khi một hãng theo đuổi một chiến lược chi phí thấp, điều này cho phép hãng chào bán những sản phẩm với giá thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh cũng có thể đạt được bởi một chiến lược phân biệt sẩn phẩm, do vậy khách hàng nhận thức được những lợi ích duy nhất nên họ đồng tình với một mức giá chênh lệch so với đối thủ cạnh tranh. Chú ý rằng cả hai chiến lược này đều có tác động như nhau: làm tăng giá trị nhận thức của khách hàng.
Chất lượng của một chiến lược của một hãng cuối cùng sẽ được đánh giá bởi kết quả - doanh số bán hàng, lợi nhuận, hoặc một vài chỉ số đo lường khác. Những kết quả này lần lượt phụ thuộc vào mức độ giá trị tạo ra cho khách hàng: giá trị mà khách hàng nhận thức được càng lớn thì chiến lược càng tốt. Tóm lại, lợi thế cạnh tranh có thể đạt được bằng cách tạo ra giá trị nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh và giá trị được xác định bởi khách hàng.
Michael Porter đã phát triển một nền móng cho những chiến lược kinh doanh tổng hợp dựa trên 2 hình thức lợi thế cạnh tranh: chi phí thấp và sự khác biệt. Sự kết hợp giữa 2 hình thức này với phạm vi của thị trường mục tiêu (phạm vi rộng hoặc hẹp) hay độ rộng sản phẩm hỗn hợp (hẹp hoặc rộng) sẽ mang lại 3 chiến lược chung: dẫn đầu chi phí, khác biệt hoá và trọng tâm hoá.
Chiến lược dẫn đầu về chi phí: Mục đích của công ty trong việc theo đuổi sự dẫn đầu về chi phí hộăc chiến lược chi phí thấp là hoạt động tốt hơn (có lợi thế hơn) các đối thủ cạnh tranh bằng việc thực hiện các chính sách và biện pháp để có thể sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ ở chi phí thấp hơn các đối thủ. Trong môi trường quốc tế, cần đánh giá chiến lược này theo 2 phương diện: phương diện Marketing và phương diện sản xuất.
Về phương diện Marketing, việc tìm kiếm các thị trường mới cho phép tăng cầu tiềm năng và đạt được mức sản xuất tối ưu nhất. Để quá trình này tạo ra được tác động tối ưu, cần phải thiết kế những sản phẩm theo tiêu chuẩn toàn cầu hoặc ít ra là theo tiêu chuẩn châu lục. Chúng ta cũng biết rằng việc tung sản phẩm ra thị trường quốc tế sẽ cho phép kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm và do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hiệu ứng kinh nghiệm. Trong trường hợp đòi hỏi chi phí để thích ứng với điều kiện đặc thù, cần phải tính toán và so sánh giữa chi phí đầu tư đặc biệt và khả năng sinh lời.
Về phương diện sản xuất, việc dịch chuyển sản xuất để hưởng chi phí nhân công thấp trong một số khu vực của thế giới đã trở nên khá quen thuộc. Chính vì vậy, việc tìm kiếm một tổ chức sản xuất hợp lý nhất trở thành phương tiện tạo nên lợi thế cạnh tranh. Thực vậy, tổ chức quốc tế về sản xuất gắn liền với quy mô tối ưu tương ứng với khối lượng sản xuất cho phép giảm chi phí trung bình ở mức tối thiểu. Nếu quy mô tối ưu ngang bằng với khối lượng của từng thị trường thì công ty có thể xây dựng mỗi nhà máy cho từng thị trường và lựa chọn chiến lược đa quốc gia. Trong trường hợp quy mô tối ưu cao hơn khối lượng của từng thị trường, phải xây dựng nhà máy chuyên môn hốa cho nhiều thị trường (nhất là các thị trường trong khu vực). Nếu quy mô tối ưu nhỏ hơn khối lượng của từng thị trường, chỉ nên xây dựng một nhà máy duy nhất cung cấp cho thị trường thế giới.
Hợp nhất hay liên kết sản xuất xuyên quốc gia là một vấn đề cơ bản của chiến lược khối lượng/chi phí. Có 3 giải pháp về tổ chức: thứ nhất, tổ chức sản xuất đa quốc gia trong đó các đơn vị sản xuất không chuyên môn hoá sẽ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho thị trường nhất định. Thứ hai, toàn cầu hoá bằng hợp nhất theo chiều ngang xuyên quốc gia, điều này sẽ dẫn đến việc chuyên môn hoá theo sản phẩm hoặc dòng sản phẩm của mỗi đơn vị sản xuất; mỗi đơn vị đều có nhiệm vụ thoả mãn nhu cầu của thị trường thế giới hoặc châu lục. Thứ ba, toàn cầu hoá bằng hoà nhập hay liên kết theo chiều dọc xuyên quốc gia. Thực chất đó là sự phân chia quá trình sản xuất và bố trí các giai đoạn sản xuất khác nhau trên nhiều thị trường. Mỗi đơn vị có trách nhiệm thực hiện một giai đoạn sản xuất.
Chiến lược khác biệt hoá: Mục đích của chiến lược khác biệt hoá là để đạt được lợi thế cạnh tranh bằng việc tạo ra sản phẩm – hàng hoá hoặc dịch vụ – mà được người tiêu dùng nhận thức là độc đáo nhất theo nhận xét của họ. Khả năng của một công ty khác biệt hoá sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng theo cách mà các đối thủ cạnh tranh không thể có, nghĩa là nó có thể đặt giá cao hơn – giá cao hơn đáng kể so với mức trung bình của ngành. Khác với chiến lược nhấn mạnh chi phí (dựa vào ưu thế cạnh tranh bên trong hay khả năng làm chủ chi phí), chiến lược khác biệt hoá dựa vào ưu thế cạnh tranh bên ngoài, tức là mức độ hoàn thiện của sản phẩm. Chiến lược khác biệt hoá cũng có thể thựcc hiện thông qua dịch vụ cung ứng con người và hình ảnh. Nhiều công ty áp dụng chiến lược khác biệt hoá dựa trên sự thay đổi “chuỗi giá trị”. Căn cứ vào chuỗi giá trị, nếu công ty có lợi thế trong việc thực hiện các hoạt động cơ bản hỗ trợ cuối nguồn, chiến lược khác biệt hoá tỏ ra hữu hiệu nhất.
Khả năng khác biệt hoá mạnh mẽ cho phép doanh nghiệp thoát khỏi áp lực cạnh tranh. Trên thị trường quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã thành công nhờ khả năng khác biệt hoá mạnh mẽ so với các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, để chiến lược khác biệt hoá đem lại kết quả mong muốn, sự khác biệt hoá về sản phẩm hay nhãn hiệu của công ty phải được nhận thức và bền vững. Để làm được điều này công ty cần phải thực hiện những cố gắng to lớn về giao tiếp, truyền tin. Nói cách khác, sự thành công của chiến lược khác biệt hoá phụ thuộc phần lớn vào chất lượng và hiệu quả. Phương thức này cho phép nâng cao khả năng khác biệt hoá so với cạnh tranh, đặc biệt đối với lĩnh vực dịch vụ.
Chiến lược trọng tâm hoá: chiến lược trọng tâm hoá dựa trên lợi thế cạnh tranh là tập trung các nguồn lực cho phép phát huy tối đa năng lực của công ty. Chiến lược này được thực hiện hoặc thông qua khả năng khác biệt hoá, hoặc chi phí thấp hoặc cả hai.
Về phương diện Marketing, khi công ty tấn công thị trường thế giới điều quan trọng trước tiên là phải tiến hành phân đoạn thị trường để thực hiện toàn cầu hoá. Công ty càng hoạt động trên một đoạn thị trường hẹp bao nhiêu thì càng phải phát triển mạnh mẽ thị trường về mặt địa lý. Như vậy phân đoạn thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá tình hình này rất điển hình trong một thế giới mà công nghệ mới xuất hiện thường xuyên. Thực vậy thị trường hẹp và mới phát triển đòi hỏi chi phí nghiên cứu và phát triển rất lớn nên cần thiết phải thu hồi vốn đầu tư nhanh để giảm thiểu rủi ro: công ty hoặc là phát triển quốc tế hoặc là bị thất bại. Tuy nhiên, khi các hoạt động quốc tế phát triển công ty cần thiết phải tăng cường kiểm soát thị trường, tức là kiểm soát hình ảnh trên tất cả các thị trường. Việc lựa chọn định hướng chiến lược này thường đòi hỏi ưu tiên các giải pháp thâm nhập thị trường với mức độ làm chủ hoàn toàn.
Về phương diện sản xuất, chiến lược trọng tâm hoá vẫn theo đuổi lôgic chi phí tối thiểu. Chính vì vậy việc dịch chuyển các cơ sở sản xuất sang những nước có các yêu tố đầu vào phong phú và rẻ là một sự lựa chọn thường thấy khi mà khối lượng và các điều kiện kinh tế cho phép. Ràng buộc quan trọng nhất là phải đảm bảo giữ vững hình ảnh chuyên môn hoá; hình ảnh nhãn hiệu của công ty cũng cần xuất hiện và được củng cố tại các địa điểm sản xuất nước ngoài.
1.2.3: Lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu
Một hậu quả không thể tránh khỏi trong việc mở rộng hoạt động Marketing toàn cầu là sự tăng trưởng cạnh tranh trên toàn thế giới. Từ ngành này sang ngành khác cạnh tranh toàn cầu là một nhân tố quyết định tác động đến thành công, trong một vài ngành các công ty toàn cầu gần như ngăn cản tất cả các công ty khác tham gia vào thị trường của họ.
Thí dụ: Công nghiệp chất tẩy tại đó 3 công ty – Colgate, Unilever, và Procter&Gamble – chiếm số lượng ngày càng tăng trên thị trường chất tẩy. Nhiều công ty có thể làm ra được một sản phẩm tẩy rửa chất lượng nhưng những kỹ năng cần phải có trong mẫu bao bì có chất lượng, lại đang tràn ngập trong cạnh tranh khu vực từ thị trường này sang thị trường khác. Tác động của cạnh tranh toàn cầu mang lại lợi ích cao cho những người tiêu dùng trên khắp thế giới. Trong ví dụ trên về công nghiệp chất tẩy tại Trung Mỹ, khách hàng thường có được lợi ích. ở Trung Mỹ giá chất tẩy đã giảm do kết quả của cạnh tranh toàn cầu. Cạnh tranh toàn cầu làm mở rộng lĩnh vực sản xuất và tăng cường khả năng theo đó người tiêu dùng sẽ nhận được những gì họ muốn.
Mặt trái của cạnh tranh toàn cầu là tác động của nó lên các nhà sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Cạnh tranh toàn cầu tạo ra giá trị cho người sử dụng nhưng nó cũng làm giảm số lượng việc làm. Khi một công ty ở bên kia thế giới đưa lại cho khác hàng một sản phẩm tốt hơn với giá thấp hơn thì công ty này lại tước đoạt từ nhà cung ứng nội địa một khách hàng. Trừ phi nhà cung ứng nội địa có thể tạo ra những giá trị mới và tìm kiếm những khách hàng mới, nếu không công việc và khả năng của nhân công công ty nội địa sẽ bị đe doạ. Chính sách thương mại của một quốc gia cuối cùng là nhiệm vụ của chiến lược cạnh tranh. Một quốc gia thành công trong việc chuyển đổi các nguồn lực bao gồm cả lao động lên những mức sử dụng cao hơn và tốt hơn thì có thể chấp nhận sự giảm sút số lượng công việc sản xuất được trả lương tốt.
Chúng ta xem xét 2 trường hợp hoạt động của một hãng hoặc một ngành: Trường hợp thứ nhất là một hãng và ngành nội địa, không có bất kỳ một hoạt động mang tính quốc tế nào. Trường hợp thứ hai là những hãng và ngành công nghiệp toàn cầu. Giữa hai thái cực này có rất nhiều các mức độ đa dạng về những ngành, những hãng đa quốc gia và mang tính quốc tế. Những hãng này có đặc điểm là tự lập hoặc hầu hết là tự lập những công ty trực thuộc tại một số nước. Hoạt động của đơn vị này tại bất kỳ quốc gia nào thường là độc lập với hoạt động của những đơn vị ở những quốc gia khác. Những công ty trực thuộc ở nước ngoài thuộc bất cứ một hãng nào nhất thiết phải trở thành những hãng “trong nước” của quốc gia mà tại đó chúng đang hoạt động. Không có một chiến lược hoà nhập toàn cầu thay vào đó sẽ có những chiến lược quốc gia độc lập. Các hãng toàn cầu phải hoà nhập những chiến lược toàn cầu mà những chiến lược này tách bạch những hoạt động của một đơn vị tại một quốc gia bất kỳ với một số mức độ hoạt động của những đơn vị ở các quốc gia khác.
Có 4 khía cạnh liên quan đến biểu tượng quốc gia, có tác dụng đóng góp hoặc làm giảm giá trị việc tạo ra lợi thế cạnh tranh của những hãng, của những quốc gia đó. Những biểu tượng này được xem như là “viên kim cương” quốc gia:
Các điều kiện về nhân tố nguồn lực: Dưới hình thức đơn giản nhất các điều kiện nhân tố ám chỉ đất đai, lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Những nhân tố này được tạo ra trong một quốc gia bởi tầm quan trọng đặc biệt của mình, chúng được phân biệt với những thứ khác mà quốc gia đó thừa kế. Có 5 loại nhân tố: nguồn nhân lực, nguồn vật chất, nguồn tri thức, nguồn vốn và cơ sở hạ tầng.
Nguồn nhân lực: Số lượng nhân viên làm việc, kỹ năng mà họ có được, mức lương, và đạo đức làm việc của lực lượng lao động, tất cả tạo thành nguồn nhân lực của một quốc gia. Một đất nước với lượng cung lớn về nhân công trả lương thấp có được lợi thế rõ ràng trong việc sản xuất đòi hỏi kỹ năng thấp, sản phẩm cần nhiều lao động. Mặt khác những quốc gia như vậy thường xuyên gặp phải bất lợi khi nó tiến hành sản xuất những sản phẩm tinh vi đòi hỏi khả năng kỹ năng nhân công cao mà không có sự kiểm soát trên phạm vi rộng.
Nguồn lực vật chất: Tính khả dụng, số lượng, chất lượng và trị giá đất đai, nước, kháng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác xác định nguồn lực vật chất của một quốc gia. Quy mô và vị trí của một quốc gia cũng được bao gồm trong phạm trù này bởi vì khoảng cách gần thị trường và nguồn cung cấp cũng như chi phí vận tải được xem là mối quan tâm chiến lược. Những nhân tố này rõ ràng là những lợi thế hoặc bất lợi quan trọng đối với những ngành công nghiệp phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên.
Nhân tố tri thức: Tính khả dụng về sự hiểu biết của một lượng dân cư đáng kể liên quan đến thị trường, khoa học, công nghệ của một quốc gia, nghĩa là quốc gia đó được trời ban cho nguồn tri thức. Những nhân tố này hết sức quan trọng để đạt được thành công trong sản xuất sản phẩm và dịch vụ tinh vi và để tiến hành kinh doanh trong thị trường phức tạp.
Nhân tố nguồn vốn: Các quốc gia thường thay đổi khả năng sử dụng, số lượng , chi phí và các hình thức sử dụng vốn của các ngành công nghiệp. Tỷ lệ tiết kiệm, lãi suất, luật thuế và thâm hụt ngân sách Chính phủ của một quốc gia, tất cả đều tác động đến khả năng sử dụng các nhân tố này. Lợi thế, đối với những ngành chi phí vốn thấp thường tốt hơn những ngành khác ở những quốc gia với chi phí vốn tương đối cao, đôi khi mang tính quy ết định.
Nguồn lực về cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống ngân hàng, hệ thống chăm sóc sức khoẻ, hệ thống giao thông vận tải, hệ thống liên lạc và khả năng sử dụng cũng như chi phí sử dụng những hệ thống này của một quốc gia. Nhiều ngành công nghiệp tinh vi đã phải phụ thuộc nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng nâng cao để có được sự thành công. Lợi thế cạnh tranh sẽ được mang lại cho một ngành công nghiệp quốc gia nếu một loạt các nhân tố hỗn hợp được sử dụng đối với ngành đó thúc đẩy việc theo đuổi một chiến lược chung: sản xuất với chi phí thấp hoắc san xuất sản phẩm hay dịch vụ với sự khác biệt. Lợi thế cạnh tranh cũng có thể được các quốc gia tạo ra nếu những quốc gia này gặp những bất lợi về nhân tố đã lựa chọn.
Ví dụ: Sự thiếu hụt lực lượng lao động cố thể buộc các hãng phát triển những hình thức cơ giới hoá, với hình thức này sẽ mang lại lợi thế cho các hãng. Chi phí vận tải cao có thể thúc đẩy các hãng phát triển những nguyên liệu mới mà chúng không đắt khi vận chuyển.
Các điều kiện về cầu: bản chất của các điều kiện về cầu nội địa đối với những sản phẩm hay dịch vụ của một hãng hoặc một ngành là rất quan trọng bởi chúng xác định nên tỷ lệ và áp lực đối với việc cải tiến và đổi mới do các hãng thực hiện trong một quốc gia. đây cũng là nhân tố hoặc là giúp “đào tạo” các hãng có sức cạnh tranh ở tầm cỡ thế giới hoặc là bị thất bại hoàn toàn trong việc chuẩn bị để có thể tham gia cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Một số đặc điểm về cầu nội địa là đặc biệt quan trọng đối với lợi thế cạnh tranh, chẳng hạn như: kết cấu cầu nội địa, quy mô và hình thức tăng trưởng cầu nội địa…
Kết cấu nội địa được xác định bằng cách các hãng nhận thức, nắm rõ và đáp ứng được những nhu cầu của người mua. Lợi thế cạnh tranh có thể đạt được khi cầu nội địa mang lại cho các doanh nghiệp trong nước một bức tranh tốt hơn về những nhu cầu của người mua vào thời gian đầu so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Lợi thế này càng được thúc đẩy khi chính những người mua nội địa buộc các doanh nghiệp quốc gia họ phải đổi mới nhanh chóng và thường xuyên. Nền tảng của lợi thế này bắt nguồn từ chỗ, khi các doanh nghiệp trở nên nhạy cảm hơn và đáp ứng nhanh hơn nhu cầu nội địa và nếu nhu cầu ở thị trường nội địa phản ánh hoặc mô phỏng trước nhu cầu thế giới thì các doanh nghiệp quốc gia có thể giữ vững vị trí dẫn đầu trên thị trưòng.
Quy mô và mô hình tăng trưởng cầu nội địa càng trở nên quan trọng khi kết cấu cầu nội địa là phức tạp và phản ánh trước được nhu cầu bên ngoài. Nừu cầu nội địa phản ánh một cách đúng đắn hoặc mô phỏng trước được nhu cầu bên ngoài và nếu các doanh nghiệp không chỉ dừng ở việc phục vụ thị trường nội địa thì sự tồn tại của các đơn vị sản xuất và các chương trình quy mô lớn sẽ là một lợi thế cạnh tranh toàn cầu.
Sự tăng trưởng thị trường nội địa một cách nhanh chóng là một điều khuyến khích khác nữa để đầu tư vào và chấp nhận những công nghệ mới một cách nhanh hơn và để xây dựng nên các đơn vị sản xuất có hiệu quả và quy mô lớn. Một cầu nội địa mới, đặc biệt là nếu nó mô phỏng trước được nhu cầu thế giới, sẽ mang lại cho các doanh nghiệp trong nước lợi thế nhanh hơn so với các đối thủ cạnh tranh khi tham gia vào nước ngoài. Một điều quan trọng hơn nữa là sự bão hoà thị trường mong đợi, điều này sẽ đặt áp lực lên một công ty là phải mở rộng những thị trường quốc tế và tiếp tục đổi mới. Bão hoà thị trường đặc biệt quan trọng nếu nó xảy ra đồng thời với sự tăng trưởng nhanh chóng của các thị trường nước ngoài.
Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có mối tương quan: Việc hiện diện của các ngành công nghiệp cạnh tranh quốc tế của một quốc gia trên thị trường có mối liên quan hoặc hỗ trợ trực tiếp cho những ngành khác, có thể đưa lại cho những ngành này một lợi thế cạnh tranh. Các ngành công nghiệp cung ứng cạnh tranh ở tầm quốc tế cung cấp những sản phẩm đầu vào cho những ngành sản xuất sản phẩm cuối cùng đến lượt mình những ngành sản xuất sản phẩm cuối cùng sẽ cạnh tranh ở tầm quốc tế về mặt giá cả và chất lượng. Những ngành sản xuất sản phẩm cuối cùng sẽ dễ dàng tiếp cận với những sản phẩm đầu vào và với những công nghệ để sản xuất ra chúng, và với những cơ cấu quản lý và cơ cấu tổ chức nhằm làm cho những ngành này trở nên cạnh tranh hơn. Những lợi thế tương tự cũng được mang lại khi có những ngành công nghiệp có mối tương quan quốc tế trong một quốc gia. Những cơ hội này được sử dụng để phối hợp và chia sẻ những hoạt động của dây chuyền đơn vị sản xuất.
Cạnh tranh, cơ cấu và chiến lược của hãng: Sự khác nhau giữa loại hình quản lý, kỹ năng tổ chức và triển vọng chiến lược tạo ra những lợi thế và bất lợi cho các hãng trong việc cạnh tranh giữa các ngành khác nhau cũng như tạo ra sự khác biệt trong cường độ cạnh tranh nội địa.
Ví dụ: Tại Đức loại hình quản lý và cơ cấu của công ty có xu hướng sắp xếp theo trật tự. Giám đốc điều hành thường tiến thủ từ vị trí có kiến thức về công nghệ và thường hầu hết là thành công khi tham gia vào những ngành đòi hỏi cơ cấu tuân thủ kỷ luật cao như hoá họcvà công nghệ máy chính xác.
Có lẽ tác động mạnh nhất đến lợi thế cạnh tranh là từ những cuộc cạnh tranh khốc liệt trong nước. Cạnh tranh trong nước thúc đẩy tính năng động của ngành và tạo ra áp lực tiếp theo cho việc cải tiến và đổi mới. Cạnh tranh khốc liệt khu vực buộc các doanh nghiệp phải phát triển các sản phẩm mới, cải tiến các sản phẩm hiện có, giảm chi phí và giá cả, phát triển công nghệ mới và cải tiến chất lượng và dịch vụ. Cạnh tranh khốc liệt đối với các doanh nghiệp nước ngoài sẽ thiếu hụt mất sức mạnh này. Cạnh tranh trong nước sẽ phải đấu tranh với nhau không chỉ vì thị phần mà còn vì tài năng của nhân viên và uy tín trên thị trường nội địa. Cuối cùng cạnh tranh nội địa mạnh mẽ sẽ đẩy các hãng tới việc tìm kiếm thị trường quốc tế để hỗ trợ cho việc mở rộng quy mô và đầu tư. Việc thiếu vắng các cuộc cạnh tranh đáng kể sẽ tạo ra sự tự bằng lòng với bản thân của các doanh nghiệp nội địa và cuối cùng gây hậu quả làm cho các doanh nghiệp trở nên phi cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Cơ hội: Cơ hội đóng vai trò trong việc phân loại môi trường cạnh tranh. Cơ hội thường xuất hiện ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp, các ngành công nghiệp và chính phủ. Liên quan đến vấn đề này là những mặt như chiến tranh và thời kỳ hậu chiến, những tiến bộ công nghệ mới quan trọng, những cuộc chuyển đổi đột ngột nhân tố hay chi phí đầu vào như là khủng hoảng dầu lửa, thay đổi đột ngột tỷ giá hối đoái…
Cơ hội quan trọng bởi vì chúng tạo ra những sự gián đoạn lớn trong công nghệ mà điều này cho phép các quốc gia và các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh lại có thể vượt qua nhiều đối thủ cạnh tranh lâu đời và trở nên cạnh tranh, thậm chí là cả những người dẫn đầu ngành, trong lĩnh vực kinh doanh đã thay đổi.
Ví dụ: Việc phát triển công nghệ vi điện tử cho phép nhiều hãng vượt qua các doanh nghiệp Đức và Mỹ đang chiếm ưu thế về công nghệ cơ học điên tử truyền thống.
Chính phủ: Rất nhiều người cho rằng chính phủ là yếu tố quyết định chính lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Trên thực tế chính phủ không phải là yếu tố quyết định nhưng lại có ảnh hưởng quan trọng tới những yếu tố quyết định. Chính phủ tác động tới các điều kiện về cầu, vừa gián tiếp thông qua chính sách tài chính và chính sách tiền tệ và vừa trực tiếp bởi vai trò vốn có của nó như là người mua các sản phẩm và dịch vụ. Chính phủ tác động lên các nguồn lực như người ban hành các chính sách về lao động, giáo dục, phát triển vốn, các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tiêu chuẩn sản phẩm. Chính phủ tác động tới cạnh tranh và môi trường cạnh tranh bởi vai trò của nó như là người ban hành các quy định về thương mại chẳng hạn như chỉ ra cho các ngân hàng và đàm thoại với các công ty về cái gì họ có thể và không thể làm. Bằng cách tăng cường những yếu tố quyết định trong những ngành mà tại đó một quóc gia có lợi thế cạnh tranh, chính phủ cải tiến cạnh tranh của các doanh nghiệp quốc gia. Mặt khác chính phủ có thể cải tiến hoặc làm yếu đi lợi thế cạnh tranh nhưng chính phủ không thể tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Chính những chiến lược cạnh tranh này sẽ định hướng cho các hoạt động Marketing quốc tế của công ty. Nói cách khác việc xác lập chiến lược Marketing quốc tế hỗn hợp trên thị trường quốc tế của một công ty đòi hỏi phải tuân theo và thể hiện được các chiến lược cạnh tranh đã lựa chọn.
1.3: Đặc điểm một số thị trường nhập khẩu phần mềm của Việt Nam
1.3.1: ấn Độ
Trong vài năm trở lại đây ta có thể thấy ấn Độ đang tự khảng định mình và đã có những thành công nhất định, tuy nhiên bên cạnh đó, nó còn tồn tại những khó khăn mà ấn Độ phải đương đầu. Đầu tiên, ta cần nhìn nhận những con số mà ấn Độ đã đạt được từ năm 2005 - 2008. Tổng doanh số các sản phẩm phầm mềm ( cả dùng trong nước và xuất khẩu )đạt khoảng 3tỷ USD vào năm 2005. Thị trường phần mềm toàn cầu vào khoảng 400- 500tỷ USD. như vậy thị phần về phần mềm chiếm không quá 1%. Số máy tính trên đầu người là 1,5PC/ 1000 dân cũng quá thấp . Tuy nhiên trong những năm tới thì sẽ có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường phần mềm thế giới. Bởi vì hiện nay đang có chiến lược đầu tư khá rầm rộ cho ngành công nghệ cao này chủ yếu là sản xuất phần mềm dịch vụ để xuất khẩu chứ không phải ở dạng đóng gói. Vào năm 2008 thì đã chiếm khoảng 40% phần mềm xuất khẩu nhưng chủ yếu ở dạng sản phẩm dịch vụ , xuất khẩu ở dạng phần mềm đóng gói, các Công ty có khả năng làm nhưng trở ngại lớn nhất là khi đưa sản phẩm ra thị trường thế giới rất khó khăn. Các Công ty phần mềm ấn Độ không gần gũi với thị trường phần mềm đóng gói nước ngoài. Thị trường trong nước là hướng dẫn tồi cho các nhà phát triển phần mềm do nhiều nhu cầu khác nhau, bên cạnh đó ưu thế về chi phí gia công thấp đang giảm dần mặc dù sản xuất phần mềm không tốn nhiều chi phí nhưng tốn không ít để tiếp thị, quảng cáo thu hút sự chú ý của khách hàng. Tờ Economics ( đưa ra con số của các Công ty phần mềm chi 40- 50% doanh số cho khâu tiếp thị và bán hàng của các Công ty phần mềm lớn như Microsoft lên tới hàng tỷ USD. Một điểm yếu nữa đó là các Công ty phần mềm của chưa có uy tín trên thị trường phần mềm đóng gói, chưa có một hãng tên tuổi nào của ấn Độ làm việc này, thì khó bán được lượng hàng lớn. Hơn nữa việc hỗ trợ khách hàng, bảo trì, cập nhật sản phẩm trên thị trường nước ngoài cũng tốn không ít tiền.
Bên cạnh đó kinh nghiệm trên thế giới đã chỉ ra rằng dù có thành công đi nữa thì cũng chỉ đạt từ 1- 5% mà thôi, điều này đòi hỏi đầu tư lớn điều mà
ấn Độ khó có thể làm được. Từ những nguyên nhân nêu trên, nhiều Công ty của ấn Độ đã bằng lòng gia công cho các Công ty nước ngoài với giá hạ, đồng thời với việc từng bước tìm ra thị trường phần mềm tạm gọi là đóng gói. Các sản phẩm này thường là đóng goí một nửa, như các sản phẩm mang tính tiếp thị hoặc làm cơ sở để phát triển tiếp. Hướng đi cho vấn đề này là liên kết với các Công ty nước ngoài. Hiện nay thị trường phần mềm xuất khẩu của ấn Độ đã được thực hiện ở trên 40 quốc gia, tuy nhiên thị trường lớn nhất thì chủ yếu tập trung vào Mỹ ( bảng 2). Mỹ là thị trường xuất khẩu chính của ấn Độ cũng có thể do đây là thị trường phần mềm lớn nhất thế giới hiện nay, chiếm hơn 50 % tổng phần mềm bán ra trong năm 2008 .
1.3.2: Mỹ
Hoa Kỳ một cường quốc về kinh tế. Nền kinh tế Hoa Kỳ đã có những bước nhảy vọt trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Họ lần lượt vượt qua các quốc gia phát triển khác và vươn lên trở thành quốc gia đứng đầu về kinh tế cũng như trong khoa học và kỹ thuật trên thế giới. Trong vài chục năm trở lại đây Hoa Kỳ bắt đầu là nước đi tiên phong trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nước khởi sướng cho sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ cao, ngành công nghệ phần mềm. Các Công ty sản xuất phần mềm của Mỹ chiếm vị trí độc quyền trong lĩnh vực này chi phối hầu như toàn bộ thị trường thế giới. Sự lớn mạnh của Công ty Microsof là một minh chứng họ còn có thủ phủ Siticol nổi tiếng tập trung những chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực sản xuất phần mềm. Công ty Microsof hầu như năm nào cũng cho ra đời những phiên bản mới, chiếm vị trí độc quyền trong thời kỳ quá dài. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp phần mềm đã đem lại cho nền kinh tế Mỹ sự lớn mạnh , duy trì vị trí về kinh tế trên thế giới đưa lại lợi nhuận khổng lồ, tạo ra nhiều việc làm và thúc dẩy các ngành khác phát triển. hiện nay ở Mỹ ngành công nghệ thông tin đã phát triển vượt bậc, xu thé tin học hoá đang diễn ra, hầu như mọi lĩnh vực đều được trang bị tin học, có khoảng 60% số người đang làm tin học,phần mềm chiém khoảng 50% trên thị trường thế giới.
Ngành công nghiệp phần mềm của Mỹ có được vị trí như vậy là do Mỹ đã biết đầu tư vào trí tuệ, vào phát triển ngành công nghệ cao dựa vào tri thức này từ rất sớm có vốn và khuyến khích được tài năng của con người họ đã lôi cuốn được khá nhiều chuyên gia có trình độ cao từ các nước có nền kinh tế đang phát triển sang làm việc. Chính phủ Mỹ cũng có những chính sách nhằm định hướng đúng đắn cho cácc công ty phần mềm và tạo diều kiện ưu đãi, thuận lợi cho những Công ty này để có thể phát triển mạnh mẽ. chính vì thế chỉ trong vài chục năm trở lại đây thì các Công ty phần mềm của Mỹ đã chiếm lĩnh được thị trường thế giới.
1.3.3: Trung Quốc
Trung Quốc cũng được xem là một quốc gia xây dựng khá thành công ngành công nghiệp này, ngay cả ấn Độ một quốc gia với nền công nghệ thông tin khá phát triển phải xem Trung Quốc như nơi học tập. Thị trường khổng lồ ở Trung Quốc với số dân đông nhất thế giới sau khi mở cửa thì đã thu hút đâù tư nước ngoài lớn nhất trong số các nước đang phát triển. Hiện nay Trung Quốc đã có hơn 3000 công ty phần mềm, đã xuất hiện nhiều liên doanh phần mềm. Ngày 24/4/2000, Oracle Corp đã chính thức công bố việc thành lập liên doanh phát triển phần mềm của họ ở Trung Quốc đang bước vào giai đoạn cuối. Theo ông P.W.Pong Giám đốc công ty Oracle Trung Quốc, đầu tiên liên doanh này sẽ có 20 lập trình viên người Trung Quốc (4). Về mặt trình độ các lập trình viên Trung Quốc chẳng kém gì người ấn Độ. Bên cạnh oracle là IBM, cũng đang phối hợp với một đối tác trong nước là trường Đại học Qinghua ở Bắc Kinh để phát triển phần mềm. Theo những nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào những nước đang phát triển như Trung Quốc có lợi thế lớn về giá cả khi khai thác trình độ lập trình. Sau khi có những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài thì đầu tư vào phần mềm lỉên tục tăng khaỏng 20% hàng năm từ 1989 và không có dấu hiệu suy giảm với tiềm năng thị trường với một lực lựơng lớn kỹ sư và chuyên viên tin học chuyên nghiệp, thêm vào đó là giá công thấp Trung Quốc dường như sẽ trở thành nhà sản xuất chính các thiết bị cũng như các phần mềm tiếng hoa. Tuy nhiên Trung Quốc có một nền giáo dục chưa cao so với các nước phát triển, họ cũng không có tỷ lệ đáng kể các nhà khoa học, các kỹ sư, lập trình viên so với tổng dân số (5). Nhưng do dân số đông nên số lượng các chuyên viên là rất lớn. Chẳng hạn vào năm 2005 Trung Quốc có 2.172.000 chuyên viên làm phần mềm chỉ sau Mỹ 3.060.000, nhưng hơn ấn Độ 1.117.000 và Nhật Bản là 1.977.000. Vì thế mà các nhà sản xuất phần mềm có thể tìm được các chuyên viên làm việc với đồng lương thấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Từ những lợi thế trên mà Trung Quốc đã phát triển ngành công nghệ thông tin khá mạnh, đã vươn lên trở thành một trong những nước có nền công nghệ thông tin hàng đầu thế giới, đang trở thành đối thủ cạnh tranh chính của Mỹ. Tuy nhiên thị trường phần mềm, một ngành công nghệ cao, quan trọng trong ngành công nghệ thông tin lại chiếm tỷ trọng nhỏ chỉ khoảng 25% tổng thị trường công nghệ thông tin, tuy nhiên tốc độ tăng vẫn đạt 20%. Thị trường sản phẩm phần mềm đang có vấn đề nổi cộm nhất hiện nay ở Trung Quốc đó là vấn đề bản quyền, lại cộng với việc thị trường rộng lớn nhưng không tổ chức được đã làm hạn chế sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm gây ra nhiều thiệt hại cho ngành công nghiệp này. Sự sao chép thảoi mái bản quyền phần mềm ở Trung Quốc đã gây ra tổn thất nặng nề cho ngành công nghiệp nước này. Người ta đã ước tính có khoảng 94% phần mềm Trung Quốc là bất hợp pháp gây thiệt hại khoảng 600.000.000 USD cho công nghiệp phần mềm. Cũng chính vấn đề bản quyền đã gây ra những bất hoà giữa quan hệ Trung Mỹ ở trong nhiều năm qua. Nếu như thị trường phần mềm Trung Quốc vẫn diễn ra như vậy thì nó sẽ gây cản trở lớn cho sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm ở nước này, sẽ khó có thể theo kịp được các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên chính phủ Trung Quốc cũng đã có những luật chống lại việc ăn cắp bản quyền rất cứng rắn thậm chí trong nhiều trường hợp còn bị tử hình, thế nhưng trong vụ công ty Micro soft khiếu kiện viện nghiên cứu nhà nước ở Thẩm Quyến đã có 650 nghìn các Hologran giả giống như các sản phẩm của công ty thì toà án Trung Quốc lại chỉ xét sử đền bù thiệt hại 5 nghìn USD. Như vậy trong những năm tới Trung Quốc còn rất nhiều việc phải làm để muốn cho ngành công nghiệp phần mềm theo kịp và có đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm phần mềm của các quốc gia trên thế giới.
Chương 2
Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
2.1: Tổng quan về các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội
2.1.1: Thực trạng trình độ và nguồn lực sản xuất phần mềm
Hiện nay toàn Thành phố Hà Nội có khoảng gần 100 doanh nghiệp lớn và nhỏ tham gia vào hoạt động sản xuất và xuất khẩu phần mềm. Mặc dù Hà Nội khuyến khích việc đẩy mạnh sản xuất – xuất khẩu phần mềm với hy vọng đây sẽ là loại sản phẩm giúp tăng đáng kể nguồn thu ngoại tệ về cho Thành phố. Nhưng trên thực tế các doanh nghiệp phần mềm mới chỉ dừng lại ở gia công theo đơn đặt hàng chứ chưa chủ động sản xuất phần mềm. Tuy doanh số hàng năm đều tăng nhưng hiện nay các doanh nghiệp phần mềm này chỉ gia công theo đơn đặt hàng của các đối tác chứ chưa chủ động sản xuất phần mềm xuất khẩu (nhận các ý tưởng, giải pháp từ các đối tác để thực hiện một phần của phần mềm nào đó).
Dù gia công phần mềm xuất khẩu giúp Doanh nghiệp phần mềm vừa có việc làm, vừa có thêm cơ hội cho cả đội ngũ của mình tự rèn luyện song cứ mãI như thế thì sẽ khó có những Doanh nghiệp phần mềm đúng nghĩa (đủ khả năng tổ chức, triển khai một dự án và thiết kế một giải pháp hoàn chỉnh). Cũng vì vậy, Hà Nội mới chỉ có một số Doanh nghiệp phần mềm thực hiện một số giải pháp ứng dụng Công nghệ thông tin trong lĩnh vực Ngân hàng chứ chưa có Doanh nghiệp phần mềm nào đủ sức xây dựng giải pháp trị giá hàng triệu USD cho hệ thống Ngân hàng trong Thành phố, cuối cùng Ngân hàng phải đi mua phần mềm của nước ngoài.
Có rất nhiều nguyên nhân như thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm cả trong tổ
chức – quản lý lẫn tiếp thị. Chính vì vậy quy mô của hầu hết Doanh nghiệp phần mềm Hà Nội đều thuộc loại nhỏ. Việc tổ chức quy trình sản xuất phần mềm (khảo sát, phân tích, thiết kế, lập trình, kiểm tra, đóng gói, chuyển giao…) theo những chuẩn mực của sản xuất công nghiệp nói chung và của sản xuất phần mềm nói riêng còn rất nhiều hạn chế, các khó khăn ấy tạo thành một vòng luẩn quẩn rất khó tìm được lối ra.
Muốn đặt được chân vào thị trường phần mềm quốc tế ngoài việc phải có sản phẩm cụ thể, Doanh nghiệp phần mềm Hà Nội còn phải chứng minh quy trình làm việc, quy trình kiểm soát chất lượng, hợp chuẩn. Chưa kể phải tổ chức tốt hệ thống tiếp thị và bán hàng. Riêng vốn đầu tư cho một văn phòng đại diện để tiếp thị và tìm kiếm khách hàng ở Mỹ hoặc Nhật Bản đã hết khoảng 250.000 USD/. năm.
Trong các Doanh nghiệp phần mềm đang hoạt động trên địa bàn Hà Nội thì chỉ có khoảng 9% Doanh nghiệp phần mềm sủ dụng hơn 100 lập trình viên. Số Doanh nghiệp phần mềm có dưới 30 lập trình viên chiếm tới 53%. Do quy mô quá nhỏ, phần lớn Doanh nghiệp phần mềm không tạo được sự tin cậy nơi đối tác nên rất khó tìm kiếm hợp đồng. Nếu may mắn nhận được các đơn đặt hàng có giá trị lớn thì không đủ sức xoay sở cho kịp thời hạn hoặc đảm bảo chất lượng sản phẩm nhận gia công. Chưa kể vì quy mô quá nhỏ, nhiều Doanh nghiệp phần mềm không có khả năng tiếp thị trên thị trường hoặc tuyển dụng, đào tạo nhân lực để phát triển hoạt động. Đã vậy đa số các Doanh nghiệp phần mềm lại thiếu sự tin cậy nhau nên việc hợp tác, liên kết để cùng khai thác các cơ hội rất kém.
Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ Doanh nghiệp phần mềm chưa thật sự hợp lý. Nhiều doanh nghiệp phần mềm cần vay vốn để ký quỹ (thường là một khoản tương đương 20% giá trị hợp đồng) trước khi ký hợp đồng gia công nhưng ngân hàng lại đòi phải có hợp đồng mới cho vay vốn.
Việc bảo vệ sở hữu trí tuệ chưa đạt hiệu quả như mong đợi cũng tạo ra nhiều vướng mắc khác, cần có cơ chế tạo sự hợp tác chặt chẽ giữa Doanh nghiệp phần mềm với các trường Đại học, các hiệp hội, các cơ quan tài chính, bảo hiểm ….
Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành công nghiệp phần mềm Hà Nội đạt mức 23,5%/năm, đây là mức tăng cao nhất so với các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên doanh số của ngành này mới đạt được 1/2 so với mục tiêu 180 triệu USD đã đề ra và chỉ bằng 1/5 doanh số ngành phần mềm và dịch vụ của một số Thành phố trên thế giới. Hà Nội đã được xếp hạng 25 Thành phố có sức hấp dẫn nhất về Công nghệ phần mềm và dịch vụ.
Triển vọng đầu tư của ngành này trong thực tế được đánh giá rất cao. Mới đây tập đoàn Dữ liệu quốc tế (IDG) đã lập quỹ đầu tư mạo hiểm 100 triệu USD để đầu tư vào các doanh nghiệp phần mềm và dịch vụ của Hà Nội. Tỷ phú Bill Gates – Chủ tịch tập đoàn Microsoft cũng đã đến Hà Nội, chỉ tính riêng Tập đoàn FPT cũng đã có tới 400 người làm cho Microsoft. Ngoài ra các công ty hàng đầu của Nhật như là Hitachi, NEC, Fujitsu… cũng đã đặt hợp đồng gia công phần mềm hoặc đầu tư trực tiếp mở cơ sở sản xuất phần mềm tại Hà Nội.
Những năm gần đây, các doanh nghiệp phần mềm của Hà Nội đã phát triển rất nhanh về số lượng và chất lượng. Toàn thành phố có trên 100 Doanh nghiêp lớn nhỏ hoạt động trong lĩnh vực phần mềm và dịch vụ. Trước đó năm 2006 con số này mới chỉ là gần 40 doanh nghiệp và không có doanh nghiệp nào cóc số lao động vượt qua 100 người.
Tính đến nay số lượng nhân lực làm trong ngành công nghiệp phần mềm của Hà Nội đã đạt đến con số 8500 người. Tập đoàn FPT lập kỷ lục đứng số 1 Đông Nam á vì sở hữu 2000 lập trình viên. Nhiều công ty khác cũng đã đạt con số trên dưới 500 lập trình viên, đặc biệt có 2 doanh nghiệp đạt chứng chỉ quốc tế cao nhất về quản lý chất lượng phần mềm và gần 20 doanh nghiệp khác đạt chứng chỉ ISO và CMM3, CMM4,…
Hiện nay Nhật Bản là thị trường chính của các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội, doanh số gia công xuất khẩu phần mềm sang Nhật tăng nhanh trên 100%/năm. Hiệu quả lao động trong gia công xuất khẩu phần mềm cho Nhật đạt giá trị rất cao, trung bình đạt trên 20.000USD/người/năm. Sau giai đoạn chập chững của ngành phần mềm Hà Nội đến nay một số doanh nghiệp phần mềm Hà Nội không những hoạt động tốt mà còn trở thành đối tác của những hãng và tập đoàn lớn của nước ngoài.
Tuy nhiên hiện nay Hà Nội đang thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực trong ngành phần mềm nhất là nhân lực sản xuất gia công phần mềm cho Nhật. Các cơ sở đào tạo của Hà Nội hiện chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo về cả số lượng lẫn chất lượng. Hơn thế, sự khuyến khích phát triển công nghiệp phần mềm vẫn còn dừng lại ở chủ trương, chưa có chính sách đột phá, chưa có quy hoạch phát triển, thiếu các dự án, chương trình đầu tư của Thành phố để tạo nền tảng phát triển bền vững. Ngoài ra việc đầu tư của thành phố cho công nghệ thông tin vẫn thiên về ứng dụng, mua sắm thiết bị chứ không chú trọng đến đầu tư cho phát triển công nghiệp phần mềm (không quá 10%).
Hoạt động thâm nhập thị trường quốc tế của các doanh nghiệp phần mềm lại cần có sự giúp đỡ của Thành phố và các Hiệp hội. Ngành công nghiệp phần mềm còn rất nhiều các doanh nghiệp tầm cỡ và các khu tập trung công nghiệp phần mềm. Do đó rất khó xây dựng một hình ảnh uy tín và sức mạnh chung. Hà Nội hiện cũng đang rất thiếu những cơ sở nghiên cứu thử nghiệm và làm nhiệm vụ chuyển giao công nghệ quốc gia. Vì vậy chưa thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài lớn . Rất nhiều các doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa chịu đầu tư chi phí cho xây dựng thương hiệu và Marketing, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm tại Việt Nam cũng như tại Hà Nội thuộc loại cao nhất thế giới. Để ngành công nghiệp phần mềm Hà Nội có thể phát triển và chỗ đứng trên thị trường quốc tế thì cần phải có tầm nhìn toàn cầu, đặt sự phát triển của ngành phần mềm Hà Nội trong phần mềm thế giới, coi nhân lực phần mềm là một sản phẩm đặc biệt mà Hà Nội có lợi thế cạnh tranh, có khả năng cung cấp với một số lượng lớn và chiếm vị trí cao. Ngoài ra cũng cần quốc tế hoá các chương trình và quy trình đào tạo.
Các doanh nghiệp trong ngành phần mềm chính là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của ngành này. Vì vậy doanh nghiệp nên đầu tư để nâng cao quy trình quản lý chất lượng theo chuẩn quốc tế , nâng cao quy mô và trình độ nhân lực, tăng cường liên kết hợp tác nước ngoài, đầu tư mạnh cho công tác Marketing và xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, đồng thời nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp. Đó chính là con đường ngắn nhất và nhanh nhất để chúng ta có những sản phẩm dịch vụ phần mềm tốt nhất, chất lượng nhất cho xuất khẩu mang thương hiệu riêng cho mỗi doanh nghiệp.
2.1.3: Lợi thế và hạn chế của các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội
*Lợi thế:
+ Sự ổn định về an ninh chính trị: Thành phố Hà Nội là một trong những nơI có độ ổn định cao về chính trị và ít có các nguy cơ khủng bố. Ưu thế này cùng với địa lý là thủ đô của Việt Nam, nằm trong khu vực Châu á, một khu vực hiện đang được đánh giá là năng động nhất trong lĩnh vực Công nghệ thông tin, Hà Nội sẽ là một điểm đến hấp dẫn các tập đoàn đa quốc gia và các công ty nước ngoài đầu tư mở các chi nhánh và công ty sản xuất gia công phần mềm xuât khẩu.
+ Nhân công rẻ, ham học hỏi, cầu tiến: Với khoảng 34% dân số ở độ tuổi 15 – 34 đảm bảo cho Việt Nam có một lực lượng lao động trẻ. Khả năng về Logic và Toán học của sinh viên rất tốt là một điều kiện thuận lợi trong việc phát triển Công nghệ thông tin. So với nhiều nơi trên thế giới giá nhân công ở Hà Nội rẻ hơn từ 25 – 40%. Lao động Công nghệ thông tin có khả năng nâng cao trình độ nhanh và dễ thích nghi với điều kiện làm việc với cường độ cao.
+ Sự hỗ trợ của Thành Phố: Thành phố rất chú trọng việc phát triển công nghệ phần mềm. Có rất nhiều chính sách ưu đãi phát triển công nghệ phần mềm, như các chính sách ưu đãi về thuế, các chính sách ưu đãI về thuế đất, thuê có sở hạ tầng, các chính sách hỗ trợ về vốn, chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực phần mềm…
*Hạn chế:
+ Chưa thu hút được các tập đoàn đa quốc gia và các công ty lớn nước ngoài đầu tư vào việc gia công phát triển phần mềm ở Hà Nội: Mặc dù Hà Nội đã có nhiều chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư vào lĩnh vực sản xuất phần mềm xuất khẩu, nhưng các chính sách này chưa hoàn toàn hoàn thiện, bên cạnh đó việc triển khai các chính sách này nhiều khi còn khó khăn, cơ sở hạ tầng xây dựng còn yếu kém, giao thông không thuận tiện. Các chính sách ưu đãi về thuế, ưu đãi về giá thuế đất v.v… cũng thường gặp những cản trở khi thực thi. Những khó khăn trên là những trở ngại làm giảm sút đáng kể sức hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội trong lĩnh vực công nghệ phần mềm.
+ Trình độ lực lượng lao động phần mềm còn thấp: Lực lượng lao động phần mềm trong mấy năm qua có gia tăng về số lượng nhưng chất lượng thì còn quá thấp so với yêu cầu của thị trường nhất là đối với thị trường xuất khẩu. Các lập trình viên của Hà Nội nói chung thiếu kinh nghiệm thực tế, yếu về các kỹ năng giao tiếp, khả năng làm việc nhóm, đặc biệt rất yếu về ngoại ngữ là một yêu cầu thiết yếu trong việc làm gia công phần mềm xuất khẩu. Chúng ta cũng đặc biệt thiếu các lao động phần mềm cao cấp như các chuyên gia phân tích hệ thống, người thiết kế giải pháp thống kê, các quản trị viên dự án, giám đốc dự án. Sự kém chất lượng của lực lượng lao động là một trong những nguyên nhân khiến Hà Nội chưa giành được nhiều dự án gia công phần mềm với các công ty nước ngoài.
+ Môi trường phát triển doanh nghiệp: Một trong những hạn chế lớn của Hà Nội là vấn đề bản quyền phần mềm. Hà Nội là một trong những thành phố được xếp đứng đầu danh sách vi phạm bản quyền (BSA, 2008). Vị trí này tạo ra một hình ảnh rất không tốt cho công nghiệp phần mềm Hà Nội trong con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra còn có mốt số điều kiện môi trưòng không thuận lợi khác cũng làm ảnh hưởng đến việc phát triển công nghệ phần mềm theo hướng xuất khẩu như hệ thống luật về các nguyên tắc, thực thi hợp đồng của Hà Nội chưa chặt chẽ và tường minh; thiếu những tiêu chí cần thiết để phát triển thương mại điện tử như hệ thống thẻ tín dụng để mua bản quyên phần mềm và các dịch vụ khác.
+ Năng lực của các doanh nghiệp phần mềm còn yếu: Các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội nói chung đều có quy mô nhỏ, thiếu kinh nghiệm, yếu cả về khả năng quản lý, quy trình sản xuất lẫn tiếp thị bán hàng. Hầu hết các doanh nghiệp đều chưa có các chiến lược phát triển sản phẩm, chiến lược thị trường. Các doanh nghiệp lại thiếu sự liên kết nhằm tạo ra khả năng cạnh tranh, ít có sự hỗ trợ nhau trong hoạt động, thị trường sản phẩm chồng chéo. Những yếu điểm này cùng với chất lượng nguồn nhân lực thấp làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiêp phần mềm Hà Nội trên thị trường thế giới thấp.
+ Cơ sở hạ tầng viễn thông Internet: Mặc dù đã có nhiều cố gắng để tăng băng thông rộng và giảm cước dịch vụ viên thông và Internet tuy nhiên chất lượng dịch vụ và tốc độ Internet Hà Nội vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển phần mềm, đặc biệt là đối với các dự án gia công cho nước ngoài. Giá thuê kênh dùng riêng nói chung vẫn cao, đặc biệt quá cao đối với các doanh nghiệp phần mềm nhỏ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến công nghiệp phần mềm Hà Nội khó chiếm được các hợp đồng gia công với nước ngoài.
+ Khả năng quảng cáo, tiếp thị, phát triển thị trường: Công nghiệp phần mềm hà Nội hiện đang rất yêu về khả năng quảng bá, tiếp thị và tìm kiếm mở rộng các thị trường mới. Hầu hết các doanh nghiệp phần mềm đều chưa đủ khả năng và cũng chưa đầu tư thích đáng cho việc tiếp thị, quảng bá thương hiệu cũng như sản phẩm của mình. Thành phố cũng chưa đầu tư nhiều cho việc xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, quảng bá, Marketing để tạo một vị trí cho công nghiệp phần mềm Hà Nội trên thị trường gia công phần mềm thế giới. Trong tổng số ngân sách vốn đã rất khiêm tốn dành cho phần mềm của Hà Nội thì chi phí cho tiếp thị, tìm kiếm thị trường, tham gia các buổi hội chợ, hội nghị lại chiếm một tỷ trọng rất nhỏ (khoảng 20%). Cụ thể Hà Nội có rất ít buổi thuyết trình về công nghiệp phần mềm; thiếu những tờ rơi, quảng bá hoặc các trang Web về cách thức xuất khẩu và các đơn vị xuất khẩu phần mềm Hà Nội; không có các chương trình nghiên cứu cho từng thị trường xuất khẩu cụ thể; khả năng tiếp thị và thuyết trình quảng cáo về sản phẩm rất thấp, nhất là khả năng quảng cáo ở thị trường quốc tế. Chính khả năng tiếp thị kém, không am hiểu thị trường là một trong những yếu điểm chủ yếu dẫn đến tình trạng doanh số xuất khẩu của Hà Nội chỉ nằm ở một con số khiêm tốn.
2.2: Phân tích thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
2.2.1: Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
Sản phẩm phần mềm của Hà Nội trong nhiều năm qua chiếm một vị thế quan trọng trong đóng góp cho xuất khẩu phần mềm và nâng cao giá trị phần mềm của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu tăng vọt kể từ khi các công ty phần mềm trên thế giới đầu tư vào Hà Nội, điều đó đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc cả về số lượng chất lượng và thị trường của sản phẩm phần mềm trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu được thể hiện qua các bảng chỉ tiêu sau:
TT
Chỉ tiêu
Đơn
vị
Năm
2006
2007
2008
1
Kim ngạch xuất khẩu
Triệu
USD
56,2
75,4
102,1
2
Tốc độ tăng trưởng
%
7
8,7
10.5
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của Hà Nội
(Nguồn:
Qua bảng trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu phần mềm có xu hướng tăng dần theo các năm. Cụ thể, năm 2006 xuất khẩu phẩn mềm toàn Hà Nội đạt 56,2 triệu USD tăng 7% so với năm 2005; năm 2007 đạt 75,4 triệu USD tăng 8,7% so với năm 2006 và năm 2008 đạt 102,1 triệu USD tăng 10,5%. Mục tiêu phấn đấu năm 2009 là tăng kim ngạch 29% đạt 1120 triệu USD.
TT
Chỉ tiêu
Năm
2006
2007
2008
1
Trực tiếp
13.2
22
30,7
2
Uỷ thác
43
53,4
71,4
Bảng 2: Phương thức xuất khẩu của Hà Nội
(Nguồn:
Qua bảng số liệu trên ta thấy phương thức xuất khẩu trực tiếp chiếm 20%, Uỷ thác chiếm 80% xuất khẩu của Hà Nội.
Trong những năm qua các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm của Hà Nội thực hiện kinh doanh đã đạt được một số kết quả đáng mừng, khách hàng có xu hướng tăng lên. Các hình thức xuất khẩu của Hà Nội chủ yếu là xuất khẩu trực tiệp, liên doanh với các đơn vị để sản xuất và đẩy mạnh công tác tìm kiếm thị trường, các nhóm mặt hàng chủ yếu là phần mềm về y tế, giáo dục…
Trong cơ cấu hàng xuất khẩu trên thì có xu hướng tăng lên nhiều vì các công ty độc quyền về phần mềm. Bằng sự tranh thủ mọi nguồn vốn và sự hỗ trợ của các đối tác trong lĩnh vực phần mềm, các doanh nghiệp Hà Nội không ngừng đổi mới trang thiết bị công nghệ, thay thế các thiết bị cũ lac hậu và lắp đặt các thiết bị hiện đại. Chính vì vậy mà chất lượng các phần mềm được nâng cao, từng bước đáp ứng chung về nhu cầu thị trường.
2.2.2: Thị trường xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
Trong nhiều năm qua hoạt động gia công xuất khẩu phần mềm của Hà Nội đã tăng đều đặn hàng năm. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp phần mềm tham gia vào hoạt động này, trong đo có nhiều doanh nghiệp chuyển hẳn toàn bộ hoạt động sang gia công xuất khẩu phần mềm. Doanh thu trong năm 2007 đạt mức
75,4 triệu USD, một bước tăng trưởng ấn tượng khi năm 2003 con số này mới chỉ là 25,4 triệu USD.
Thị trường của các doanh nghiệp gia công cũng đã được mở rộng nhanh chóng, có những thị trường ma Hà Nội đã phát triển trở thành nhà cung cấp số một như Nhật Bản. Dù có rất nhiều khó khăn và thách thức trong sự khủng hoảng của nền kinh tế toàn cầu nhưng Hà Nội vẫn mạnh dạn đặt mục tiêu trở thành Thành phố xuất khẩu phần mềm lớn nhất cả nước.
Bắc Mỹ cũng là thị trường truyền thống của các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội, nhưng Nhật Bản đang nổi lên là thị trường lớn nhất và tăng trưởng nhất của Hà Nội. Bên cạnh đó, cơ hội thâm nhập vào thị trường Châu Âu đang mở ra cho nhưng năm tới, với sự khuyến khích và hỗ trợ đến từ chính sách của các nước Bắc Âu.
Nhưnng việc định hướng về chiến lược phát triển trong thời gian tới là phải tập trung đột phá cho được bài toán nhân lực và nâng cao đẳng cấp chất xám trong hoạt động xuất khẩu phần mềm, đồng thời áp dụng chiến lược về thị trường là “khai phá Châu Âu, khoan sâu Mỹ – Nhật”
Tại hội thảo Phát triển công nghiệp Nội dung thông tin số, đã có các nhận định công nghiệp nội dung số (DCI) đã bùng nổ và đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới trong vòng 5 năm trở lại đây. Trong lĩnh vực DCI, công nghiệp game – nhất là game online là lĩnh vực đem lại doanh số lớn. Doanh thu ngành game online của thế giới năm 2008 là 4 tỷ USD và dự kiến đạt 9 tỷ USD vào năm 2010. Hà Nội có khoảng 25 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp trò chơI điện tử. tính đến nay có khoảng 25 game online được tung ra trên thị trường và có khoảng 12 triệu người chơI game. Thị trường game ở Hà Nội là rất sôi động, nhưng các game được ưa chuộng ở Hà Nội chủ yếu vẫn là của Trung Quốc và Hàn Quốc.
Ngoài game, các lĩnh vực khác của ngành nội dung số cũng bắt đầu phát triển mạnh ở hà Nội, chủ yếu là các dịch vụ gia tăng trên Internet và qua mạng thông tin di động.
Đối tác gia công phần mềm chủ yếu của Nhật Bản cho đến nay là Trung Quốc và ấn Độ, tuy nhiên các công ty của Nhật hiện đang tìm cách chuyển hướng sang các nước khác như Viêt Nam, Thái Lan, Philippine… Dặc biệt trong số đó thì Hà Nội là lựa chọn số 1 đối với thị trường gia công phần mềm xuất khẩu. Nguyên nhân vì Hà Nội là trung tâm kinh tế của Việt Nam, sự ổn định về chinh trị, nhân công rẻ – nhiều chính sách hỗ trợ hợp tác… Nhậ cũng là thị trường xuất khẩu chinh của phần mềm Hà Nội, là đối tác chuyển giao công nghệvà giúp nâng cao năng lực của các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội. Một số doanh nghiệp phần mềm Hà Nội đã thâm nhập thành công vào thị trường Nhật, đạt tốc độ tăng trưởng doanh thu gia công phần mềm cho Nhật trên 100%.
2.2.3: Khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
Chất lượng
Ngày nay , khi nhu cầu về phương tiện truyền thông càng cao thì một trong những yếu tố hàng đầu trong dịch vụ truyền thông được chú ý là chất lượng. Đây là nhân tố quan trọng để duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng xuất khẩu. Nhận định được điều này, các doanh nghiệp xuất khẩu luôn phấn đấu nâng cao chất lượng cao hơn ở trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài. Chất lượng sản phẩm không chỉ là thể hiện ở chất lượng của phần mềm mà còn ở trong tiện ích cho người sử dụng . Nhờ những việc làm này mà số lượng các phần mềm của các doanh nghiệp ngày càng tăng. Tuy nhiên để đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của thị trường thì các doanh nghiệp còn cần cố gắng nhiều, vì so với những nước xuất khẩu khác trên thế giới thì chất lượng của VIệt Nam mới chỉ đạt mức trung bình.
Giá cả
Giá cả là một trong những công cụ quan trọng để cạnh tranh trên thị trường . Thực tế hiện nay cho thấy, ngành công nghiệp phần mềm của VIệt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong khâu tìm kiếm các thiết bị phục vụ cho phần mềm. Thiết bị chủ yếu của các doanh nghiệp chủ yếu của các doanh ngiệp phải nhập từ bên ngoài , đặc biệt là các linh kiện thiết bị, do trong nước không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Do đó đã đẩy giá thành các sản phẩm của các doanh nghiệp lên rất cao, điều này khiến công ty khó có khă năng cạnh tranh về giá. Vì vậy , để cho có một mức giá đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có thể phát triển, các doanh ngiệp đã nghiên cứu kỹ lưỡng về giá mua hàng hóa, chi phí vận chuyển, lưu kho , chi phí bán hàng… và đã cố gắng giảm thiều tới mức thấp nhất các chi phí đó. Trên cơ sở hạ giá thành sản phẩm thiết bị và đưa ra một mức giá bán thích hợp.
Tính đa dạng của sản phẩm
Ngày nay , kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm rất được coi trọng đặc biệt là trong lĩnh vực phần mềm và nó cũng là một trong những tiêu chuẩn đầu tiên của khác hàng khi quyết định sử dụng phần mềm. Về cơ bản các loai sản phẩm phần mềm của các doanh nghiệp mới chỉ có khả năng đáp ứng những nhu cầu bình thường nên giá trị xuất khẩu chưa cao, sản phẩm xuất khẩu còn đơn điệu, chủ yếu là những sản phẩm được thuê gia công cho nước ngoài và có yêu cầu kỹ thuật trung bình, thấp. Mặt khác , trong hoạt động xuất khẩu , chúng ta và những người nhập khẩu có những phong tục tập quán khác nhau …Các doanh nghiệp sẽ đưa ra các sản phẩm và thăm dò ý kiến của họ. Ngoài ra khách hàng sẽ đưa sẵn cho doanh nghiệp và từ đó doanh nghiệp sẽ đặt hàng theo đúng mẫu mã khách hàng sẽ yêu cầu và đã có nhiều cố gắng để sản phẩm xuất khẩu đạt được yêu cầu cao nhất của khách hàng cả về chất lượng và mẫu mã
Dịch vụ , phương pháp phục vụ khách hàng
Có một phần mềm tốt, giá cả hợp lý chưa chắc đã thu hút được khách hàng nếu như các dịch vụ , phương pháp phục vụ khác hàng không được quan tâm. Tạo lập được uy tín , niềm tin với khách hàng là cả một quá trình lâu dài đòi hỏi có sự kết hợp nhiều yếu tố. Khi đã có được nó chúng ta cần biết giữ gìn và phát huy để khẳng định thêm lòng tin cho khách hàng. Trong việc kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp luôn cố gắng tạo được sự thuận tiện trong thanh toán , trong quá trình vận chuyển giao nhận hàng hóa, hoàn thành đúng thời hạn giao hàng, đúng số lượng, chất lượng hàng hóa trong hợp đồng. Khi công cuộc cạnh tranh ngày càng khó khăn thì vấn đề này càng được các doanh nghiệp coi trọng, vì số lượng nhà cung cấp rất nhiều, nếu chúng ta làm mất niềm tin của khách hàng thì cơ hội làm lại là rất hiếm vì khách hàng có rất nhiều lựa chọn khác nhau. Nghệ thuật bán hàng của các doanh nghiệp đã rất tiến bộ so với những năm trước đây. Các doanh nghiệp đang từng bước xây dựng đội ngũ bán hàng và tiếp thị có kỹ năng cao và thiết lập kênh phân phối hàng trên cả nước . Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong những năm qua song yếu tố ”nghệ thuật bán hàng” vẫn còn yếu so với các nước trong khu vực . Đội ngũ xúc tiến thương mại , tiếp thị, hệ thống nhân viên bán hàng còn yếu về chất lượng và thiếu về số lượng. Các doanh nghiệp chưa thiết lập được mạng lưới trao đổi thông tin , đại diện thương mại trong khu vực và ở các nước . Hạn chế này đã làm ảnh hưởng rất lớn tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp , đến khả năng phản ứng nhanh , khả năng xoay chiều nhanh tình thễ của doanh nghiệp. Chính vì thế các doanh nghiệp cần giải quyết vấn đề này sao cho phù hợp và nhanh chóng.
Các vấn đề khác
Bên cạnh các vấn đề trên, các doanh nghiệp cũng quan tâm tới việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức và công tác vận chuyển hàng hóa. Các doanh nghiệp luôn chấn chỉnh trong công tác quản lý nhằm tạo ra bộ máy tổ chức gọn nhẹ, hợp lý nên đã giảm được những chi phí quản lý không cần thiết. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng luôn nhanh chóng, kịp thời trong công tác vận chuyển , tránh rủi ro trong quá trình luân chuyển , đảm bảo giao hàng đúng thời gian.
2.2.4: Cơ chế, chính sách của Thành phố Hà Nội trong thúc đẩy xuất khẩu phần mềm
Cơ chế:
* Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu phần mềm
+ Trình tự thực hiện xuất khẩu phần mềm:
- Thành lập công ty theo luật Công ty.
- Đăng ký mở tài khoản thường xuyên (Permanent Account Number – PAN) tại cơ quan thuế (The Income Tax Department).
- Đăng ký là Đơn vị sản xuất.
-Đăng ký mã Xuất nhập khẩu (Import Export Code) sau khi nhận được Tài khoản thường xuyên (PAN).
- Đăng ký với Cơ quan hải quan.
- Thực hiện sản xuất và xuất khẩu.
+ Cơ chế nhập khẩu phần mềm:
Cho phép nhập khẩu hàng cũ (Import Of Second hand Capital Goods Also Permitted).
* Thủ tục xuất nhập khẩu
Bất cứ nhà xuất khẩu hàng hoá hoặc phần mềm dưới dạng hữu hình hoặc thông qua bất cứ hình thức nào kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp ra khỏi Hà Nội phải cung cấp cho các cơ quan quản lý bản kê khai hàng hoá với đầy đủ các chi tiết một cách đúng đắn và trung thực bao gồm giá trị toàn bộ hàng hoá hoặc phần mềm xuất khẩu.
* Phương thức thanh toán và lập hoá đơn
Với các hợp đồng dài hạn giao hàng nhiều lần qua việc truyền mạng, người xuất khẩu phải định kỳ lập chứng từ yêu cầu khách hàng nước ngoài thanh toán.
Ví dụ: ít nhất trong vòng 1 tháng hoặc sau một thời hạn nào đó được ghi trong hợp đồng…
Với hợp đồng một lần phải lập hoá đơn đòi tiền trong vòng 15 ngày kể từ ngày truyền mạng. Đơn vị xuất khẩu phải trình Form SOFTEX cho cơ quan chức chính phủ để định giá/ xác nhận chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày của hoá đơn trước đây.
* Quy định về việc thanh toán
Tổng giá trị phần mềm xuất khẩu như được nêu trong Form SOFTEX hoặc được chứng thực bởi Quan chức chính phủ phải được thanh toán đúng hạn hoặc trong vong 180 ngày kể từ ngày ghi trên hoá đơn nhưng sẽ lấy ngày nào đến trước.
* Việc xuất nhập khẩu phần mềm:
+ Phải theo Form SOXTEX (như hình thức giấy phép xuất khẩu).
+ Các đơn vị sản xuất phần mềm nên được miễn thuế xuất khẩu.
+ Phải đóng thuế VAT khi nhập khẩu.
* Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Quy định một số chính sách và biện pháp khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong Thành phố thuộc mọi thành phần kinh tế, người định cư ở nước ngoài và các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư sản xuất sản phẩm và làm dịch vụ phần mềm tại Hà Nội (gọi tắt là doanh nghiệp phần mềm).
Khuyến khích và ưu đãi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất sản phẩm và dịch vụ phần mềm.
Chính sách:
* Thuế suất và thuế thu nhập doanh nghiệp
Doanh nghiệp phần mềm Hà Nội và doanh nghiệp phần mềm nước ngoài hoạt động trên địa bàn Thành phố không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam cũng như của Thành phố. Được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp với các mức sau:
+ Thuế suất 25%.
+ Thuế suất 20% đối với doanh nghiệp đầu tư ở địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn.
+ Thuế suất 15% đối với doanh nghiệp đầu tư ở địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
Doanh nghiệp phần mềm thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về Hà Nội trong lĩnh vực công nghiệp phần mềm theo Luật Đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp phần mềm được hưởng thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với thu nhập từ các hoạt động sản xuất và dịch vụ phần mềm.
* Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp
Doanh nghiệp phần mềm được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian bốn năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung đối với thu nhập do hoạt động sản xuất và dịch vụ phần mềm.
* Thuế thu nhập với người có thu nhập cao
Người lao động chuyên nghiệp là người Việt Nam trực tiếp tham gia các hoạt động sản xuất và dịch vụ phần mềm được áp dụng mức khởi điểm chịu thuế và mức luỹ tiến như quy định đối với người nước ngoài.
* Thuế giá trị gia tăng
Sản phẩm và dịch vụ phần mềm được hưởng ưu đãi cao nhất về thuế giá trị gia tăng.
* Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất sản phẩm phần mềm mà Hà Nội chưa sản xuất được. Ban Khoa hoc, Công nghệ và môi trường ban hành danh mục nguyên vật liệu phục vụ cho sanr xuất sản phẩm phần mềm mà Hà Nội đã sản xuất được để làm cơ sở cho việc xác định ưu đãi về thuế nhập khẩu. Danh mục này được điều chỉnh định kỳ hàng năm.
* Bảo hộ quyền tác giả đối với phần mềm
Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc bảo hộ quyền tác giả đối với sản phẩm phần mềm; tăng cường khả năng hiệu quả hạt động của các cơ quan quản lý và thực thi quyền tác giả đối với phần mềm.
* Đào tạo phát triển nguồn nhân lực
Các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập các cơ sở đào tạo về công nghệ thông tin, các cơ sở này được hưởng các ưu đãi đối với các hoạt động đào tạo công nghệ thông tin như đối với doanh nghiệp phần mềm.
Bộ giáo dục và đào tạo chủ trì phối hợp với bộ khoa học công nghệ và môi trường. Tổng cục Bưu điện và các Bộ ngành có liên quan ban hành các kế hoạch triển khai việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm và dự án Internet tại các cơ sở đào tạo.
* Tạo cơ sở hạ tầng viễn thông thuận lợi
Ban hành các chính sách quy định cụ thể nhằm đảm bảo thúc đẩy môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phần mềm tham gia các hoạt động dịch vụ viễn thông và Internet cho người sử dụng với tốc độ và chất lượng cao, giá cước thập hơn hoặc tương đương so với các trong khu vực; cho phép các khu công nghiệp phần mềm tập trung được kết nối cổng Internet riêng với hệ thống Internet quốc tế để tất cả các doanh nghiệp phần mềm trong khu vực này và các doanh nghiệp phần mềm đăng ký dịch vụ Internet qua các khu này có thể sử dụng đầy đủ và dễ dàng các dịch vụ Internet theo giá cạnh tranh với các nơi trong khu vực.
* Xuất bản và kiểm tra xuất, nhập khẩu phần mềm
Phối hợp với các Bộ ngành có liên quan hướng dẫn, cải tiến thủ tục để việc xuất bản, xuất nhập khẩu phần mềm đặc biệt là chương trình tài liệu mô tả chương trình và tài liệu hỗ trợ được thực hiện nhan chóng không gây phiền hà, ách tắc. thiệt hại cho tổ chức cá nhân có quyền lợi ích liên quan; đồng thời phải có biện pháp toàn diện đồng bộ để ngăn chặn những hành vi lợi dụng gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
2.3: Đánh giá thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
Trong những năm qua các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm của Hà Nội thực hiện kinh doanh đã đạt được một số kết quả đáng mừng, khách hàng có xu hướng tăng lên. Các hình thức xuất khẩu của Hà Nội chủ yếu là xuất khẩu trực tiệp, liên doanh với các đơn vị để sản xuất và đẩy mạnh công tác tìm kiếm thị trường, các nhóm mặt hàng chủ yếu là phần mềm về y tế, giáo dục…
Trong cơ cấu hàng xuất khẩu trên thì có xu hướng tăng lên nhiều vì các công ty độc quyền về phần mềm. Bằng sự tranh thủ mọi nguồn vốn và sự hỗ trợ của các đối tác trong lĩnh vực phần mềm, các doanh nghiệp Hà Nội không ngừng đổi mới trang thiết bị công nghệ, thay thế các thiết bị cũ lac hậu và lắp đặt các thiết bị hiện đại. Chính vì vậy mà chất lượng các phần mềm được nâng cao, từng bước đáp ứng chung về nhu cầu thị trường.
Trong thực tế khi tiến hành hoật động kinh doanh xuất khẩu, người ta phải chú ý đến tương quan giữa tỷ giá hối đoái chính thức được công bố trên thị trường và tỷ giá hàng xuất khẩu. Tỷ giá xuất khẩu là số nội tệ phải bỏ ra để một đơn vị ngoại tệ.
Khi nhà sản xuất hoàn thành thủ tục giao hàng, sẽ thực hiện thanh toán bằng ngoại tệ. Số lượng ngoại tệ thu về là giá trị của hợp đồng xuất khẩu ggọi là doanh thu của hoạt động xuất khẩu.
Tỷ trọng nộp ngâns sách tổng lãi gộp qua các năm 2006, 2007, 2008 tươngg ứng là 25,2%; 28,4%; 29,7% trung bình là 27,8%. Tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong tổng lợi nhuận tương ứng là 87.3%; 72,5%; 73,4% trung bình là 76,4%. Những con số trên đây cho thấy mức độ nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ đối với ngân sách của Hà Nội của các doanh nghiệp. Trong thời gian vừa qua hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tương đối ổn định, luôn đảm bảo nghĩa vụ đầy đủ với các quy định của thành phố.
Chỉ tiêu
Năm
Tổng
chi phí
Lợi nhuận trước thuế
Lợi nhuận sau thuế
2005
85,135
3,768
14,197
2006
165,942
6,729
16,594
2007
200,317
7,443
261,28
2008
240,827
8,497
297,41
(Nguồn:
Chương 3
Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
3.1: Phương hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
3.1.1: Cơ hội và thách thức trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
*Cơ hội: Ngành Công nghệ thông tin của thế giới đang ở giai đoạn hồi phục và phát triển nhanh chóng. Tại các thị trường Công nghệ thông tin lớn của thế giới như Mỹ, Bắc Âu và Nhật Bản xu thế sử dụng nhân lực từ nhà cung cấp nước ngoài để gia công phần mềm đang tăng mạnh. Dự đoán đến năm 2015, nhu cầu tuyển dụng chuyên viên Công nghê thông tin trên toàn cầu sẽ là hơn 4 triệu người, trong khi các nhà cung cấp chính như ấn độ , AiLen cũng chỉ có khả năng cung cấp tối đa là 70%. Trung Quốc được coi là thị trường cạnh tranh tiềm năng nhưng thực tế thì nhu cầu nội địa của Trung Quốc rất lớn nên một số lượng lớn nhân lực giỏi của Trung Quốc sẽ bị hút vào thị trường nội địa. Thêm vào đó giá nhân lực Công nghệ thông tin tại các thị trường ấn độ , AiLen đang tăng cao
trong khi giá nhân công Công nghệ thông tin ở Việt Nam rất thấp. Như vậy thị trường gia công phần mềm còn rất nhiều lớn.
Nạn khủng bố và bất ổn về an ninh chính trị ở nhiều khu vực trên thế giới khiến cho các tập đoàn đa quốc gia và các công ty Công nghệ thông tin lớn ở ấn độ , AiLen, Hàn Quốc, Đài Loan, Philipine Indonexia v.v… đang cố gắng dãn bớt các trung tâm phát triển phần mềm sang những nơi có độ ổn định về chính trị để giảm bớt thiệt hại có thể xảy ra. Hà Nội được đánh giá là một trong những thành phố có tình hình an ninh và chính trị ổn định, lại là Thủ đô của Việt Nam và nằm gần gũi với các cường quốc về gia công phần mềm như ấn độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Philipine…nên sẽ là một địa điểm lý tưởng để đón nhận cơ hội này.
Hà Nội là một trong các thành phố của Việt Nam có cộng đồng người Việt Kiều đang sống và làm việc tại nước ngoài, và rất nhiều người trong số họ là các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực phát triển phần mềm. Nếu khai thác được lực lượng này thì đây sẽ là một nguồn lực rất lớn cho việc gia công xuất khẩu phần mềm Hà Nội. Thành phố có thể kêu gọi các Việt kiều tại những nước phát triển.
*Thách thức: Một thách thức lớn mà công nghiệp phần mềm Hà Nội phải đương đầu là sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, đặc biệt là với Trung Quốc. Mặc dù nền Công nghiệp phần mềm Trung Quốc được định hướng phục vụ thị trường nội địa nhưng nước này đang nổi lên như là một điểm đến quan trọng cho các nhà tìm kiếm đối tác gia công phần mềm. Hiện Trung Quốc đang có những bước tiến mạnh mẽ và nhanh chóng trong việc xây dựng công nghiệp phần mềm theo hướng gia công xuất khẩu. Trung Quốc có thể cạnh tranh với Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng cả về chất lượng lao động lẫn giá cả và chi phí thấp.
Công nghiệp phần mềm là một ngành có tốc độ phát triển rất nhanh, vòng đời công nghệ ngắn, cần chi phí đầu tư lớn cho việc đào tạo cập nhật công nghệ, Marketing tìm kiếm mở rộng thị trường. Việc mở văn phòng đại diện ở một quốc gia như Mỹ, Nhật Bản là rất đắt đỏ. Trong khi đó ngành Công nghiệp phần mềm của Hà Nội lại còn rất non trẻ, yếu về nguồn lực, thiếu về kinh nghiệm. Đó là
những thách thức và mạo hiểm không nhỏ cho các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội muốn tham gia thị trường quốc tế.
Một thách thức nữa cũng có thể xảy là việc các phần mềm có thể trở chuẩn hoá và sẽ chỉ còn là sản phẩm độc quyền của một số tập đoàn và công ty Công nghệ thông tin lớn trên thế giới. Trong trường hợp này việc phát Công nghệ phần mềm theo định hướng xuất khẩu sẽ gặp không ít khó khăn
3.1.2: Phương hướng phát triển sản xuất phần mềm
Mục tiêu của Hà Nội là phát triển và đưa thành phố trở thành trung tâm, mũi nhọn của cả nước về xuất khẩu Công nghệ, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu sử dụng trong nước; tạo thêm nhiều việc làm cho người dân, nâng cao khả năng cạnh tranh. Đảm bảo cho sự phát triển bền vững, hiệu quả trên cơ sở công nghệ hiện đại, quản lý hệ thống chất lượng, quản lý lao động và môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế.
Mục tiêu được các doanh nghiệp Hà Nội đề ra xuất khẩu đạt 150 tỷ đồng. Trong khi đó kết thúc 3 tháng đầu năm các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm Hà Nội đã đạt giá trị 43,5 tỷ đồng; thu nhập bình quân của người lao động làm việc cho các doanh nghiệp phần mềm đạt 15 triệu/tháng. Trong những tháng đầu năm các doanh nghiệo phần mềm đã không ngừng đầu tư các trang thiết bị phục vụ cho ngành Công nghiệp phần mềm. Các doanh nghiệp đã mạnh dạn mở các chi nhánh của công ty ra nước ngoài và tuyển những lập trình viên có tay nghề cao vào làm việc nhằm nâng cao trình độ và tăng cường khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Phát triển theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hoá, đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả; phát triển tối đa thị trường nội địa đồng thời với việc mở rộng xuất khẩu, lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho xuất khẩu của các doanh nghiệp Haf Nội. Phát triển đầu tư theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hoá nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng của sản phẩm. Để vvượt qua được trở ngại này thì ngay từ bây giờ phải đẩy mạnh sản xuất đẳng cấp có hàm lượng giá trị tăng cao nhanh hơn nữa việc thâm nhập mở rộng thị trường, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội và nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.
Với tinh thần người dân Việt Nam “Tự lực tự cường” các Doanh nghiệp phần mềm Hà Nội ngày càng phát triển lớn mạnh. Với sự nhạy bén linh hoạt trong công tác quản lý kinh doanh và sự phát triển không ngừng của bộ máy sản xuất đã giúp các Doanh nghiệp hoà nhập với nhịp độ phát triển chung cùng đất nước.
3.1.3: Phương hướng xuất khẩu phần mềm
Trong hoạt động xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội đều được ghi chép và phản ánh một cách kịp thời, đầy đủ, đúng đối tượng và theo trình tự thời gian. Các doanh nghiệp liên tục đầu tư mở rộng thị trường sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ để sản xuất nhưng cũng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu ngày càng cao, xuất khẩu đạt kim ngạch cao nhưng cũng chủ yếu là gia công cho các Công ty nước ngoài.
Các doanh nghiệp đang phấn đấu đầu tư mở rộng sản xuất để tăng thu nhập và việc làm cho người lao động, quảng bá về thương hiệu của mình để tất cả mọi người biết đến sản phẩm của mình. Thực hiện lộ trình giảm chi phí và nâng cao chất lượng sản phẩm, ban hành định mức tiêu hao phế liệu. Quản lý chặt chẽ tiêu hao vật tư và định mức sản xuất của các doanh nghiệp.
Trước những khó khăn chồng chất, cần phát huy khí thế thi đua trong các doanh nghiệp, đẩy mạnh đầu tư để có công nghệ, năng suất cao hơn. sản xuất được sắp xệp lại, bố trí các công nghệ đồng bộ để bù đắp chi phí đầu vào, tận dụng các chính sách của Nhà nước về Xuất khẩu phần mềm.
3.2: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
3.2.1: Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) vào xuất khẩu phần mềm
Sự đầu tư của các công ty nước ngoài đặc biệt là của các tập đoàn đa quốc gia, ảnh hưởng rất lớn nếu không nói là quyết định cho sự thành công của việc xuất khẩu phần mềm tại nhiều cường quốc xuất khẩu phần mềm trên thế giới. Hiện Hà Nội đang có nhiều cơ hội để thu hút các công ty nước ngoài đầu tư mở các trung tâm phát triển gia công phần mềm xuất khẩu. Sự ổn định về an ninh và chính trị là những điều kiện thuận lợi cần thiết, tuy nhiên Việt Nam cần có các chính sách đồng bộ và các biện pháp mạnh hơn nữa có thể tận dụng được cơ hội này.
3.2.2: Phát triển và nâng cao trình độ lực lượng lao động phần mềm
Việc phát triển và nâng cao trình độ nguồn nhân lực là vấn đề cốt yếu nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào Công nghệ phần mềm cũng như để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phần mềm cần có các biện pháp cụ thể và có quyết tâm cao của Uỷ Ban Nhân Dân thành phố và các bộ phận ngành.
Về mặt đào tạo chính quy trong các trường đại học, cao đẳng của Bộ Giáo Dục cần có kế hoạch để đưa Tiếng Anh vào giảng dạy và học tập trong các khoa Công nghệ thông tin càng sớm càng tốt, trước mắt có thể thực hiện thí điểm ở một số trường trong thành phố sau đó có thể nhân rộng dần ra. Cần liên tục cập nhật, đổi mới chương trình, tăng số môn cũng như thời lượng học chuyên môn, loại bỏ các môn học lạc hậu; liên kết thuê giáo viên từ các viện nghiên cứu, từ các công ty phần mềm và cả các chuyên gia nước ngoài vào để giảng dạy; trang
bị thêm cơ sở vật chất phục vụ cho thực hành (máy tính, mạng lưới, đường truyền Internet,v.v…)… Ngoài ra Thành phố cũng cần cho phép thành lập một số trường đại học chuyên về Công nghệ thông tin có chất lượng cao trực thuộc bộ ngành chuyên môn của thành phố quản lý; mở rộng cơ chế cho phép các trường đại học nước ngoài mở trường đại học Công nghệ thông tin tại Việt Nam.
Đối với loại hình đào tạo phi chính quy về Công nghệ thông tin do các doanh nghiệp hoặc các trung tâm đào tạo nghề liên kết với các công ty nước ngoài để đào tạo, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ. Có thể mở thêm các trung tâm đào tạo theo mô hình trung tâm đào tạo kỹ sư Công nghệ thông tin theo chuẩn Nhật Bản. Lập quỹ đào tạo và phát triển nhân lực phần mềm trong đó 50% là ngân sách của Thành phố và 50% do các doanh nghiệp đóng góp nhằm cung cấp các khoá đào tạo nâng cao về quy trình công nghệ phần mềm của các doanh nghiệp.
Hà Nội cũng cần đẩy mạnh hoạt động đưa các cán bộ phần mềm ra học tập và làm việc ở nước ngoài. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy chính lực lượng này sẽ là những nhân tố rất quan trọng cho việc sản xuất và xuất khẩu phần mềm. Đồng thời việc đưa các lao động phần mềm ra làm việc ở nước ngoài theo tổ chức cũng có thể đem lại một nguồn thu không nhỏ. Thành phố cũng cần có các chính sách khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu xuất khẩu lao động phần mềm, cần có sự hợp tác của Thành phố với các quốc gia có nhu cầu nhập khẩu lao động phần mềm nhằm đơn giản hoá các thủ tục xin cấp VISA cho lao động phần mềm. Hà Nội cũng cần có các chính sách để thu hút các chuyên gia phần mềm về làm việc và mở doanh nghiệp hoạt động tại Thành phố.
3.2.3: Hoàn thiện môi trường pháp lý cho Công nghệ phần mềm
Ngoài việc xây dựng hành lang pháp lý cho vịêc trao đổi thương mại tạo điều kiện cho việc xuất khẩu phần mềm, Hà Nội còn phải rất chú trọng đến việc thực thi luật bản quyền cho các sản phẩm phần mềm. Việc thực thi nghiêm chỉnh các luật về bản quyền một mặt sẽ thúc đẩy nền công nghiệp phần mềm của Hà Nội phát triển, mặt khác sẽ tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào công nghiệp phần mềm Hà Nội. Các công
ty nước ngoài sẽ không còn e ngại khi thuê các công ty phần mềm của Hà Nội làm gia công phần mềm.
3.2.4: Phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông
Các công ty phần mềm, đặc biệt la các công ty làm gia công và sản xuất phần mềm xuất khẩu có những yêu cầu rất cao về dịch vụ Viễn thông qua Internet. Đường truyền Internet phải có băng thông rộng và độ tin cậy cao nhằm cho nhiều chuyên gia phần mềm từ nhiều quốc gia có thể đồng thời làm việc Online trên cùng một sản phẩm. Việc tải các file dữ liệu lớn từ Internet cũng là một trong những yêu cầu thường xuyên. Do vậy cần tiếp tục đầu tư và nâng cao băng thông rộng và chất lượng dịch vụ cho cơ sở hạ tầng Viễn thông Internet, đặc biệt cần có các ưu tiên về cơ sở hạ tầng thông tin cho các doanh nghiệp phần mềm.
3.2.5: Hỗ trợ tìm kiếm, nghiên cứu và phát triển thị trườnễúât khẩu phần mềm
Hà Nội cần phải có một chiến lược Marketing mang tầm cỡ quốc gia cho nền công nghiệp phần mềm. Đại bộ phận các doanh nghiệp phần mềm là các doanh nghiệp phần mềm là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Công việc tìm hiểu thị trường ở một nước khác, tiếp thị và quảng bá cho sản phẩm phần mềm ở nước ngoài là quá sức đối với các doanh nghiệp này. Hà Nội cần cần đầu tư và tổ chức các chương trình nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực rất khó khăn này. Có thể lập một quỹ nghiên cứu và hỗ trợ quảng bá, tiếp thị phát triển thị trường cho các doanh nghiệp trong đó Thành phố đầu tư ban đầu 50% còn 50% sẽ trích từ doanh thu của các doanh nghiệp phần mềm.
Cần thiết phải tổ chức các hội thảo, hội nghị tuyên truyền trong và ngoài nước về các chính sách khuyến khích, các kế hoạch và các thành tựu của công nghiệp phần mềm Hà Nội để xây dựng một hình ảnh về Công nghiệp phần mềm Hà Nội trên thị trường quốc tế.
Cần lập các uỷ ban hợp tác về Công nghệ thông tin và sản xuất phần mềm với các thị trường chiến lược như Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản để nhận những hợp đồng phân phối lại cho doanh nghiệp.
Việc phát huy vai trò của các hiệp hội phần mềm và các hội tin học là một điểm rất quan trọng. Các hiệp hội có nhiệm vụ liên kết các doanh nghiệp thành viên nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của cả khối, tổ chức giới thiệu với thế giới về Công nghiệp phần mềm Hà Nội thông qua hội thảo, hội nghị và các mối liên hệ với các hiệp hội tương ứng ở các quốc gia trên thế giới.
3.3: Kiến nghị
3.3.1: Đối với Chính phủ, Nhà nước
Nâng cao vai trò của Chính phủ trong việc định hướng và quản lý các doanh nghiệp xuất khẩu. Đưa ra những chủ trương, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động.
Nên tăng ngân sách Thành phố cho hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng được hệ thống thu thập thông tin về các thị trường xuất khẩu của Hà Nội và cung cấp một cách nhanh chóng, kịp thời cho doanh nghọêp, giúp đỡ doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh doanh.
Tiếp tục ban hành các khuôn khổ pháp lý cho thương mại điện tử, có các biện pháp hỗ trợ và bảo vệ người tiêu dùng khi thực hiện giao địch điện tử.
Hoàn thiện hệ thống phấp luật nói chung và hệ thống pháp luật về hải quan nói riêng, có sự đồng bộ về hệ thống pháp luật với các quốc gia trên thế giới. áp dụng hai quan điện tử một cách rộng rãi trong cả nước cũng như toàn Hà Nội. Nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí, hạn chế được tình trạng tham nhũng.
Tiếp tục thực hiện chế độ tự khai thuế, xây dựng hệ thống thu thuế minh bạch, đơn giản, tiếp tục thực hiện rà soát hệ thống pháp luật về thuế để hạn chế những kẽ hở có thể bị lợi dụng khi thực thi pháp luật về thuế.
3.3.2: Đối với Bộ công thương và các cơ quan có liên quan
* Bộ công thương:
+ Cung cấp các thông tin về tình hình xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp. Các thông tin này cần được cập nhật thường xuyên theo từng mặt hàng, từng thị
trường. Đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong việc cấp giấy phép xuất khẩu, cấp hạn ngạch.
+ Tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế để tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Thông tin về các hội chợ triển lãm phải đảm bảo đến được với tất cả doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức khác nhau (phổ biến nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất là thông qua Website của Bộ).
*Hệ thống ngân hàng: tăng cường khả năng cung cấp tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm. Các doanh nghiệp thường gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất. Bản thân các doanh nghiệp không thể huy động vốn để đầu tư mà cần có sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng giúp doanh nghiệp có thể vay vốn với lãI suất phảI chăng, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống ngân hàng cũng cần hiện đại hoá công nghệ thanh toán, đẩy mạnh thực hiện các dịch vụ ngân hàng điện tử, có sự kết nối giữa các ngân hàng nhằm rút ngắn thời gian thanh toán.
*Cơ quan hải quan: Xoá bỏ những quy định đã trở nên lạc hậu, đơn giản hoá hơn nữa thủ tục hải quan, giảm thiểu giấy tờ, thủ tục hành chính tring kê khai làm thủ tục xuất nhập khẩu. áp dụng hải quan điện tử rộng rãi hơn, rút ngắn thời gian từ thủ tục hải quan đến lúc có quyết định thông quan
3.3.3: Đối với Bộ khoa học và Công nghệ
+ Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động nghiên cứu thị trường, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin về thị trường về các quốc gia cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
+ Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia các hội chợ, triển lãm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ký kết được những hợp đồng có giá trị lớn. Các hội chợ triển lãm do Hiệp hội các doanh nghiệp Xuất khẩu phần mềm tổ chức cần được công bố rộng rãi, phổ biến tới tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm. Các hội chợ triển lãm quốc tế tổ chức trên thế giới co liên quan đến Công nghệ thông tin cần được thông báo kịp thời cho các doanh nghiệp để doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị tham gia, có cơ hội giới thiệu doanh nghiệp với các đối tác khác.
+ Các chuyến thăm và làm việc của các tập đoàn phần mềm tại Việt Nam nói chung và đối với các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội nói riêng chứng tỏ sự quan tâm của các tập đoàn Viễn thông phần mềm thế giới tới thị trường Công nghệ của chúng ta. Vì thế, cần phải thông tin đầy đủ và kịp thời về các sự kiện này tới các doanh nghiệp được tiếp xúc, tìm hiểu và lam việc với các doanh nghiệp đó.
+ Tổ chức các chương trình đào tạo, học tập kinh nghiệm từ nước ngoài cho doanh nghiệp. Có chính sách khen thưởng các doanh nghiệp có thành tích xuất sắc trong xuất khẩu, có các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
Kết luận
Hà Nội được đánh giá là một trong những thành phố có tiềm năng để phát triển công nghiệp phần mềm nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cũng như để xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu phần mềm của Hà Nội có nhiều thuận lợi như được sự hỗ trợ mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước, nằm trong khu vực rất năng động về Công nghệ thông tin, lại có sự ổn định cao về an ninh chính trị giá nhân công và chi phí thấp và có nhiều chuyên gia đang làm trong các công ty phần mềm lớn cũng mong muốn quay về làm việc hoặc đầu tư sản xuất. Tuy nhiên thành phố cũng có nhiều điểm yếu ảnh hưởng đến khả năng gia công xuất khẩu phần mềm. Đó là khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào còn yếu, chất lượng nguồn nhân lực phần mềm thấp, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kém, cơ sở hạ tầng viễn thông Internet còn hạn chế, chưa có khả năng tiếp thị quảng bá mở rộng thị trường quốc tế và nạn vi phạm bản quyền rất cao. Hà Nội còn có nguy cơ bị cạnh tranh rất gay gắt từ các nước trong khu vực và đặc biệt là từ Trung Quốc.
Hiện nay Thành phố Hà Nội đang có nhiều cơ hội để có thể đẩy mạnh việc phát triển công nghiệp phần mềm nói chung và hoạt động xuất khẩu phần mềm nói riêng. Tuy nhiên để có thể chớp được thời cơ này Thành Phố cần phải có sự nỗ lực phấn đấu đồng bộ của cả Chính phủ, các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp và các hiệp hội.
Tài liệu tham khảo
1: Vietnam Competitiveness Intiative (VNCI), 2003, Software/ICT Cluster Strategy, Báo cáo, Vietnam
2: Trần Quốc Hùng; Hội thảo HT2009
Nền kinh tế mới toàn cầu hoá và thử thách đối với các nước đang phát triển
3: Thị trường lớn – khả năng nhỏ, Báo Lao Động – Việt Nam
4::
5: Giáo trình Marketing thương mại - Trường Đại Học Kinh tế Quốc Dân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110668.doc